Mạnh Hơn Sợ Hãi

Chương 11



Andrew đánh thức Suzie dậy khi những tia sang đầu tiên của ngày mới vừa le lói. Cô ngủ dưới chân xô pha, còn anh nằm trên xô pha và cũng chợp mắt được vài giờ ngắn ngủi.

Họ tắt đèn và Suzie xoay chìa khóa ngôi nhà của bà cô lại.

Họ đi theo con đường dẫn ra bến thuyền. Tuyết lại bắt đầu rơi. Những bông tuyết tan biến trên mặt hồ phác lên khung cảnh một nét yêu kiều khiến người ta yên lòng.

Andrew đỡ Suzie xuống thuyền.

– Cảm ơn vì đã theo tôi ra tận đây, cô vừa ngồi xuống vừa nói với anh.

Phần còn lại của chuyện vượt hồ trôi qua trong im lặng, chỉ còn nghe thấy tiếng ro ro từ chiếc động cơ nhỏ và tiếng rẽ nước phía mũi thuyền. Suzie không một giây rời mắt khỏi hòn đảo đang xa dần. Andrew cho thuyền chạy theo hướng ngược lại trên hồ Schroon. Anh cập thuyền vào đầu một con đường đất mà anh nhìn thấy rồi đẩy thuyền lên bờ.

Họ đã xuyên một khu rừng. Suzie xem thường tuyết, thờ ơ với cái rét cắt da cắt thịt, như thể mộ phần con người cô đã ở lại trên đảo.

Họ tới được đường cái sau một giờ đi bộ. Andrew giơ tay vẫy xe và chiếc xe tải đầu tiên chạy qua đã dừng lại cho họ lên.

Tài xế không hỏi họ câu nào, trong vùng này sự tế nhị luôn được đề cao và hẳn là chẳng ai nỡ để mặc hai lữ khách đi lạc giữa mùa đông.

Chiếc xe kéo rơ moóc đang ngược lên phía bắc. Andrew và Suzie thì đi xuống phía Nam. Viên tài xế gọi qua bộ đàm hỏi xem có đồng nghiệp nào của anh ta đang về New York không.

Đến một trạm xăng cách biên giới Canada mười lăm cây sỗ, họ chuyển xe. Andew tự hỏi anh có nên cẩn trọng hơn đến độ vượt qua biên giới kia.

Tài xế mới của họ cũng chẳng nhiều lời hơn người trước. Andrew và Suzie ngủ li bì suốt hành trình dài tám tiếng đồng hồ. Họ xuống xe trước bến tàu vào một kho hàng ở Jerry City. Từ bên kia song Hudson, New York sang lấp lánh trong màn đêm vừa buông.

– Thật dễ chịu khi được trở về nhà.Andrew nói.

Họ đi phà và quyết định lên bông tàu tận hưởng chút khí trời. Với tiết trời giá lạnh đang ngự trị, họ là hai hành khách duy nhất lựa chọn điều này.

– Có gì đó không khớp cho lắm. Andrew nói. Motton sống cách hòn đảo đó chỉ khoảng sáu chục cây số, tôi không tin là ông ấy không thấy hiếu kì với chuyện đi tới đo xem sao.

– Ai bảo với anh là ông ấy không làm như vậy?

– Không có gì trong những ghi chép của ông ấy nhắc tới điều này. Tôi sẽ gọi cho ông ấy để tìm hiểu rõ hơn.

– Chuyện đó sẽ giúp gì cho chúng ta chứ?

– Chính những ghi chép của ông ấy đã giúp chúng ta mở ra hướng điều tra về ngôi nhà của bà cô, chắc chắn ông ấy biết nhiều hơn những điều ông ấy muốn chia sẻ với tôi.

– Tôi phải gọi Knopf, Suzie nói.

– Hãy nhớ những lời khuyên mà bà cô dặn dò con gái trong bức di thư. Đừng tin ai cả. Cô nên nghe theo những lời khuyên này. Tối nay, chúng ta sẽ ngủ lại khách sạn, tôi mang theo tiền mặt. Đừng có bật di động lên.

– Anh cảnh giác đến mức này sao?

– Chiều hôm qua, trên cầu tàu, tôi không cảnh giác gì hết và tôi đã phạm sai lầm.

– Thế ngày mai, chúng ta sẽ làm gì?

– Tôi đã suy nghĩ suốt đêm qua. Có thể chính mối quan hệ của bà cô đã khiến bà ấy phải đoản mệnh, nhưng tôi khó mà tin nổi chính nó khiến bà ấy mất tích. Nếu có người đang quyết tâm theo dõi chúng ta đến thế, hẳn là vì những nguyên do khác và tôi nghĩ đã đoán ra một trong những nguyên do đó.

Phà cập cảng South Seaport. Andrew và Suzie xuống taxi trước khách sạn Marriott nơi mà Andrew, hơn ai hết, thường tới quán bar ở đây.

Vừa mới bước vào phòng, anh đã viện cớ gọi một cú điện thoại để xuống dưới đó.

– Anh thèm à? Suzie hỏi.

– Tôi khát, thế thôi.

– Mathilde thường nói y hệt trước mỗi lần đi uống. Suzie vừa mở chiếc tủ lạnh mini vừa nói tiếp. Bà ấy cũng thế, cũng khát! Tôi còn nhỏ, nên tôi đã vào bếp lấy thứ gì đó giải khát cho bà.

Suzie cầm một lon soda và lẳng cho Andrew, anh bắt được.

– Mẹ tôi cầm cốc Cola-Cola nà tôi mang cho bà. Suzie nói tiếp, rồi để ngay xuống bàn ghế nào đó trong tầm tay. Bà vuốt má tôi cùng nụ cười ban ơn và ra khỏi nhà. Anh vừa nói là anh khát à?

Andrew lăn lăn lon nước ngọt trong tay rồi đặt nó xuống bàn để chén đĩa, không chút nể nang. Ạnh sập cửa đánh rầm bước ra khỏi phòng.

*

Andrew ngồi xuống bên quầy bar. Nhân viên quầy chào anh và mang tới cho anh một cốc Fernet-Coca, anh uống liền một hơi. Anh ta chuẩn bị rót tiếp một cốc nữa thì Andrew ngăn lại.

– Cho tôi mượn điện thoại của cậu được không? Máy tôi hết pin rồi. Tôi gọi nội hạt thôi.

Nhân viên quán bar đưa điện thoại cho anh. Andrew bấm số của Ben Motton ba lần, công cốc. Nhưng hôm đó Motton bảo anh nên liên lạc vào buổi tôi và, theo những gì Andrew có thể nhận thấy, khó có khả năng lão phóng viên già đó ra ngoài tìm thú vui lắm. Rốt cuộc Andrew đâm lo. Một ông già sống biệt lập như thế không phải là không có nguy cơ gặp tai nạn.

Anh gọi vào tổng đài hướng dẫn để lấy số điện thoại của trạm dừng nghỉ TurnBridge, bang Vermont. Cô nhân viên tổng đài đề nghị nối máy để anh gặp người đứng tên đại diện thuê bao đó.

Ông chủ trạm xăng vẫn nhớ Andrew và hỏi xem cuộc gặp gỡ giữa anh và lão khốn Motton ra sao, Andrew giải thích là anh chỉ đang cố gắng liên lạc với Motton và cảm thấy lo ngại cho ông già ấy.

Andrew năn nỉ một lúc lâu, ông chủ trạm xăng đồng ý với anh là hôm sau sẽ ghé qua xem kẻ thù đáng nguyền rủa có ổn không, ông tự cảm thấy phải chêm chêm mọt câu là nếu có thấy lão ngã vật ra vì trụy tim thì ông cũng chẳng thèm dự đám tang của lão ấy.

Andrew thoáng băn khoăn không biết có nên tiết lộ một bí mật và, không thể chịu đựng thêm, anh thổ lộ với ông chủ trạm xăng đã thú nhận là chưa bao giờ ngủ với em gái của ông. Ông chủ trạm xăng đáp rằng điều ngược lại chắc sẽ khiến ông ngạc nhiên lắm, vì ông là con một.

*

Tiếng chuông điện thoại réo liên hồi. Suzie bực bội ra khỏi phòng tắm và nhấc máy.

– Cô đang làm cái quái gì thế, khỉ thật, tôi gọi cô phải đến mười lần rồi đấy.

– Tôi đang thay đồ!

– Tôi đợi cô dưới này, tôi đói rồi. Andrew cằn nhằn rồi ngắt máy.

Suzie thấy anh đang ngồi bên một bàn kề sát cửa sổ. Cô vừa lại chỗ anh thì nhân viên phục vụ đã đặt một suất mì trước mặt cô và một phần thịt bò trước mặt Andrew.

– Không phải cuộc đời của bà cô, mà chính những tài liệu đó gây rắc rối cho chúng ta. Andrew vừa cắt miếng bít tết vừa nói.

– Tài liệu nào?

– Những tài liệu mà bà cô được cho là định chuyển cho phương Đông.

– Tôi rất vui khi nghe thấy anh không dứt khoát buộc tôi bà tôi như vậy.

– Tôi đã nói với cô rồi đấy thôi, tôi không có ưu tiên nào hết. Câu này mang cả hai nghĩa. Họ không tìm thấy chúng trên người bà ấy, chính vì điều này mà Motton, cũng như tất cả nhà báo thời đó, đều chưa bao giờ nhìn thấy chúng. Và họ vẫn đang tìm chúng, hay đúng hơn là, họ sợ có người tìm ra chúng trước. Cứ suy nghĩ thêm đi. Vị thế chiến lược của quân đội Mỹ trong cuộc chiến tranh đã qua gần bốn mươi năm còn mang giá trị gì ở thời chúng ta chứ? Tôi không nghĩ là Lầu Năm Góc lại có thêm kế hoạch tàn sát người dân Mỹ Lai thêm lần nữa. Thứ mà bà cô định chuyển sang bên kia “bức màn sắt” hẳn mang tính chất khác với những gì lịch sử đã viết. Giờ phải biết là bà cô đã nắm được những thong tin gì và bà ấy định làm gì với chúng.

– Như thế có vẻ khớp với những điều bà nói với người tình lúc họ cãi nhau; rằng bà sẽ đi đến cùng dù có phải trả giá như thế nào.

– Nhưng đến cùng của chuyện gì? Andrew hỏi.

Và đột nhiên, như bị trời xui đất khiến, Andrew ngoảnh mặt ra phía cửa kính quán bar thì nhìn thấy Valérie trên phố. Cô đang cầm ô trên tay và nhìn anh ăn tối với Suzie. Cô rụt rè mỉm cười với anh, rồi đi tiếp.

– Anh còn chờ gì nữa? Suzie hỏi.

Andrew đứng bật dậy và chạy vội ra ngoài. Bóng dáng Valérie mất hút phía góc phố. Anh chạy đuổi theo cô và khi anh đã đến ngang tầm Valérie, cô đang mở cửa một chiếc taxi. Cô ngoái nhìn và mỉm cười với anh.

– Không phải như em nghĩ đâu, anh tiến lại nói.

– Quán bar hay cô bạn anh? Valérie hỏi.

– Cả hai, anh không uống nữa và anh vẫn một mình.

– Đó là cuộc đời của anh, Andrew ạ.Valérie nói rành mạch, anh không cần phải bào chữa.

Andrew không biết đáp lại gì. Suốt bao đêm trường anh mơ đến khoảnh khắc này, thế mà giờ anh không thể thốt được lời nào có cảm xúc một chút.

– Em cười tươi tắn quá, rốt cuộc anh cũng lắp bắp.

– Anh cũng không tệ, cô đáp.

Tài xế taxi ngoái nhìn, vẻ sốt ruột.

– Em phải đi đây, cô nói. Việc gấp.

– Anh hiểu.

– Anh ổn chứ?

– Anh nghĩ thế.

– Vậy thì em vui vì điều đó.

– Thật kì lạ, khi gặp lại em ở đây, Andrew nói, vẻ thất thần.

– Vâng, lạ thật.

Valérie ngồi vào trong chiếc xe và đóng cửa lại.

Andrew nhìn chiếc taxi đi xa dần và khi anh quay đi, để ngược lại quãng đường, anh không thấy Valérie vừa làm điều tương tự và nhìn anh qua kính hậu taxi.

*

Anh bước vào quán bar và ngồi xuống bên bàn. Suzie đã ăn xong phần của mình.

– Cô ấy đẹp hơn trên ảnh nhiều, cô cất tiếng xóa tan im lặng.

Andrew không đáp.

– Đây là nơi hai người thường tới à?

– Ừ, chính vỉa hè này hai chúng tôi đã gặp lại nhau.

– Anh có thường xuyên quay lại đây sau khi hai người chia tay không?

– Một lần duy nhất, sau khi ra viện.

– Văn phòng của vợ cũ anh ở gần đây à?

– Không, tận đầu kia thành phố.

– Thế anh nghĩ cô ấy tình cờ qua đây sao?

– Sự tình cờ, cô biết đấy…

– Có lẽ anh không phải là người duy nhất lục tìm kỉ niệm trong những hình phản chiếu trên ô cửa kính. Anh có tin vào số phận không?

– Có, khi nó thuận lợi cho tôi.

– Vậy thì hãy cứ tin vào số phận. Suzie nói rồi đứng dậy khỏi bàn.

– Cô nghĩ là…

– Là cô ấy có vẻ ghen khi nhìn thấy tôi ư?

– Vậy thì đừng hỏi tôi câu nào nữa, chúng ta đi ngủ thôi, tôi buồn ngủ rồi.

Trong lúc thang máy đang lên tầng hai mươi mốt, Suzie đặt tay lên gáy Andrew.

– Tôi những muốn một ngày nào đó gặp được một người như anh, Stilman.

– Cô đã gặp tôi rồi, có vẻ thế.

– Tôi muốn nói là gặp đúng lúc, cô nói thêm khi của thang máy mở ra hành lang.

Suzie vào trong phòng, lấy một cái gối và một cái chăn, rồi đi ra ngủ dưới cửa sổ.

*

Suzie bị tiếng ồn inh tai dưới phổ đánh thức, Cô mở mắt, Andrew đã không còn trong phòng. Cô thay đồ và xuống dưới sảnh. Quán bar của khách sạn đã đóng cửa và Andrew cũng không có trong căn phòng nơi phục vụ bữa sang.

Cô gọi đến tòa soạn The New York Times, nhân viên lễ tân trả lời mấy hôm nay đều không gặp Stilman. Vẫn còn qua sớm để tới thư viện và Suzie tự giận bản thân vì không biết phải làm gì khi không có anh. Cô lên phòng, mở túi du lịch ra, đọc lại bức thư của Lililane và sau đó khi đọc lướt bản nhạc phổ, cô rốt cuộc cũng biết làm gì cho hết buổi sáng.

*

Simon đi đi lại lại từ cửa ra vào văn phòng đến cửa sổ, thỉnh thoảng lại nhìn Andrew với vẻ kích động.

– Rốt cuộc thì cậu sẽ làm tớ chóng mặt khi cứ đi đi lại lại thế này đấy, Andrew nói.

– Tớ mặc kệ cậu một mình có ba ngày và giờ cậu xoay sở để chui ngay đầu vào ngõ cụt thế này à.

– Đúng như tớ nghĩ, mẹ tớ nhập vào cậu thật rồi. Tớ đến đây không phải để nghe cậu trách mắng, mà để vay ít tiền.

– Chuyện đã nghiêm trọng đến mức cậu còn không thể quẹt nổi thẻ tín dụng của mình sao?

– Tớ muốn hành động thận trọng thì hơn, trong lúc vẫn còn chưa biết mình đang gây chuyện với ai. Với lại, tớ cũng cần nhiều hơn một chút so với số tiền trong tài khoản.

Simon vừa định ngồi xuống bên bàn thì nhổm phắt dậy quay ra cửa sổ.

– Cứ ngồi yên đó, tớ xin cậu đấy! Nghe này, Simon, tớ không phải là nhà báo đầu tiên cũng không phải người cuối cùng chuốc lấy những sự trừng phạt của giới quyền lực khi tiến hành một cuộc điều tra. Cậu mê xe cộ đúng không, cứ coi đó như một cuộc đua đi. Mục đích là đến phút chót vượt qua được xe kia. Đối thủ sẵn sang làm mọi chuyện, tớ ý thức được điều đó, nhưng tớ có vũ khí, đó là những trang báo. Cậu cứ cằn nhằn khi thấy tớ chìm ngập nỗi đau trong những cốc Fernet-Coca, nhưng nói cho cậu biết nhé tớ còn chưa uống một giọt nào suốt cả tuần nay và kể từ sau khi bị tai nạn đến giờ, chưa khi nào tớ bận bịu như bây giờ.

– Tớ không thể hiểu nổi cậu trơ ra như thế là thuần túy vì thích thú hay thật sự cậu đã biến thành kẻ vô trách nhiệm.

– Tớ đã nghĩ đến chuyện sẽ viết một bài dài về cái gara của cậu rồi ấy chứ, nhưng tớ biết tính tổng biên tập, cô ấy thích những vụ liên quan đến Nhà nước và các vụ bê bối hơn. Cô ấy không biết đã để lỡ mất những gì đâu.

– Cậu cần bao nhiêu?

– Năm nghìn là êm, bài được đăng là tớ trả tiền cậu luôn.

– Thậm chí cậu còn chưa biết sẽ đăng gì mà.

– Chưa, nhưng mùi xác thối đã bốc lên nồng nặc đủ khiến tớ đoán có một thú săn rất khủng đang nấp sau câu chuyện này.

– Mà lại còn tiền mặt!

– Tớ muốn tránh liên quan đến ngân hàng, với lại tớ không muốn có người lần ra được tới cậu.

– Tớ có cảm giác đã bị lần ra rồi. Simon vừa đáp vừa nhìn qua cửa sổ.

– Cậu đang luyên thuyên gì thế?

– Đừng nhúc nhích. Có một chiếc xe màu đen đậu ở vỉa hè đối diện, với một kẻ đáng ngờ ngồi bên trong.

Andrew vội vã ra cửa sổ để xem có đúng anh bị theo dõi không, điều đó khiến Simon trông chán hẳn.

Một phụ nữ bước ra từ tòa nhà đối diện với ga ra, bế một con chó nhỏ trên tay. Gã tài xế mở cửa và cho xe chạy ngay khi bà chủ lên xe.

– Chắc chắn là CIA, Andrew vỗ vai Sion nói, họ có cả nhóm các bà sồ sề dắt theo lũ chó Chihuahua để làm vỏ bọc.

– Mặc kệ tớ đi, chiếc xe đó rất đáng ngờ, thế thôi.

Simon mở két trong phòng làm việc, và chìa một phong bì cho bạn.

– Có mười nghìn đô bên trong, không dùng hết thì trả lại cho tớ.

– Cậu muốn tớ giữ biên lai để đưa lại cậu chứ!

– Cậu phắn đi trước khi tớ đổi ý và cố mà tìm cách báo tin cho tớ đấy. Cậu có chắc là tớ không thể đi cùng cậu không?

– Tớ chắc chắn.

– Cậu có gì đó khang khác. Mới có ba ngày thôi mà cô gái đó đã biến đổi được cậu cơ à?

Andrew nhìn Simon từ cửa phòng làm việc.

– Hôm qua tớ gặp Valérie trên phố.

– Tớ biết, cô ấy đã gọi cho tớ lúc về đến nhà.

– Cô ấy gọi cho cậu á?

– Tớ vừa nói rồi đây.

– Thế cô ấy nói gì với cậu?

– Cô ấy hỏi tớ tin tức của cậu và nói chuyện được một lúc thì hỏi xem bây giờ cậu có qua lại với ai không.

– Cậu trả lời cô ấy thế nào?

– Là thật sự tớ cũng không biết.

– Sao cậu lại nói với cô ấy như thế?

– Vì đấy là sự thật và vì tớ biết nói thế sẽ khiến cô ấy nổi máu ghen.

– Đầu óc cậu chẳng khác gì đứa trẻ lên năm, cậu không tìm được cách nào hay hơn để đuổi cô ấy đi à.

– Tớ sẽ cho cậu biết một điều nhé bạn thân, cứ chú tâm đến mấy bài báo của cậu đi, chuyện về tâm lý phụ nữ, cứ để tớ lo.

– Nhắc lại cho tớ xem mối quan hệ kéo dài trên hai tuần gần đay nhất của cậu đã qua được bao lâu rồi nào?

– Phắn ngay, cậu có việc thì tớ cũng có đấy!

*

Về đến khách sạn, Andrew thấy trong phòng không có ai. Anh thôi không gọi cho Suzie, hy vọng rằng cô đã nhớ lời anh dặn và để nguyên điện thoại ở chế độ tắt. Nghĩ đến chuyện cô có thể ghé lại nhà khiến anh thấy bất an. Cơn thèm rượu vẫn không buông tha anh suốt từ hôm qua, và kí ức về cốc Fernet-Coca mới đây lại khiến cơn khát thêm bỏng họng. Anh mở tủ lạnh mini thì thấy một lời nhắn.

“Đến tìm tôi ở trường Julliard, vào phòng tập, yêu cầu nói chuyện với thầy Colson. Hẹn gặp lại. Sue.”

Andrew bắt một chiếc taxi và xuống ở phố 65.

Nhân viên lễ tân chỉ cho anh biết phòng tập ở đâu, còn nói thêm là thầy Colson đang ở cùng một sinh viên nữ và không nên làm phiền ông trong lúc này. Andrew liền bước vào hành lang trước khi cô lễ tân kịp ngăn lại.

Thầy Colson tầm sáu mươi tuổi, dù trông ông có vẻ già hơn trong chiếc áo dài cũ kĩ với chiếc nơ bướm thắt xiên xẹo, vầng trán bóng loáng và mái tóc bạc bù xù được vuốt về phía sau.

Ông đứng dậy khỏi chiếc ghế bên đàn dương cầm để chào Andrew và mời anh ngồi xuống chiếc ghế tựa bên cạnh Suzie.

– Tôi thấy anh đã đọc được lời nhắn, cô thì thào.

– Rất nhanh trí, ý tưởng tủ lạnh mini ấy.

– Còn ai ngoài anh tìm được nó ở đó chứ? Cô ghé sát mặt anh nói tiếp, như để đánh hơi từ anh.

– Tôi tiếp tục nhé? Ông thầy giáo hỏi.

– Ai đây? Đến lượt Andrew thì thào.

– Thầy Colson là thầy giáo dạy dương cầm cho tôi hồi tôi còn nhỏ. Giờ thì anh ngậm miệng lại.

Ông thầy giáo đặt tay lên phím đàn và bắt đầu chơi bản nhạc phổ đặt trước mặt.

– Tôi đã hiểu tại sao cô không tiến bộ được chút nào rồi. Andrew nghiêng người thì thầm vào tai Suzie.

– Những đoạn nhạc này không có ý nghĩa gì hết, ông thầy than thở, vả lại đó chính là điều tôi đã giải thích với Suzie trước khi anh tới. Mớ lộn xộn này là để tra tấn màng nhĩ anh thôi.

– Là Công chúa tuyết à?

– Đúng thế, thầy Colson thốt lên, đã mất hết nét duyên, nhưng chính là Công chúa Tuyết. Tôi không thể chơi tiếp bản này được nữa, khó chịu lắm, ông vừa trả bản nhạc phổ cho Suzie vừa nói thêm.

– Ý ông là gì khi nới là “đã mất hết nét duyên”?

– Tức là nó bị thiếu một nửa số nhịp, như thể ai đó muốn viết lại kiệt tác này bằng cách ngắn nó đi, và tôi có thể đảm bảo với anh rằng nó hoàn toàn không thành công.

– Anh đã thấy anh không phải là người duy nhất có trực giác chưa, Suzie thì thầm, không phải không có chút hãnh diện về ảnh hưởng của mình.

– Thầy có biết chỗ nào có thể tìm được bản hoàn chỉnh của vở nhạc kịch này không?

– Có, đương nhiên rồi, trong thư viện ấy. Tôi có thể mang cho trò một bản sao.

Colson dẫn đường cho các vị khách. Ông đề nghị viên thủ thư cho ông mượn một bản sao của nhạc phổ Công chúa Tuyết và hỏi Suzie xem cô cần giúp gì thêm nữa không.

Suzie chần chừ không biết có nên xin xỏ gì thêm thầy giáo cũ.

– Em rất muốn thầy giới thiệu em với học sinh kém nhất của thầy.

– Yêu cầu lạ lùng thế. Colson nói. Sao không đề nghị tôi đi gặp người giỏi nhất?

– Em luôn dành ưu ái cho những học trò lười, cô đáp.

– Vậy thì có thể là Jack Colman. Tôi không biết làm thế nào cậu nhóc được nhận vào dạy học, cậu ta chẳng có tài cán gì hết. Khả năng cao là trò sẽ thấy cậu ta đang ăn uống say sưa trong căng tin, Colson vừa nhìn đồng hồ vừa nói. Nửa tiếng nữa thì tôi có tiết ở lớp cậu ta và cậu ta chỉ luôn đén với hai bàn tay nhẫy mỡ. Em vui lòng thể tất cho tôi nhé.

– Em sẽ không kể với cậu ta bất cứ điều gì, em hứa với thầy như vậy, Suzie vừa nói vừa chào thầy giáo.

– Ôi, cứ tự nhiên, Colson thở dài rồi đi khỏi.

*

Jack Colman, miệng nhồm nhoàm và đôi môi dính đầy đường rắc bánh, đang mút các ngón tay với vẻ háu đói.

– Tôi thật sự rất thích các cậu học trò lười, Suzie vừa tiến lại phía Colman vừa thốt lên.

Cậu sinh viên trông rất sửng sốt khi người phụ nữ này tiến về phía cậu với bước chân kiên quyết và cậu ngoái lại để xem người có được diễm phúc thu hút một cô gái xinh đẹp nhường này. Suzie ngồi xuống trước mặt cậu, cầm mẩu bánh xốp lên và ăn luôn. Colman ngừng nhai.

– Jack phải không?

Và chỉ riêng việc cô biết tên cậu ta đã khiến cậu ta nuốt chửng luôn miếng bánh.

– Tôi gắp rắc rối sao? Cậu ta lo lắng hỏi, khi nhìn thấy Andrew cũng ngồi xuống.

– Đánh kẻ chạy đi không ai đánh kẻ chạy lại, cậu biết câu này chứ, Suzie đáp.

– Tôi sẽ trả tiền vào cuối tuần, tôi thề đấy, Colman nói.

– Thế nếu trả luôn vào tối nay thì sao? Cô nói tiếp với vẻ mặt trơ trẽn khiến Andrew bàng hoàng.

– Tôi không thể. Tôi hứa với cô là nếu tôi có thể…

– Thế nếu chúng tôi cho cậu tiền để trả thì sao? Tôi có một việc cần đến cậu.

– Tôi phải làm gì? Colman hỏi, giọng run rẩy.

– Giúp chúng tôi một tay, Stilman chen vào. Cứ ăn cái bánh của cậu thong thả, chúng tôi không tới đây để gây phiền phức cho cậu đâu, chính thầy Colson đã giới thiệu cậu cho chúng tôi.

– Thầy Colson cũng biết à?

– Nghe này chàng trai, tôi không biết cậu đang nói với tôi về chuyện gì và chuyện đó không liên quan tới tôi. Cậu nợ bao nhiêu?

– Hai trăm đô.

– Cậu có thể trả được số nợ đó ngay trong tối nay nếu muốn. Andrew vừa nói vừa rút phong bì tiền của Simon.

Anh lấy một tờ 100 đô rồi đẩy nó đến trước mặt Colman, anh chàng nhìn nó với vẻ thèm thuồng chẳng khác nào khi mút ngón tay ban nãy. Andrew bảo Suzie đưa cho cậu ta bản nhạc phổ tìm thấy trên đảo và bản đầy đủ vừa được thầy Colson giao lại.

– Cậu biết trò bảy lỗi sai chứ?

– Tôi không chơi trò đấy từ hồi bé tí, nhưng tôi có thể xoay sở được.

– Trong cuộc chơi tôi đang đề xuất vơi cậu, có thể hơn bảy lỗi, nhưng kết quả được tính nếu cậu không bỏ sót bất cứ lỗi nào. Cậu hãy so sánh hai bản nhạc phổ này cho tôi, cậu hãy nhặt ra tất cả các nốt còn thiếu trên bản nhạc in trên tờ giấy ngả vàng này, cậu hãy suy nghĩ và cố tìm hiểu xem chúng có tạo thành một đoạn nhạc hoàn chỉnh nào không, hoặc bất cứ điều gì giải thích lý do người ta đã xóa chúng đi.

Colman luồn tay vào trong tóc.

– Thế nếu tôi làm được?

– Cậu sẽ nhận thêm tờ 100 đô nữa.

– Thế khi nào hai người muốn tôi làm việc này?

– Bây giờ, Suzie vừa nói vừa đặt lên cẳng tay Colman.

– Nửa tiếng nữa tôi có tiết.

– Colson cho phép cậu vắng mặt rồi.

– Thầy ấy bảo hai người đến gặp tôi thật á?

– Ông ấy làm khó cậu rồi, phải không?

Colman ngao ngán ngước mắt nhìn trời.

– Đấy cũng là thầy giáo của tôi, Suzie nói, nếu thầy ấy có cứng rắn, cũng vì thầy ấy tin tưởng cậu, cậu là người thầy ấy đặt nhiều hi vọng nhất.

– Nghiêm túc đấy à? Colman thốt lên.

– Nghiêm túc nhất trần đời.

Và Andrew nói thêm như để xác nhận.

– Đồng ý, tôi sẽ bắt tay làm luôn. Colman cầm hai bản nhạc phổ lên và nói. Tôi ở trong ký túc xá, nhà C, phòng 311, tầng 3. Hẹn 17 giờ, được chứ?

Andrew ghi số điện thoại quầy bar ủa khách sạn Mariott lên một tấm danh thiếp và chìa cho Colman.

– Đứng 15 giờ, hạy gọi vào số này, yêu cầu gặp tôi và nói xem cậu đã làm được đến đâu, Andrew vừa bắt tay Colman ra lệnh.

– Anh là nhà báo à? Colman hỏi khi lật ngước tấm danh thiếp.

– Cứ làm những gì chúng tôi bảo cậu và kết quả cuối năm nay của cậu sẽ được đảm bảo, Suzie nói.

Cô đứng dậy, mỉm cười tươi rói với cậu và cầm luôn cái bánh xốp theo.

*

– Đúng là tởm lợm, cái trò cô đang chơi với cậu nhỏ đó ấy. Andrew phàn nàn khi họ đi đến vỉa hè phố 65.

– Vì tôi đã cuỗm mất cái bánh xốp của cậu ta á? Tôi vẫn chưa ăn sáng, mà lại đang đói.

– Đừng có giả ngốc nữa, ý tôi là điều cô nói với cậu ta và Colson và kết quả học hành của cậu ta ấy.

– Anh đúng là chẳng biết gì về tâm lý trò lười. Đây sẽ là ngày tươi đẹp nhất cuộc đời cậu ta. Lần đầu tiên, cậu ta thấy mình hữu dụng, được giao phó một nhiệm vụ mà người được chọn là cậu ta chứ không phải ai khác.

– Tôi còn không biết gì về tâm lý phụ nữ cơ, tôi biết có người đã bảo tôi thế.

– Dũ sao cũng không phải tôi, Suzie đáp.

*

Một cơn gió lạnh buốt kéo qua khoảng sân trước Rockerfeller Center. Knopf đang ngồi trên một băng ghế, đối diện với sân trượt băng.

Trong cái rét căm căm thế này, việc bao nhiêu người hồ hởi đi trượt băng trong một khoảnh khắc sân bị quay kín, chật chội hơn cả sân luyện ngựa, đúng là chuyện bí hiểm với ông.

Woolford xuất hiện từ phia sau và ngồi xuống bên cạnh ông.

– Tôi đã rời khỏi nhà Morton ngay khi nhận được điện thoại của ông.

– Anh biết con bé đang ở đâu không?

– Không, họ đã đi khỏi khi tôi tới đảo.

– Cả hai à?

– Tôi không biết.

– Làm sao lại thế, anh không biết gì ư? Mẹ kiếp, Woolford, anh phải dẫn con bé về đây.

– Có một vũng máu trên cầu tàu khi tôi cập đảo.

Knopf nghiến chặt hai hàm.

– Anh chắc chắn là con bé không còn trên đảo chứ?

– Cả trong nhà lẫn bên ngoài.

– Anh có ghé qua làng không?

– Sau chuyện tôi gặp trên đảo, tôi không muốn dây dưa ở đó lâu.

– Anh dọn dẹp rồi chứ?

– Tuyết rơi nên việc đó cũng không cần thiết.

– Anh về nhà hai người đó chưa?

– Cả hai căn hộ đều để không. Tôi đã hết sức cẩn trọng, tay nhà báo đó vạm vỡ hơn tôi nghĩ, tôi đã biết như thế hồi chạm trán với anh ta trong cầu thang.

– Điện thoại di động của họ thì sao?

– Tắt suốt từ khi họ lên đảo.

– Tôi không thích điều này.

– Liệu có phải Elliott Broody qua mặt chúng ta không?

– Lão ta thuộc dạng dễ mua chuộc, mà cũng sợ gặp rắc rồi với tôi nữa.

– Đừng lo lắng thế, họ sẽ phải cảnh giác thôi.

– Làm sao không lo lắng được chứ?

– Có lẽ đã đến lúc phải tăng thêm người?

– Hôm nay quân số còn kém cả hơn hôm qua. Có kẻ nào đó đang cố vượt trước chúng ta và chừng nào tôi còn chưa biết kẻ đó là ai, chúng ta vẫn phải giữ mình kín đáo. Anh về cơ quan đi và nhớ theo dõi nhất cử nhất động của họ. Đến một lúc nào đó, hẳn bọn họ sẽ phải cần đến tiền, hoặc gọi điện.

– Tôi sẽ liên lạc với ông ngay khi có tin mới, thưa ông. Woolford vừa đứng dậy vừa nói.

Knopf ngoái lại để dõi mắt theo anh ta, và chờ cho anh ta xuống hết bậc thang chỗ sân trước tòa nhà rồi mới nghe điện thoại.

– Sao?

– Anh ta về khách sạn rồi, người phụ nữ ở đầu dây bên kia nói.

– Anh ta tới Nhạc viên Juililiard làm gì?

– Viên tài xế đã đi theo họ, nhưng vì hoàn cảnh ở đó, anh ta không thể nào lại gần được.

– Sao cô không đích thân tới đó?

– Sáng nay, Stilman đứng bên cửa sổ gara, có thể anh ta đã nhìn thấy tôi, tôi không muốn gặp rủi ro nào hết.

– Cô nói là viên tài xế đã theo dõi họ à?

– Stilman đến trường Juilliard một mình, nhưng anh ta lại trở về cùng Suzie Walker, chắc là cô ấy đợi anh ta ở đó.

Knopf nhìn lên bầu trời xám xịt và thở dài.

– Qua đón tôi ở Rockerfeller Center, tôi muốn nghe chính miệng tài xế báo cáo.

*

Andrew nằm dài trên giường, gối tay sau gáy. Suzie lại chỗ bàn đầu giường, mở ngăn kéo và nhìn quyển Kinh Thánh để trong đó.

– Anh tin vào Chúa à?

– Bố mẹ tôi rất mộ đạo. Chủ nhật nào nhà tôi cũng đi lễ. Lần cuối cùng tôi dự lễ là hôm đưa tang bố tôi. Cô thì sao?

˜

– Một tháng sau khi trở lại Mỹ, tôi về Baltimore. Khi tôi bước vào căn hộ của Shamir, bố mẹ anh ấy đang ở đó. Bố anh ấy nhìn tôi, không nói gì, và khi bác ấy nhìn thấy hai tay tôi, những lời bác ấy thốt lên là lo tôi bị đau. Tôi không biết nói với anh là tại sao, nhưng tối hôm đó, tôi đã có đức tin trở lại. Tôi đã hỏi mẹ Shamir xem có thể lấy một ít đồ đạc của anh ấy được không, bộ quần áo thợ, áo khoác và một chiếc khăn đỏ mà lần nào đi leo núi anh ấy cũng mang. Chiếc khăn đỏ ấy là vật may mắn của anh ấy. Mỗi lần leo tới đỉnh một ngọn núi nào đó, anh ấy đều buộc khăn vào gậy leo núi và nhìn ngắm nó tung bay trong gió, đó là lúc anh ấy tận hưởng chiến thắng và lấy lại sức. Anh ấy đã không mang nó khi leo Mont-Blance, chúng tôi đã để quên trong lúc chuẩn bị hành lí. Tôi đã kể lại với bố mẹ anh ấy câu chuyện mà họ đã biết hồi kết, nhưng mẹ anh ấy muốn nghe lại từng chi tiết trong chuyện leo núi của chúng tôi. Tôi thấy trong ánh mắt bác ấy như thế chừng nào tôi còn kể cho bác ấy nghe về con trai thì anh ấy vẫn còn trên đời. Rồi tôi câm lặng, vì tôi không còn gì để kể. Mẹ anh ấy đứng dậy, bác ấy trở lại với một cái túi toàn quần áo của Shamir. Bác ấy vuốt mà tôi lúc ra đến ngưỡng cửa và giao cho tôi tấm mề đay bác ấy luôn đeo trên cổ. Bác ấy bảo rằng nếu một ngày nào đó tôi còn quay lại ngọn núi ấy, bác những mong tôi thả cái mề đay này xuống khe núi nơi con trai bác đang yên ngủ, rồi bác ấy năn nỉ tôi hãy sống một cuộc đời cho xứng với những gì con trai bác đã hy sinh. Thực ra thì tôi những mong cái chết chỉ là một giấc ngủ dài không mộng mị, rằng linh hồn của Shamir đang lang thang đâu đó và được hạnh phúc.

Andrew đứng dậy đi tới bên cửa sổ, đợi một lúc anh cất lời.

– Tôi đang chạy dọc sông Hudson thì đã thấy mình nằm trên xe cứu thương, giữa sự sống và cái chết, gần cái chết hơn là sự sống. Tôi không nhìn thấy một tia sáng le lói nào, cũng không nghe thấy giọng thiên thần nào gọi tôi về trời, không có bất cứ thứ gì trong những điều các linh mục vẫn rêu rao với chúng a. Nhưng tôi đã thấy nhiều thứ khác. Bây giờ, tôi không còn biết phải tin vào điều gì. Vào cuộc đời, có thể thế, vào nỗi sợ, lãng phí đời, mà lạ lùng thay chưa bao giờ tin vào nỗi sợ phải hủy hoại đời. Cô phải hiểu, cô cũng là một người thoát chết và cô đang lao như con thiêu thân vì muốn chứng minh sự vô tội của một người phụ nữ mà cô cũng không biết.

– Đừng so sánh cách sống của chúng ta. Anh với chai rượu, tôi với nỗi ám ảnh. Tôi những mong có một người bà để có thể thổ lộ những điều không nói được với bố mẹ, người cho tôi những lời khuyên nhủ không phải theo kiểu lên lớp. Tôi cần chứng minh sự vô tội của bà để khiến sự tồn tại của mình mang một ý nghĩa nào đây, chứ không phải để hủy hoại nó. Tôi được sinh ra với cái họ đi mượn. Khi đến lúc, tôi những mong được chôn cất với họ Walker và hãnh diện vì được mang họ này.

– Đó là họ của chồng bà ấy.

– Đó là họ mà bà chọn mang, họ thời con gái của bà là Mc Carthy. Tôi mang trong mình dòng máu Ai Len.

– Đến giờ rồi, Andrew vừa nhìn đồng hồ vừa nói. Chẳng mấy chốc mà Colman sẽ gọi, chúng ta đi nhấm nháp chút gì trong lúc chờ đợi.

*

Andrew gọi một chiếc bánh club-sandwich, Suzie bằng lòng với một lon nước ngọt. Ánh mắt anh hết nhìn đồng hồ treo tường lại nhìn điện thoại đặt trên quẩy bar.

– Cậu ta sẽ gọi, Andrew vừa lau miệng vừa nói.

Rốt cuộc, điện thoại đổ chuông. Nhân viên quầy bar chìa ống nghe cho Andrew.

– Tôi muốn thêm 1000 đô! Colman phấn khích nói.

– Chúng ta có thỏa thuận thế đâu. Andrew đáp.

– Thứ tôi tìm thấy có giá trị hơn rất nhiều so vớ 200 đô mà anh đề nghị với tôi.

– Có lẽ cậu nên nói cho tôi biết đó là về chuyện gì để tôi còn đánh giá.

– Những nốt nhạc còn thiếu không tạo thành một đoạn nhạc có ý nghĩa nào hết, chúng không có ý nghĩ gì cả.

– Như thế mà cậu cũng muốn thương lượng thêm tiền với chúng tôi à?

– Cứ để tôi nói hết. Tôi nảy ra ý nghĩ đó khi đưa chúng lại gần cuốn nhạc kịch. Tôi đã so sánh các nhịp bị mất với đoạn lời đi kèm. Và trò bảy lỗi sai của anh cũng có nghĩa đấy. Tôi đang ghép các từ với nhau, ghép lại từng câu, kết quả rất đáng kinh ngạc. Tôi đã hiểu hơn vì sao anh muốn giải mã câu đố này. Nếu những thứ mắt tôi nhìn thấy là thật, thì anh đang có trong tay một tin bom tấn đấy.

Andrew cố không để lộ nỗi sốt ruột đang cuộn trong lòng.

– Đồng ý, cậu sẽ có số tiền mình muốn. Chừng nào cậu xong việc?

– Có máy tính thì cái trò ráp câu chữ với các khuông nhạc chỉ là một trò trẻ con, chắc tối đa một tiếng nữa là tôi ghép xong đoạn lời.

– Hai mươi mấy phút nữa chúng tôi sẽ có mặt ở phòng cậu, gửi qua email cho tôi đoạn lời cậu đã hoàn thành, tôi sẽ đọc trên đường đi.

– Anh hứa sẽ trả tiền cho tôi chứ?

– Quân tử nhất ngôn.

Jack Colman ngắt máy.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.