Long Phụng Bảo Thoa Duyên

Chương 39: Hiệp nghĩa có lòng tha bại khấu - Nữ ma chưởng lực hãi phàm phu



Trong lúc ngàn cân treo sợi tóc, đột nhiên khoái mã của Sử Triêu Anh xông đến, nàng chặn lấy bảo kiếm của Đoàn Khắc Tà, run giọng gấp gáp kêu lên:

“Hay lắm, Đoàn Khắc Tà, ngươi, ngươi giết ta đi!”

Võ công của Đoàn Khắc Tà cao hơn Sử Triêu Anh gấp bội, trong tay lại đang cầm bảo kiếm chém sắt như cắt bùn, chàng chỉ cần dùng lực nhẹ là chẳng những có thể chém gãy thanh Cương kiếm của Sử Triêu Anh mà còn có thể khiến nàng trọng thương. Nhưng khi ánh mắt của hai người chạm nhau, Đoàn Khắc Tà thấy bộ dạng của sử chiêu anh như “lê hoa đái vũ” [1] thì lại không khỏi có mấy phần thương xót, một kiếm này đúng là không thể chém xuống được.

Mưu Thế Kiệt được cơ hội thở dốc một hơi, trở tay một kiếm đánh bạt binh khí của Đoàn Khắc Tà ra. Y liền quay ngựa đi liền, Sử Triêu Anh cũng đuổi theo, thấp giọng nói:

“Thế Kiệt, giữ được rừng xanh, lo gì thiếu củi đốt!”

Mưu Thế Kiệt vốn trong lòng tràn ngập cảm giác thê lương của anh hùng mạt lộ, những muốn liều mạng sa trường, nhưng lúc này thấy Sử Triêu Anh vẫn theo bên mình, lại còn ôn nhu khuyên bảo thì không khỏi “Anh hùng khí đoản, nhi nữ tình trường”, nghĩ bụng, “Không sai, giữa được rừng xanh, lo gì thiếu củi đốt? Triêu Anh nàng còn nguyện ý hoạn nạn có nhau, đại trượng phu sao có thể không bảo hộ thê tử được!” Y thật tình không biết rằng Sử Triêu Anh cũng bị bức vào tình thế như vậy, nàng biết rõ Đoàn Khắc Tà đối với nàng căm ghét vô cùng, nàng ngoại trừ đồng sinh cộng tử với Mưu Thế Kiệt ra thì còn có đường nào mà đi? Mưu Thế Kiệt hú dài một tiếng, tám thị giả Phù Tang đảo đều phi tới vây xung quanh y. Phương Ích Phù, Sử Nhược Mai mấy người đang muốn đuổi theo, Đoàn Khắc Tà vung lệnh kỳ lên bảo:

“Chúng ta không thể làm trái lời hứa được, Mưu Thế Kiệt bây giờ đã chạy trối chết, vậy cho bọn họ đi thôi!”

Phương Ích Phù chỉ đành nghe theo, dừng ngựa lại, nhóm người Mưu Thế Kiệt cấp tốc theo cốc khẩu quan quân đã triệt khai phong tỏa mà lao ra.

Sử Nhược Mai nói:

“Đáng tiếc, đáng tiếc! Khắc Tà, huynh sao lại bỏ lỡ cơ hội báo thù vậy”.

Đoàn Khắc Tà chỉ sợ Sử Nhược Mai khí lượng hẹp hỏi, sẽ trách chàng cố niệm tình xưa, bây giờ nghe thấy Sử Nhược Mai không hề đề cập đến danh tự Sử Triêu Anh mà chỉ tiếc hận là chàng đã không nhân cơ hội này trả thù Mưu Thế Kiệt, lúc này chàng mới thở phào nhẹ nhõm, bảo rằng:

“Báo thù là chuyện nhỏ, thủ tín mới là chuyện lớn, quân lệnh đã ban ra, vậy thì không thể chỉ không áp dụng riêng với Mưu Thế Kiệt mà làm được. Huống hồ ý của Thiết đại ca cũng là không muốn dồn Mưu Thế Kiệt vào chỗ chết”.

Niếp Ẩn Nương cũng bảo:

“Quân lệnh này hạ xuống rất đúng, óg thể giảm thiểu thương vong vô tội của song phương. Khắc Tà, ta thực sự không ngờ cha ta lại nghe lời đệ”.

Niếp Ẩn Nương hiểu biết nhìn xa trông rộng, Sử Nhược Mai nghe nàng giải thích xong thì tức giận trong lòng cũng tự tiêu mất, nàng cười bảo:

“Muội không hiểu được đạo lý này, chỉ bất quá là tức giận Mưu Thế Kiệt đó”.

Niếp Phong hạ lệnh kêu bộ hạ đi thanh lý chiến trường, sau đó chỉnh đốn quân đội, thống kê thương vong bên mình. Y điều hết tả hữu ra ngoài soái trướng, lúc đó mới tiếp kiến mấy người Đoàn Khắc Tà. Y đánh một trận đại thắng, nhưng thần sắc lại buồn bã không có chút vui mừng nào.

Niếp Ẩn Nương nói:

“Phụ thân, con đã trở lại”.

Niếp Phong mắng:

“Nha đầu ngươi, sao dám nói dối trước mặt phụ thân? Nói là về nhà thăm mẫu thân, sao lại tự tiện đến Thổ Cốc Bảo!”

Sử Nhược Mai cười nói:

“Ẩn Nương tỷ tỷ đi chuyến này cũng có chỗ rất tốt, tỷ ấy đã thám thính được quân tình của đối phương, lại lôi kéo được một nữ tướng kiêu dũng thủ hạ của Mưu Thế Kiệt, vị nữ tướng này đối với quan quân đã giúp không ít đó, cô ta sau lại gả cho Vương tử Hề tộc, lần này nếu không phải Thổ vương Hề tộc xuất binh, đuổi Mưu Thế Kiệt ra khỏi Thổ Cốc Bảo, chỉ sợ quan quân cũng không dễ dàng tấn công được. Niếp bá bá, người niệm tình chỗ công lao này của Ẩn Nương tỷ tỷ, mà đừng tránh mắc tỷ ấy nữa”.

Niếp Phong sớm đã từ miệng Phương Ích Phù biết được tao ngộ của Niếp Ẩn Nương, nhẹ nhàng mắng mỏ nữ nhi một trận, nhưng trong lòng lại thập phần thương xót, y nói:

“Lần này may nhờ có Phương hiền điệt dũng cảm, đến Thổ Bảo Cốc để thám thính quân, vừa hay gặp dịp, mới cứu ngươi thoát. Ngươi đã nếm đủ mùi khổ sở chưa? Lần sau không cho phép to gan liều lĩnh như vậy nữa!”

Niếp Ẩn Nương tạ tội rồi nói:

“Chúc mừng phụ thân lần này hoàn toàn không lạm sát mà đã bình định được một tràng đại loạn. Con đang muốn bẩm báo với phụ thân, ngày mai con muốn cùng Mai muội đồng thời trở về phương nam, lần này thực sự là về nhà thăm mẫu thân”.

Niếp Phong thở dài bảo:

“Cũng tốt, con trở về nhà trước. Nói không chừng, không lâu sau ta cũng phải giải giáp quy điền”.

Niếp Ẩn Nương bảo:

“Cha, người đã nửa đời chinh chiến, cũng nên hồi gia dưỡng lão. Sống cuộc sống thanh tĩnh chẳng phải càng tốt hơn sao? Vì sao lại thở dài như vậy?”

Niếp Phong cười khổ rằng:

“Nếu như bình an vô sự về nhà dưỡng lão, thì đó đương nhiên là quá tốt rồi”.

Sử Nhược Mai hỏi:

“Niếp bá bá, người đã lập được đại công như vậy, chẳng lẽ còn sợ triều đình trách phạt hay sao?”

Niếp Phong đáp:

“Chỉ sợ việc hôm nay sẽ có người báo lên triều đình, Hoàng thượng vị tất đã tha tội. Hoàng thượng có tha tội, thì những đồng liêu muốn bài xích ta, bọn họ vị tất đã chịu dễ dàng buông tha ta”.

Niếp Ẩn Nương nói:

“A, nguyên lai là cha chỉ việc để cho Mưu Thế Kiệt chạy thoát, việc này…”

Nàng đang muốn giải thích cho phụ thân, thì Niếp Phong đã bảo:

“Đoàn hiền điệt, ngươi không cần phải suy nghĩ, việc hôm nay, ta còn phải cảm tạ ngươi, là ngươi đã đánh động lòng nhân nghĩa của ta mà giảm thiểu nhiều thương vong, mặc dù ta phạm phải một chút tội, ta dẫu mất chức quan này cũng không oán trách người đâu”.

Đoàn Khắc Tà nói:

“Tướng quân mặc dù đã thả địch nhân. Nhưng đám thuộc hạ của Mưu Thế Kiệt, theo như tiểu điệt thấy, lần này sau khi thoát hiểm, tất sẽ có đến chín phần là không tiếp tục đi theo Mưu Thế Kiệt nữa. Như vậy mối họa đều sẽ không còn, điều này so với việt tru sát toàn bộ bọn họ mà lưu lại mầm mống cừu hận chẳng phải là tốt hơn nhiều lắm sao?”

Niếp Phong mỉm cười bảo:

“Chỉ mong trong triều cũng có người sáng suốt giống như ngươi”.

Phương Ích Phù đột nhiên bước lên mà thưa rằng:

“Niếp tướng quân, đa tạ người đề bạt, hôm nay loạn sự đã được bình định, vị tướng không có lòng làm quan, xin tướng quân chuẩn cho vị tướng hồi hương, xin thứ cho tiểu điệt không thể tiếp tục cầm roi dắt ngựa theo hầu được”.

Niếp Phong lấy làm lạ hỏi:

“Ngươi đang lúc tiền đồ rạng rỡ, vì sao lại có ý định thoái lui?”

Phương Ích Phù đáp:

“Cái này, cái này…”

Niếp Ẩn Nương đã bảo:

“Cha, người bằng lòng cho y đi”.

Niếp Phong đưa mắt nhìn con gái, phảng phất như hiểu ra điều gì liền cười nói:

“Ẩn Nương, con muốn Phương sư đệ đưa con hồi hương phải không? Lần này may mắn là Ích Phù cứu con, con còn chưa đa tạ y lại muốn làm phiền y sao?”

Sử Nhược Mai khúc khích cười bảo rằng:

“Niếp bá bá, cháu thấy là người đang giả hồ đồ đó”.

Niếp Phong hỏi:

“Ta thế nào mà là hồ đồ?”

Sử Nhược Mai đáp:

“Đối với hai người bọn họ, nào còn cần phải một người nói lời đa tạ nữa?”

Niếp Ẩn Nương ửng hồng hai má, cúi đầu e thẹn, Niếp Phong lại ha hả cười nói:

“A, nguyên lai là như vậy, ta thật đúng là hồ đồ rồi, Phương hiền điệt, ta chỉ có duy nhất một con gái, tính tình của Ẩn Nương lại cương cường một chút, mọi chuyện đều là nó tự mình làm chủ, xem ra thiếu mấy phần nhu thuận, ngươi có chê bỏ nó không?”

Sử Nhược Mai cuời nói rằng:

“Ở đâu lại có cái lý phụ thân mang chuyện xấu của con gái ra nói như vậy?”

Phương Ích Phù đối với Niếp Ẩn Nương yêu thương vô cùng, luôn luôn cảm thấy tự ti mặc cảm, mặc dù sau này cũng đã biết sư tỷ đối với mình chưa hẳn là vô tâm, nhưng ý niệm cầu hôn thì lại chưa từng dám nghĩ qua. Lúc này đột nhiên Niếp Phong nói như vậy, rõ ràng là có ý muốn gả con gái cho y, điều này đối với Phương Ích Phù thật vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, y đỏ bừng cả mặt, vô cùng lúng túng, ấp a ấp úng nói:

“Lão bá bá”.

Sử Nhược Mai đã cười bảo rằng:

“Phương sư huynh, huynh cũng thật hồ đồ, còn gọi lão bá bá gì nữa?”

Phương Ích Phù xụp quỳ xuống nói:

“Nhạc phụ đại nhân tại thượng, xin nhận của tiểu tế một lạy. Ẩn Nương tỷ tỷ mọi thứ đều giỏi hơn con, nhạc phụ nói đó chính là chỗ tốt của nàng, chỉ mong có thể được nàng thường xuyên chỉ dạy cho, con chỉ sợ mình không xứng với nàng”.

Phương Ích Phù là người thành thật, trong lòng nghĩ sao liền nói vậy. Đoàn Khắc Tà thì có thể nhịn được, chứ Sử Nhược Mai thì gập cả người cười mà nói:

“A, nguyên lai huynh chẳng nhưng muốn cưới thê tử mà còn muốn thê tử kiêm luôn làm sư phụ. Ẩn Nương tỷ tỷ, chúc mừng, chúc mừng! Tỷ cũng không cần phải lo bị trượng phu khi dễ nữa”.

Niếp Phong cũng vô cùng vui mừng, cố tình trêu chọc con gái một chút, y ha hả cười lớn nói:

“Nói như vậy, Phương hiền điệt không chê tính khí của nói. Ẩn Nương, con thì sao?”

Niếp Ẩn Nương mắc cỡ vô cùng, đỏ bừng cả mặt, biết rõ phụ thân cố tình trêu mình nhưng cũng không thể làm gì khác hơn là quỳ xuống thưa rằng:

“Xin nghe theo chủ ý của phụ thân”.

Niếp Phong ha hả cười lớn, y mỗi tay giữ một người, kéo con gái và nữ tế lại bên cạnh rồi bảo:

“Ích Phù, hai người các con đã tâm đầu ý hợp, ta mang Ẩn Nương giao cho con đó. Trước tiên con đưa nó về nhà, ra mắt nhạc mẫu, sau khi ta hồi triều, nếu có thể giải giáp quy điền thì đó là hay nhất, nếu như không thể, ta cũng cáo già hồi hương, tuyển ngày lành, thành hôn cho các ngươi”.

Niếp Phong được như tâm nguyện, tất cả lo âu rầu rĩ cũng đều tan như mây khói.

Niếp Phong lại bảo:

“Ta đối với công danh lợi lộc cũng đã thấy nhạt nhẽo, Ích Phù, nếu con không muốn làm quan, ta cũng không miễn cưỡng nữa. Khi niên thiếu, ta cũng từng muốn làm một du hiệp. Ích Phù, sau khi con với Ẩn Nương thành thân, các ngươi thích cuộc sống như thế nào, ta đều mặc cho các ngươi”.

Phương Ích Phù sợ nhất là phải sống trong chốn quan trường, nghe thấy nhạc phụ đại nhân thông tình đạt lý như vậy thì mừng rỡ khôn xiết, vội vàng lại cảm tạ.

Đương nói chuyện thì chợt có một viên trung quân [2] tiến vào bẩm báo:

“Vị giang hồ lang trung ngày trước đến cầu kiến tướng quân, muốn thuộc hạ đến bẩm báo, không biết tướng quân có rảnh để tiếp y không?”

Niếp Phong “a” một tiếng rồi nói:

“Ta cơ hồ đã quên mất người này, mau mau mời y lại đây”.

Viên trung quân đang định lui ra thì Niếp Phong bỗng giữ hắn lại hỏi:

“Hôm nay, quan binh bị thương có nhiều hay không?”

Tung quân kia đáp: “Số lượng binh lính bị thương thì thuộc hạ không rõ lắm, xem ra cũng không ít. Tướng lĩnh bị thương chỉ có mười người. Bản lĩnh của viên lang trung kia cũng thật rất khá, bất kỳ ai sau khi được y đắp thuốc thì đều hết đau đớn, mỗi người đều ngủ say. Y bây giờ đang mang kim dược chữa trị trọng thương đến phân phát cho các doanh”.

Niếp Phong bảo:

“Các doanh đều có y quan lo liệu, bất tất phải phiền đến y nữa. Được rồi, ngươi nhanh đến mời y qua đây”.

Sau khi viên trung quân đi, Đoàn Khắc Tà mới hỏi:

“Vị lang trung giang hồ đến từ đâu vậy?”

Niếp Phong cười đáp:

“Ta đang muốn nói cho ngươi đây, người này đúng là đến tìm ngươi đó”.

Đoàn Khắc Tà càng cảm thấy kỳ quái, chàng lại hỏi:

“Người đó là ai? y thế nào lại có đảm lược như vậy, hơn nữa còn biết đến đại doanh của tướng quân để thám thính tin tức tiểu điệt?”

Niếp Phong hạ thấp giọng nói nhỏ:

“Người này không phải ai xa lạ, chính là hảo bằng hữu của phụ thân ngươi khi sinh tiền đó, là Kim Kiếm Thanh Nang Đỗ Bách Anh”.

Đoàn Khắc Tà vừa kinh ngạc vừa hoan hỉ, chàng nói:

“Nguyên lai là Đỗ thúc thúc. Sao thúc ấy lại đến nơi này?”

Niếp Phong đáp:

“Hôm trước trên đường hành quan, tiền tiêu phát hiện một lang trung giang hồ, hoài nghi y là gian tế, liền bắt đến gặp ta. May mắn là ta nhận ra y, hơn nữa y lại nói là đang muốn gặp ta, muốn thăm hỏi tin tức của hiền điệt, cho nên y mới cố tình để cho thuộc hạ của ta bắt được”.

Đoàn Khác Tà hỏi:

“Thúc ấy tìm tiểu điệt có chuyện gì?”

Niếp Phong nói:

“Ta và y tuy có quen biết, nhưng hoàn cảnh lại bất đồng, ta cũng không tiện hỏi y. Hôm nay ta cùng với Mưu Thế Kiệt quyết chiến tại nơi này, y đã nói trước với ta, y không muốn trợ chiến, chỉ nguyện vì quan binh mà chữa thương, cho nên sau khi ta an trí y ở hậu doanh, thì bổ sung y vào làm y quan để chữa trị cho tướng lĩnh. Cũng may có y giúp đỡ, nên hai ngày nay đã kịp phối chế rất nhiều thảo dược”.

Đoàn Khắc Tà đương nhiên minh bạch, Đỗ Bách Anh không nguyện trợ chiến đó là vì y là người trong lục lâm, không muốn cùng huynh đệ tự tàn sát lẫn nhau.

Đoàn Khắc Tà thầm suy ngẫm, “Hơn phân nửa là do Thiết đại ca nhờ Đỗ đại thúc đến tìm ta, không biết là có chuyện gì khẩn yếu mà muốn truy hồi ta?” Tâm niệm còn chưa qua thì Kim Kiếm Thanh Nang Đỗ Bách Anh đã tới.

Đỗ Bách Anh trước tiên hướng Niếp Phong cung tay xá dài, Niếp Phong cũng hoàn lễ rồi bảo:

“Đỗ đại hiệp thế nào lại đa lễ như vậy?”

Đã Bách Anh nói:

“Đại tướng quân tấm lòng nhân hậu, mở một mặt lưới không truy cùng đuổi tận, bảo toàn tánh mạng cho vô số người”.

Niếp Phong liền đáp:

“Đó là chủ ý của Đoàn Khắc Tà, ta không dám tham công”.

Đoàn, Sử mấy người bước qua tương kiến với Đỗ Bách Anh, Đỗ Bách Anh nói:

“Cứ xem việc phu phụ Mưu Thế Kiệt ngoan cố kháng cự hôm nay, ước chừng với phong thư của Thiết trại chủ hắn cũng không thèm lý đến, vậy hiền điệt cũng đã nhục mạng mà về rồi”.

Đoàn Khắc Tà thở dài bảo:

“Đừng nói là không thèm lý tới, mà ngay cả nhìn y cũng không có nhìn!”

Chàng liền mang việc tương kiến với Mưu Thế Kiệt ra sao kể lại cho Đỗ Bách Anh, Đỗ Bách Anh than thở không thôi.

Lão thở dài nói:

“Mưu Thế Kiệt chấp mê bất tỉnh, cũng sớm đã nằm trong ý liệu của chúng ta.

Cho nên Thiết Ma Lặc mới bảo ta đến tìm hiền điệt”.

Đoàn Khắc Tà liền hỏi:

“Tiểu điệt còn chưa minh bạch, rốt cuộc là đã có chuyện gì?”

Đỗ Bách Anh nói:

“Mưu Thế Kiệt lần này cùng với Sử Triêu Nghĩa hợp thành một bọn, mặc dù cũng đã gạ gẫm được mấy người Cái Thiên Hào, Dương Đại Cái Tử đi theo y, nhưng có rất nhiều Trại chủ lại đều bất mãn với y. Bây giờ vì trong lục lâm, lão tiền bối Thiết Tý Kim Đao Đổng Chiêu và Phục Ngưu sơn Hùng lão Trại chủ đồng ý, muốn phế truất cương vị Lục lâm Minh chủ của Mưu Thế Kiệt”.

Đoàn Khắc Tà hỏi:

“Như vậy không phải là lại muốn triệu khai anh hùng đại hội hay sao?”

Đỗ Bách Anh đáp:

“Không sai, mấy người Đổng lão đang muốn nhờ Thiết Ma Lặc chủ trì, phát anh hùng thiếp, hẹn ngày đến Phục Ngưu sơn của Hùng Cự Nguyên cử hành. Chuyện này chỉ đang chờ biểu ca ngươi gật đầu thôi”.

Đoàn Khắc Tà lại hỏi:

“Tâm ý của Thiết biểu ca thế nào?”

Đỗ Bách Anh nói:

“Sở dĩ biểu ca ngươi bảo ta đến tìm ngươi, thứ nhất là để hỏi xem tin tức, nếu như Mưu Thế Kiệt đã tiếp thu khuyến cáo của y thì việc này có thể hủy bỏ, y sẽ đứng ra thay Mưu Thế Kiệt xin các Trại chủ tha thứ”.

Đoàn Khắc Tà nói:

“Thiết biểu ca đối với Mưu Thế Kiệt thật sự là nhân chí nghĩa tận, đáng tiếc là y hết lần này đến lần khác chấp mê bất ngộ”.

Đỗ Bách Anh lại bảo:

“Ma Lặc đối với y đã tận hết tình bằng hữu, nhưng cũng tịnh không phải một mực nhân nhượng y. Cho dù Mưu Thế Kiệt đã nhận rõ sai lầm, thì cũng phải bắt y nhận sai trước mặt mọi người, khi đó mới có thể cho y tiếp tục làm Lục lâm Minh chủ được”.

Đoàn Khắc Tà cười bảo:

“Điều này thì đúng. Bất quá, theo như tiểu điệt thấy, Mưu Thế Kiệt tuyệt đối sẽ không nhận sai đâu”.

Đỗ Bách Anh nói:

“Đó là chuyện của y, anh hùng đại hội sớm muộn gì cũng phải mở. Cho nên Thiết Ma Lặc muốn ta đi tìm hiền điệt, thứ nhất là để nghe tin tức, thứ hai là muốn hiền điệt nhanh chóng trở về giúp y trù bị đại hội. Y còn có ý muốn hiền điền đến mời đại sư huynh của mình tham gia”.

Đoàn Khắc Tà ngạc nhiên hỏi:

“Vì sao vậy?”

Đỗ Bách Anh nói:

“Mấy người Đổng Chiêu muốn đề cử biểu ca hiền điệt kế nhiệm Minh chủ, nhưng biểu ca ngươi lại muốn nhường cho Không Không Nhi”.

Đoàn Khắc Tà cười bảo:

“Sư huynh tiểu điệt vốn quen nhàn nhã, người tuyệt sẽ không đảm nhận chức vị Minh chủ này đâu”.

Đỗ Bách Anh nói:

“Điều này thì chờ hiền điệt trở về, để xem biểu ca hiền điệt với y thương lượng cẩn thận thế nào. Ý của ta vẫn là mong Thiết Ma Lặc lần này sẽ không chối từ. Y chính là hy vọng chung của mọi người”.

Niếp Phong là “Thảo tặc đại tướng quân” của triều đình, nghe thấy bọn họ đàm luận việc thay đổi Minh chủ trong giới lục lâm, thì cảm thấy rất ái ngại, vừa mừng lại vừa lo, mừng là Mưu Thế Kiệt bị lục lâm ruồng bỏ sẽ không thể tiếp tục gây họa nữa, lo là nếu như Thiết Ma Lặc nên kế nhiệm, thế lực của lục lâm càng hưng vượng, phiên trấn cát cứ lại thêm quần hùng quật khởi, giang sơn của Đường thất sợ rằng cũng không giữ được lâu dài.

* * * * *

Sáng sớm ngày thứ hai, Niếp Phong đã chỉnh đốn đội ngũ, chuẩn bị cùng Lý Quang Bật hội họp, sau đó sẽ ban sư hồi triều. Đỗ Bách Anh, Đoàn Khắc Tà, Phương Ích Phù, cùng Niếp, Sử nhị nữ thì trở lại phương nam.

Đoàn Khắc Tà, Phương Ích Phù cùng Niếp, Sử nhị nữ đều cưỡi tuấn mã của Tần Tương tặng cho, ngựa Đỗ Bách Anh cưỡi cũng là ngựa tốt được Niếp Phong từ ngàn vạn con trong quân trọn ra, tuy không sánh được với ngựa của Tần Tương, nhưng cũng chẳng thua kém bao nhiêu. Một đoàn năm người, phóng ngựa như bay, đến giữa ngọ thì tới một thị trấn. Trên thảo nguyên dân cư thưa thớt, thường đến hơn mười dặm không thấy một hộ dân nào, gặp được thị trấn này đúng là rất hạnh vận. Bọn họ mặc dù mang đủ lương khô, nhưng cũng muốn bổ sung một chút thực vật tươi mới, liền giục ngựa chậm rãi tiến vào thị trấn.

Không ngờ trong thị trấn lại cực kỳ vắng vẻ, đầu đường chỉ có mấy người thò đầu ra nhòm xem, mới phát hiện bọn họ đến lập tức đều đồng thanh la lên:

“Cường đạo lại tới rồi!”

Thoáng chốc gà bay chó chạy, trên đường vốn có lác đác mấy người đang nhàn nhã thì cũng đều trốn chạy hết. Tiếng đóng cửa, tiếng kêu la, hòa trộn thành một chuỗi. Có một số người trốn vào trong nhà, có một số người ước chừng cảm thấy trong nhà cũng không an toàn, lại bỏ chạy ra, lật đật hoang mang theo phía đường sau bỏ chạy.

Đỗ Bách Anh nhíu lông mày, nhảy xuống ngựa, có một cửa hàng đang bầy chưa kịp đóng cửa, bị y xông vào, thì điếm chủ là một lão đầu sợ hãi vội vàng quỳ xuống van xin:

“Cầu đại vương giơ cao quý thủ, tiểu điếm hôm qua đã bị cướp một lần, thật sự là không còn gì hết”.

Đỗ Bách Anh trấn an:

“Ngươi an tâm, chúng ta không phải cường đạo!”

Trong lòng y lại thầm buồn cười:

“Kỳ thật nên nói, chúng ta không phải là cường đạo cướp của lung tung. Nhưng lão nhân gia này vị tất đã chịu tin, ta cũng chỉ đành nói hoang một lần vậy”.

Lão đầu kia lại càng kinh hãi, run giọng nói:

“Các vị không phải là cường đạo? Ai dà, các vị là quan binh!”

Đỗ Bách Anh lại liền vội vàng bảo:

“Chúng ta cũng không phải quan binh, chúng ta là khách qua đường, muốn mua một chút thực vật”.

Lão đầu kia thấy y vẻ mặt ôn hòa, lúc này mới an tâm, lão nói:

“Hôm qua, có rất nhiều hội binh qua đây, chúng tôi lúc đầu cũng không biết là quan binh hay cường đạo, nhưng những thứ gì có thể ăn được đều bị bọn họ cướp sạch hết rồi. Ôi, may mắn bọn họ chỉ là cường đạo…”

Đỗ Bách Anh ngạc nhiên hỏi:

“Lão làm sao phân biệt được?”

Lão nhân kia đáp:

“Cường đạo chỉ cướp đồ, quan quân còn muốn bắt bớ, muốn đả thương người”.

Đỗ Bách Anh lắc đầu than thở:

“Chúng ta vốn muốn mua một ít để ăn, đã như vầy, ta cũng không quấy rầy các người nữa”.

Đoàn người vừa rời khỏi thị trấn, Đoàn Khắc Tà nói:

“Chắc đám hội binh này chính là của Mưu Thế Kiệt rồi, cướp giật của bách tính, thực sự là làm mất mặt lục lâm hảo hán!”

Niếp Ẩn Nương nói:

“Điều này cũng khó trách, bọn họ không ai quản thúc, khi đã đói bụng thì cũng bất chấp quy củ. Bọn họ chỉ có cướp đồ, vẫn xem như là tốt rồi”.

Đỗ Bách Anh cúi đầu trầm ngâm, một hồi sau mới lên tiếng:

“Mấy vạn huynh đệ lục lâm tứ tán, chúng ta nên nghĩ biện pháp an trí bọn họ cho tốt. Bằng không, chẳng những gây họa cho bách tính, mà sau khi bọn họ phân tán cũng sẽ dễ dàng bị quan quân tiêu diệt”.

Khoái mã phi nhanh, đi chừng được bốn năm chục dặm đường thì phát hiện có một đội hội binh, ước chừng có bốn năm trăm quân, những người này đều nhận ra Đỗ Bách Anh và Đoàn Khắc Tà. Đỗ, Đoàn mấy người liền xuống ngựa, bọn họ cũng đã kéo đến chật ních. Đỗ Bách Anh tìm lấy mấy đầu mục quen biết, liền hỏi chuyện bọn họ.

Từ trong lời bọn họ nghe được tin tức của Mưu Thế Kiệt, quả nhiên sở liệu không sai, Mưu Thế Kiệt gần như lâm vào cảnh “chúng bạn thân ly”. Tên đầu mục cầm đầu kể:

“Hôm đó, sau khi rời khỏi Tuyệt Long cốc, các huynh đệ đến chín phần đều mang lòng oán hận Mưu Thế Kiệt, nên cũng không chịu nghe hiệu lệnh của y nữa. Mưu Thế Kiệt sợ bộ hạ sinh biến cũng không đám cùng đi với cả đoàn người, liền mang một tiểu bộ phận thân tín của y, ước chừng có bốn năm chục thất mã, ra roi thúc ngựa liền đi trước”.

Đỗ Bách Anh hỏi:

“Cái Thiên Hào đâu?”

Đầu mục kia thở dài rồi đáp:

“Cái Thiên Hào không chịu ly khai Mưu Thế Kiệt, đã đi theo cùng y rồi. Kỳ thật chúng ta đối với Cái Thiên Hào không có gì ác cảm lắm, còn muốn đề cử y làm người đứng đầu của chúng ta. Bây giờ không có người cầm đầu, mấy vạn huynh đệ, đông một nhóm, tây một đám, tứ tán khắp nơi, lương thực khó kiếm, lại sợ bị quan quân truy kích, từ đây về Trung Nguyên còn xa hơn mấy ngàn dặm, con đường phía trước mờ mịt, mọi người đều không biết phải làm sao bây giờ, chỉ sợ dữ nhiều lành ít, sĩ khí đều rất tang thương”.

Đỗ Bách Anh:

“Cướp lương ta không phản đối, bất quá phải cướp của các nhà phú hộ, với bách tính cùng khổ chúng ta không thể lại vơ vét của họ nữa. Theo như ta biết, từ đây về phía tây chừng một trăm dặm, là kho thóc Linh Vũ của triều đình, tồn lương còn rất nhiều, chúng ta khả dĩ cướp được, nói không chừng còn có thể dư lương thực để tế chẩn cho bần dân nữa”.

Đầu mục kia nói:

“Đạo lý cướp phú tế bần sao chúng ta không biết, nhưng các hộ phú gia đa phần đều có lầu canh, phòng ngự kiên cố, các huynh đệ không có người dẫn đầu, chia năm xẻ bảy, cũng không tránh khỏi dễ dàng bị nguy hiểm. Các huynh đệ không thể đồng tâm hiệp lực, sĩ khí càng thê lương, cướp của phú hộ cũng còn úy sợ chứ đừng nói là cướp lương của triều đình. Đỗ đà chủ, Đoàn thiếu hiệp, hay là hai người làm đầu lĩnh của chúng ta đi”.

Đoàn Khắc Tà trầm ngâm một hồi rồi bảo:

“Đỗ thúc thúc, thúc lưu lại đây nha. Tiểu điệt về mang tình hình của các người bẩm cáo lên Thiết trại chủ, thỉnh y phái người đến tiếp ứng”.

Mấy người nghe xong đều vô cùng mừng rỡ, đồng thanh nói:

“Như vậy hay lắm. Đỗ đà chủ, ngài nhất định phải làm đầu lĩnh của chúng tôi!”

Đỗ Bách Anh không đành lòng nhìn thấy huynh đệ lục lâm phân tán tứ phương biến thành giặc cỏ, lập tức cảm khái mà đáp thuận. Sau đó y liền chọn lấy những kỵ binh tinh tráng, kêu bọn họ đi các nơi còn sót truyền đạt tin tức. Sau khi Đỗ Bách Anh chuẩn bị góp nhặt thuộc hạ cũ của Mưu Thế Kiệt thì liền sẽ suất lĩnh bọn họ đi về phương nam.

Đoàn Khắc Tà, Phương Ích Phù mấy người tiếp tục di, suốt dọc đường gặp phải không ít hội binh. Đoàn Khắc Tà cũng giúp bọn họ truyền đạt tin tức, chờ sau này Đỗ Bách Anh thu nạp. Đi được hai ngày thì hội binh dần dần thưa thớt, bọn họ đã đến một vùng đất của người Hán, dân cư đông đúc, nhưng thủy chung vẫn không gặp nhóm người Mưu Thế Kiệt.

Ngựa cưỡi của bọn họ cước trình mau lẹ, không quá mười ngày đã từ U Châu vào đến cảnh nội Hà Nam, phía đông là đến Ngụy Bác, phía tây là tới Phục Ngưu sơn. Nhà cũ của Niếp Ẩn Nương ở một thôn trang ngoài thành Ngụy Bác, đến đây thì bốn người bọn họ chia làm hai cặp phân đường mà đi. Sử Nhược Mai cùng với Niếp Ẩn Nương tình thâm như tỷ muội, đưa nhau một đoạn đường, bịn rịn không muốn rời.

Niếp Ẩn Nương nói:

“Sau khi ta cùng Ích Phù về ra mắt mẫu thân, tối đa là mười ngày nửa tháng sẽ đến Phục Ngưu sơn. Chúng ta chỉ tạm thời chia tay, các người không cần tiễn xa”.

Sử Nhược Mai bảo:

“Được, vậy thì nhất ngôn cửu đỉnh, các người đi sớm một chút. Muội hy vọng hai người đến xem, nếu bỏ lỡ anh hùng đại hội này, thì thật là tổn thất lắm”.

Song phương vẫy tay từ biệt, Đoàn Khắc Tà và Sử Nhược Mai quay đầu ngựa hướng phía tây tiếp tục đi. Sử Nhược Mai chợt bật cười một tiếng bảo:

“Niếp tỷ tỷ thật là có phúc khí, vị Phương sư huynh này điều gì cũng đều nghe lời tỷ ấy. Khắc Tà, huynh…”

Đoàn Khắc Tà hỏi:

“Ta làm sao?”

Sử Nhược Mai nói:

“Huynh xem người ta đó, cũng nên học theo người ta”.

Đoàn Khắc Tà cười bảo:

“Ta không phải cũng rất nghe lời muội hay sao?”

Sử Nhược Mai đáp:

“Ai biết huynh đối tốt với muội được bao lâu chứ? Hừm, chỉ cần huynh và muội ít cãi cọ là tốt lắm rồi, nghĩ đến việc trước đây, thật khiến cho người ta lạnh lòng”.

Đoàn Khắc Tà hốt hoảng vội nói:

“Đó đều là chuyện quá khứ, ta đã nhận sai với muội rồi, tức giận trong lòng muội vẫn chưa tiêu hết sao?”

Sử Nhược Mai thấy chàng thực sự cấp bách như vậy thì lúc này mới khúc khích cười bảo:

“Muội chỉ trêu huynh một chút. Trong quá khứ, muội cũng có rất nhiều điều không phải. Muội từ nhỏ tính ưa nghịch, lại không chịu khiêm nhường. Sau này nếu huynh thấy muội có chỗ không phải, thì bất tất phải khách khí, muội cũng sẽ nghe huynh nói”.

Hai người tranh nhau nhận sai, nhìn nhau cùng cười lại càng tâm đầu ý hợp.

Bọn họ trải qua rất nhiều khúc mắc, rất nhiều hiểu lầm, bây giờ mới có thể ở riêng một chỗ với nhau. Ngàn dặm đồng hành, suốt dọc đường có bao nhiêu nhu tình mật ý, âu âu yếm yếm, điều đó bất tất phải nhất nhất nói ra tỷ mỉ.

* * * * *

Đến một ngày, bọn họ tới Tân Dã, Phục Ngưu sơn núi non quanh co khúc khuỷu, trải dài ngàn dặm, bọn họ lại hướng phía trước đi, liền tiến vào vùng núi. Vối tốc độ của hai thất mã, không mất ba khắc đã chạy đến ngọn núi Phục Ngưu sơn mà Đại Lực Thần Hùng Cự Nguyên sở chiếm, dọc một dải đường thượng sơn, phong cảnh hấp dẫn, hai người cũng không vội vã đi, liền chậm rãi lỏng dây cương thưởng thức phong cảnh tựa như bức tranh họa đồ.

Ven đường có một ngôi trà đình, lưng dựa vào núi, mặt đối với sông, vị trí rất xinh đẹp, Đoàn Khắc Tà bảo: “Ngôi trà đình này kiêm cả bán rượu và thức ăn, chúng ta uống vài chung rồi đi”.

Sử Nhược Mai cười đáp:

“Hiếm khi được huynh có nhã hứng như vậy, muội tất nhiên là phải phụng bồi”.

Hai người buộc xong ngựa rồi bước vào trà đình, bên trong quán trừ bọn họ ra không có khách nhân nào khác. Đoàn Khắc Tà gọi hai cân rượu trắng, mấy đĩa thức ăn, rồi ngồi xuống. Sau khi ngồi vào chỗ của mình, ngẫu nhiên chàng ngẩng đầu lên thì chợt phát hiện trên cây cột đá đối diện có chuyện kỳ lạ.

Trên cây cột đá có một chưởng ấn rõ ràng, sâu vào đá ba phân, nhưng càng kỳ quái chính là chưởng ấn chỉ dài có năm tấc, không giống như chưởng ấn của người lớn. Đoàn Khắc Tà rất lấy làm kỳ quái, chàng nghĩ bụng, “Công lực của người này thật không tầm thường, không có lý nào lại là tiểu hài tử được?” Sử Nhược Mai cũng đã phát hiện ra, nàng nhỏ giọng bảo:

“Võ lâm cao thủ, tuyệt sẽ không vô duyên vô cớ phô diễn công phu tại quán điếm nơi hoang thôn này, nhất định bên trong phải có cố sự kỳ quái”.

Đoàn Khắc Tà cười nói:

“Chúng ta không cần đoán mò nữa, gọi tửu bảo [4] đến đây hỏi một cái chẳng phải là minh bạch ngay sao?”

Tửu bảo nghe thấy bọn họ nói chuyện, không đợi cho Đoàn Khắc Tà gọi lại, y đã đến bên bàn hỏi:

“Khách quan vì chưởng ấn trên cột là này mà khơi dậy lòng hiếu kỳ ư?”

Đoàn Khắc Tà đáp và hỏi lại:

“Không sai, chưởng ấn này như thế nào mà có?”

Tửu bảo cười đáp:

“Chẳng những các người tò mò, mấy vị khách nhân hôm nay đến đây đều hỏi tiểu nhân như vậy. Hi hi, các vị còn có muốn thêm chút thức ăn đặc biệt gì nữa không?”

Đoàn Khắc Tà vừa mới ngẩn người ra thì Sử Nhược Mai đã đáp:

“Không sai, chúng ta muốn thêm một chút, nhưng rượu và thức ăn đã đủ rồi, vậy lão mang lại cho chúng ta một chút trái tươi nhé”.

Tửu bảo nói:

“Trái tươi thì phải gọi người đi mua mới được”.

Sử Nhược Mai nói:

“Ta biết rồi. Đĩnh bạc này giao cho ngươi, phần dư coi như là tiền thưởng. Bây giờ không cần ngươi cà kê nữa, ngồi xuống rồi cẩn thận kể cho chúng ta nghe”.

Tửu bảo nhấc nhấc đĩnh bạc, thấy nó nặng trình trịch, ước chừng cũng phải đến mười lượng, tức thì lão mặt mày hớn hở mang đĩnh bạc giao cho mụ vợ rồi ngồi xuống nói:

“Đúng, đúng là có một cố sự, rất là kỳ quái, để tiểu nhân kể tường tận với hai vị”.

Đoàn Khắc Tà trong lòng buồn cười, “Nhược Mai so với ta còn hiểu nhân tình thế thái hơn. Lão tửu bảo này kể cố sự cho khách nhân, cái kỳ quái của chưởng ấn này cũng mang lại cho lão một chút tài vật ngoài mong muốn”.

Sử Nhược Mai hỏi:

“Là chuyện kỳ quái gì?”

Tửu bảo kia đáp:

“Các vị đoán chưởng ấn này là ai làm ra?”

Sử Nhược Mai nói:

“Ta mà đoán được thì còn hỏi lão làm gì?”

Tửu bảo chậm rãi nói:

“Nói ra thật sự không có ai tin, đây là chưởng ấn của một nữ tử”.

Đoàn Khắc Tà và Sử Nhược Mai nhìn nhau kinh hãi, trong lòng thầm nghĩ, “Hèn gì chưởng ấn lại nhỏ như trẻ con, nguyên lai là của nữ tử. Đương kim thế gian nữ tử có công lực như vậy có thể đếm được trên đầu ngón tay, Diệu Tuệ thần ni sớm đã không hành tẩu trên giang hồ, bà ta cũng quyết không phô trương võ công trước mặt người khác, chẳng lẽ lại là Tân Chỉ Cô sao?” Tâm niệm còn chưa qua thì tửu bảo kia đã nói tiếp:

“Còn là một nữ tử tuổi rất trẻ, vô cùng xinh đẹp, giống như vị cô nương này vậy!”

Sử Nhược Mai cười bảo:

“Đa tạ, đa tạ. Nhưng lão cũng không cần nhiều lời tâng bốc, nhanh nói về điểm chính chuyện đi”.

Đoàn Khắc Tà lại càng kinh ngạc, Sử Triêu Anh quyết không có công lực bậc này, nữ tử trẻ tuổi đó không biết là người phương nào. Công lực có thể ấn vào đá ba phân, chỉ sợ ta cũng vị tất đã hơn được nàng ta.

Tửu bảo kia lại kể:

“Được, được, bây giờ tiểu nhân nói về chính chuyện đây. Đây là chuyện ngày hôm qua, trong tiểu điếm có một vị khách nhân, là một thiếu niên công tử rất anh tuấn, ước chừng lớn hơn tướng công đây vài tuổi, khoác áo hồ cừu, trong hơi hé lộ vỏ đao”.

Sử Nhược Mai muốn lão ít nói chuyện lung tung đi, nhưng vì đã phân phó lão phải nói cẩn thận chi tiết, do đó không cắt ngang lời của lão. Đoàn Khắc Tà lại sốt ruột không chờ được, chàng hỏi:

“Sau đó thế nào?”

Tửu bảo kia đáp:

“Sau đó thiếu nữ kia bước vào. Tiểu nhân hỏi nàng ta muốn dùng thứ gì, thì nàng ta đã đến trước mặt công tử kia, cười lạnh bảo rằng: ‘Họ Sở nhà ngươi còn nhận ra ta không?’ Vị nữ tử này thực sự là bá đạo, công tử kia còn chưa kịp hồi đáp thì cô ta đã một chưởng đánh xuống y!”

Đoàn Khắc Tà trong lòng thoáng động, thất thanh kêu lên:

“Họ Sở ư? Ai da, một chưởng đó có đánh trúng không?”

Tửu bảo nói tiếp:

“Không trúng. Vị công tử kia tựa như biết làm ma thuật vậy, y vẫn còn đương ngồi yên, đột nhiên chiếc ghế y ngồi bay lên, hạ xuống gần phía trước chiếc cột đá đó. Trong tay y vẫn còn giữ vững ly rượu, rượu ở trong ly cũng không sánh ra ngoài một giọt nào”.

Đoàn Khắc Tà là đại hành gia võ học, biết rằng thanh niên kia nhân nhờ chưởng lực của đối phương mà vận dụng khinh công xảo diệu “Đại na di”, người liền với ghế cùng di hình hoán vị, đồng thời y nhất định y cũng đã ngầm vận thần công hộ thể, cho nên không bị thụ thương.

Sử Nhược Mai nói:

“Nói vậy, bản lĩnh của vị công tử này quyết không có kém nữ tử kia, thế nào mà y lại không hoàn thủ?”

Tửu bảo lại kể tiếp:

“Y có hoàn thủ. Nhưng không phải hoàn thủ đánh nữ tử, mà là hoàn thủ mời rượu nữ tử”.

Sử Nhược Mai kêu lên:

“À, mời rượu nữ tử, bọn họ quen biết phải không?”

Tửu bảo đáp:

“Cái này tôi cũng không biết. Nhưng thấy vị công tử kia nâng chén rượu, hướng nữ tử nói: ‘Ta chưa bao giờ mạo phạm cô nương, cô nương hà khổ gì phải nhiều lần bức bách như vậy? Đây nhất định là hiểu lầm. Ta trước tiên mời cô uống một chén, mong cô bớt giận rồi nói cho rõ ràng.’ Nói xong lời này thì chén rượu trong tay y liền bay ra. Nói cũng kỳ quái, chén rượu tựa như có người nâng vậy, cứ chầm chậm bay đến trước mặt nữ tử, đầy một chén rượu, vậy mà thủy chung không rớt ra ngoài một chút nào”.

Sử Nhược Mai cười bảo:

“Người này tính khí thật rất tốt, nữ tử kia đã hướng y thi triển sát thủ trước, vậy mà y lại không hề tức giận, còn mời rượu nữ tử đó”.

Tửu bảo lại kể tiếp:

“Nữ tử đó cũng không lĩnh tình. Chuyện kỳ quái giờ lại tới, chén rượu bay đến trước mặt nữ tử, thì chợt dừng lại trên không bất động, nhưng cũng không quá một nháy mắt, đột nhiên chén rượu bay qua đỉnh đầu nàng ta, ‘binh’ một tiếng, rồi tan vỡ ngay trên không thành bốn mảnh, rượu không chén rào rào đổ xuống, vừa đúng đổ lên đầu lão, làm tôi đầy đầu đầy mặt đều là rượu nóng, khiến cả đầu mặt nóng rát”.

Đoàn Khắc Tà nghĩ bụng, “May là nữ tử kia đã thổi ra một hơi chân khí, làm tan kình lực ‘Bách bộ truyền bôi’ của đối phương, nếu không ngươi còn phải chịu khổ hơn nữa”

Tửu bảo lại kể tiếp:

“Tôi sợ đến luống cuống, không thể lau mặt được, cũng không dám khuyên can bọn họ, đúng lúc đó thì nghe nữ tử kia mắng: ‘Hiểu lầm cái gì, ngươi đã là đại thiếu gia của Thanh Châu Sở gia thì tức là cừu nhân của ta. Hừ, ngươi còn dám lừa gạt ta nữa ư?’ Nàng ta phóng ra một chưởng, khoảng cách của chưởng này ước chừng phải đến sáu bảy bước, chỉ nghe ‘ầm’ một tiếng, chiếc ghế kia liền tựa như bị đại thiết chùy nện trúng, tức thì vỡ tan ra thành mấy mảnh. Trước lúc đó vị công tử kia đã kịp nhảy lên, chiếc ghế bị đánh nát, vậy mà đầu tóc y lại không mất một sợi”.

Đoàn Khắc Tà nghĩ thầm, “Người này thân thủ khá nhanh, khinh công mặc dù không bằng được sư huynh ta, nhưng ước chừng cũng không thua kém ta”. Tửu bảo kia lại tiếp tục thuật:

“Tôi đang trợn mắt há mồm thì thấy nữ tử kia đã đuổi kịp vị công tử”.

Sử Nhược Mai vốn tâm tình thích náo nhiệt, liền cười hỏi:

“Lúc này bọn họ có giao thủ không?”

Tửu bảo đáp:

“Nữ nhân kia rất hung hăng, nam nhân thì không hề hoàn thủ. Y tránh vòng xung quanh chiếc cột, nữ nhân càng đánh càng gấp, chợt nghe ‘bình’ một tiếng, một chưởng của nữ nhân đánh trúng chiếc cột đá, chưởng ấn này chính là từ đó mà ra vậy”.

Sử Nhược Mai lại hỏi:

“Sau đó thế nào?”

Tửu bảo cười nói:

“Sau đó à? Hà, không có gì nữa”.

Sử Nhược Mai hỏi:

“Sao mà lại không có gì nữa?”

Tửu bảo đáp:

“Nữ tử kia một chưởng đánh trúng cột đá, xem chừng bàn tay cũng rất đau, nàng ta ngẩn người ra, nam nhân kia liền nhân cơ hội đó bỏ chạy mất. Nữ tử liền đuổi theo, hai người đó đều bỏ chạy, cố sự chẳng phải là không có gì nữa rồi sao? Nhưng cố sự này không có gì nữa thì tiền rượu của tôi cũng không có”.

Sử Nhược Mai hỏi:

“Tiền rượu gì?”

Tửu bảo đáp:

“Vị công tử kia uống của tôi ba cân rượu trắng, ăn cửa tôi hết một con gà quay, ngoài ra còn hai cân thịt bò, y lại không trả tiền như các vị, y cao chân bỏ chạy như vậy, tôi biết hướng ai mà đòi? Cái đó còn chưa tính, nữ tử kia đánh vỡ một chiếc ghế của tôi, như vậy bảo sao tôi sống cho được?”

Sử Nhược Mai hơi thấy thất vọng, nàng thầm nghĩ, “Chuyện này không đầu không đuôi, chỉ biết bọn họ giao đấu một trận, lại không biết đó là hai người nào”. Nàng nghe cũng không thấy thỏa nguyện, đối với lão chủ quán lòng tham không đáy này thì cũng không thèm để ý thêm tới nữa.

Đoàn Khắc Tà đột nhiên nói:

“Ngươi làm ăn nhỏ kiếm tiền không có dễ, ta thay bọn họ bồi thường cho ngươi”.

Nói đoạn chàng lấy ra một đĩnh bạc đưa cho tửu bảo, tửu bảo kia mặt mày hớn hở nói:

“Đây là ý tứ gì vậy, các vị thưởng tiền cho tôi đã đủ nhiều rồi”.

Miệng nói như vậy, nhưng hai tay lão đã vội vàng tiếp lấy đĩnh bạc, Đoàn Khắc Tà lại bảo:

“Ngươi nhận đĩnh bạc này, ta lại hỏi thêm ngươi”.

Tửu bảo đáp:

“Ngài cứ tận tình hỏi, chỉ cần tiểu nhân biết là sẽ lập tức phụng cáo”.

Đoàn Khắc Tà hỏi:

“Vị thiếu niên kia có phải trên mi tâm có một điểm hồng rất bắt mắt đúng không?”

Tửu bảo ngẩn người ra rồi đáp:

“Không sai, ngài làm sao biết được? Y là bằng hữu của ngài sao?”

Đoàn Khắc Tà nói:

“Ta quen biết y, cũng có thể nói là bằng hữu, cho nên ta thay y trả tiền rượu”.

Đoàn Khắc Tà đứng dậy, đi tới bên cạnh quan sát chưởng ấn kia, Sử Nhược Mai nghe xong Đoàn Khắc Tà nói thì cũng mơ hồ đoán được vài phần, nàng cũng không tiện hỏi Đoàn Khắc Tà trước mặt tửu bảo, chỉ đi theo phía sau Đoàn Khắc Tà ngó xem chưởng ấn. Đoàn Khắc Tà nói:

“Đây chính là ‘Đại thừa bàn nhược chưởng’. Kỳ quái là, cho đến giờ Thiếu Lâm không hề thu nữ đệ tử, nữ tử này thế nào lại biết sử dụng loại võ công thượng thừa của Phật môn vậy? Bất quá, công lực của nàng ta còn chưa đủ tinh thuần, muội xem phần ngón của bàn tay này, hãm vào sâu một chút, nhưng vân tay lại rất mờ. Thế nhưng nói đi lại nói lại, một nử tử có được công lực như vậy, thực sự là rất không dễ dàng gì!”

Đoàn Khắc Tà đang lưu tâm quan sát chưởng ấn mà dự đoán nông sâu của võ công nữ tử, chợt nghe thấy hai thất mã của bọn họ hí vang, Đoàn Khắc Tà vừa quay đầu lại nhìn thì không khỏi thất kinh.

Thất mã của Đoàn, Sử hai người buộc vào một thân cây bên đường, Đoàn Khắc Tà nghe tiếng ngựa hí mà quay lại nhìn, thì thấy có hai hán tử đang dùng đao cắt đứt dây ngựa. Đoàn Khắc Tà thất kinh quát:

“Thật lớn mật, dám đến trộm ngựa!”

“Binh”, chàng một chưởng ấn vào mặt bàn, nhờ lực phản chấn, dùng tuyệt đỉnh khinh công, thân mình như mũi tên bắn ra khỏi trà đình.

Nhưng vẫn chậm mất một bước, hai quái khách xuất hiện thình lình kia đã kịp nhảy lên lưng ngựa, một tên trong đó giương ta vẩy ra, một đạo ngân quang lấp lánh bắn vào trong trà đình. Nhưng không phải là nhắm đến Đoàn Khắc Tà mà lại vừa vặn rơi xuống trên bàn chưởng quầy, nguyên lai đó là một đĩnh bạc. Hán tử đó kêu lên:

“Hôm qua tiểu thư nhà ta làm hư tài vật trong quán ngươi, đĩnh bạc này là tiểu thư nhà ta tặng cho ngươi!”

Một tên hán tử khắc thì cao giọng cười nói:

“Tiểu tử ngươi không xứng cưỡi ngựa quý thế này, chúng ta cũng không lấy không của ngươi, đĩnh vàng này xem như trả cho các ngươi làm tiền mua ngựa”. Trong tiếng cười lớn, một đạo kim quang sáng chói bay ra, lúc này là nhằm bắn tới Đoàn Khắc Tà.

Đoàn Khắc Tà giận dữ quát:

“Lý đâu như vậy, ai thèm vàng của ngươi?”

Ống tay áo phất ra, tức thì phất đĩnh vàng kia bay ngược trở lại, hán tử tiếp lấy vào tay, hổ khẩu cảm thấy ê ẩm, thì không khỏi giật mình thất kinh, hắn vội vàng trở tay vỗ mông ngựa, giục ngựa tung bốn phó chạy như bay.

Thất mã của bọn họ vốn là chiến mã trải qua huấn luyện, sau khi đã nhận chủ nhân thì không dễ dàng chịu để cho người lạ cưỡi. Thế nhưng hai hán tử này lại không biết có công phu gì, quả nhiên có thể khiến cho hai con tuấn mã ngoan ngoãn thuần phục bọn họ. Đoàn Khắc Tà nổi trận lôi đình, liền dùng tuyệt đỉnh khinh công “Bát Bộ Cản Thiền” đuổi theo. Hai hán tử kia vừa quay đầu lại thì thấy Đoàn Khắc Tà theo sát không rời, bất quá chỉ ở phía sau bọn chúng mấy trượng mà thôi, lúc này chúng càng kinh hãi khôn cùng. Hai người tâm ý tương thông, động tác như nhất, đồng thanh kêu lên:

“Hảo tiểu tử, ngươi không muốn kim tử [5], vậy thì chúng ta sẽ tặng cho ngươi thiết liên tử [6]!”

Hai người, bốn cánh tay nhất tề vung lên, mười hai hạt thiết liên tử như mưa đá tới tấp bắn đến Đoàn Khắc Tà.

Lần này bọn họ dùng công phu ném ám khí, những muốn đả thương Đoàn Khắc Tà, đương nhiên là so với việc vừa ném đĩnh vàng thì dụng ý khác nhau. Mười hai hạt thiết liên tử chia ra nhằm mười hai đại huyệt của Đoàn Khắc Tà, cứ thấy tiếng xé gió thì kình đạo cũng không hề yếu. Công phu ám khí của hai người này trên giang hồ cũng tạm coi vào hàng nhất lưu, nhưng để đối phó với Đoàn Khắc Tà thì lại còn kém quá xa, Đoàn Khắc Tà cười lạnh một tiếng:

“Vật đâu về đó!”

Chàng phát ra một phách không chưởng, lập tức mười hai hạt thiết liên tử đều bắn ngược trở lại.

Chỉ là mười hai hạt thiết liên tử này không thể bắn đến hai người kia, nguyên nhân là bởi hai thất tuấn mã chạy quá nhanh, thiết liên tử không đuổi kịp nổi, rơi xuống phía sau bọn họ.

“Bát Bộ Cản Thiền” của Đoàn Khắc Tà là tuyệt đỉnh khinh công, trong vòng mấy dặm có thể chạy nhanh như ngựa phi, nếu là tuấn mã bình thường thì sớm đã bị đuổi kịp. Thế nhưng hai thất mã này lại là tuấn mã ngày đi ngàn dặm, Đoàn Khắc Tà lại bị ám khí ngăn cản, trong khoảnh khắc đó người ngựa càng xa, chớp mắt hai tuấn mã đã hoàn toàn biến mất không thấy đâu nữa. Đoàn Khắc Tà biết đuổi cũng vô dụng, không làm gì khác được đành phải thả chậm cước bộ, một lát sau mới Sử Nhược Mai hổn hển chạy tới.

Đoàn Khắc Tà cười khổ bảo:

“Không đuổi kịp bọn chúng, chúng ta đành phải đi bộ vậy”.

Sử Nhược Mai thở dốc rồi nói:

“Thật là đáng hận, Khắc Tà, huynh vô luận thế nào cũng phải nghĩ biện pháp thu hồi thất mã, đây là bảo mã của Tần Tương tặng cho, chúng ta nếu để người lấy mất thì còn mặt mũi nào gặp lại Tần Tương nữa”.

Đoàn Khắc Tà cười bảo:

“Muội trước tiên nguôi giận chút, để ta nghĩ biện pháp nha. Quỷ nhỏ chạy được, nhưng miếu lớn thì không chạy được, chúng ta chỉ cần điều tra ra hai con quỷ nhỏ đó đến từ ngôi miếu nào là có thể tóm được chúng!”

Sử Nhược Mai tỉnh táo lại, ngẫm nghĩ một hồi rồi bảo:

“Không sai, chúng ta dứt khoát đến tính sổ với chủ nhân bọn chúng. Bọn chúng vừa rồi đã tự báo thân phận, là gia nhân của nữ tặc đã lưu lại chưởng ấn trên cột đá!”

Sử Nhược Mai tức giận hai tên trộm ngựa vô cùng, cho nên giận lây đến chủ nhân bọn chúng, không phân xấu tốt, trước hết là mắng nàng ta thành nữ tặc.

Đoàn Khắc Tà bảo:

“Nữ tử kia là hạng người nào, chúng ta còn chưa biết mà. Trước tiên phải tìm được một người, mới có thể từ y mà có một chút manh mối điều tra”.

Sử Nhược Mai hỏi:

“Huynh nói là vị Sở công tử kia à? Y có phải Sở Bình Nguyên không?”

Đoàn Khắc Tà đáp:

“Theo như lời của lão tửu bảo, hình mạo tương xứng, người đó lại là người Thanh Châu, tất nhiên là Sở Bình Nguyên không thể nghi ngờ”.

Sử Nhược Mai lại hỏi:

“Huynh và y giao tình thế nào? Có biết lai lịch của y không?”

Đoàn Khắc Tà đáp: “Chính là hôm trước tại anh hùng đại hội của Tần Tương, ta và y đã quen nhau trên giáo trường, sau này thì chưa gặp lại. Nhưng mặc dù chỉ là nhất diện chi giao, song cũng không phải là quen biết thông thường, y cùng với ta và mấy người Thiết biểu ca bị liệt danh ‘phản nghịch’, ta cảm giác y là bằng hữu rất có nghĩa khí, đáng tiếc là chuyện về của y thì ta lại biết rất ít”.

Hôm đó, trong anh hùng đại hội do Tần Tương triệu khai, đột nhiên có thánh chỉ truyền tới, muốn truy bắt mười tên “phản nghịch”. Sở Bình Nguyên liệt danh cuối cùng. Chín người kia đều là lục lâm hoặc có danh tiếng lớn trên giang hồ, chỉ có duy nhất Sở Bình Nguyên là không ai biết lai lịch ra sao, cho nên mặc dù y được ‘danh phụ ký vĩ’ [7], nhưng trong mắt quần hào vẫn là nhân vật tối thần bí, không biết y phạm án tử gì, vì sao cũng bị liệt danh ‘phản nghịch’? Sau này Tân Chỉ Cô, Không Không Nhi dùng kế tiến vào giáo trường, Sở Bình Nguyên có cùng với bọn họ đàm thoại, Đoàn Khắc Tà mới biết y với đại sư huynh có quen biết, thanh Kim Tinh đoản kiếm của Tinh Tinh Nhi là do đánh cắp từ tư gia của y. Bất quá, Đoàn Khắc Tà cũng chỉ biết có bấy nhiêu.

Sử Nhược Mai bảo:

“Đã như vậy, chúng ta vừa vặn giúp y một tay, cùng y đối phó với nữ tặc kia. Nhưng lại không biết đến nơi đâu mà tìm y?”

Đoàn Khắc Tà nói:

“Điều này rất dễ dàng, y đã xuất hiện tại nơi này, thiết nghĩ chắc cũng đến Phục Ngưu sơn tham gia đại hội lục lâm. Chúng ta có thể hỏi thăm được, trước tiên là đến Phục Ngưu sơn gặp Thiết biểu ca rồi hẵng nói. Mặc dù y có bị vướng mắc mà lỡ thời gian chưa đến nơi, thậm chí y căn bản không đến Phục Ngưu sơn, điều đó cũng không ngại, nơi nào có quần hào tụ tập, chúng ta sẽ có thể thăm dò được tin tức của y”.

Sử Nhược Mai bảo:

“Hay lắm, vậy chúng ta nhanh đi thôi”.

Chạy được một hồi, Sử Nhược Mai nghĩ đến một chuyện, chợt nói:

“Khắc Tà, huynh lịch duyệt phong phú hơn muội, huynh có nhìn ra không?”

Đoàn Khắc Tà hỏi:

“Nhìn ra cái gì?”

Sử Nhược Mai bảo:

“Hai tên trộm ngựa đó dường như không phải người Hán”.

Đoàn Khắc Tà trong lòng thoáng động, chàng hỏi:

“Sao muội biết được?”

Sử Nhược Mai đáp:

“Bây giờ đã chớm đến mùa hè, bọn họ vẫn mang mũ da theo bên cạnh, đây không phải là thói quen của người Hán. Theo như muội thấy, bọn họ cho dù không phải người Hồ thì cũng là từ tái ngoại đến”.

Phải biết đương thời ở phía bắc Trung Quốc, Hán Hồ lẫn lộn không phân rõ khu vực, mặc dù đã nhiều năm chung sống, nhưng một số địa phương vẫn bảo tồn đặc điểm cố hữu của bộ tộc mình. Đoàn Khắc Tà cười bảo:

“Mai muội, muội trên giang hồ rèn luyện một ngày, quả nhiên có tiến bộ rất lớn. So với ta cách nhìn người tinh tế hơn nhiều lắm. Ta vốn cũng nhìn ra một chút nghi ngờ…”

Sử Nhược Mai được chàng tán dương thì vô cùng cao hứng, lại có ý trổ tài, nàng liền cướp lời:

“Huynh đừng nói, chờ muội nói để xem có phải là ‘Anh hùng chi kiến lược đồng’ [8] không nhé?”

Đoàn Khắc Tà cười bảo:

“Được, muội nói đi”.

Sử Nhược Mai nói:

“Hai tên này có sở trường thuần phục ngựa, cử chỉ thô lỗ, từ hai điểm này cũng có thể nhìn ra bọn chúng là người Hồ quen sống du mục”.

Đoàn Khắc Tà cười bảo rằng:

“Không sai, ta cũng nghĩ như vậy. Đáng tiếc là muội không phải nam nhân”.

Sử Nhược Mai ngẩn người ra rồi nói:

“Cái gì?”

Đoàn Khắc Tà cười bảo:

“Nếu muội là nam nhân, đây có thể nói là ‘Anh hùng chi kiến lược đồng’ rồi”.

Sử Nhược Mai “xì” một tiếng rồi nói:

“Hay lắm, nguyên lai là huynh nói vòng vo để giễu cợt muội, nhưng huynh tự xưng là anh hùng, cũng không thấy thẹn sao?”

Đoàn Khắc Tà cười rằng:

“Thôi được, mọi người đều là đi tìm tri kỷ của mình. Kỳ thật muội nói cũng không sai, muội vốn có thể xem là một vị cân quắc anh hùng”.

Sử Nhược Mai giận dỗi nói:

“Không cần huynh nịnh bợ, đi thôi!”

Đoàn Khắc Tà chợt nghiêm sắc mặt bảo:

“Hai kẻ này nếu là người Hồ, nội tình sẽ càng phức tạp. Nữ tử kia và Sở Bình Nguyên không biết quan hệ như thế nào? Nếu như gặp phải cô ta, muội đừng vội động thủ, chúng ta tra rõ lai lịch của cô ta đã”.

Sử Nhược Mai đáp:

“Điều này là đương nhiên, huynh coi muội là ‘mãng nương tử’ chỉ biết đánh nhau thôi à?”

Khi hoàng hôn xuống, hai người đã tiến vào vùng núi non, Đoàn Khắc Tà nói:

“Phía trước chỉ sợ không dễ tìm được nhà ngủ trọ, chúng ta cứ đi thẳng về trước, đi đến khi nào mệt thì tìm một sơn động nghỉ tạm”.

Sử Nhược Mai bảo:

“Được, chúng ta mất ngựa, tối nay chỉ có thể thi triển khinh công. Có huynh ở bên, cũng không cần phải sợ hổ báo”.

Nàng hôm trước mới theo Đoàn Khắc Tà học được pháp môn vận khí của thượng thừa khinh công, hận không có nơi để tập luyện, lập tức thi triển luôn, Đoàn Khắc Tà thì ở một bên chỉ điểm.

Lúc này trời đêm không trăng không sao, may mắn Đoàn Khắc Tà khinh công trác tuyệt, từ nhỏ đã luyện được một đôi dạ nhãn, chàng đi trước dẫn đường, để Sử Nhược Mai yên tâm thi triển khinh công, không lo vấp ngã. Sử Nhược Mai càng chạy càng cao hứng, bất tri bất giác đã chạy lên một ngọn núi tối như bưng, lại cũng không biết là đã vào thời khắc nào. Đoàn Khắc Tà cười hỏi:

“Có mệt hay không?”

Thượng thừa khinh công, không phí chút khí lực nào, Sử Nhược Mai đáp:

“Không mệt, chúng ta dứt khoát chạy đến sáng mới dừng nha”.

Đương lúc nói chuyện, chợt Đoàn Khắc Tà nhìn thấy trên đỉnh núi dường như có bóng đen lay động, chàng giật mình mình kinh ngạc, trong lòng thoáng rúng động.

Đúng là:

Núi vắng nửa đêm hay chuyện lạ

Phương xa kỳ nữ gặp anh hùng.

——————————————————————————–

[1] 梨花带雨 tức Lê hoa đái vũ: Hoa lê trong cơn mưa, ý chỉ bộ dáng thảm thương cùng cực của người phụ nữ.

[2] 中军tức Trung Quân: Một chức quan làm công tác quản lý trong quân.

[3] 众叛亲离tức Chúng bạn thân ly: Chúng bạn xa lánh, bị cô lập.

[4] 酒保 tức Tửu bảo: Người hầu rượu, chủ quán rượu.

[5] 金子tức Kim tử: Vàng ròng

[6] 铁莲子tức Thiết liên tử: hạt sen sắt

[7] 名附骥尾tức Danh phụ ký vĩ: tên được liệt thêm vào với người nổi tiếng, hay ăn nhờ danh tiếng

[8] 英雄之见略同 tức Anh hùng chi kiến lược đồng: anh hùng cùng chung ý kiến.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.