Mackenzie's Pleasure

Chương 1



Woft Mackenzie tuột khỏi giường và bồn chồn bước về phía cửa sổ, nơi mà ông đứng nhìn lên bầu trời, ánh trăng soi sáng toàn bộ khung cảnh vùng đất của ông. Ông hơi liếc nhìn qua vai để chắc chắn rằng Mary ngủ ngon mà không bị đánh thức, mặc dù ông biết rằng không bao lâu nữa bà sẽ cảm nhận thấy sự vắng mặt của ông và cựa mình, với tay ra để chạm vào ông. Khi mà bàn tay và không cảm nhận thấy hơi ấm của ông, bà chắc chắn sẽ thức giấc, ngồi dậy, mơ màng gạt những lọn tóc khỏi mặt. Khi và nhìn thấy ông ở bên cửa sổ, bà sẽ liền trượt khỏi giường và đến bên ông, dựa người vào cơ thể trần truồng của ông, ngái ngủ tựa đầu lên ngực ông.

Một nụ cười nhẹ nở ra trên khuôn miệng cứng cỏi của ông. Dù thích dù không, hễ ông rời khỏi giường đủ lâu khiến và khiến bà thức dậy, thì khi họ trở lại giường thì sẽ không còn ngủ nữa mà là làm tình. Như ông còn nhớ, Maris cũng được thụ thai trong một trường hợp tương tự như vậy, khi mà ông cảm thấy bồn chồn bởi vì phi đội chiến đấu của Joe triển khi ở nước ngoài nơi đang có chiến sự. Đó là hành động đầu tiên của Joe, và Woft căng thẳng như chính những ngày như vậy của ông ở Việt Nam.

May mắn, ông và Mary trải qua những ngày đó bằng sự đam mê không kìm nén mà kết quả là một sinh linh mới được hình thành. Ngày nay họ đã có những đứa cháu, mười đứa cả thảy.

Nhưng tối nay ông lại cảm thấy bồn chồn không yên, và ông biết tại sao.

Một con sói bao giờ cũng ngủ ngon khi tất cả đàn con của nó an toàn.

Bất chấp việc đàn con ấy bây giờ đã trưởng thành, một số còn có con của mình nữa. Bất chấp việc chúng không chỉ một mà tất cả chúng, hoàn toàn có khả năng tự chăm sóc bản thân mình. Chúng là của ông, và ông sẵn sàng làm bất kỳ điều gì khi chúng cần đến ông. Ông rất muốn biết chúng tối ngủ ở đâu, không nhất thiết là biết địa điểm cụ thể – có một vài điều bố mẹ không nên biết thì tốt hơn – nhưng nếu ông biết được chúng đang ở vùng nào thì cũng là đủ rồi. Chết tiệt thật, thỉnh thoảng ông cảm thấy đủ hài lòng nếu biết được chúng ở quốc gia nào.

Sự lo lắng của ông lần này không phải là về Joe. Ông biết bây giờ Joe ở đâu – Lầu Năm Góc. Joe bây giờ đã có bốn sao và là đang tọa lạc ở Bộ Tham Mưu.

Joe có thể vẫn muốn leo lên những con chim sắt và lao đi với tốc độ gấp đôi tốc độ ánh sáng, nhưng những ngày nguy hiểm đã ở đằng sau. Nếu Joe cần đạt được điều gì đó thì anh chắc chắn sẽ đạt được. Hơn nữa, như anh có lần nói, cưới Caroline còn kích thích hơn là tham dự vào một cuộc không chiến một chọi bốn.

Woft mỉm cười khi ông nghĩ đến con dâu mình. Là một thiên tài IQ, là tiến sĩ cả hai lĩnh vực vật lý và máy tính, hơi kiêu ngạo và lắm mưu mô, giỏi hùng biện. Cô lấy bằng lái máy bay chỉ ngay sau khi sinh đứa con trai thứ nhất, cô nói rằng vợ một phi công chiến đấu thì cần biết một chút gì đó về bay. Cô nhận được giấy chứng nhận lai máy bay phản lực loại nhỏ vào khoảng thời gian sinh đứa con trai thứ ba. Sau khi sinh đứa con trai thứ năm, cô gắt gỏng nói với Joe rằng cô sẽ đầu hàng, bởi bì cô đã cho anh năm cơ hội vậy mà rõ ràng anh không có khả năng trở thành cha của một đứa con gái.

Có một lần có một lời gợi ý nhẹ nhàng rằng Joe nên buộc Caroline bỏ việc. Công ty mà cô làm ciệc có liên quan mật thiệt với một số hợp đồng làm việc cho chính phủ và nếu có một sự thiên vị nào đó thì sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến sự nghiệp của anh. Joe lập tức lạnh lùng ném cái nhìn chết người vào những vị cấp trên mình mà nói, “Thưa các quí ông, nếu tôi buộc phải chọn giữa vợ mình và sự nghiệp, tôi sẽ viết đơn từ chức ngay lập tức. Đó không phải là câu trả lời được chờ đợi, nhưng từ đó không còn có một lời nói nào về công việc nghiên cứu của Caroline.

Woft cũng không phải lo lắng về Micheal. Mike là người điềm tĩnh và ổn định nhất trong số tất cả các con của ông. Anh quyết định từ khi còn rất trẻ là anh muốn trở thành một chủ trang trại và anh đã làm đúng như vậy. Anh là chủ một trang trại rất rộng lớn ở Laramie, và anh cùng vợ hạnh phúc chăm sóc hai đứa con trai và gia súc.

Việc ồn ào duy nhất mà Mike gây ra là khi anh quyết định cưới Shea Colvin. Woft và Mary cầu phúc cho họ nhưng vấn đề ở chỗ là mẹ của Shea là Pam Hearst Colvin, một trong số những bạn gái cũ của Joe – và cha của Pam, cực lực phản đối việc cháu gái yêu quí của mình cưới Micheal Mackenzie cũng như đã từng cực lực phản đối việc con gái hẹn hò với Joe Mackenzie.

Micheal, người với tính cách điềm tĩnh như thường lệ, hoàn toàn lờ đi những chuyện huyên náo, ồn ào. Sự quan tâm duy nhất của anh là cưới Sheo và mặc kệ hết thảy những ồn ào nổ ra trong gia đình Hearst.Shea với bản tính trầm lặng và dịu dàng đã phát khóc, nhưng cô chỉ muốn Micheal và cô đã từ chối việc hủy đám cưới như yêu cầu của ông ngoại. Cuối cùng thì Pam cũng phải ra mặt kết thúc mọi việc, đứng đối mặt với cha mình ngay giữa cửa hàng của ông ta.

“Shea sẽ cưới Micheal,” cô hét lên, khi Ralph dọa sẽ xóa tên Shea ra khỏi di chúc nếu cô cưới một trong những đứa con lai đó. “Cha đã không muốn con hẹn hò với Joe, trong khi anh ấy là một trong những người đàn ông ưu tú nhất mà con từng gặp. Bây giờ Shea muốn Micheal và nó sẽ có cậu ta. Thay đổi di chúc nếu cha muốn. Cứ việc khư khư ôm lấy sự ghét bỏ của mình, bởi vì cha sẽ không được ôm cháu mình – hoặc là chắt mình một lần nào nữa. Nghĩ kỹ đi!”

Cuối cùng thì Micheal cũng cưới Shea, và bất chấp sự cằn nhằn, cau có của mình, ông già Ralph đâm ra say mê hai đứa chắt ngoại như điếu đổ. Lần mang thai thứ hai của Shea thật khó khăn. Và cả mẹ cùng con gần chết. Bác sĩ đã khuyên họ không nên có thêm con, nhưng dù sao họ cũng đã quyết định chỉ có hai đưa. Hai đứa con trai lớn lên trong môi trường của ngựa và gia súc. Wolf thích thú khi nghĩ đến việc chắt của Ralph Hearst mang họ Mackenzie. Ai mà nghĩ lại có ngày này xảy ra?

Josh, đứa con trai thứ ba của ông, sống ở Seattle cùng vợ, Loren, và ba đứa con trai. Josh là một người mê máy bay điên cuồng như Joe, nhưng anh đã chọn Hải quân thay cho Không quân có lẽ vì anh muốn thành công bằng chính thực lực của mình chứ không phải bởi vì anh trai là một tướng không quân.

Josh là một người vui vẻ, cởi mở và tốt bụng, là một người thoải mái, xuề xòa nhất nhà, nhưng anh cũng như những đứa con khác đều có một ý chí quyết tâm sắt đá. Anh sống sót sau một tai nạn đã làm cho chân trái của anh phải cố định và khiến cho anh phải kết thúc sự nghiệp ở Hải quân, nhưng như tính cách lệ thường của mình, Josh bỏ lại những thứ đó đằng sau và tập trung bào phía trước. Thời gian đó, mối bận tâm của anh là – bác sĩ Loren Page. Ngay khi nhìn thấy nàng bác sĩ Loren đáng yêu, anh đã lập tức quá trình tán tỉnh của mình khi còn trên giường bệnh. Anh vẫn còn ở trên giường bệnh khi họ cưới nhau. Bây giờ họ đã có ba con trai, anh làm việc cho một công ty hàng không, phát triển những loại máy bay chiến đấu mới, và Loren làm việc trong một khoa chỉnh hình ở bệnh việc tại Seattle.

Woft cũng biết nơi Maris đang ở hiện thời. Đứa con gái duy nhất của ông hiện đang ở Montana, là một người huấn luyện cho một trang trại ngựa. Cô đang cân nhắc nhận một công việc ở Kentucky, huấn luyện những con ngựa thuần chủng. Ngay từ khi đủ lớn để ngồi chắc chắn một mình trên lưng ngựa, tham vọng của cô hoàng toàn tập trung quanh loài động vật to lớn, tuyệt đẹp này. Cô thừa hưởng tài năng của ông đối với ngựa. Riêng Woft thì nghĩ cô có thể sẽ vượt qua ông. Những gì mà cô có thể làm với ngựa gần như là ma thuật.

Đôi môi cứng rắn của Woft mềm lại khi ông nghĩ về Maris. Cô đã nắm chặt trái tim của ông trong những ngón tay nhỏ nhắn của mình ngay từ giây phút người ta đặt cô và đôi bạn tay ông, khi dó cô chỉ mới ra đời vài phút, và cô đã nhìn ông bằng đôi mắt đen ngái ngủ. Trong tất cả đám con của ông, cô là người duy nhất có đôi mắt đen của ông. Đám con trai của ông tất cả đều giống ông như lột, chỉ trừ đôi mắt màu xanh, nhưng Maris, người hoàn toàn giống Mary lại có đôi mắt đen của cha. Con gái của ông có mái tóc màu nâu nhạt, làn da mịn màng gần như là trong suốt, và sự quả quyết của mẹ. Cô chỉ cao có năm feet ba và nặng có 100 pound, nhưng Maris chẳng bao giờ để ý đến sự mảnh khảnh của mình; khi mà cô đã quyết tâm làm điều gì đó, cô sẽ kiên trì với một sự gan lì cứng cỏi, ngoan cố, và kiên quyết đến kỳ lạ cho đến khi thành công mới thôi. Cô cũng hoàn toàn có thể khuất phục đám anh trai to lớn và độc đoán của mình.

Sự lựa chọn nghề nghiệp của cô không dễ dàng gì. Mọi người thường có xu hướng nghĩ đến hai điều. Một là cô huấn luyện ngựa hoàn toàn phụ thuộc vào danh tiếng của cái họ Mackenzie, hai là cô quá mảnh khảnh cho cái nghề này. Họ sớm nhận ra là học đã lầm như thế nào với cả hai lý do đó. Nhưng mà đó là cuộc chiến mà Maris phải lập đi lập lại nhiều lần. Cô chiến đấu đến cùng, rồi dần dần cô cũng nhận được sự tôn trọng mà cô đáng được hưởng trước tài năng độc đáo của mình.

Ý nghĩ tiếp theo của ông về đám con của mình, là Chance. Quỉ thật, ông thậm chí cũng biết được nơi mà Chance ở hiện nay, và điều đó nói lên một cái gì đó. Chance lang thang khắp thế giới, mặc dù anh luôn luôn quay trở về Wyoming, trở về với ngọn núi là ngôi nhà duy nhất của anh. Chance vừa mới gọi về sớm nay thôi, từ Belize. Anh nói với Mary rằng anh sẽ nghỉ ngơi vài ngày trước khi di chuyển tiếp. Khi đến lượt Woft nhận cuộc gọi, ông cố tránh khỏi tầm nghe của Mary và nhẹ nhàng hỏi Chance về mức độ thương tích của anh.

“Không nặng lắm đâu cha ạ” Chance trả lời vắn tắt, “Một vài mũi khâu và mấy cái xương sườn bị gãy. Nhiệm vụ đột nhiên trở nên khó khăn một chút ạ.”

Woft không hỏi nhiệm vụ đó là gì. Đứa con trai là lính đánh thuê của ông thỉnh thoảng làm một số công việc nhạy cảm cho chính phủ, mà thường thì anh hiếm khi tình nguyện kể chi tiết. Hai người đàn ông có một thỏa thuần ngầm là giữ không cho Mary biết chút gì về nguy hiểm mà Chance phải thường xuyên đối mặt. Không phải chỉ là họ không muốn và lo lắng, mà là vì nếu và mà biết anh bị thương, và sẽ ngay lập tức nhảy lên một chiếc máy bay và lôi anh về nhà.

Khi Woft đặt máy xuống và quay lại, ông đã thấy ngay đôi mắt màu xanh ngọc của Mary đang nhìn xoáy vào ông. “Nó bị thương có nặng lắm không?” bà hỏi, với cánh tay chống trên hông.

Woft biết rất rõ rằng tốt nhất không nên cố gắng nói dối bà. Thay vì nói dối ông bước tới bên bà và kéo bà vào vòng tay mình, vuốt ve mái tóc mềm mại của bà và nâng niu cơ thể mảnh khảnh của bà vào cơ thể rắng chắc đầy cơ bắp của mình. Thỉnh thoảng sức mạnh tình yêu của ông đối với người phụ nữ này gần như khiến cho đầu gối của ông muốn quỵ xuống. Ông không thể bảo vệ bà tránh khỏi những lo lắng, nên ông cố gắng trao cho bà sự tôn trọng và sự thật. “Không tệ lắm, theo như nó nói.”

Bà phản ứng ngay lập tức. “Em muốn nó về nhà.”

“Anh biết, em yêu. Nhưng nó không sao đâu. Nó không nói dối chúng ta đâu. Hơn nữa, em hiểu Chance mà.”

Bà gật đầu, thở dài và hôn nhẹ lên ngực ông. Chance giống như là một con báo đẹp đẽ đầy hoang dại và không thể nào chịu đựng được sự kìm kẹp, giam cầm. Họ đón nhận anh vào nhà họ và mang lại cho anh một gia đình, trói buộc anh vào họ bằng tình yêu thương khi mà chưa từng ai có thể trói buộc anh. Và giống như các loài động vật hoang dã khác bao giờ cũng chỉ thuần hóa được một nửa, anh chấp nhận ranh giới của nền văn minh nhưng chỉ là một chút thôi. Anh lang thang khắp nơi, khắp chốn, và dù vậy thì anh vẫn luôn luôn trở về bên họ.

Từ đầu, anh đã không thể nào chống lại tình yêu thương của Mary. Bà ngay lập tức bao bọc anh bằng rất nhiều tình yêu sự chăm sóc tận tụy làm cho anh không bao giờ có thể kháng cự lại bà, mặc dù đôi mắt màu xanh lục của anh ánh lên nỗi sợ hãi, kinh hoàng, thậm chí sự lúng túng, ngượng nghịu trước sự quan tâm, chăm sóc của bà. Nếu Mary mà có chạy đi lôi Chance về thì, anh sẽ trở về nhà không chút phản đối, nhưng anh sẽ bước vào trong ngôi nhà với biểu hiện bất lực, hơi hoảng loạn trên mặt, kiểu như “Ôi, Chúa ơi, làm ơn kéo con ra khỏi đây”. Và rồi anh sẽ ngoan ngoãn để bà chăm sóc vết thương của mình, nuông chiều anh và bao bọc anh với sự quan tâm lo lắng của một người mẹ.

Quan sát Mary quá chú ý chăm bẵm Chance là một trong những điều thích thú của Woft. Bà chăm bẵm tất cả những đứa con của mình, nhưng những đứa con kia của họ lớn lên lên cùng với sự chăm bẵm, quá chú ý của bà nên coi điều đó là hiển nhiên. Nhưng Chance… đã mười bốn tuổi và gần như là hoang dã khi Mary tìm thấy cậu. Nếu cậu từng có một ngôi nhà thì cậu cũng không nhớ nổi nó. Nếu cậu từng có một cái tên thì cậu cũng không biết nó. Cậu tránh thiện trí của các nhà chức trách công tác xã hội bằng cách di chuyển liên tục, ăn trộm bất cứ thứ gì cân thiết, thức ăn, quần áo, tiền bạc. Cậu rất thông minh và tự học đọc từ những tờ báo mà mọi người vứt đi. Các thư viện là nơi yêu thích mà cậu thường lân la, có thể thậm chí là để qua đem nếu cậu có thể thu xếp, nhưng không bao giờ quá hai đêm. Từ những gì mà cậu đọc và một chút ít mà cậu xem tivi, cậu hiểu về khái niệm gia đình, nhưng đó là tất cả những gì mà cậu biết – một khái niệm. Cậu không tin tưởng một ai cả trừ bản thân mình.

Cậu có lẽ sẽ trưởng thành như vậy nếu cậu không vướng vào một trận cảm nặng. Trong khi lái xe từ trường về nhà. Mary tìm thấy cậu nằm bên đường, mê man và nóng bừng vì sốt. Mặc dù cậu cao hơn bà hẳn một cái đầu và năng hơn bà hẳn 50 pao, nhưng bằng cách nào đó bà đánh vật được với cậu bé và lôi được cậu lên xe và đưa cậu đến trạm y tế địa phương, nơi mà bác sĩ Nowacki khám phá ra rằng trận cảm đã biến thành viêm phổi nặng và nhanh chóng chuyển Chance đến một bệnh viện gần nhất, cách đó 80 dặm.

Mary lái xe về nhà và khăng khăng rằng Woft phải đưa mình đến bệnh viện – ngay lập tức.

Chance đang ở trong phòng chăm sóc đặc biệt khi họ đến nơi. Đầu tiên những y tá trong bệnh viện không muốn để họ vào thăm cậu bé, vì họ không phải là người trong gia đình và trên thực tế là chẳng biết gì về cậu bé cả. Trung tâm chăm sóc trẻ em được thông báo, và có một người nào đó đang trên đường đến bệnh viện để hoàn tất thủ tục giấy tờ. Họ hoàn toàn có lý, thậm chí là rất lịch sự, nhưng họ hoàn toàn không tính đến Mary. Bà không hề nao núng. Bà muốn gặp cậu bé và xe ủi cũng không thể làm bà nhúc nhích cho đên skhi bà được nhìn thấy cậu bé. Rốt cuộc thì những y tá của bệnh việnh không còn cách nào khác là phải đầu hàng một ý chí mạnh mẽ hơn họ rất nhiều, đã để cho Woft và Mary vào trong phòng.

Ngay khi nhìn thấy cậu bé, Woft biết tại sao Mary lại kiên quyết kéo ông theo. Không phải là cậu bé ốm rất nặng, mà rõ ràng cậu bé lai Anh điêng. Cậu bé nhắc cho Mary thớ một cách sinh động về những đứa con của bà làm bản thân bà không thể nào bỏ mặc cậu bé.

Đôi mắt thành thạo của Woft quan sát cậu bé, cậu nằm hoàn toàn lặng thinh, mắt nhắm nghiền, hơi thở nặng nhọc. Đôi má đỏ ửng vì sốt cao, đang được truyền nước biển.

Không phải là lai, Woft nghĩ, một phần tư, có lẽ, không hơn. Nhưng hoàn toàn không nghi ngờ gì về phần lai Anh điêng trong người cậu. Móng tay sáng trên nền da rám nắng trong khi móng tay của người da trắng màu hồng nhạt. Mái tóc đen dài và dầy, gò má cao, làn môi rõ ràng và sống mũi cao. Cậu bé là sáng sủa đẹp trai hơn bất kỳ đứa bé nào khác mà Woft từng gặp.

Mary bước đến gần giường, toàn bộ sự chú ý của bà tập trung vào cậu bé đang nằm mê mệt trên giường. Bà đặt nhẹ bàn tay mát lạnh của mình lên trán câu bé, rồi vuốt ve nhẹ nhàng mái tóc cậu. “Con sẽ không sao đâu sẽ ổn thôi,” bà thầm thì với cậu. “Ta đảm bảo con sẽ không sao đâu.”

Cặp mi mắt trĩu nặng của cậu mở ra. Và lần đầu tiên nhìn thấy đôi mắt màu nâu lục nhạt, gần như vàng. Bối rối, cậu bé nhìn trước tiên là Mary sau đó nhìn sang Woft và vẻ hoảng hốt hiện lên trong mắt cậu. Cậu cố ngồi dậy, nhưng quá yếu thậm chí không thể nhấc đầu dậy.

Wofft bước đến gần, và nói ngắn gọn. “Đừng sợ con bị viêm phổi, và đang ở trong bệnh viện.” Rồi, chợt nhận ra nguyên nhân nỗi sợ hãi của cậu bé, ông nói thêm, “Chúng ta sẽ không để họ bắt con đi đâu.”

Đôi mắt của cậu liền nhắm lại, có lẽ sự xuất hiện của Woft đã trấn an được cậu bé phần nào. Như một con thú hoang đầy cảnh giác, cậu dần dần bớt căng thẳng và rồi chìm vào giấc ngủ.

Trong tuần tiếp theo, tình trạng của cậu bé đã có nhiều tiến triển hơn, và Mary bắt đầu hành động. Bà quyết tâm rằng cậu bé, người vẫn chưa hề nói cho họ biết tên mình, sẽ không bị đưa vào trại trẻ mồ côi dù chỉ một ngày. Bà lôi ra bằng hết những người có liên quan, thuyết phục họ, thậm chí gọi cho cả Joe để anh dùng ảnh hưởng của mình, và rồi sự dai dẳng kiên trì của bà đã có kết quả. Khi cậu bé được phép rời khỏi bệnh viện, cậu được theo Woft và Mary về nhà.

Dần dần rồi thì cậu cũng quen dần với họ, mặc dù vậy thì vẫn chưa có dấu hiệu cậu trở nên thân mật hơn với họ, chứ đừng nói đến sự tin cậy. Cậu có thể trả lời câu hỏi của họ, cố để nói càng ít càng tốt, nhưng cậu chưa bao giờ thực sự chuyện trò với họ. Mary không hề nản trí. Đầu tiên, bà đối xử với cậu bé một cách đơn giản như cậu là con trai của bà vậy – và rồi chẳng bao lâu sau cậu trở thành con trai thực sự của bà.

Cậu bé người luôn luôn chỉ có một mình đột nhiên bị nhận chìm vào giữa một gia đình ồn ào, đông đúc. Lần đầu tiên, cậu có một mái nhà trên đầu mỗi tối, một căn phòng hoàn toàn thuộc về bản thân cậu, bụng đầy thức ăn. Cậu có quần áo treo đầy trong tủ và một đôi bốt mới để đi. Cậu bé vẫn còn quá yếu để chia sẻ những công việc vặt trong nhà như mọi người khác vẫn thường làm, nhưng Mary đã ngay lập tức bắt tay vào việc dạy học cho cậu bé để đưa cậu lên cùng cấp học với Zane, vì có vẻ cả hai cùng tuổi. Chance vồ lấy những quyển sách như một đứa trẻ chết đói với được vú mẹ, nhưng những thứ khác thì cậu quyết tâm giữ nguyên. Đôi mắt cậu thận trong quan sát, phân tích từng sắc thái của mối quan hệ trong gia đình họ, cân nhắc những gì cậu nhìn thấy hoàn toàn trái nguợc với những gì mà cậu biết trước đây.

Cuối cùng cậu cũng dịu bớt đủ để nói cho họ biết rằng cậu được gọi là Sooner. Cậu không có một cái tên thực sự.

Maris ngây ra nhìn cậu. “Sooner?”

Miệng cậu méo đi, và cậu chợt trong già hơn cái tuổi 14 của mình. “Đúng vậy, giống như tên một con chó lai.”

“Không,” Woft nói, bởi vì cái tên là một đầu mối. “Con biết là con có phần lai Anh điêng. Con được gọi là Sooner tức là con được sinh ra ở Oklahoma và cũng có nghĩa con có thể thuộc tộc Cherokee.”

Cậu bé chỉ là đơn thuần nhìn lên Woft, cậu có vẻ cảnh giác, nhưng đột nhiên có gì đó trong cậu nhẹ hẳn đi vì ít nhất cậu cũng có nguồn cội và không phải bị ví như một con chó.

Mối quan hệ của cậu với mọi người trong gia đình rất phức tạp. Với Mary, cậu cố gắng giữ mình tránh xa bà, nhưng cậu đơn giản là không thể làm được. Bà chăm sóc, đối xử như một người mẹ với cậu, theo đúng cách mà bà chăm sóc con đẻ của bà vậy, và điều đó làm cậu cảm thấy khiếp sợ mặc dù cậu hoàn toàn hài lòng về điều đó, cậu chìm ngập trong sự yêu thương lo lắng vô bờ bến của bà. Cậu rất thận trọng, cảnh giác đối với Wolf, như thể cậu chờ đợi một lúc nào đó người đàn ông to lớn đó giơ nắm đấm vào cậu. Cực kỳ có kinh nghiệm đối với những biểu hiện của sự hoang dã, chưa được thuần hoá, Wolf từ từ đối xử nhẹ nhàng, thận trọng nhưng yêu thương đối với cậu bé như cái cách ông thường đối xử với các con ngựa, để cậu từ từ quen dần với sự hiện diện của ông, để cậu nhận ra rằng cậu không có gì phải sợ hãi cả, rồi dần dần đề nghị sự tôn trọng và tình bạn và rồi cuối cùng là sự yêu thương.

Micheal thời gian đó đã đi xa học đại học, nhưng khi cậu về nhà cậu dễ dàng hoà nhập với mọi người trong gia đình vây quanh thành viên mới. Sooner thoải mái với Mike ngay từ đầu, cảm thấy như đã quen biết từ lâu.

Cậu cũng thân thiết với Josh, nhưng Josh là người rất thoải mái, vui vẻ nên không thể không thân thiết được. Josh là người đầu tiên dạy cho Sooner làm những công việc lặt vặt ở trại ngựa. Josh cũng là người đầu tiên dạy cho cậu bé cưỡi ngựa mặc dù Josh là có thể cho rằng là kỵ sĩ tệ nhất trong gia đình. Điều đó không có nghĩa là cậu không giỏi, nhưng những người khác giỏi hơn rất nhiều, đặc biệt là Maris. Josh không quan tâm đến điều đó, bởi vì trái tim của cậu đã hoàn toàn bị máy bay nắm mất như cái cách mà Joe đã từng trải qua, nên có lẽ vì vậy mà cậu kiên nhẫn với những lỗi của Sooner hơn những người khác.

Maris cũng giống như Mary. Cô bé mới nhìn thấy Sooner đã ngay lập tức kéo cậu vào dưới sự bảo vệ mạnh mẽ của cô, không thèm để ý đến việc cậu phải to gấp đôi mình. ở tuổi 12, Maris cao không tới 5 feet và nặng chỉ có 74 Pound. Nhưng điều đó chẳng quan trọng đối với cô bé; Sooner trở thành của cô như cái cách các anh trai lớn là của cô vậy. Cô líu lo với cậu, trêu chọc cậu, đùa cậu – nhanh chóng khiến cậu phát điên lên, như cái cách mà các em gái nhỏ thường làm với anh trai mình. Sooner hoàn toàn không hề có cách nào để đối phó với cách mà cô bé đối xử với cậu, không khác gì việc cậu bất lực trước Mary. Thỉnh thoảng cậu quan sát Maris như thể cô bé là một quả bom nổ chậm vậy, nhưng Maris chính là người đã chiếm được nụ cười đầu tiên của cậu khi cô bé trêu đùa cậu. Cũng là Maris là người đầu tiên lôi kéo được cậu vào các cuộc chuyện trò của gia đình: chậm dãi, từ từ, cậu học được cách một gia đình sống như thế nào, làm thế nào để tha thứ, yêu thương lẫn nhau giữa những người trong gia đình, và càng ngày cậu càng thoải mái hơn với họ. Maris vẫn tiếp tục trêu chọc cậu đến giận lên, cũng như có thể khiến cậu vui vẻ cười phá lên nhanh chóng hơn bất kỳ ai khác. Có một thời gian Wolf tự hỏi không biết cả hai có thể trở nên thân mật hơn, có những mối quan tâm lãng mạn hơn đối với nhau một khi bắt đầu trưởng thành, nhưng điều đó không bao giờ xảy ra. Điều đó cho thấy rõ ràng rằng Sooner đã hoàn toàn trở thành một thành viên của gia đình họ; cả hai đơn giản là anh trai và em gái.

Mọi việc với Zane phức tạp hơn nhiều, vì, Zane bản tính tự nhiên cũng là người cảnh giác hệt như Sooner. Wolf hiểu rõ các chiến binh, vì bản thân ông cũng vậy, và những gì mà ông nhìn thấy ở đứa con trai nhỏ nhất của mình gần như khiến ông sửng sốt, kinh ngạc. Zane là người cực kỳ điềm tĩnh và vô cùng thận trọng. Cậu di chuyển như một con báo, uyển chuyển, không một tiếng động. Wolf dạy tất cả các con mình, bao gồm cả Maris, các phương thức tự vệ, nhưng Zane thì cực kỳ vượt trội. Cậu bé học chúng dễ dàng như người đút chân vào một đôi giầy quen chân vậy, như thể nó dùng chỉ để giành riêng cho cậu vậy. Còn khi học đến kĩ thuật thiện xạ, cậu có con mắt của người bắn tỉa, và kiên nhẫn không thể tưởng tượng được.

Zane có khuynh hướng tự nhiên của một chiến binh: bảo vệ. Cậu ngay lập tức hình thành tâm lý cảnh giác đối kẻ xâm phạm vào sự thiêng liêng, bất khả xâm phạm của gia đình cậu.

Cậu không hề giận dữ, cáu kỉnh với Sooner. Nhưng cậu cũng không hề nói chuyện cũng như không tỏ ra thân thiện, điều trái với bản tính tự nhiên của cậu. Hơn nữa, cậu còn hơi tránh xa người mới đến, không hắt bỏ nhưng hoàn toàn không hề có ý định chào đón. Nhưng vì bởi vì hai cậu cùng tuổi, sự chấp nhận của Zane là rất quan trọng và Sooner phản ứng lại sự lạnh lùng của Zane về việc nhận nuôi giống hệt như Zane. Hai cậu lờ nhau đi.

Trong khi bọn trẻ giải quyết vấn đề của chúng, Wolf và Mary đẩy nhanh quá trình nhận nuôi Sooner. Họ hỏi cậu có yêu cầu gì không, như thường lệ, cậu trả lời băng một cái nhún vai và vẻ mặt, “sao cũng được”. Coi đó như là một tín hiệu tích cực, Mary đẩy nhanh gấp đôi nỗ lực của bà để việc nhận nuôi nhanh hơn nữa.

Mọi việc rồi cũng xuôi chèo mát mái, họ nhận được tin quá trình nhận nuôi đã hoàn tất cũng đúng ngày mọi việc giữa Sooner và Zane được giải quyết. Một đám bụi thu hút sự chú ý của Wolf. Đầu tiên ông chẳng nghĩ có việc gì xảy ra cả, bởi vì khi ông nhìn về hướng đó thì thấy Maris ngồi trên hàng rào, bình tĩnh quan sát hoạt động gì đó. Cho là một con ngựa nào đó đang chạy tạo nên đám bụi, Wolf quay trở lại làm việc. Tuy nhiên, hai giây sau, đôi tai nhạy bén của ông nhận thấy những âm thanh gầm gừ và cái gì đó nghe giống như những cú đấm.

Ông liền đi tới bãi chăn thả. Zane và Sooner tập trung ở một góc, nơi mà chúng sẽ không bị trông thấy từ phía nhà, và đang đánh nhau. Wolf nhìn thấy ngay rằng cả hai cậu bé, bất chấp sức mạnh của các cú đấm của mình, cố gắng kiềm chế bản thân để cuộc chiến là một cuộc chiến theo ước lệ hơn là một cuộc ẩu đả ác hiểm và ồn ào. Ông tựa người vào hàng rào bên cạnh Maris. “Chuyện gì với chúng thế con?”

“Các anh đánh nhau để giải quyết vấn đề của họ thôi ạ.” Cô bé nói một cách đơn giản mà không hề dời mắt khỏi cuộc chiến.

Chẳng bao lâu sau Josh cũng gia nhập cùng họ, và cả ba bố con bình tĩnh quan sát cuộc chiến. Cả Zane và Sooner đều là những cậu bé cao lớn, cơ bắp, rất mạnh mẽ so với tuổi. Chúng đứng đối diện với nhau, thay nhau tung ra những quả đấm vào mặt nhau. Khi một trong hai cậu bị hạ sẽ nhanh chóng đứng dậy và trở lại cuộc chiến. Cả hai đều im lặng một cách kỳ quái, trừ những tiếng gầm gừ không chủ ý và những tiếng của nắm đấm vung ra.

Mary nhìn thấy mọi người tụ tập ở quanh hàng rào, liền bước ra xem có chuyện gì xảy ra. Bà đến đứng bên cạnh Wolf và đặt nhẹ tay lên bàn tay ông. Ông cảm thấy bà run run mỗi khi có một cú đánh vào mặt cả hai, nhưng khi ông ngẩng lên nhìn bà, ông thấy mặt bà hiện lên vẻ nghiêm nghị của một cô giáo, và ông biết rằng Mary Elizabeth Mackenzie chuẩn bị lên lớp.

Bà để cho chúng năm phút. Rõ ràng nhận thấy rằng chuyện này có thể kéo dài hàng giờ, và cả hai cậu bé đều quá cứng đầu cứng cổ để có thể từ bỏ, và bà phải tự giải quyết vấn đề. Với giọng nói rõ ràng, rành mạch của một cô giáo, bà gọi, “Được rồi, các con, hãy thu xếp mọi thứ thôi nào. Bữa tối sẽ được dọn trên bàn 10 phút nữa.” Rồi bà bình tĩnh đi về phía nhà, hoàn toàn tự tin rằng bà mang lại sự hoà hoãn cho cuộc chiến.

Quả đúng là vậy, bà đã làm được. Bà đã khiến cho cuộc chiến thành một thứ có vẻ như là một công việc dọn dẹp nào đó, chìa ra cho chúng một khoảng thời gian để làm lý do kết thúc cuộc chiến.

Mắt cả hai cậu bé ánh lên vẻ muốn rút lui. Rồi Zane quay sang phía Sooner, đôi mắt màu xanh bình tĩnh của cậu hơi sưng. “Một cú nữa thôi,” cậu nói dứt khoát, và tung một cú đấm vào mặt Sooner. Sooner chống tay đứng dậy, và tung một cú trả đòn.

Zane đứng dậy, phủi phủi những đám bụi trên người và giơ tay ra. Sooner nắm lấy, dẫu cho cả hai cậu đều nhăn mặt vì những khớp ngón tay đau nhờ. Cả hai bắt tay nhau, hai cặp mắt nhìn nhau hoà hoãn, và rồi quay vào nhà để tắm táp. Rốt cuộc bữa tối đã gần như được dọn hết lên bàn rồi.

Sau bữa tối, Mary nói với Sooner rằng việc nhận nuôi đã được bật đèn xanh. Đôi mắt màu nâu lục nhạt của cậu sáng lên trên khuôn mặt sưng méo của cậu, nhưng cậu không nói gì cả.

“Anh bây giờ đã là một Mackenzie rồi.” Maris tuyên bố một cách cực kỳ hài lòng. “Anh sẽ phải có một cái tên thực sự, bởi vậy chọn đi nào.”

Cô bé không hề nghĩ rằng việc chọn tên cần phải suy nghĩ cẩn thận nhưng Sooner cũng không nghĩ lâu la, cậu nhìn một vòng quanh bàn, nhìn cả gia đình một cảm giác may mắn rõ ràng tràn ngập tâm trí cậu, và một nụ cười nhăn nhó nở trên khuôn mặt đầy vết bầm tím của cậu. “Chance,” cậu nói, và cậu bé không gia đình không tên tuổi trở thành Chance Mackenzie.

Zane và Chance không ngay lập tức trở thành bạn thân sau cuộc chiến. Thay vì vậy, cái mà cả hai tìm thấy là sự tôn trọng lẫn nhau, tình bạn tiến triển từ từ. Những năm sau đó, cả hai trở thành những người bạn cực kỳ thân thiết, dính chặt lấy nhau cứ như là hai anh em sinh đôi vậy. Còn có một số cuộc chiến nữa giữa hai cậu nhưng có một lời đồn đại được biết đến nhiều ở Ruth, Wyoming, rằng nếu như có ai đó quyết định gây chiến với một trong hai cậu bé, thì sẽ thấy rằng mình phải đối mặt với cả hai cậu, nhưng nhờ ơn chúa chẳng ai có cái gan đó cả.

Họ cùng nhau ra nhập Hải quân, Zane trở thành một SEAL, trong khi Chane vào Tình báo hải quân.

Chance đã rời khỏi hải quân, và hiện tại anh làm một việc tối mật, trong khi Zane là đội trưởng của SEAL.

Và đó chính là lý do sự bồn chồn lo lắng của Wolf. Zane.

Có rất nhiều lần trong sự nghiệp của Zane khi mà không thể nào liên lạc được với anh, không thể biết anh ở đâu, chẳng biết anh đang làm gì. Và chẳng lần nào trong số đó Wolf có thể ngủ yên được. Ông biết rất rõ về SEAL, đã tiếp xúc với một số họ ở Việt Nam. Họ được huấn luyện cực kỳ nghiêm ngặt, được huấn luyện những kỹ năng biệt kích đặc biệt, sự chịu đựng và tính đồng đội của họ được thử nghiệm qua những bài kiểm tra cực kỳ khắc nghiệt không giành cho những người yếu đuối. Zane đặc biệt phù hợp với loại công việc này, nhưng dù sao đi nữa SEAL cũng là con người. Họ có thể bị giết. Và đặc biệt là do tính chất đặc biệt của công việc họ làm, họ thường xuyên bị đặt vào tình trạng nguy hiểm.

Những huấn luyện đặc biệt của SEAL chỉ làm nổi bật lên những mặt tự nhiên đã sẵn có của Zane. Anh được mài dũa thành một cỗ máy chiến đấu hoàn hảo, một chiến binh có thể hoạt động ở mọi tình huống, nhưng chủ yếu sử dụng đầu óc nhiều hơn cơ bắp. Anh bây giờ còn nguy hiểm và đáng sợ hơn rất nhiều, nhưng anh đã học cách để hạn chế biểu hiện điều đó ra ngoài một cách dễ dàng, nên hầu hết mọi người đều không nhận thức được là mình đang đối mặt với một người đàn ông có thể giết chết họ theo hàng tá cách khác nhau chỉ bằng tay không. Qua rèn luyện, Zane đã học cách khống chế bản thân. Trong tất cả các con của Wolf, Zane là người có khả năng tự chăm sóc bản thân nhất, nhưng anh cũng là người luôn gặp nguy hiểm nhất. Không biết giờ này thằng con ấy của ông đang ở đâu?

Có tiếng thì thầm nhỏ phát ra từ giường, Wolf quay lại và nhìn thấy Mary tuột khỏi giường, tiến về phía ông. Bà vòng tay quanh thắt lưng gọn gàng của ông và tựa đầu vào bộ ngực trần của ông.

“Zane?” bà hỏi nhẹ nhàng, trong bóng tối tĩnh mịch.

“Đúng.” Sự giải thích là không cần thiết.

“Nó không sao đâu mà,” bà nói với sự tự tin của một người mẹ. “Nếu nó có sao thì em phải biết chứ.”

Wolf nâng cằm bà lên và hôn nhẹ lên môi bà, rồi đột nhiên cái hôn sâu hơn, nồng nàn hơn. Ông xoay người bà lại ôm chặt lấy bà, ông cảm nhận được bà run rẩy khi bà tựa mình vào ông, ôm chặt lấy ông. Sự đam mê, say đắm giữa họ xuất hiện ngay từ lần đầu tiên gặp nhau, qua bao nhiêu năm tháng vẫn không hề thay đổi.

Ông bế bà lên trong vòng tay ông và đưa bà về phía giường, chìm đắm trong sự ấm áp, mời gọi từ thân thể mềm mại. Khi đam mê dịu lại, mệt mỏi nằm yên, ông hướng mặt ra cửa sổ. Trước khi giấc ngủ ập đến, ông lại một lần nữa nghĩ, “Zane đang ở đâu?”

Zane Mackenzie chẳng vui vẻ chút nào.

Không ai trên cái hàng không mẫu hạng USS Montgomery này sung sướng cả; à, có lẽ mấy người đầu bếp thì có thể, nhưng ngay cả điều đó cũng không chắc chắn, bởi vì tất cả những người mà họ phục vụ đều mặt mày sưng sỉa, lo lắng. Đám thuỷ thủ không hề sung sướng, đám radar cũng không sung sướng gì, đám pháo thủ không sung sướng gì, đám lính thuỷ đánh bộ cũng vậy. Trung uý không quân không sung sướng, đám phi công cũng không sung sướng gì. Chỉ huy phó hải quân không sung sướng gì, đại tá Udaka lại càng chẳng sung sướng gì.

Tổng hợp tất cả nỗi buồn của 5000 thủy thủ trên tàu cũng không thể nào sánh được với nỗi tức giận của Thiếu tá hải quân Mackenzie.

Đại tá hơn hẳn cấp bậc so với anh. Người chỉ huy phó cũng có cấp bậc cao hơn anh. Thiếu tá Mackenzie có thể nói chuyện với họ bằng tất cả sự kính trọng mà cập bậc của họ yêu cầu, nhưng cả hai người đó chắc chắn đều khó chịu nhận ra rằng đám người ngu độn của họ đã làm gì và sự nghiệp của họ đang lung lay. Thực ra thì sự nghiệp của họ có lẽ đã rơi tõm vào cái bồn cầu rồi rồi. Có thể sẽ không có phiên toà nào, nhưng chắc chắn sẽ không có sự cất nhắc nào nữa cả và quyền chỉ huy của họ từ bây giờ sẽ không còn được tôn trọng nữa cho đến khi họ về hưu hoặc là từ chức, sự lựa chọn của họ không còn nhiều.

Khuôn mặt mặt vuông vắn và vui vẻ của đại tá Udaka luôn có vẻ dễ dãi, nhưng bây giờ cau có khi gặp đôi mắt lạnh lẽo của Thiếu tá Mackenzie. Đám SEAL nói chung là luôn khiến vị đại tá phải lo lắng, bồn chồn; ông ta chẳng bao giờ dám tin tưởng họ, cũng như chẳng bao giờ có thể đoán trước hành động của họ. Tình huống hiện tại lại càng khiến ông cực kỳ muốn nhanh chóng biến đi đâu đó – bất kỳ đâu cũng được.

Đại tá đã từng gặp Mackenzie trước đây, khi cả ông và người trợ lý Boyd, báo cáo tóm tắt về tiến trình thực hiện cuộc tập trận về an ninh. Đội SEAL dưới sự chỉ huy của Mackenzie sẽ có nhiệm vụ khoan thủng bức tường an ninh của tàu, phát hiện và chỉ ra những điểm yếu có thể bị khai thác bởi một nhóm khủng bố nào đó. Đây là kiểu tập trận đã từng được dàn dựng bởi đội SEAL Six Red Cell, cực kỳ khét tiếng và đã đi quá xa so với những quy tắc chung nên đã bị giải tán sau bảy năm hoạt động. Tuy nhiên, khái niệm thì vẫn sống và đã được khống chế nhiều hơn. Đội SEAL 6 là một đội thực hiện cách hành động tiêu diệt khủng bố đặc biệt, và là một trong những đội chống khủng bố giỏi nhất bằng cách ngăn chặn khủng bố từ khi còn trứng nước, chứ không để đến khi có người chết. Theo như kịch bản, sự sắp đặt an ninh của hải quân và các nhóm chiến đấu của tàu được thử nghiệm bởi những thành viên của SEAL, những người được tiến cử đến thay đổi và sửa chữa những điểm yếu mà họ khám phá ra. Luôn luôn có những điểm yếu, những điểm dễ bị tấn công.

Tại buổi họp mặt, Mackenzie cực kỳ tách biệt nhưng dễ chịu. Hoàn toàn tự chủ. Phần lớn SEAL đều dữ dội và hoang dã, nhưng Mackenzie có vẻ như một lính hải quân đúng chuẩn mực, hoàn hảo như trên poster tuyển quân vậy, cách đối sự lịch thiệp, điềm tĩnh và dứt khoát. Đại tá cảm thấy thoái mái, rõ ràng là thiếu tá Mackenzie là một chỉ huy điển hình hơn là một phần của đám khốn kiếp hoang dã SEAL đó.

Nhưng ông ta đã nhầm, hoàn toàn nhầm.

Sự nhã nhặn, lịch sự và sự điềm tĩnh, kiềm chế vẫn còn đó. Bộ quân phục màu trắng hoàn hảo như lần trước. Nhưng hoàn toàn chẳng còn chút nào dễ chịu trong cái giọng nói trầm trầm đó hoặc là trong cái nhìn giận dữ, lạnh lẽo phát ra từ đôi mắt màu xanh đó, chúng sắc như dao. Cái mùi của nguy hiểm phát ra từ anh ta cực kỳ khủng khiếp gần như là có thể sờ thấy được và đại tá Udaka biết rằng mình ẫ lầm một cách nghiêm trọng khi đánh giá Mackenzie. Đây chẳng phải đùa, ở gần người đàn ông này thì những người khác thực sự phải cố bước sao cho nhẹ nhàng, không tiếng động. Đại tá cảm giác như thể da ông bị lột ra khỏi cơ thể, chỉ bằng đôi mắt màu xanh lạnh lùng đó. Ông cũng chưa bao giờ cảm thấy gần cái chết như lúc này khi mà Mackenzie bước vào phòng của ông sau khi biết được mọi việc vừa xảy ra.

“Đại tá, ông đã tóm tắt cuộc tập trận này rồi,” Zane nói lạnh lùng. “Và mọi người trên cái thuyền này đã được cảnh báo trước, cũng như được thông báo rằng người của tôi sẽ không mang theo bất cứ vũ khí nào. Vậy, hãy giải thích đi, giải thích có chuyện khốn khiếp gì xảy ra mà khiến cho hai người của tôi bị bắn.”

Người trợ lý, ông Boyd, nhìn xuống bàn tay. Cổ áo của đại tá Udaka đột nhiên chặt lại, cho dù đã được mở hết cúc, và đó chính là do cái nhìn từ đôi mắt của Mackenzie.

“Điều này không có lý do nào có thể bào chữa được. Có thể đám lính gác bị giật mình và bắn mà không nghĩ gì cả. Có thể là lòng tự tôn, trượng phu ngu ngốc muốn chỉ cho đám SEAL thấy rằng họ không thể xâm nhập được vào hệ thống an ninh của chúng tôi. Dù sao thì cũng chẳng quan trọng nữa. Không thể nào sửa chữa được nữa.” Mọi việc xảy ra trên thuyền do ông chỉ huy, là trách nhiệm của ông. Đám lính gác hiếu chiến đó sẽ phải trả giá vì lỗi của họ và ông cũng vậy.

“Người của tôi thực tế đã xâm nhập được vào hệ thống an ninh của các ông.” Zane nói một cách nhẹ nhàng, nhưng giọng nói của anh làm tóc gáy của ông đại tá dựng đứng cả lên.

“Tôi nhận thức rõ điều đó.” Lỗ thủng trong hệ thống an ninh trên thuyền như muối xát thêm vào vết thương của ông đại tá, nhưng không có gì có thể so sánh được với lỗi lầm khủng khiếp đã xảy ra khi mà những người dưới sự chỉ huy của ông bắn vào đám SEAL không có vũ khí. Người của ông, trách nhiệm của ông. Nhưng điều đó cũng chẳng thấm vào đâu so với việc, sau khi hai người trong đội bị bắn, những người còn lại của SEAL, không hề trang bị vũ khí, đã nhanh chóng kiểm soát hoàn toàn thế trận và khống chế hoàn toàn khu vực đó. Nói một cách rõ ràng hơn, là những người lính gác đã bắn hoàn toàn bị khống chế và hiện tại bị thương chẳng khác gì hai người mà họ bắn. Nói “hoàn toàn bị khống chế” là nói trại đi việc đám SEAL đánh cho người của ông chẳng còn ra hồn người nữa.

Một trong hai người của SEAL bị nặng nhất là Đại uý Higgins, nhận một viên vào ngực, đã được đưa đi bằng máy bay đến Đức ngay sau khi được băng bó. Người khác, Chuẩn uý Odessa, bị bắn vào chân, viên đạn làm vỡ xương đùi của anh ta. Anh ta cũng được đưa đến Đức, nhưng tình trạng của anh ta ổn định, mặc dù tâm trạng của anh ta thì không. Bác sĩ của tàu đã phải cho anh ta thuốc ngủ để giữ cho anh ta không đi báo thù đám người bắn anh ta, những người hầu như méo mó chẳng còn nguyên vẹn, hai trong số đó vẫn đang còn bất tỉnh.

Năm người còn lại của nhóm SEAL đã hoàn thành sứ mệnh, thì đang đi lại lảng vảng như hổ dữ đi kiếm người nào đó chịu đòn để cảm thấy khá hơn. Họ bị giới hạn trong một khu vực dưới lệnh của Mackenzie, còn đám thủy thủ trên tàu thì trốn sạch, tránh xa họ. Đại ta ước gì mình cũng làm như vậy được với Mackenzie. ông có cảm tưởng rằng sự tàn bạo khủng khiếp đang bị che dấu dưới vỏ bọc điềm tĩnh của con người này. Đây là sự trả giá khủng khiếp nhất cho một đêm khốn nạn của ông.

Điện thoại trên bàn ông kêu lên. Mặc dù ông mừng vì bị cắt ngang, nhưng cũng giật lấy máy và hét, “Tôi ra lệnh là không bị…” ông chợt dừng lại, lắng nghe và vẻ mặt thay đổi. Mắt của ông thoáng nhìn Mackenzie. “Chúng tôi sẽ đến.” ông nói và ngắt máy.

“Có một tín hiệu vệ tinh được chuyển cho cậu,” ông ta nói, và đứng dậy. “Khẩn cấp.” Chẳng cần biết có nội dung gì trong đó, Đại tá Udaka cũng cực kỳ hài lòng vì sự cứu nguy này.

Zane lắng nghe chăm chú chỉ thị, đầu óc của anh bắt đầu hoạt động khi anh bắt đầu lên kế hoạch cẩn thận cho nhiệm vụ. “Đội của tôi có hai người bị bắn, thưa ngài.” Anh nói, “Higgins và Odessa bị thương trong một cuộc tập trận an ninh.” Anh không nói vì sao họ bị thương, việc đó sẽ được giải quyết trong một lúc khác.

“Khốn kiếp,” Chỉ huy Lindley lầm bầm. Ông ta đang ở trong văn phòng của đại sứ Mỹ tại Athens. Ông ta nhìn lên những người khác trong văn phòng: Đại sứ Lovejoy, một người cao và gày gò, với vẻ mịn màng của người người chuyên sống trong đặc ân và sự giàu có, mặc dù vậy vẻ mặt ông ta kinh hoàng và ảm đạm; chỉ huy CIA địa phương, Art Sandefer, một người đàn ông khó tả với mái tóc màu xám và đôi mắt thông minh nhưng mệt mỏi, và cuối cùng là, Mack Prewett, người đứng thứ hai sau Sandefer của CIA địa phương. Mack được biết đến như là Mack – Lưỡi dao; Chỉ huy Lindley biết rằng Mack được nhắc đến chung chung là một người đàn ông luôn hoàn thành mọi việc, một người đàn ông nguy hiểm. Dù anh ta kiên định kinh khủng, nhưng anh ta cũng không phải là một gã cao bồi người gây nguy hiểm cho người khác bằng cách tỏ vẻ ta đây. Tính cẩn trọng của anh ta cũng ngang bằng với tính kiên định, và cũng nhờ những mối liên lạc của anh ta mà họ đã đạt được những thông tin mau lẹ về trường hợp này.

Vị chỉ huy để Zane ở trên loa, nên tất cả mọi người ở trong phòng đều nghe thấy tin xấu về đội SEAL là niềm hy vọng cuối cùng của họ. Đại sứ Lovejoy nhìn càng tan tác hơn, “Vậy thì chúng ta phải tìm đội khác thôi,” Art Sandefer nói. “Điều đó mất quá nhiều thời gian.” đại sứ nói đầy kích động. “Ôi chúa ơi, lỡ như con gái tôi…” Ông ta dừng lại, sự đau đớn hiện lên trên khuôn mặt ông. Ông ta không thể nói hết câu.

“Tôi sẽ dẫn đội đi nhiệm vụ này.” Zane nói. Giọng nói của anh vang lên rõ ràng trong căn phòng cách âm. “Chúng tôi ở gần nhất, và chúng tôi có thể sẵn sàng trong một giờ nữa.”

“Cậu?” giật mình, vị chỉ huy hỏi. “Zane, cậu đã không tham gia cách hành động thực chiến từ khi…”

“Từ lần thăng tiến cuối cùng của tôi,” Zane kết thúc khô khan. Anh không hề thích công việc làm một người chỉ huy cao cấp chút nào cả và anh đang cực kỳ nghiêm túc trong việc cân nhắc từ chức. Anh đã 31, và có vẻ như bắt đầu xuất hiện dấu hiệu cho thấy chính sự thành công của anh trong lĩnh vực mà mình chọn lại cản trở anh hành động. Sĩ quan cao cấp, theo như họ nói cần phải được hạn chế khỏi những hành động thực chiến, nguy hiểm. Anh đang nghĩ đến việc tham gia vào ngành hành pháp, hoặc có thể là tham gia cùng Chance. Nơi đó thì chẳng bao giờ có hạn chế trong hành động, chắc chắn như vậy.

Tuy vậy, bây giờ, nhiệm vụ tự dưng lại nhảy vào lòng anh và anh sẽ nhận nó.

“Tôi huấn luyện cùng người của tôi, chỉ huy,” anh nói. “Tôi không hề hen gỉ hay thiếu sức khoẻ.”

“Tôi không bao giờ nghĩ cậu như vậy.” Chỉ huy Lindley nói và thở dài. Ông ta gặp cái nhìn đau khổ của đại sứ và đọc thấy lời cầu khẩn giúp đỡ thầm lặng. “Sáu người có thể hoàn thành nhiệm vụ được không?” ông ta hỏi Zane.

“Thưa ngài, tôi không bao giờ mạo hiểm mạng sống của người của tôi nếu tôi không nghĩ là họ có thể hoàn thành công việc.”

Lần này vị chỉ huy đưa mắt nhìn cả Art Sanderfer và Mack Prewett. Biểu hiện của Art không thể nào đọc được, con người tính toán này từ chối dính đầu mình vào việc này, nhưng Mack thì gật đầu đồng ý. Chỉ huy Lindley cân nhắc tình thế. Cứ cho là đội SEAL có thiếu mất hai thành viên, và chỉ huy là một sĩ quan đã không còn thực hiện các nhiệm vụ thực chiến hơn một năm nay, nhưng mà sĩ quan đó là Zane Mackenzie. Mọi việc đều có thể xem xét, vị chỉ huy không thể nghĩ được một người nào mà ông có thể cân nhắc thực hiện nhiệm vụ này tốt hơn. Ông biết Zane đã nhiều năm rồi, và chẳng có chiến binh nào tốt hơn anh, và chẳng ai ông có thể tin tưởng hơn anh. Nếu Zane nói anh sẵn sàng thì chắc chắn anh đã sẵn sàng. “Được rồi. Hãy hành động đi và cứu cô ấy ra.”

Khi chỉ huy ngắt máy, vị đại sứ bật lên nói, “Tại sao ông không gửi người khác đi? Tính mạng của con gái tôi đang bị lâm nguy. Người đàn ông đó lâu đã không hành động rồi.”

“Đợi cho đến khi chúng ta có thể tìm được một đội khác thì cơ hội tìm thấy con gái ông bị giảm đi rất nhiều.” vị chỉ huy cố gắng nói nhẹ nhàng, lịch sự nhất có thể. Đại sứ Lindley không phải là loại người mà ông yêu thích. Có thể nói ông ta là loại người trưởng giả, cao ngạo khốn kiếp nhưng không nghi ngờ gì về việc ông ta yêu mến con gái mình, “Và một khi có Zane Mackenzie dính líu vào thì có thể nói là không có ai tốt hơn anh ta trong việc này.”

“Chỉ huy nói đúng đấy,” Mack Prewett nói ngắn gọn. “Mackenzie cực kỳ giỏi trong loại việc này, anh ta hầu như là một huyền thoại. Tôi còn có thể cảm thấy thoải mái về việc gửi anh ta đi một mình. Nếu ông muốn con gái mình trở về nguyên vẹn thì đừng có cản trở anh ta.”

Đại sứ vò đầu, một cử chỉ cực kỳ xa lạ đối với một người kiểu cách như ông ta, điều đó thể hiện rõ mức độ lo lắng của ông ta, “Nếu có việc gì đó không đúng xảy ra…”

Không rõ rằng ông ta định cất lời đe dọa hay chỉ đơn giản là lo lăng mà thốt nên lời, nhưng ông ta không thể hoàn tất câu nói. Mack Prewett cười mỉm. “Mọi việc điều có thể xảy ra hết. Và nếu có ai đó có thể giải quyết được thì đó là Mackenzie.”

Zane tắt thiết bị truyền tin và đi về phía đội của mình. Anh đã cảm thấy tràn đầy năng lượng trên khắp cơ thể khi anh bắt đầu chuẩn bị, cả về tinh thần và thể xác cho công việc trước mắt. Khi anh bước vào phòng với những tấm bản đồ, hải đồ và những thiết bị liên lạc, thì quanh một cái bàn dài năm gương mặt hầm hầm ngay lập tức quay lại nhìn anh.

Chỉ có một mình Santos là đang ngồi cạnh bàn, nhưng Santos là cứu thương của cả đội, và anh ta thường là người điềm tĩnh nhất trong cả đám. Thiếu uý hải quân Peter “Rocky” Greenberg, chỉ huy thứ hai của đội, một người bản tính cẩn thận và kiềm chế, đang tựa người vào vách tường, tay vòng quanh ngực và đôi mắt nâu ánh lên vẻ chết người. Antonio Withrock, hay gọi là Bunny bởi vì anh ta dường như không bao giờ cạn năng lượng thì đang đi đi lại lại như một con hổ đói vậy. Paul Drexler, người bắn tỉa của đội thì đang ngồi hẳn trên bàn trong khi lau về dầu một cách âu yếm khẩu súng Remington 7.62 yêu dấu của mình. Zane không hề sửng sốt vì cảnh này. Đám người của anh được cho là không mang súng nhưng bắt Drexler không mang súng là một chuyện hoàn toàn khác.

“Định làm cỏ cả con tàu này hả?” Zane hỏi người bắn tỉa.

Đôi mắt xanh của anh ta lạnh lùng ánh lên, Drexler gục gặc cái đầu như cân nhắc ý kiến này, “Có thể lắm chứ.”

Winstead “Spooky” Jones ngồi ngay trên sàn nhà, lưng tựa vào tường, nhưng ngay khi Zane bước vào anh ta nhanh nhẹn đứng dậy. Anh ta không nói gì cả nhưng nhìn lướt qua gương mặt Zane và sự quan tâm loé lên nhường chỗ cho sự giận dữ trong mắt anh ta.

Spook thường không bỏ lỡ việc gì cả, và các thành viên khác trong đội có thói quen quan sát anh ta, dự đoán tình hình thông qua những tín hiệu từ cơ thể của anh ta. Không đầy ba giây toàn bộ năm người đều hoàn toàn tập trung quan sát Zane.

Greenberg là người đầu tiên cất tiếng hỏi. “Bobcat thế nào rồi, sếp?”

Họ đọc thấy sự căng thẳng của Spooky nhưng đã hiểu lầm nguy nhân, Zane nhận thấy vậy. Họ nghĩ Higgins chết vì vết thương. Drexler ngay lập tức bắt đầu lắp ráp khẩu súng trường của anh ta với sự nhanh nhạy, chính xác cực kỳ. “Cậu ấy ổn định rồi.” Zane trấn an họ. Anh hiểu rõ người của mình, hiểu rõ họ gắn bó với nhau như thế nào. Một đội SEAL luôn luôn gắn bó chặt chẽ với nhau. Họ tin tưởng lẫn nhau, điều đó là hoàn toàn rõ ràng, và có điều gì đó xảy ra đối với một trong bọn họ thì tất cả mọi người khác đều cảm nhận được. “Họ đã được chuyển đi rồi. Sẽ khó khăn nhưng tôi đánh cực là Bobcat sẽ qua thôi. Odie cũng sẽ không sao.” Anh bước đến ngồi lên cạnh bàn, đôi mắt của anh sáng rực làm cho Spooky chú ý. “Nghe đây, các cậu bé. Con gái của một đại sứ bị bắt cóc vài giờ trước và chúng ta sẽ đi Libya để cứu cô ta.”

Sáu con người trong những bộ đồ đen len lỏi trong những con phố trật hẹp, hoang vắng của Benghazi, Libya. Họ liên lạc bằng những tín hiệu tay, hoặc là bằng cách thì thầm vào những bộ điện đài của Motorola mà tất cả bọn họ đều đeo bên dưới bộ mũ trùm đầu đen kịt chỉ hở hai con mắt. Zane đang trong tâm trạng cực kỳ tập trung; anh hoàn toàn bình tĩnh khi họ tiến từng bước một về phía ngôi nhà đá bốn tầng nơi mà Barrie Lovejoy bị giam giữ ở tầng trên cùng, nếu tình báo của họ là đứng và nếu cô chưa bị di chuyển đi nơi khác trong vòng mấy giờ qua.

Hành động luôn luôn tác động đến anh theo cách này, như thể là mỗi phân trên cơ thể anh được tạo ra chỉ để hành động. Anh thấy thiếu cảm giác này, và anh biết rằng anh sẽ không ở lại Hải quân mà không có cảm giác này. Khi hành động, mọi giác quan của anh đều trở nên sắc bén hơn, thậm chí sự điềm tĩnh còn toả ra cả bên ngoài. Nhiệm vụ càng khó khăn anh lại càng điềm tĩnh. Thời gian như bị kéo chậm lại vậy, anh có thể nghe và nhìn mọi chi tiết, phân tích và dự đoán kết quả, rồi quyết định và hành động – tất cả chỉ diễn ra trong vài giây mà có cảm tưởng như vài phút vậy. Adrenaline tràn ngập khắp cơ thể anh – anh có thể cảm nhận được máu chảy trong huyết quản, nhưng tâm trí, đầu óc của anh hoàn toàn bình tĩnh và tách biệt. Anh đã từng được nói cho nghe rằng nhìn mặt anh lúc đó cực kỳ lạnh nhạt, hoàn toàn chẳng có cảm xúc gì cả.

Cả đội di chuyển hoàn toàn yên lặng. Mỗi người bọn họ đều biết phải làm gì và cũng biết người khác sẽ làm gì. Đó chính là mục đích của sự tin tưởng và tình đồng đội đã được rèn lên con người họ trong suốt 26 tuần địa ngục thường được gọi là cuộc huấn luyện BUD/S. Sự gắn kết giữa họ làm cho việc họ làm việc cùng nhau sẽ đạt hiệu quả hơn nhiều nếu riêng rẽ từng người. Tình đồng đội không chỉ là một từ để miêu tả SEAL mà nó chính là tâm điểm của họ.

Spooky Jones là người dẫn đường. Zane thích sử dụng cậu trai miền nam dẻo dai này vào công việc dẫn đường vì anh ta cực kỳ táo gan và có thể đi lại nhanh nhẹn thoát ân thoát hiện như loài linh miêu vậy. Bunny Withrock, người có thần kinh phải xạ cực kỳ nhanh nhay bọc hậu. Chẳng ai có thể lẻn đằng sau lưng Bunny – trừ Spook. Zane ở ngay sau Jones, cùng với Drexler, Greenberg và Santos. Greenberg là người điềm tĩnh, chắc chắn và hoàn toàn có thể tin cậy được. Drexler thì cực kỳ giỏi với khẩu súng trường và Santos ngoài việc là một SEAL hoàn hảo, còn có khả năng hỗ trợ chắp vá rất tốt, giữ cho họ tiến đi hoàn hảo. phải nói rằng Zane chưa bao giờ làm việc với nhóm nào tốt hơn thế này.

Sự hiện diện của họ ở Benghazi tương đối may mắn và Zane biết điều đó. Tốt cho chọ và cũng tốt cho cô Lovejoy, nhưng không tốt cho đám khủng bố đã bắt cóc cô ta ngay trên đường phố Athens 15 giờ trước. Nếu Montgomery không phải chỉ là miền nam của Crete và không phải là vị trí tuyệt vời để khởi đầu cho một công cuộc giải cứu, nếu đội SEAL của Zane không ở trên chiến hạm để tập trận thì chắc chắn sẽ có sự trì hoãn hàng giờ nữa, thậm chí có thể hàng nhiều ngày nữa, trong khi một đội khác chuẩn bị vũ khí và vào vị trí.

Cô Lovejoy không chỉ là con gái của đại sứ, cô ta cũng là nhân viên của đại sứ quán, vị đại sứ này hình như có vẻ rất nghiêm ngặt và ám ánh về cô con gái này, mất vợ và con trai trong một cuộc tấn công khủng bố ở Rome 15 năm trước, khi cô Lovejoy này chỉ mới là một đứa trẻ mười tuổi. Sau đó, ông ta luôn luôn giữ cô ta tránh xa mọi thứ trong những trường nội trú tư thục, và ngay khi cô tốt nghiệp đại học, cô hành xử như bà chủ tiệc của ông ta cũng như tham dự vào công việc của sứ quán. Zane cho là công việc của cô ta chắc chỉ là bình hoa trưng bày hơn là làm việc thực sự. Cô ta chắc chưa bao giờ thực sự làm việc trong cuộc đời, chưa bao giờ ra khỏi đôi cánh bảo vệ của người cha cho đến hôm nay.

Cô ta và bạn rời đại sứ quán đi mua sắm. Ba người đàn ông túm lấy cô ta, kéo vào xe và lái đi. người bạn lập tức báo về vụ bắt cóc. Bất chấp nỗ lực kiểm tra các cửa khẩu an ninh và hàng không, Zane nghi ngờ là có sự nhúng tay của một số người có quyền hành ở Hy Lạp, một máy bay tư nhân đã cất cánh khỏi Athens và bay thẳng đến Benghazin.

Nhờ hành động mau lẹ của người bạn, những nguồn tin ở Banghazi đã được cảnh báo. Và đã có một xác nhận rằng có một người phụ nữ trẻ trông giống như miêu tả về cô Lovejoy được đưa ra khỏi một máy bay và ngay lập tức được đưa vào thành phố, vào ngôi nhà mà giờ đây Zane và đồng đội đang chuẩn bị thâm nhập vào.

Đó chắc chắn phải là cô ta. Chẳng có nhiều người phụ nữ phương tây tóc đó rực như thế ở quanh đây.

Đó phải là cô ấy, không có nhiều phụ nữ phương tây tóc đỏ ở Benghazi. Thật sự, anh có thể cược là chỉ có một – Barrie Lovejoy.

Họ đang đánh cược cả cuộc đời cô vào đó.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.