Long Duyên (Tập 1)

Chương 6



Thành Châu là tòa thành lớn nhất Nam quận, phồn hoa náo nhiệt, những tiểu thành tiểu trấn nhỏ như Phụng Trạch còn lâu mới bì kịp. Mùa hoa thược dược vừa chớm, ở Thành Châu hằng năm vào mồng một tháng Tư thường tổ chức hội hoa thược dược, mấy ngày hôm nay đang trong giai đoạn trang hoàng sắp đặt, các đài thưởng hoa hai bên phố đã được dựng xong, danh phẩm thực sự vẫn chưa được bày ra, nhưng các loài hoa thông thường đã xuất hiện không ít, muôn hồng nghìn tía, khoe sắc gấm thêu.

Lạc Việt định túm một người đi đường hỏi xem Định Nam vương phủ ở đâu để tới thẳng đó, liền bị Đỗ Như Uyên giơ tay cản lại, “Không phải vội, chúng ta cứ dạo chơi ngó nghiêng quanh thành cái đã.”

Lạc Việt biết cái tật lộng thần giả quỷ của gã lại phát tác, bèn thuận theo, không hỏi đường nữa. Lâm Tinh đứng bên nói vào, “Hôm trước có người mạnh mồm bảo chỉ cần mất nửa ngày ở phủ Định Nam vương là có thể đi Vân Tung sơn. Nếu qua trưa nay mà chúng ta không trên đường tới Vân Tung, thì có người phải chịu thua cược đấy nhé.”

Đỗ Như Uyên gõ sách nói, “Đương nhiên đương nhiên.”

Cả bọn đi trên đường mải mê nhìn trái ngó phải, hệt như nhàn rỗi dạo chơi.

Lạc Lăng Chi đột nhiên lên tiếng, “Hình như không thấy tiểu huynh đệ Ứng Trạch đâu nữa.”

Lạc Việt nghe vậy liền nhìn quanh, quả nhiên, Ứng Trạch vừa rồi vẫn còn đi bên cạnh Chiêu Nguyên giờ đã mất tăm mất tích, hắn khoát tay nói, “Không sao, cứ đi đến nơi có bán đồ ăn, thể nào cũng tìm thấy.”

Lão rồng mấy ngày nay thể hiện khá tốt, không hề để lộ chân tướng trước mặt Lạc Lăng Chi, còn rất biết phối hợp đóng tròn vai một tiểu đệ rắn ngây thơ đáng yêu. Đương nhiên, đó cũng là vì bọn họ luôn thuận theo Ứng Long điện hạ, lão muốn ăn gì bèn cho lão ăn nấy, Ứng Long điện hạ xem ra rất hài lòng.

Lạc Việt trước sau vẫn không dám lơi là cảnh giác, lão rồng như một đụn rơm bên bếp lò, không biết lúc nào bén phải mồi lửa mà bùng cháy. Ánh mắt hắn không bỏ sót bất kỳ quầy bán đồ ăn vặt nào bên đường. Hắn vẫn ngấm ngầm lo lắng, không biết Ứng Trạch trông thấy cảnh tượng phồn hoa trong Thành Châu, liệu có cảm thấy ngân sách hạn hẹp khó lòng thể hiện, lại kiếm một tiền trang cướp chút tiền tiêu không. Đi được nửa con phố, Lạc Việt mới phát hiện ra bóng dáng Ứng Trạch, không phải trước quầy đồ ăn, mà trước một ngõ tối, Ứng Trạch đang đứng đầu ngõ ăn một bọc thịt viên chiên. Chiêu Nguyên nói, “Trên trán ông ấy hình như có dán thứ gì thế kia?”

Lạc Việt nhìn kỹ thứ đó, bụng dạ cuộn lên òng ọc, Ngọc Hoàng Đại Đế à, không phải có tên mẹ mìn ba bị nào gan to tày trời dám để ý đến Ứng Trạch điện hạ, dán hoa nhĩ cho lão ta đấy chứ.

Dán hoa nhĩ là thủ đoạn cánh lừa đảo hay dùng để bắt cóc trẻ con, hoa nhĩ là một dạng thuốc mê có hình như chiếc bánh, mẹ mìn ba bị sẽ lựa thời cơ thích hợp vỗ bộp lên trán đứa trẻ, để nó mơ mơ màng màng mặc cho bọn chúng dẫn đi. Lạc Việt bước lại gần quả nhiên phát hiện có một bóng người đen thui nằm co ro đau đớn giữa con ngõ tối. Ban nãy Ứng Trạch một mình dạo qua dạo lại trước mấy quầy đồ ăn, khơi dậy dã tâm của một tên ba bị, hắn trông đứa trẻ này xinh xắn phú quý, móc trong túi áo ra từng nắm tiền không ngượng ngập chút nào, đoán rằng nó nhất định là con nhà giàu lẻn ra ngoài chơi, bèn mừng húm vì gặp được phi vụ béo bở, móc ra một miếng hoa nhĩ, vỗ lên trước trán Ứng Trạch. Vì thuốc mê nhất thời chưa phát huy hết công hiệu, tên ba bị đặc biệt mua một bọc thịt viên chiên, dẫn dụ Ứng Trạch vào ngõ tối, nào ngờ đứa trẻ này vừa lấy được bọc thịt viên, tên ba bị liền thấy toàn thân tê liệt, hứng ngay một luồng sét giội xuống đỉnh đầu, Ứng Trạch nhón lấy một viên thịt, mặt mày nghiêm túc nói, “Nhân phẩm người phàm đúng là càng ngày càng kém.”

Lạc Việt hạ giọng vuốt đuôi lão, “Đúng đúng, điện hạ người khoan hồng đại lượng, tha mạng cho hắn ta đã là ân đức rồi.”

Chiêu Nguyên giúp lão gỡ miếng hoa nhĩ dính trên trán xuống, lại dùng ống tay áo lau trán cho lão, Ứng Trạch hài lòng hưởng thụ, “Bản tọa xưa nay vốn có lòng từ bi.”

Ứng Trạch ăn xong thịt viên chiên khai vị, bèn cất chân bước vào một quán ăn sáng. Bọn Lạc Việt ngoan ngoãn đi theo, gọi xong đồ ăn, Lâm Tinh lấy đũa gõ lên cái đĩa nhỏ trước mặt, nói, “Càng lúc càng gần trưa rồi, có người phải nhớ chuyện mình đã cá cược đấy nhé.”

Đỗ Như Uyên mỉm cười nói, “Yên tâm, sắp rồi.”

Ăn xong bữa sáng, Đỗ Như Uyên lại nói muốn tới trà lâu uống trà, Lâm Tinh lần nữa nhắc nhớ về thời gian, Đỗ Như Uyên vẫn nói không vội, sắp rồi. Ngồi trong trà lâu nghe một đoạn chuyện kể, Ứng Trạch ăn hết mấy đĩa điểm tâm, Lạc Lăng Chi đứng dậy đi vệ sinh.

Lâm Tinh nói, “Ta cứ thấy, Lạc Lăng Chi vẫn còn giấu chúng ta một chuyện gì đó rất quan trọng.”

Lạc Việt nói, “Chuyện khiến Lạc Lăng Chi phải giấu giấu giếm giếm, một là có liên quan đến Thanh Huyền, hai là có liên quan đến Trọng Hoa Tử sư phụ y, chắc chắn chẳng phải chuyện gì tốt đẹp, nhưng cụ thể thì khó đoán.”

Lâm Tinh lầm bầm, “Thanh kiếm Trảm Thần kia thực sự lợi hại thế sao? Ta rất muốn xem, thái tử lấy được nó rồi, con tiểu phụng hoàng lần trước cầm nó trong tay, có thể đỡ nổi ba chiêu của ta hay không.”

Đôi mắt cô lóe lên đầy hứng khởi, Ứng Trạch ngồi bên cạnh ăn điểm tâm “hừ” một tiếng, “Ngươi yên tâm, mấy kẻ phàm trần nhỏ nhoi ấy, không xê dịch nổi nó đâu.”

Lâm Tinh ngạc nhiên, “Ông biết hả?”

Ứng Trạch thủng thẳng nói, “Cái gì mà Trảm Thần, đều do người phàm ngu muội gọi bừa gọi bậy, thanh kiếm đó tên là Vân Tung, nên khi nó hóa thành núi, mới gọi là núi Vân Tung. Kẻ phàm trần nào có thể khiêng nổi một quả núi chứ?”

Bốn bề im ắng. Ứng Trạch thong thả nói tiếp, “Nếu không phải ta nói với y, y cũng không thể biết đấy chính là núi Vân Tung, đám hậu thế phàm nhân bọn ngươi, càng không biết gọi nơi đó là núi Vân Tung…”

Bốn bề càng im ắng hơn, Ứng Trạch lặng lẽ cầm lên một miếng bánh xốp, bỏ vào miệng.

Chiêu Nguyên nghi hoặc lên tiếng, “Ông có biết vị thần tướng bị nhốt dưới đầm là ai không? Thần tướng ấy rốt cuộc bị nhốt ở chỗ nào?”

Ứng Trạch nghiêng đầu, “Bản tọa chẳng phải đang ngồi trước mặt ngươi đây sao?”

Lâm Tinh chìa ra ngón tay run run, “Ông… ông…”

Ứng Trạch “ừm” một tiếng, “Bản tọa cứ quên không kể, năm xưa ở dưới trướng Thần Tiêu tiên đế, bản tọa từng được phong làm Thiên Trạch tướng quân.”

Nhân lúc Lạc Lăng Chi còn chưa quay lại, Lạc Việt khổ sở ôm trán. Chiêu Nguyên lí nhí hỏi, “Vậy chúng ta còn cần tới Vân Tung sơn nữa không?”

Lạc Việt ôm trán, “Nếu không đi, biết nói thế nào với Lạc Lăng Chi?” Nói, Lăng huynh này, xin lỗi nhé, vừa rồi đùa với huynh thôi, thật ra tiểu đệ rắn ngây thơ đáng yêu bên cạnh huynh đây chính là vị thần tướng kia đấy…?

Đỗ Như Uyên nói, “Đi chứ, vẫn phải đi, chúng ta đi cứu Nghênh Xuân Hoa.

Phệ cốt yêu thú dù gì cũng là một sinh mạng.”

Lâm Tinh nghiến răng hằm hè nhìn Ứng Trạch, “Sao ông không chịu nói sớm?”

Ứng Trạch nói, “Ồ, bản tọa thấy các ngươi hình như rất sợ tay thiếu niên họ Lạc kia biết một số chuyện, nên trên đường cố ý che giấu giúp các ngươi.”

Lúc ở trong khách điếm, bọn Lạc Việt rõ ràng không ở cùng phòng với Lạc Lăng Chi.

Ứng Trạch nói, “Lúc đó, bản tọa quên mất.”

Lão cố ý… lão rồng nhất định cố ý…

Nhác thấy bóng Lạc Lăng Chi quay lại, Lạc Việt gắng gượng khôi phục vẻ mặt bình thường. Lạc Lăng Chi vẫn nhận ra có gì đó không ổn, bèn cau mày hỏi, “Việt huynh, mọi người làm sao vậy, có phải khó chịu ở đâu không?”

Lạc Việt nở một nụ cười cứng ngắc, “Không sao, chắc tại uống nhiều trà quá, chướng bụng ấy mà.”

Lại ngồi thêm chừng một khắc nữa, Đỗ Như Uyên nhìn ra ngoài cửa sổ, đột nhiên đặt tách trà xuống, “Đến rồi.”

Ngoài cửa trà lâu rầm rập kéo đến một toán binh lính, tên dẫn đầu chỉ tay về phía bọn họ, “Giải xuống.”

Lâm Tinh lập tức đập bàn đứng dậy, Đỗ Như Uyên giơ tay, “Kỳ lân cô nương, xin cô nghe tại hạ một lần này, chớ manh động.”

Binh lính như thủy triều ùn ùn kéo đến bên bàn, tròng dây thừng trói bọn họ lại, giải ra ngoài. Có mấy cỗ xe lớn đang đỗ trước cửa, bọn Lạc Việt bị đám lính quăng vào trong xe như mấy túi bao gai. Chiêu Nguyên bị va đập, đầu óc quay quay, cũng may có Lạc Việt bị ném vào đầu tiên dùng thân mình đệm cho nó.

Xe ngựa chạy xòng xọc, dường như quành qua mấy con phố, sau cùng dừng lại, bọn họ lại bị binh lính lần lượt xách xuống. Nơi bọn họ xuống xe là đại môn một trang viên, trên cánh cửa sơn son đỏ, đóng đinh đồng mạ vàng treo một bức hoành lớn: Định Nam vương phủ.

Binh lính áp giải bọn họ vào trong, bên trong phủ Định Nam vương phòng ốc san sát, cây cối hoa lá đều là loại hiếm lạ, phong lưu phú quý vô cùng. Ngang qua một mảnh sân rộng nở đầy thược dược, xuyên qua một hành lang quanh co uốn lượn, trên đường rất nhiều gia nhân áo quần tươm tất đi qua đi lại, gặp bọn họ đều cúi gập người lùi sang một bên, đám nữ tỳ ai nấy đều cầm khăn tay đưa lên che miệng, như thể đang cười vụng.

Cuối cùng, cả bọn được giải vào một đại sảnh rộng rãi hào nhoáng. Gian sảnh rộng ngang với Tổ Sư điện của Thanh Sơn, nền lát gạch hoa, bày biện lộng lẫy, khiến Thanh Sơn đệ tử nghèo khó Lạc Việt cùng Chiêu Nguyên con rồng quê mùa lớn lên nơi lạch sông nhìn mà lóa cả mắt.

Chiêu Nguyên len lén huých Lạc Việt, “Vì sao chiếc bình đặt trong góc tường kia nứt lên nứt xuống, mà vẫn được đặt ở đấy?”

Lạc Việt thấp giọng nói, “Mấy vết nứt đó là cố ý nung ra như thế đấy, lò gốm bình thường không dễ gì nung được loại bình đó đâu.”

Chiêu Nguyên lĩnh ngộ gật đầu, cảm thấy người phàm trần có một số sở thích rất khó hiểu. Có vài tỳ nữ dung mạo xinh đẹp đứng trong sảnh, nghe thấy đoạn đối thoại của họ, lại bắt đầu lén đưa khăn tay che miệng. Lạc Việt hắng giọng, hỏi Đỗ Như Uyên, “Đệ có thù với Định Nam vương ư?”

Đỗ Như Uyên đáp, “Thù rất lớn.”

Như thể để phụ họa cho câu nói của gã, từ sau tấm bình phong ở một đầu đại sảnh vọng ra tiếng hừ lạnh lẽo. Một người thong thả bước ra từ sau tấm bình phong, Lạc Việt dựa vào nhãn quang sắc bén, phán đoán ông ta nhất định là Định Nam vương.

Người vừa bước ra tuổi chừng trên dưới bốn mươi, mặc trường bào màu tím sẫm, tướng mạo đẹp đẽ, đôi mày lưỡi mác khẽ chau, cặp mắt đen thắm lạnh lùng nhìn xoáy vào Đỗ Như Uyên, “Tiểu súc sinh, không phải quân lính tới bắt ngươi thì không được phải không!”

Đỗ Như Uyên cung kính lên tiếng, “Là cha kêu con cuốn xéo chớ có quay về mà.”

Lạc Việt có chút váng vất, “Đỗ sư đệ, ông ấy… ông ấy là…”

Định Nam vương bình tĩnh nhìn hắn, “Ta là cha nó.”

Câu nói có phần hời hợt này từ miệng Định Nam vương thốt ra, mang theo một luồng bá khí tao nhã âm thầm. Lạc Việt không kìm được giật giật khóe miệng, đây, đây chính là khí chất vương giả trong truyền thuyết rồi. Hôm nay rốt cuộc đã được mở mang tầm mắt… Hắn không kìm được liếc sang bên cạnh: Chiêu Nguyên – một con rồng, Lâm Tinh – một con kỳ lân, Ứng Trạch – một con rồng thần thời thái cổ. Giờ Đỗ Như Uyên lại biến thành con trai Định Nam vương, kể cả Lạc Lăng Chi tầm thường nhất, tốt xấu gì cũng là đại đồ đệ của Thiên hạ đệ nhất phái Thanh Huyền. Hắn âu sầu nghĩ, bản thiếu hiệp thật đúng là gặp may liên tiếp, tiện tay quơ bừa sang bên cũng túm được một nhân vật mà mỗi nhân vật đều mang đến một sự “ngạc nhiên thú vị” không nhỏ.

Định Nam vương sai người lần lượt cởi trói cho bọn Lạc Việt, chỉ có Đỗ Như Uyên vẫn bị trói. Định Nam vương nói, “Để bắt khuyển tử về phủ, bản vương đã đắc tội với các vị, thật lòng xin lỗi.” Khẩu khí hết sức nhẹ nhàng, nét mặt cũng khác hẳn vẻ lạnh lùng khi nhìn xoáy vào Đỗ Như Uyên.

Lạc Việt nắn bóp cánh tay bị trói tê rần, cười hùa nói, “Vương gia khách khí rồi.”

Chiêu Nguyên huých nhẹ Lạc Việt, nhỏ giọng hỏi, “Vì sao Đỗ Như Uyên vẫn còn bị trói?” Lạc Việt mấp máy khóe miệng nói khẽ, “Trần gian có câu tục ngữ, cha con là oan gia.” Chiêu Nguyên ngơ ngác không hiểu.

Đỗ Như Uyên bị trói vẫn bình thản ung dung, bộ dạng đối đầu với Định Nam vương, quả như oan gia cừu địch, ngấm ngầm cuộn từng cơn sóng dữ.

Lâm Tinh tặc lưỡi, “Tên mọt sách, không ngờ ngươi lại là thế tử của Định Nam vương, chẳng trách ngươi suốt ngày lộng thần giả quỷ, còn toàn nói tốt cho Định Nam vương.”

Đỗ là họ lớn khắp một dải Thành Châu, dân chúng trong thành mười nhà thì có đến bốn năm nhà họ Đỗ, lại thêm Đỗ Như Uyên lúc nào cũng thần bí cổ quái, nên bọn họ không hề ngờ thân phận của gã lại tôn quý nhường này. Một thế tử nhỏ nhoi nơi trần gian, đương nhiên không là gì trong mắt Lâm Tinh. Thấy cô cười nói với Đỗ Như Uyên, chẳng hề kiêng dè, đám tỳ nữ trong sảnh đều cho rằng giọng điệu ấy quá thiếu cung kính, không khỏi liếc xéo cô với vẻ bất mãn.

Định Nam vương trái lại, nhướng một bên lông mày, “Hở?” tiếp đó khóe miệng nhếch lên, “Tiểu súc sinh xem ra cũng còn chút lương tâm, biết nói tốt cho cha nó trước mặt người ngoài.”

Đỗ Như Uyên cúi đầu đằng hắng một tiếng. Lạc Việt lập tức tiếp lời, “Phải ạ phải ạ, Đỗ sư đệ ngày nào cũng ở trước mặt chúng tôi ca tụng Định Nam vương là vị vương gia anh tuấn uy vũ nhất trong thiên hạ, trung thành với triều đình, chăm lo cho bách tính. Nói nhiều đến nỗi chúng tôi đều thấy phiền chết được, thì ra đệ ấy là thế tử, chẳng trách.”

Khóe môi Định Nam Vương càng lúc càng nhếch cao, tuy ngoài mặt vẫn tỏ vẻ bình tĩnh, nhưng trong ánh mắt đã không giấu nổi nét vui mừng. Lạc Việt được đà đẩy thuyền, “Vương gia, thế tử cùng chúng tôi vội vàng quay về, thật ra là vì có chuyện này hết sức cấp bách, thế tử lo sẽ liên lụy đến vương gia, ruột nóng như lửa đốt, những mong vương gia nể tình thế tử một lòng hiếu thuận.”

Đỗ Như Uyên phối hợp rất ăn ý, càng cúi gục đầu, ra vẻ hiếu tử mắc cỡ.

Định Nam vương nhướng nốt bên lông mày còn lại, “Có chuyện gì cấp bách?”

Thấy Đỗ Như Uyên vẫn im lặng cúi đầu, Lâm Tinh sốt ruột cau mày, “Ngươi chớ làm vành làm vẻ trước mặt cha ngươi nữa đi. Này, Định Nam vương gia, tên tân thái tử kia dẫn theo một con yêu thú cùng mười mấy tiểu đạo sĩ lên Vân Tung luyện yêu sát thần, giờ có lẽ đã tới nơi rồi. Nếu gã ta bị yêu quái nuốt chửng trên địa bàn của ông, theo ông chuyện này có lớn hay không?”

Định Nam vương nhíu chặt đôi mày, thần sắc ngưng đọng.

Đỗ Như Uyên ngẩng đầu, “Đúng thế, cha, vị Lạc công tử này là đại đồ đệ Thanh Huyền, huynh ấy có thể làm chứng.”

Lạc Lăng Chi bước lên trước nửa bước, đang định mở miệng, Định Nam vương đã nghiêm nét mặt nói, “Trên đời lấy đâu ra quỷ thần. Cái gọi là thuyết quỷ thần đều chỉ do những kẻ có dụng tâm khác cố ý bày trò huyền hoặc mà thôi, đem thái tử điện hạ gán vào những chuyện thế này, chính là đại bất kính.”

Câu nói của ông ngoài mặt là giáo huấn con trai, nhưng ý tại ngôn ngoại lại làm Lạc Lăng Chi chột dạ, bèn nuốt lại những lời đã ra đến miệng. Đỗ Như Uyên nói, “Cha, cha không tin quỷ thần, nhưng thái tử tin, giờ gã đang lôi một con mãnh thú định tới Vân Tung lập đàn huyết tế, nhỡ đâu gã bị mãnh thú làm hại, chẳng phải sẽ đổ tội lên đầu nhà chúng ta hay sao? Trước mắt cứu thái tử là việc gấp, những chuyện đại bất kính tiểu bất kính khác về sau hẵng từ từ cân nhắc.”

Định Nam vương nheo mắt, “Chuyện này là thật ư?”

Đỗ Như Uyên cười khổ, “Con sao dám dựng chuyện kiểu này lừa gạt cha?”

Lâm Tinh đứng bên dửng dưng nói, “Không tin cũng không sao, cùng lắm là thái tử bị mãnh thú chén mất như món điểm tâm thôi.” Như để phụ họa câu nói của cô, bụng Ứng Trạch kêu lên òng ọc rất hợp cảnh, lão uể oải ngoác miệng ngáp, xoa xoa bụng, chép chép miệng.

Vẻ mặt Định Nam vương lão gia càng lúc càng nghiêm lại. Ông cao giọng gọi người theo hầu, dặn dò lập tức điều thân binh tới núi Vân Tung rà soát. Đỗ Như Uyên nói, “Cha, mấy người bạn này của con võ nghệ cao cường, chi bằng để chúng con cùng đi, có thể bảo vệ thái tử tốt hơn.”

Định Nam vương thoáng trầm ngâm, khẽ gật đầu, “Được.”

Trong tay Định Nam vương đều là tinh binh, giờ Tỵ bốn khắc đã có hai trăm thân binh tới tập kết ngoài thành, gia nhân vào báo đã chuẩn bị sẵn xe ngựa ở hậu viện, để thế tử và các vị đại hiệp dùng đi đường. Qua giờ Tỵ năm khắc có thể lập tức xuất phát. Đỗ Như Uyên thoáng nở nụ cười như có như không liếc nhìn Lâm Tinh, Lâm Tinh đương nhiên hiểu gã đắc ý vì đánh cược thắng cô, quay ngoắt đầu đi “hừ” một tiếng.

Định Nam vương phủ rất rộng, bọn họ được gia nhân dẫn đường, xuyên qua từng dãy hành lang, đi qua lớp lớp sân vườn, hậu viện dường như vẫn còn cách xa mười vạn tám ngàn dặm.

Những khóm thược dược đẹp tươi cùng vô vàn đóa hoa quý không rõ tên nở bừng rực rỡ, vây quanh thềm ngọc song son, phú quý hoa lệ, làm Chiêu Nguyên lóa cả mắt.

Lạc Việt vừa đi vừa nhìn ngang ngó dọc, bùi ngùi xúc động, “Đỗ sư đệ, ở đây bình thường ăn bữa cơm nhất định cũng rất bày vẽ phải không?” Hắn vẫn hay nghe nói trong đại trạch hào môn đều dùng xe kiệu thay cho đi bộ, còn nghĩ những người có tiền thật biết hưởng thụ, cất chân đi một bước cũng ngại, hôm nay xem như được lĩnh giáo lý do tất yếu ấy rồi.

Lâm Tinh gật đầu tán đồng, “Mọt sách, nhà của ngươi lớn thật đấy, gần bằng một nửa tẩm cung của ta.” Lạc Việt húng hắng ho, đưa mắt nhắc nhở cô, chớ quên bên cạnh còn có nam bộc nữ tỳ trong vương phủ. Mấy tỳ nữ đi theo họ đến hậu viện đều đang dùng ánh mắt kỳ quái nhìn trộm Lâm Tinh, lộ rõ vẻ khinh thường kẻ nói khoác. Lâm Tinh lè lưỡi, đổi chủ đề, “Hèm, sắp tới hậu viện nhà ngươi chưa?”

“Sắp tới rồi,” Đỗ Như Uyên nói.

Nhưng bọn họ không thể thuận lợi đến thẳng hậu viện, bởi giữa đường xảy ra chút sự cố. Một phu nhân không biết từ đâu đột nhiên nhào ra hành lang, giữ chặt lấy Đỗ Như Uyên, nước mắt lã chã, “Uyên nhi, cuối cùng con cũng trở về… Hai cha con về sau còn cố chấp ương ngạnh như vậy thì trước tiên cứ giết ta đi cho rồi… Từ nay con cũng đừng đi đâu nữa, đừng dọa ta nữa…”

Đám Lạc Việt thảy đều giật mình. Vị phu nhân đang khóc lóc ôm lấy Đỗ Như Uyên này, đầu cài trâm vàng châu ngọc, phục sức hoa lệ, dung mạo xinh đẹp dịu dàng, trông chỉ chừng trên dưới ba mươi tuổi. Một bầy tỳ nữ ào đến vây quanh bà, nhẹ nhàng khuyên giải, “Nương nương, người đừng khóc nữa, thế tử đã bình an trở về rồi mà.”

Lạc Việt tức thời hiểu ra, phu nhân dung mạo mỹ miều này hẳn là…

Đỗ Như Uyên dịu giọng nói, “Đúng vậy, mẹ, con chẳng phải đã khỏe mạnh trở về đây sao?”

Định Nam vương phi vẫn giữ chặt lấy tay áo Đỗ Như Uyên, nước mắt tuôn như suối, “Đừng dối ta, ta biết cả rồi. Con không được đi đâu hết, đợi ta đến tìm vương gia nói cho phải lẽ. Nhi tử vừa bước vào cửa nhà, thân mẫu còn chưa được gặp đã lại bị đuổi ra ngoài, đây là đạo lý gì chứ?”

Đỗ Như Uyên cười gượng, “Mẹ, lần này không liên quan đến cha, là con tự xin cha đi đấy…” Gã nói rõ nguyên do với vương phi, đáng tiếc vương phi vẫn không buông tay, nói thế nào cũng kiên quyết không để con trai ra khỏi nhà.

Chiêu Nguyên kéo kéo tay áo Lạc Việt, Lạc Việt hiểu con rồng nhỏ thấy Đỗ Như Uyên mặt mày khó xử, muốn hắn giúp gã nhưng chỉ đành lắc đầu, “Đây là chuyện gia đình người ta, không tiện nhúng tay vào.”

Lâm Tinh khoanh tay, nhàn nhã nói, “Hay cứ để quách tên mọt sách ở nhà cho xong, dù gì gã không biết võ công, chưa biết chừng đi chỉ ngáng chân chúng ta.”

Lạc Lăng Chi vốn đang im lặng cũng gật đầu tán đồng. Đỗ Như Uyên vùng vẫy ngoái lại, “Thế là không có nghĩa khí đâu.”

Vương phi chợt thất thần, cánh tay đang giơ khăn lau nước mắt lập tức chụp lấy ống tay áo gã, “Nghĩa khí? Uyên nhi, không phải con đi làm mấy cái trò hành hiệp giang hồ đấy chứ? Ta đã nói rồi mà, đống thoại bản truyền kỳ đó, đọc nhiều chẳng ích lợi gì đâu. Từ đầu đến cuối toàn đánh đánh giết giết, chính là lừa gạt đám trẻ tuổi chưa hiểu chuyện đời như con, khiến các con nghĩ múa đao sử thương kết bè đánh đấm là hay, sau này hối hận muốn rút chân ra cũng khó. Trò vui gì kiểu ấy, không màng vương pháp, lẫn lộn đạo lý, con tuyệt đối không được dính vào.”

Chiêu Nguyên nhìn Lạc Việt, nó cảm thấy, cha mẹ Đỗ Như Uyên hình như rất coi thường bọn họ. Cha Đỗ Như Uyên nói, quỷ thần đều là trò lừa bịp, mẹ Đỗ Như Uyên lại nói, giang hồ rất xấu xa. Đỗ Như Uyên trở tay giữ lấy hai tay vương phi, “Các bạn con đều xuất thân từ các môn phái giang hồ, mẹ nói mấy lời ấy trước mặt họ, có hơi khiếm lễ.”

Lạc Việt lập tức cười nói, “Không sao không sao, vương phi nương nương, mấy người chúng tôi đều xuất thân từ các chính phái giang hồ, được triều đình công nhận. Đặc biệt Lạc Lăng Chi thiếu hiệp đây còn là đại đệ tử của Thanh Huyền phái, Thiên hạ đệ nhất phái do hoàng thượng đích thân sách phong, thế tử và chúng tôi duyên bèo nước gặp gỡ, tuy là bạn bè, nhưng không hề dính líu đến chuyện giang hồ, lần này công chuyện phải làm là bảo vệ thái tử, bảo vệ giang sơn xã tắc, hết sức nghiêm chỉnh. Xin vương phi yên tâm.”

Vương phi chăm chú nhìn hắn, sắc mặt dần dịu lại, thoáng lộ vẻ áy náy, “Ta lo cho Uyên nhi, nhất thời lỡ lời, mong các vị lượng thứ.”

Lạc Việt vội nói không sao. Đỗ Uyên Nhi thừa cơ giật tay áo khỏi tay vương phi, đỡ lấy cánh tay bà, “Mẹ yên tâm, con chỉ đi núi Vân Tung một chuyến, cha còn phái theo hai trăm thân binh, vô cùng chu toàn, con nhất định đi sớm về sớm.”

Nước mắt vương phi lại trào ra, bà đưa khăn tay lên bịt chặt hai mắt, Đỗ Như Uyên tiếp tục kiên trì khuyên giải, phân tích từ trung quân báo quốc đến lễ nghĩa hiếu trung, mất độ một khắc, vương phi cuối cùng cũng gật đầu khe khẽ. “Con bị cha con trói gô về nhà, đến ngụm nước còn chưa kịp uống, tốt xấu gì cũng ăn bữa cơm trưa rồi hẵng đi…”

Đỗ Như Uyên như được đại xá, lập tức bỏ lại một câu, “Tính mạng thái tử can hệ đến xã tắc, không kịp mất.” Rồi cùng bọn Lạc Việt, Chiêu Nguyên, chạy như bay ra hậu viện.

Giữa khoảnh sân rộng rãi, xe ngựa đã chuẩn bị sẵn sàng, bảy tám người ngồi vẫn còn thừa chỗ, bốn cỗ tuấn mã kéo xe, hai người đánh ngựa đã nai nịt gọn gàng chỉ đợi xuất phát.

Lạc Việt đang định trèo lên xe thì liếc thấy bóng áo tím sẫm bước ra khỏi lùm cây. Định Nam vương uy nghiêm đứng bên cỗ xe ngựa, nhìn con trai, ôn tồn nói, “Làm gì cũng phải cẩn thận.”

Lạc Việt đứng bên cạnh nhìn, lòng thầm dâng lên câu nói, “Thương thay tấm lòng cha mẹ trong thiên hạ.”

Xe ngựa lao vun vút trên đường cái quan, rất nhanh, lại rất êm. Chiêu Nguyên dựa vào ghế gà gật. Nói như lời Lạc Việt thì, đồ dùng nhà vương gia có khác. Ghế ngồi trên xe ngựa được bọc đệm gấm dày, kê gối dựa êm ái, còn có thể kéo ra thành giường ngủ, trong xe ngựa có một chiếc bàn nhỏ, trong ngăn kéo ngầm dưới ghế có điểm tâm, quả, rượu, trà nước, cả một bộ cờ vây và một bộ cờ tướng. Ứng Trạch ăn mấy đĩa điểm tâm, uống đôi vò rượu, thu nhỏ người còn khoảng nửa thước rồi nằm trên gối dựa ngủ ngon lành. Đỗ Như Uyên và Lạc Lăng Chi chơi cờ giải sầu, Lâm Tinh và Lạc Việt ngồi ngoài làm khán giả. Chiêu Nguyên cũng rất muốn ngủ, nhưng nó cảm thấy Lạc Việt có gì đó là lạ, không vui vẻ như bình thường, nên gượng chống mí mắt mỏi mệt, chỉ dám hơi mơ màng, chuẩn bị sẵn sàng khuyên nhủ hắn. Đáng tiếc Lạc Việt lúc thì như có tâm sự, lúc lại như chẳng có gì bận tâm, Chiêu Nguyên xem chơi cờ không hiểu, tiếng ngáy của Ứng Trạch bên tai càng lúc càng ru nó vào giấc ngủ. Nó dựa vào vách xe, ý thức dần trở nên mông lung mơ hồ, xe ngựa tròng trành nó mới giật mình mở mắt, vội vàng tìm Lạc Việt, Lạc Việt kê cho nó một cái gối dựa, chân thành nói, “Ngủ đi.”

Chiêu Nguyên “ừm” một tiếng, tựa gối vào Lạc Việt, bấy giờ mới biến lại thành hình rồng, nằm trên gối, nó nghĩ ở gần Lạc Việt sẽ tiện thực thi trách nhiệm của thần hộ mạch hơn, rồi an tâm chìm vào giấc ngủ.

Chiêu Nguyên ngủ một giấc đến tận sẩm tối, tỉnh dậy, cả bọn đã tới một vùng hoang dã cách Vân Tung sơn chừng ba trăm dặm. Hai trăm tinh binh đi theo đang dựng lều trại cho ngựa ăn, chuẩn bị ngủ qua đêm ở đây, ngày mai tiếp tục lên đường. Họ mang theo lương khô, lại kiếm thêm vài món từ chim muông thú rừng, bữa tối vô cùng thịnh soạn.

Có điều nhìn con thỏ rừng bị xuyên qua cành cây nướng, Chiêu Nguyên bỗng nhớ đến thỏ tinh cô nương từng cứu mạng Lạc Lăng Chi, nên khi một binh sĩ đưa cho nó miếng đùi thỏ nướng vàng bóng mỡ da giòn thịt mềm, nó khéo léo đa tạ rồi từ chối. Lạc Lăng Chi cũng không ăn thịt thỏ nướng, Chiêu Nguyên chìa cho y một miếng cánh gà quay, Lạc Lăng Chi mỉm cười lắc đầu. Lạc Việt vừa nhồm nhoàm gặm đùi gà vừa nói, “Không cần nhường đâu, huynh ấy ăn chay.”

Chiêu Nguyên rất ngạc nhiên, Lạc Việt nuốt miếng thịt gà ngao ngán giải thích, Thanh Huyền là danh môn đại phái, giới luật ngặt nghèo, môn hạ đệ tử nhất lượt phải ăn chay, bữa nào cũng rau xanh củ cải. Đương nhiên, những môn đồ khác sẽ không thành thực tuân thủ, rất nhiều kẻ lén lút kiếm mấy món mặn ăn vài miếng, nhưng người trung hậu thật thà như Lạc Lăng Chi tuyệt đối không làm chuyện đó, y trước sau nghiêm túc ăn chay, chưa từng phá giới. Chiêu Nguyên nhớ lại, trên đường đi, Lạc Lăng Chi hình như quả thật chỉ ăn đồ chay, vì bọn họ đi đường ăn uống vốn không ngon lành gì, nên nó mới không chú ý đến chuyện này. Mấy ngày nay nó đã được thưởng thức không ít mỹ thực dân gian, đủ để biết Lạc Lăng Chi quyết tâm ăn chay phải có nghị lực lớn nhường nào, giả như bắt Lạc Việt ăn chay, chắc chưa đầy một tháng, hắn đã chết vì tương tư uất ức mất. Ánh mắt Chiêu Nguyên nhìn Lạc Lăng Chi trở nên khâm phục sâu sắc.

Ứng Trạch ngồi bên cạnh gặm thịt gà nhìn sang Lạc Lăng Chi tỏ ý khen ngợi, “Ừm, thiếu niên, có nghị lực, ắt thành đại sự.”

Lạc Lăng Chi nở nụ cười, “Chỉ là tôi từ nhỏ đã thế, quen rồi.”

Ăn xong bữa tối, mỗi người về lều của mình nghỉ ngơi, Lâm Tinh đi bên cạnh Lạc Việt và Chiêu Nguyên, nhìn theo bóng lưng Lạc Lăng Chi cách đó một đoạn, nhíu mày, “Ta không thích tên Lạc Lăng Chi này. Các ngươi có thấy hắn rất giả không?”

Chiêu Nguyên ngơ ngác ngẩng đầu, Lâm Tinh bổ sung, “Chính là nói hắn rất hay làm bộ làm tịch, giả đóng vai người tốt, giả thanh cao đại loại thế.”

Đỗ Như Uyên lắc đầu, “Hầy, cô nương hình như cũng dùng mấy từ ngữ này hình dung về tại hạ, trong mắt cô, ngoài Lạc Việt huynh ra, lẽ nào không còn ai ra dáng nữa sao?”

Lâm Tinh bĩu môi, “Ta thèm vào cãi nhau với ngươi. Cách giả của Lạc Lăng Chi không giống ngươi, nói thế nào nhỉ, y chuyện gì cũng thập toàn chu đáo, hoàn mỹ vô khuyết, thành ra giả. Người thông thường đều rất có tâm cơ.”

Chiêu Nguyên nghe mà đầu óc quay quay, nó cảm thấy, Lạc Lăng Chi không giống như Lâm Tinh nói.

Lạc Việt cười ha hả, “Lâm Tinh, cô khéo lo rồi, ta và Lạc Lăng Chi quen biết bao năm, con người y nhìn thì có vẻ tâm cơ thâm trầm, nhưng thật ra tiếp xúc lâu rồi sẽ biết y chỉ lên gân vậy thôi, cứng nhắc lắm.”

Lạc Việt còn nhớ, năm xưa mấy vị sư huynh vừa bỏ sang Thanh Huyền, hắn mười hai tuổi trở thành đại đệ tử, trách nhiệm bỗng dưng nặng hơn rất nhiều, đầu tiên là phải giúp sư phụ và các sư thúc lấp đầy bụng các sư đệ. Thế là ngày nào hắn cũng lên ngọn núi gần đó đào rau dại, Lạc Lăng Chi không hiểu sao rất vô sỉ cũng vác mai đi đào cùng hắn, cướp miếng ăn của hắn. Lạc Việt nổi giận, để bảo vệ rau dại của Thanh Sơn đã một mình khiêu chiến Lạc Lăng Chi, Lạc Lăng Chi lại đem hết số rau mình đào được trút vào sọt tre của Lạc Việt. Lạc Việt giận càng thêm giận, vơ rau vứt đi, “Chớ có làm bộ giả vờ giả vịt. Ngươi đang cười nhạo Thanh Sơn chúng ta phải không?”

Lạc Lăng Chí cúi người nhặt rau, “Không phải.”

“Không phải? Thế là ngươi thương hại chúng ta? Thanh Sơn chúng ta không cần ai thương hại. Đặc biệt là Thanh Huyền các ngươi.”

Lạc Lăng Chi ôm rau dại đứng dậy, áo quần vốn sạch sẽ thẳng thớm giờ đã nhàu nhĩ, còn lấm lem bùn bẩn, “Không phải vậy.”

Lạc Việt chẳng buồn để ý đến y, xách sọt đi sang hướng khác, Lạc Lăng Chi vẫn như âm hồn vảng vất sán lại, “Tôi xin lỗi.”

Câu xin lỗi này, Lạc Việt nghe rất chối tai.

Lạc Lăng Chi nói tiếp, “Lạc Việt, chúng ta là… bạn bè.”

Lạc Việt như bị kim châm nhảy dựng lên, “Ai thèm làm bạn với người Thanh Huyền. Cút về bên sư phụ ngươi đi.” Đoạn lại xách sọt tre, rảo bước bỏ đi.

Lạc Lăng Chi không bám theo nữa. Đi được một đoạn rất xa rồi, Lạc Việt quay đầu nhìn lại, vẫn thấy một chấm đen đứng nguyên chỗ cũ, bất động.

Đến nay nhớ lại chuyện xưa, Lạc Việt đã có thể hiểu được, các sư huynh đi nương nhờ Thanh Huyền là vì bọn họ chê nghèo ham giàu muốn vịn cành cao. Chuyện trong môn phái, Lạc Lăng Chi khi đó mới mười hai mười ba tuổi không thể can dự, không nên trút giận lên đầu y. Nhưng khi đó hắn còn nhỏ tuổi, nghĩ rằng cả Thanh Huyền từ trên xuống dưới đều là đồ xấu xa, Lạc Lăng Chi cũng là một trong những cừu địch bức hại Thanh Sơn.

Lạc Việt miệng ngậm nhành cỏ nằm trong lều nhớ lại chuyện xưa, cảm giác có gì đó khẽ chạm vào cánh tay, hắn bất giác sực tỉnh, phát hiện con rồng ngốc đang ngồi chồm hỗm bên cạnh, đưa bao nước cho hắn. Lạc Việt ngồi dậy, đón lấy hớp mấy ngụm, chùi mép, rồi đưa trả cho Chiêu Nguyên, “Đa tạ.”

Chiêu Nguyên lấy lại bao nước, ôm trước ngực, hai mắt vẫn nhìn hắn không chớp, “Lạc Việt, có phải huynh… có chuyện gì không vui không?”

Lạc Việt xoay xoay nhành cỏ vừa cắn, “Chà, cũng không có gì chỉ là nghĩ ngợi vài chuyện thôi.”

Chiêu Nguyên “ồ” một tiếng. Lạc Việt không định nói cho nó biết là chuyện gì, chứng tỏ thần hộ mạch này vẫn chưa được tín nhiệm hoàn toàn. Chiêu Nguyên buồn thiu, nó đánh bạo nói, “Huynh… nếu có chuyện gì nghĩ không thông… có thể nói với tôi.”

Lạc Việt trợn tròn mắt, bật cười ha hả, vỗ vai nó, “Khá lắm khá lắm, càng ngày càng tiến bộ. Đệ ra ngoài bao lâu thế, có nhớ cha mẹ không?”

Chiêu Nguyên “ừm” một tiếng, “Nhớ.” Nó rất nhớ tiếng gầm gừ của phụ vương, tiếng càm ràm của mẫu hậu, cả tiếng đại ca nhị tỉ cãi vã, đệ đệ muội muội nũng nịu phì bọt nước. “Nhất là hôm nay khi mẹ Đỗ Như Uyên ôm huynh ấy khóc, tôi rất nhớ mẫu hậu tôi.”

Lạc Việt thở dài thườn thượt, “Có cha có mẹ thật khiến người ta ngưỡng mộ.”

Chiêu Nguyên bỗng nhớ ra, Lạc Việt chưa từng được gặp cha mẹ mình, có lẽ cuộc gặp với Định Nam vương và vương phi hôm nay khiến hắn hoài vọng về cha mẹ. Nó máy miệng, định an ủi Lạc Việt, nhưng lại nhận ra không biết nên nói thế nào. Chỉ đành lần nữa đưa tay lên vụng về chạm vào hắn. Nhìn nó dè dặt cẩn trọng, Lạc Việc thấy hơi kỳ lạ, con rồng ngốc dạo gần đây càng ngày càng giống tiểu tân nương, làm hắn cứ ngỡ mình đang dắt theo một nương tử rấm sẵn. Hắn rất muốn góp ý, thật ra đệ sôi nổi mạnh dạn lên thì tốt hơn, nhưng sợ làm tổn thương trái tim non nớt, yếu đuối của con rồng ngốc, nên thôi.

Đúng lúc ấy, Lâm Tinh vén mành cửa bước vào lều, Đỗ Như Uyên theo sau cô. Thấy Lạc Việt và Chiêu Nguyên đều đang có vẻ ngập ngừng, Lâm Tinh hiếu kỳ dò hỏi Lạc Việt, hai người vừa rồi nói chuyện gì.

Lạc Việt gãi gãi đầu, “Ồ, đang nói chuyện cha mẹ, xưa nay ta vẫn cho rằng không có cha có mẹ sống cũng rất tốt, nhưng hôm nay ở vương phủ chứng kiến Đỗ sư đệ và vương gia vương phi một nhà ba người, lòng thấy rất ngưỡng mộ.”

Lâm Tinh ngồi xuống tấm đệm bên cạnh, gật đầu, “Ừm, đặc biệt là Định Nam vương cha tên mọt sách, ngoài mặt tỏ ra cứ như có thù với ngươi, nhưng kỳ thực lại rất thương ngươi. Hơi giống phụ vương ta, đều là kiểu người dữ miệng. Này, rốt cuộc vì sao ngươi lại cãi nhau với cha đến nỗi bỏ ra khỏi nhà?”

Câu hỏi này trên đường đi Lâm Tinh đã hỏi gã rất nhiều lần Đỗ Như Uyên trước sau chỉ đáp duy nhất một câu, “Chuyện kể ra dài lắm.” Sau đó chẳng nói gì nữa. Lần này cũng vậy.

Lâm Tinh không bỏ cuộc, khéo léo khơi gợi, “Cha ngươi nhìn có vẻ rất nghiêm khắc, kể chuyện thái tử ông ấy còn cho rằng chúng ta bất kính, kêu mấy chuyện quỷ thần đều là gạt người, lẽ nào ta, con rồng ngốc và cả lão rồng đang ngủ như lợn kia đều là giả sao?”

Ứng Trạch nãy giờ vẫn nằm trong góc lều ngáy khò khò ngẩng đầu dậy, nghiêm giọng nói, “Bản tọa vẫn đang lứa trẻ khỏe sung sức.”

Tất cả mọi người đều chọn cách lờ lão đi, Ứng Trạch nói xong, lại ngả đầu ngủ tiếp. Đỗ Như Uyên lộ vẻ bất lực, “Gia phụ phải nỗi trung thành mù quáng, xưa nay vẫn khăng khăng cho rằng mấy chuyện quỷ thần huyền pháp đều là đặt điều vô căn cứ.”

Lâm Tinh trợn tròn mắt, “Hả?”

Lạc Việt xoa mũi, “Vậy ông ấy chẳng phải rất không vừa mắt với kiểu môn phái tu đạo Thanh Sơn và Thanh Huyền chúng ta sao?”

Đỗ Như Uyên u ám kể rằng, đối với các môn phái tu đạo, Định Nam vương không chỉ không vừa mắt, mà là vô cùng ngứa mắt. Định Nam vương từng nhiều lần viết tấu chương gửi hoàng đế lên án kịch liệt đám đạo sĩ hòa thượng lộng thần giả quỷ lừa gạt bách tính, nói triều đình công khai phong thưởng môn phái tu đạo, là tai họa của triều chính, làm lây lan mầm độc trong thiên hạ. Vì vậy hoàng thượng mới không tiếp kiến Định Nam vương, mấy năm nay chưa từng triệu ông về kinh thành. Lâm Tinh lầm bầm, “Vậy ngươi cứ để Thương Cảnh hiện nguyên hình, chứng minh cho ông ta thấy đi.”

Đỗ Như Uyên lắc đầu, “Vô dụng, ông sẽ nói ta không biết học đâu ra phép chướng nhãn lừa gạt ông.”

Chiêu Nguyên chợt vỡ lẽ, chẳng trách Đỗ Như Uyên khi nói chuyện với cha, chỉ nói thái tử dẫn theo mãnh thú, chứ không phải yêu thú.

Đỗ Như Uyên bước tới khoảng đệm trống bên cạnh, sắp xếp chăn gối, Thương Cảnh từ đỉnh đầu gã chậm chạp bò xuống, chui trước vào trong chăn. Ai nấy đều lặng đi, không khí có chút ngượng ngập. Lạc Việt xoa cằm, nói vu vơ, “Ta thấy Đỗ sư đệ tướng mạo giống lệnh tôn hơn, còn lông mày khuôn miệng có vẻ giống lệnh đường.”

Đỗ Như Uyên ngồi xuống đệm, cười nói, “Đấy không phải mẹ ruột đệ đâu.”

Lạc Việt sững sờ, lập tức nói, “Xin lỗi đệ.”

“Không sao.” Đỗ Như Uyên vẫn rất bình thản, “Ngoài việc không sinh ra đệ, còn thì không khác gì mẹ ruột, đối với đệ, bà chính là người mẹ duy nhất.”

Liên quan đến chuyện đời tư nhà người khác, không tiện nhiều lời. Lạc Việt định đổi chủ đề, nhưng chưa nghĩ ra nên nói gì. Chiêu Nguyên ngồi bên đã ngờ nghệch lên tiếng, “Vậy mẹ ruột huynh…”

Lạc Việt thầm thở dài, Lâm Tinh nhìn nó đầy bất lực. Chiêu Nguyên giơ chân gãi đầu, hoang mang nghĩ, hình như mình lại vừa nói sai rồi.

Vẻ mặt Đỗ Như Uyên vẫn rất bình thường, thản nhiên nói, “Đi rồi.”

Lạc Việt không kịp bịt miệng Chiêu Nguyên, lại nghe nó ngớ ngẩn hỏi câu thứ hai, “Đi đâu?”

Đỗ Như Uyên chỉ tay lên trên, “Lên trời.”

Lạc Việt giật tay áo Chiêu Nguyên, ngăn nó tiếp tục lỡ lời, rồi lại uyển chuyển nói, “Đỗ sư đệ! Đệ giờ tuổi trẻ tài cao, lệnh đường dưới cửu tuyền nhất định sẽ cảm thấy được an ủi.”

Vẻ mặt Đỗ Như Uyên có chút phức tạp, “Mẹ ruột đệ, vẫn chưa qua đời.”

Chưa qua đời? Lạc Việt thấy đầu óc quay quay, Lâm Tinh ngạc nhiên nói, “Ngươi nói mẹ ruột ngươi lên trời rồi, nhưng không phải qua đời, lẽ nào là…”

Lạc Việt vẫn không kịp ngăn Chiêu Nguyên, để nó lại hỏi câu nữa, “Bà ấy thành tiên ư?”

Đỗ Như Uyên gỡ chiếc khăn vuông trên đầu, chậm rãi gấp lại, “Mọi người có muốn nghe một câu chuyện không?”

Lạc Việt, Chiêu Nguyên và Lâm Tinh lập tức ngồi thẳng người, nhất tề gật đầu, ngay tiếng ngáy của Ứng Trạch trong góc cũng im bặt.

Đỗ Như Uyên nói, “Chuyện này, kể ra thì dài lắm. Trước kia, có một thiếu niên thế này…”

Câu chuyện của Đỗ Như Uyên quả nhiên rất dài rất dài, giống một thiên truyền kỳ trong thoại bản hoặc hí văn.

Trước kia, có một thiếu niên xuất thân quý tộc, mười ba tuổi đã được phong làm quận vương. Tuổi còn trẻ đã ở địa vị cao như vậy khó tránh kiêu ngạo, thiếu niên quận vương thích xa xỉ, ưa phóng khoáng, kết giao với rất nhiều quý tộc tử đệ thân phận tương đương ngày ngày chọi gà đua ngựa, chơi bời mặc sức. Một ngày nọ, thiếu niên quận vương đi vào rừng sâu săn bắn, gặp một ông lão tóc trắng, ngồi dưới gốc cây ven rừng, xin quận vương một cốc nước mát. Quận vương thấy ông lão tóc bạc phơ, già nua yếu ớt, bèn sai thủ hạ lấy một bao đựng đầy nước, vứt lại trước mặt ông. Ông lão không nhặt bao nước, cũng không lên tiếng đa tạ, quận vương chẳng buồn phí công lỡ việc, thúc ngựa tiếp tục lên đường. Đến khi vào sâu trong rừng, không biết từ đâu xuất hiện một đạo nhân, chắn trước ngựa quận vương.

Quận vương bèn ghìm ngựa hỏi y vì cớ gì chắn đường mình, đạo nhân hỏi, vừa rồi có phải vương gia gặp một ông lão xin nước hay không? Vương gia cư xử với ông ta thế nào? Quận vương trả lời, đúng là có gặp, bản vương bảo thuộc hạ bỏ lại bao nước cho ông ta. Đạo nhân lại hỏi, đi đường gặp người già, vương gia vì sao không đích thân bưng nước tới mời, mà chỉ cao cao tại thượng vứt nước bố thí? Lễ đãi kẻ hiền đức, kính trọng bậc cao niên, vốn là đức tính người đời ai cũng cần có.

Bị một đạo nhân chẳng biết từ đâu chui ra vô cớ chặn đường, chất vấn một chuyện vớ vẩn, quận vương đương nhiên thấy rất hoang đường. Chàng nghĩ, kẻ xin nước tuy già cả, nhưng chỉ là một thường dân, ông ta xin nước cũng đâu hành lễ theo quy củ, mình không so đo thì thôi, còn cho ông ta một bao nước, đã là khoan dung đại độ rồi. Kiểu chỉ trích không biết kính trọng người già này thật nực cười. Giả như chàng thực sự là người không biết lễ nghĩa, sao có thể nhẫn nại để một tên đạo nhân lạ hoắc chắn trước ngựa càm ràm lâu la. Đạo nhân bèn nói, có đôi bạc triệu cũng chưa giàu, yên ổn hòa bình mới là phúc, vương gia tuy giờ là quận vương cao quý, nhưng đến khi bằng tuổi cụ già xin nước kia, tình cảnh thế nào còn chưa biết được, sao có thể dễ dãi luận tôn ti? Đạo nhân lời sâu ý dài khuyên nhủ quận vương, khiêm nhường đức độ, tích phúc tích thiện mới có thể xướng vinh lâu dài. Quận vương cuối cùng nhẫn nhịn không nổi nữa, mắng đạo nhân ngu xuẩn vô tri. Chàng chẳng qua ngẫu nhiên có lòng thiện, tặng bao nước cho người bên đường, lại bị đạo nhân lỗ mãng chặn đường, thuyết giảng một bài đạo to lý lớn chẳng đâu vào đâu. Chàng có đức hay vô đức không mượn người ngoài bình luận, con người sống trên đời, cần phải nghĩ gì làm nấy, kịp thời hành lạc, mới không phí hoài thời gian. Đạo nhân nói, quận vương dựa vào quyền thế lúc này có thể mặc sức làm gì thì làm, nhưng có ba thứ bình thường trong dân gian, y dám đánh cược, quận vương tuyệt đối khó lòng kiếm được. Bị lời nói của đạo nhân khiêu khích, quận vương cùng đạo nhân lập giao ước cá cược, nếu chàng thua, từ nay về sau trên đường gặp người già cả, bất luận sang hèn, chàng đều sẽ cung kính đối đãi, còn nếu đạo nhân thua, sẽ phải tự trói quỳ trước cửa vương phủ ba ngày thị chúng. Đạo nhân khom người chấp thuận. Quận vương hỏi ba thứ bình thường trong nhân gian đạo nhân nói là những gì, đạo nhân đáp rằng, một là chiếc khăn ấm lòng, hai là người dùng chân tâm đối đãi cùng chàng, ba là một bát cơm trắng cứu đói.

Đạo nhân quận vương giao hẹn thời hạn cá cược là nửa năm. Quận vương cảm thấy vụ cá cược này chỉ là chuyện nực cười bất luận thế nào chàng cũng không thể thua.

Chiếc chăn bông có thể làm ấm lòng căn bản không phải tìm. Trong vương phủ đã có chăn gấm giường mây tốt nhất thiên hạ, lấy bừa mấy chục cái đắp lên người, đừng nói là ấm lòng, giữa tháng Chạp đông hàn có muốn nóng như thiêu như đốt cũng được. Quận vương tự nhận mình đánh bạn bốn phương, bạn bè đối đãi chân thành dùng đấu đong cũng không hết. Còn về bát cơm trắng có thể cứu đói, lại càng buồn cười hơn cả, ở đâu mà chẳng kiếm được một bát?

Quận vương vui vẻ tiếp tục đi săn, thuộc hạ của chàng giương cung bắn chim nhạn, lại vô tình bắn trúng một con hạc trắng bay ngang. Quận vương bấy giờ tâm trạng rất tốt, thấy hạc trắng rơi xuống đất run bần bật rất đáng thương, bèn sai thuộc hạ thả đi, tiện thể còn bôi ít thuốc trị thương lên cánh cho nó.

Về tới vương phủ, chàng nhàn nhã đếm ngày trôi, đợi qua kỳ hạn nửa năm.

Ai ngờ chỉ trong mấy tháng, chàng đã gặp phải biến cố long trời lở đất.

Hoàng đế băng hà, không để lại di chiếu. Tiên đế có tất cả hai vị hoàng tử, đều vẫn còn non nớt, rốt cuộc để ai kế vị, các phe phái thế lực trong triều tranh cãi không thôi. Cuối cùng, bốc thăm ở điện Phụng Thần, đại hoàng tử Hòa Thiều trúng thăm kế vị, đổi niên hiệu thành Sùng Đức, xưng là Sùng Đức đế. Thái hoàng thái hậu, thái hậu, tam công cùng quốc sư Phùng Ngô phụ chính. Thừa tướng Triệu Sơ và Chấn Quốc tướng quân ủng hộ nhị hoàng tử nên không phục, mưu đồ bức cung đoạt vị, bị trấn áp.

Thiếu niên quận vương có chút giao tình với Chấn Quốc tướng quân, bị liên lụy đánh đồng là loạn đảng, truất vương tước, tịch biên phủ đệ, bản thân bị giải về kinh thành, tống vào tử lao.

Khi quận vương bị áp giải về kinh thành, đang đúng độ tháng Chạp rét mướt, trên người chàng chỉ có độc bộ quần áo tội nhân mỏng manh cùng đôi giày cỏ chè vè, chân tay nứt toác vì lạnh, bị xiềng xích gông cùm cọ xát, bật cả máu tươi đầm đìa. Những người thường ngày giao thiệp nịnh bợ, xưng huynh gọi đệ tự nhận là bằng hữu tri kỷ của chàng đều sợ liên lụy, tránh né thật xa, không ai dám tới thăm. Trên đường đi chàng thường xuyên ngất xỉu vì lạnh hoặc đói, nay chiếc màn thầu cứng như đá lúc này cũng chẳng khác nào mỹ thực.

Ngang qua một vùng rừng núi, có một đạo nhân đạp tuyết bước lại, đứng chờ sẵn bên đường đón xe tù. Đạo nhân hỏi, “Vương gia còn nhớ chuyện cá cược với bần đạo không?”

Quận vương sực nhớ ra, hôm nay chính là ngày cuối cùng trong thời hạn nửa năm của vụ cá cược đó. Chỉ nửa năm, chàng từ một quận vương hô mưa gọi gió đã biến thành một tội đồ sa sút. Ba thứ chàng từng cho rằng tầm thường như đất cát giờ chẳng có nổi một.

Chàng đã thua rồi. Lòng quận vương lạnh ngắt, đến khi chàng bừng tỉnh ngộ, xe tù đã đi thêm một quãng rất xa, đạo nhân không đi theo nữa, chàng vẫn chưa thể mở miệng nhận thua. Quay đầu nhìn lại, chỉ thấy sau lưng mênh mông trắng xóa, trống không, giữa đất và trời dường như chẳng có gì hết. Chàng nản lòng thối chí, nhân lúc được binh lính thả khỏi xe tù ăn uống, nghỉ ngơi, chàng bèn nhảy xuống vách núi.

Nhảy xuống vách núi vẫn không chết là luật bất di bất dịch cho các nhân vật chính. Đến khi tỉnh lại từ cơn hôn mê, quận vương phát hiện ra mình ở trong một căn nhà lá, trên người đắp một mảnh chăn bông, tuy thô lậu, nhưng ấm áp lạ thường. Trong căn nhà lá thoang thoảng hương thuốc xen lẫn hương thức ăn, vấn vít màn hơi ấm.

Có một thiếu nữ, bưng một chiếc bát bốc khói nghi ngút, nhoẻn cười thật tươi với chàng.

Nụ cười này, là nụ cười đẹp nhất quận vương từng được thấy trong đời. Thiếu nữ tên gọi Hà Tiên kể rằng mồ côi cả cha lẫn mẹ, sống một mình trong căn nhà nhỏ nơi sơn cốc này, tình cờ phát hiện ra quận vương hôn mê, liền cứu chàng về đây.

Quận vương nói với thiếu nữ, chàng là kẻ tử tù bị kết tội mưu phản, nếu cứu chàng, sẽ bị liên lụy. Chi bằng sớm giải chàng giao cho quan phủ. Thiếu nữ lại nói, khi thiếp cứu chàng, đã biết chàng là ai. Có lẽ chàng không nhớ, nhưng chàng là ân nhân cứu mạng thiếp, thiếp từng lưu lạc vào vương phủ, là chàng đã sai người thả thiếp đi, mối ân tình này, thiếp suốt đời không quên. Quận vương quả thật không nhớ nổi một nghĩa cử như vậy, chỉ mang máng nhớ cách đây một hai năm tổng quản từng mua về một nhóm gia nô, chàng thấy không cần thiết, đã thả tất cả về nhà, coi như ban ân đức cho họ, có lẽ Hà Tiên chính là một trong số đó. Thật không ngờ hành động vô tâm này lại giữ cho chàng một tia sinh cơ, cuối cùng người cứu chàng lại là một tỳ nữ khi xưa.

Hà Tiên dốc lòng chăm sóc quận vương. Nàng đội gió tuyết vào thành trì gần đó mua thuốc cho chàng, nửa đêm còn ngồi canh bên lò lửa sắc thuốc, tay lạnh cóng vừa sưng vừa đỏ. Gia cảnh nàng bần hàn, chỉ có thể làm cơm canh đạm bạc, ăn cơm độn kê, rau dưa muối qua mùa đông, không hề có chút chất tanh nào. Nhưng quận vương lại cảm thấy, những món ăn này còn đáng quý hơn cả sơn hào hải vị chàng ăn trước đây.

Thương thế của quận vương dần dần hồi phục, đêm ba mươi Tết, Hà Tiên không biết kiếm từ đâu ra một ít gạo trắng, nấu được nửa nồi cơm, dọn cùng ít bầu muối rau khô, làm bữa cơm tất niên. Đón lấy bát cơm đong đầy, nhìn thiếu nữ đang mỉm cười với mình, lòng quận vương dâng lên một ý nghĩ đã ấp ủ từ lâu. Chàng nghĩ, nếu mình cả đời cứ ẩn cư trong sơn cốc thế này, có lẽ lại là chuyện hoàn mỹ hạnh phúc nhất. Bởi chàng đang được đắp chiếc chăn bông ấm lòng, đang được cầm trên tay bát cơm trắng nóng hổi, trước mắt lại có người chàng muốn ở bên cả đời.

Chàng đã từng gặp không ít hào môn thiên kim, Hà Tiên so với bọn họ chẳng qua chỉ là một thiếu nữ thanh tú mảnh khảnh, không có dung nhan diễm lệ như thược dược, không có phong thái yêu kiều cao sang, nhưng nhìn nụ cười của nàng, chàng cảm thấy mình đã có được mọi thứ trân quý nhất trên đời. Nhưng giờ chàng vẫn là một tội đồ mưu phản đang lẩn trốn, chàng không làm được gì cho Hà Tiên, chỉ gây liên lụy đến nàng, chàng không có tư cách hỏi nàng có đồng ý ở bên mình cả đời hay không. Chỉ hiện tại thôi, chàng đã đủ mãn nguyện rồi, chàng lờ mờ dự cảm, những ngày này sẽ không còn lâu nữa.

Quả nhiên, khi tuyết đông bắt đầu tan, có một đám binh sĩ tiến vào sơn cốc, vây lấy căn nhà lá. Quận vương chắn trước mặt Hà Tiên. Từ đám lính bước ra một người, quỳ một gối xuống trước mặt chàng, “Vương gia, thánh thượng đã tra xét rõ ràng, chuyện mưu phản không liên quan gì đến vương gia. Chúng tiểu nhân vâng mệnh mời vương gia trở về.”

Chỉ trong mấy tháng trời, quận vương đã lần lượt nếm trải những thăng trầm lớn nhất của đời người. Chàng từng mất trắng tất cả chỉ trong một đêm, giờ tất cả những thứ đã mất lại trở về trong tay. Nghe nói, là nhờ quốc sư Phùng Ngô quyền thế nhất bấy giờ giúp chàng lật lại bản án chứng minh chàng vô tội, và trước mắt, triều đình đang có chuyện gấp quan trọng cần chàng ra sức. Thái hoàng thái hậu phụ chính, giúp thế lực họ ngoại bành trướng, không coi Sùng Đức đế đang còn nhỏ tuổi vào đâu, dám cả gan giành ngôi đoạt vị.

Quận vương dẫn binh trấn áp đám phản loạn ngoại thích, tù tử tội mưu phản năm xưa trở thành hộ quốc công thần. Hoàng thượng ban lại cho chàng vương hàm, cắt rất nhiều đất đai cho chàng làm đất phong. Chàng trở thành một trong bốn vị vương gia nắm trọng binh trong tay, quyền thế lớn mạnh. Giữa khi đang quyền cao đắc ý, chàng làm một chuyện khiến người đời kinh ngạc, đó là lấy một thiếu nữ thôn dã xuất thân hàn vi làm vương phi. Chàng lập lời thề, đời này chỉ có duy nhất một thê tử, vĩnh viễn không lập trắc phi.

Đêm động phòng hoa chúc, trên giường tân hôn của vương gia chỉ có một tấm chăn thô ráp, dưới nến đỏ bày hai bát cơm trắng. Mọi người đều không hiểu lý do vì sao, ý nghĩa của hai món đồ này, chỉ có chàng và nàng hiểu. Khi vén tấm khăn trùm đầu, nắm lấy bàn tay Hà Tiên, quận vương cảm thấy, đời này kiếp này chàng không còn mong gì hơn nữa.

Từ đó, vương gia và Hà Tiên phu xướng phụ tùy, nắm tay bầu bạn.

Đỗ Như Uyên cầm bao nước lên, dốc một ngụm, hỏi, “Nghe câu chuyện này, mọi người có cảm tưởng thế nào?”

Lạc Việt, Chiêu Nguyên và Lâm Tinh nãy giờ vẫn thần người lắng nghe không chớp mắt, lúc này mới hơi nhúc nhắc cử động gân cốt cứng ngắc.

Lạc Việt nói, “Khiến người ta đắm chìm trong suy tư, chứa đựng tính giáo dục.”

Chiêu Nguyên nói, “Vỡ vạc rất nhiều đạo lý.”

Lâm Tinh nói, “Có tác dụng khuyên răn đám người phàm tầm nhìn hạn hẹp.”

Lạc Việt lại nói, “Cảm giác trong cõi hư không tự có nhân quả, nhưng…” Hắn gãi đầu, vị vương gia trong truyện cuối cùng nên duyên với người có chân tâm, nghe chừng không khớp với tình hình Định Nam vương bây giờ.

Đỗ Như Uyên chậm rãi nói, “Câu chuyện chưa kết thúc, tiếp theo vẫn còn một đoạn.”

Vương gia lấy được Hà Tiên, phu xướng phụ tùy, tay trong tay bầu bạn sống những ngày hạnh phúc, lại lĩnh ngộ được đạo lý trọng đức tích đức, bỏ tính ương bướng tự mãn, xử sự khoan dung nhân từ, đặc biệt kính trọng người già, đối với ai cũng khiêm tốn nhã nhặn.

Một ngày, vương gia đích thân ra đường phát chẩn thuốc, giúp bách tính ngăn ngừa bệnh dịch theo mùa, đạo nhân đánh cược với chàng dạo nào bỗng lại xuất hiện, nói, “Giữa vương gia và vương phi là nghiệt duyên, nàng ta chẳng phải loài thiện lương, vương gia nên sớm đuổi đi, cắt bỏ mối nghiệt duyên này, mới có thể tránh được họa thương tâm.”

Vương gia nổi giận, nói với đạo nhân, “Tiên sinh từng có ơn điểm hóa, đúng lẽ thì bản vương phải bái tạ, nhưng nói những lời hại người như thế, dù có là tiên sinh, bản vương cũng quyết không cho phép.” Đoạn lạnh nhạt bỏ đi.

Đạo nhân thở dài sau lưng chàng, “Cũng đành, lão vốn không ưa nói chuyện thị phi, chỉ là không nhẫn tâm thấy ngươi bị lừa. Ngươi vốn không phải chịu kiếp nạn này, giờ xem ra, cũng khó mà tránh được.”

Vương gia không màng để tâm.

Hơn một năm sau, vương phi mang thai, vương gia mừng vui khôn xiết, vương phi hoài thai mười tháng, đến lúc lâm bồn là vào mùa đông. Khi đứa trẻ sắp chào đời, vương phi nén cơn đau khổ sở cầu xin vương gia đuổi hết bà đỡ và tỳ nữ đi, chỉ để lại một mình nàng. Vương gia đương nhiên không thể đồng ý, vương phi khóc lóc không thành, đột nhiên toàn thân tỏa ra dị quang, bà đỡ và các tỳ nữ trong phòng đều thiếp đi. Giữa vầng hào quang, vương phi tự dưng mọc cánh, nói với vương gia, kỳ thực nàng không phải người phàm, mà là một con hạc trắng thành tiên, phụ trách coi sóc tiên tỳ trên Dao Trì.

Vương gia vô cùng kinh ngạc, lúc này mới vỡ lẽ vương phi chính là con hạc năm xưa mình từng cứu, nhưng chàng vẫn nói, nàng cứu ta tuy vì báo ân, nhưng về sau đôi ta cùng phải lòng nhau, bất kể là người hay tiên ma yêu quái, nàng vẫn là người con gái duy nhất ta yêu hơn tất cả. Dù cho nàng là tiên, ta là người, ta vẫn muốn cùng nàng tay ấp má kề, đời đời kiếp kiếp không phân ly.

Hà Tiên lại nói, vương gia, chàng nhầm rồi, thiếp cứu chàng hoàn toàn không phải để báo ân, thiếp phụng mệnh Thiên đình điểm hóa chàng, đến nay con đã sinh ra, duyên phận đã hết, đến lúc phải về Thiên đình phục mệnh rồi. Thì ra năm xưa, thời tổ tiên của vương gia chỉ là một võ tướng bình thường, có lần ngang qua một vạt rừng núi, trông thấy miếu Sơn thần quá đỗi cũ nát, tượng thờ đổ sập, liền xuất tiễn kiếm người trùng tu miếu mạo, đắp mới tượng thần. Ngày sau vương gia tập tước lại kiêu ngạo hống hách, Sơn thần niệm tình nghĩa của tổ tiên chàng, quyết định điểm hóa để chàng hiểu ra rằng phú quý dễ mất, phải biết quý trọng phúc đức, nên dâng thư thỉnh tấu Ngọc đế, được ân chuẩn xong thì vừa hay trong số mệnh quận vương có một đại kiếp nạn, Sơn thần liền hóa thành ông lão xin nước và đạo nhân để điểm hóa chàng.

Chuyện này vốn không can hệ gì đến một tiểu tiên nga như Hà Tiên, trùng hợp thay, có vị tiên quân trên trời muốn mời Sơn thần uống rượu, bèn phái nàng xuống trần truyền tin, không ngờ vừa tới nhân gian đã trúng phải tên của thuộc hạ quận vương.

Hà Tiên chỉ là một tiểu thiên nga, nhưng lại hay tự tung tự tác. Sau khi gặp Sơn thần, biết chuyện ông điểm hóa quận vương, nàng bèn thưa lại sự tình với vương mẫu, nói rằng cách thức của Sơn thần là chưa đến nơi đến chốn. Nhân thể đã nhờ một mũi tên mà kết thành duyên phận với quận vương, nàng quyết định hạ phàm lần nữa, giúp quận vương thấu triệt rằng mọi phồn hoa ân oán tình duyên trên đời trông có vẻ thiên trường địa cửu, nhưng chỉ là mây khói thoảng qua mà thôi.

Vốn dĩ, quận vương ngồi trong xe tù, sau khi gặp được đạo nhân trong cơn gió tuyết, sẽ lập tức có sứ thần từ kinh thành xuất hiện, tuyên đọc thánh chỉ xá tội, Sơn thần định dùng cảm giác thoắt mất thoắt được này để khiến chàng tỉnh ngộ. Nhưng Hà Tiên lại dùng pháp thuật khiến sứ thần lạc đường, ngựa hụt chân té xuống khe núi, ngất lịm trong đống tuyết. Sau đó quận vương nhảy xuống vực, sau đó nữa, Hà Tiên chuyển quận vương vào căn nhà lá, nhốt chàng hàng tháng trời trong sơn cốc hẻo lánh, để người của triều đình tìm khắp nơi không thấy chàng. Không phụ công nàng khổ công nhọc sức, quận vương ở trong nhà lá, ăn mấy tháng ngô khoai củ cải dưa muối, cuối cùng đã triệt để lĩnh ngộ đạo lý cần lĩnh ngộ.

Hà Tiên rơi nước mắt nói, thiếp vì muốn chàng hiểu tình cảm trần tục trên thế gian chẳng qua chỉ là thứ hư không, bèn hạ giá lấy chàng, sau đấy cũng từng lo sợ, nhỡ đâu không điểm hóa nổi chàng mà bản thân lại rơi vào phàm tình tục thế thì phải làm thế nào. Cũng may, có thể xem như công đức viên mãn, con đã sinh ra rồi, thiếp phải quay về Thiên đình phục mệnh thôi.

Hà Tiên dần hóa thành một con hạc tiên màu trắng, vỗ cánh, cửa sổ tự động mở ra, hạc tiên tung cánh bay vút ra ngoài cửa sổ.

Trong gian phòng tĩnh lặng, vương gia đứng trơ như gỗ đá, trong đống chăn gấm trên giường cạnh chàng, là một quả trứng khổng lồ.

Lạc Việt, Chiêu Nguyên, Lâm Tinh đều trợn mắt há miệng.

Lạc Việt nói, “Khụ, đây đúng là một câu chuyện giáo hóa người đời…

nhưng…”

Chiêu Nguyên giơ tay gãi đầu, nó không dám ăn nói lung tung nữa, nhưng…

vì sao, nó cảm giác, cha của Đỗ Như Uyên thật đáng thương, ông ấy đã bị bỡn cợt. Hầy, dùng từ “bỡn cợt” cho người phàm giống đực có hơi không thích đáng thì phải?

Lâm Tinh buột miệng, “Điểm hóa cái thá gì chứ, lừa cưới thì đúng hơn.” Rồi cô lập tức phân trần với Đỗ Như Uyên, “Xin lỗi nhé ta không có ý bất kính với ai đâu, ta chỉ đánh giá bản thân câu chuyện thôi.”

Lạc Việt cảm khái, “Trước kia ta còn mơ tưởng được một tiên nữ dịu dàng xinh đẹp phải lòng, giờ xem ra, tiên nữ đúng là không dễ lấy.” Hắn nói với Đỗ Như Uyên, “Ta cũng chỉ là cảm thán đôi chút trước câu chuyện này thôi.”

Đỗ Như Uyên im lặng, nhưng Lâm Tinh lại tiếp chuyện, “Con gái tiên tộc không phải ai cũng thế đâu, cô ta là ngoại lệ cá biệt. Nếu là ta…”

Lạc Việt chăm chú nhìn cô, Lâm Tinh liền hoảng loạn lắp bắp, “Nếu là ta, thì sẽ không làm chuyện như vậy.”

Lạc Việt “ừ” một tiếng, trong lòng thầm nhủ, cô chắc xông xáo làm chuyện khác.

Chiêu Nguyên nhỏ giọng nói, “Trạch Đàm biểu tỉ cũng không thế.”

Lâm Tinh chớp mắt nhìn nó, “Trạch Đàm biểu tỉ là ai?”

Chiêu Nguyên ngượng nghịu cúi đầu, mặt nóng bừng. Lạc Việt xoa cằm cười gian, thì ra con rồng ngốc này vẫn hay nhung nhớ đến biểu tỉ của nó.

Lâm Tinh chọc chọc Chiêu Nguyên, “Đừng có ấp úng như tiểu tân nương thế, nói đi nói đi mà, Trạch Đàm biểu tỉ kia có phải con rồng cái ngươi thích không?” Cô chống cằm ra vẻ suy nghĩ, “Ồ, tứ hải long vương đều là biểu cữu công của ngươi, suy ra biểu tỉ này là long công chúa nhà long vương gia? Nhãn quang không tệ mà.”

Mặt Chiêu Nguyên càng lúc càng nóng, hệt như lửa đốt, nó ấp úng đính chính, “Không, không phải vậy…”

Lạc Việt trượng nghĩa kịp thời ra tay, giúp nó chặn đứng Lâm Tinh, “Thôi thôi, đừng lạc đề nữa, tóm lại, bất kể là người phàm hay thần tiên, đều có vài người kiểu…” dù gì cũng là mẹ ruột Đỗ Như Uyên, không thể nói gì nhiều, Lạc Việt lược bớt những lời phía sau, “kiểu vậy.”

Lâm Tinh nhìn Lạc Việt, tươi cười tán đồng, bèn không truy hỏi Chiêu Nguyên nữa. Chiêu Nguyên cảm kích nhìn Lạc Việt, đưa tay cào cào góc tay áo hắn.

Trong góc lều đột nhiên vang lên một giọng nói u ám, “Nói rất phải.” Mọi người đưa mắt nhìn, chỉ thấy Ứng Trạch không biết từ lúc nào đã bò dậy khỏi đống chăn, ngồi xếp bằng trên đệm, người toát đầy hàm ý, “Người cũng vậy, tiên cũng vậy, đều có những kẻ vì muốn trèo cao mà không biết liêm sỉ lừa gạt người khác, thực đáng ghét vô cùng.” Trên đầu lão tụ lại một đám mây đen, đùng đoàng lóe lên một tia sét nhỏ trắng lóa, “Những kẻ lừa gạt tình cảm người ta, tội đều khó tha.”

Ai nấy đều kỳ vọng nhìn lão, lặng lẽ đợi những lời tiếp theo, ngỡ rằng sẽ được nghe thêm một đoạn thị phi tình cảm.

Không ngờ Ứng Trạch lạnh tanh nói xong câu ấy, lại rúc vào chăn ngủ tiếp.

Lâm Tinh lầm bầm, “Gì chứ, chẳng bao giờ để lộ chút chân tướng nào, toàn hậm hực suông.”

Lạc Việt một lần nữa định hướng chủ đề, “Đỗ sư đệ, đệ vẫn chưa kể xong chuyện, tiên nga hóa hạc bay đi rồi, sau đó vương gia thế nào?”

Đỗ Như Uyên tiếp tục kể.

Hạc tiên bay đi rồi, vương gia ốm nặng mất mấy ngày.

Trong thời gian lâm bệnh, chàng hạ lệnh không ai được phép đến gần phòng vương phi. Người trong vương phủ đều lấy làm lạ, từ khi vương phi hạ sinh, cửa phòng luôn khóa im ỉm, đám tỳ nữ chỉ dám đặt cơm nước ở trước cửa, qua mấy canh giờ lại đến thu dọn, cơm canh căn bản không được động tới. Kẻ hầu người hạ rỉ tai nhau rằng vương phi sinh khó nên đã bạc mệnh trong lúc lâm bồn, ngay bên ngoài cũng xôn xao đồn đại. Mười ngày sau, bọn họ đột nhiên nghe thấy tiếng trẻ khóc vọng ra từ phòng vương phi, liền đi bẩm báo vương gia.

Vương gia gượng lết tấm thân bệnh tật vào phòng vương phi. Không ai biết bên trong xảy ra chuyện gì, độ nửa canh giờ sau, vương gia xuất hiện ở ngưỡng cửa, ôm trong lòng một đứa trẻ khóc oa oa, nói với đám người dưới rằng vương phi đã qua đời. Khi hạ táng, vương gia tự đặt di thể vương phi vào áo quan, rồi lập tức sai người đóng đinh bịt chặt. Mãi đến nay vẫn còn vô số lời đồn đại về vương phi, có người nói nàng đột tử, có người nói đứa trẻ nàng sinh không phải của vương gia, nên vương gia đã giết chết nàng.

Từ đó trở đi, vương gia bắt đầu căm hận thuyết quỷ thần, chàng nói quỷ thần đều là thứ bịa đặt lừa gạt người đời, và kiên quyết cho rằng thần tiên, huyền pháp thảy đều không tồn tại.

Một lần nữa, căn lều lại chìm trong yên lặng. Chiêu Nguyên có cảm giác bất lực về ngôn từ. Đỗ Như Uyên kể với giọng bình thản, kỳ thực thâm tâm cũng không dễ chịu chút nào. Lạc Việt ngập ngừng, “Đỗ sư đệ, ta có một câu muốn hỏi, chuyện này… làm thế nào đệ biết được?”

Đỗ Như Uyên tỏ tường chuyện xưa, nhất định là do có người kể cho nghe. Định Nam vương đã cưỡng ép bản thân tin rằng tất cả chỉ là một giấc mộng hư ảo, thì chắc chắn ông không phải là người kể cho gã, vậy người đó là ai?

Đỗ Như Uyên nói, “Người cho đệ biết sự thật chính là mẹ ruột đệ. Chỉ riêng phần sau khi mẹ bay đi, là đệ nghe được qua những mẩu chuyện ngồi lê đôi mách của người ăn kẻ ở trong nhà.”

Lạc Việt, một lần nữa, đờ đẫn vì kinh ngạc. Đỗ Như Uyên nói tiếp, “Hằng năm, vào ngày mười lăm tháng Tám, mẹ đều giáng trần thăm đệ. Mẹ thuật chuyện xưa, hỏi đệ có thể thông cảm cho mẹ không.” Gã nở nụ cười, “Vì vậy, chắc mọi người đã hiểu vì sao đệ có khả năng nhìn thấy những thứ người thường không nhìn thấy rồi.”

Lạc Việt gật đầu. Đỗ Như Uyên thế này, kỳ thực nên coi là nửa người nửa tiên, hay nửa tiên nửa người đây? “Vậy người mẹ hiện giờ của đệ…”

Đỗ Như Uyên nói, “Mẹ hiện giờ là tiểu thư nhà thái phó, vốn có hôn ước từ nhỏ cùng cha.”

Về sau Định Nam vương cưới Hà Tiên, gạt chuyện đính ước sang một bên, nhà thái phó cũng không nói năng gì. Về sau lời đồn Định Nam vương giết thê tử lan truyền ra ngoài, không ai dám gả con cho ông tục huyền, ngờ đâu thiên kim tiểu thư mãi chưa thành thân, nhà thái phó lại trở thành vương phi đời sau của ông.

Lâm Tinh gật gù, “Chẳng trách ta luôn ngờ ngợ ngươi khác những người bình thường. Mọt sách, thật ra ngươi cũng rất khỏe đấy tự mình từ trong trứng chui ra, cũng may ngươi sinh vào mùa đông, nếu là mùa hạ, có khi chưa đợi ngươi trèo ra khỏi vỏ, quả trứng đã ung mất rồi.”

Đỗ Như Uyên lắc đầu quầy quậy, “Đây gọi là thiên phú dị bẩm. Hồi nhỏ cũng là vì vô tình nhìn thấy quy huynh, tại hạ mới biết mình không giống người bình thường.” Thuở bé gã hay bị người ta chỉ trỏ, nói gã không phải là con đẻ của vương phi. Một hôm, gã nhìn thấy có người đứng bên ao cá, từ xa nhìn về phía mình, bèn hỏi gia nhân người kia là ai, không ngờ gia nhân kinh hãi thất sắc, thưa bên ao cá làm gì có ai. Có người đem sự việc bẩm lên vương gia, ông bèn rút gậy lớn nện gã một trận tơi bời, đe rằng về sau còn dám lộng thần giả quỷ sẽ bị đánh gãy chân. Đỗ Như Uyên ăn đòn thừa sống thiếu chết, may có mẹ ngăn cây gậy của cha, đưa gã về phòng.

Không bao lâu sau, vết thương lành, gã lại phát hiện một con rùa nằm bên ao cá, hình như đang phơi nắng. Đương tuổi trẻ dại tinh nghịch, gã chạy tới bắt rùa, con rùa rất ngờ nghệch, mặc cho gã làm gì thì làm. Đỗ Như Uyên đem rùa lật qua lật lại vần chơi hồi lâu, cuối cùng lấy một cái chậu rỗng, đổ đầy nước thả rùa vào, mang về nuôi ở phòng.

Gia nhân thắc mắc, tiểu thế tử, người đặt chậu nước trong phòng làm gì? Bấy giờ gã mới hiểu, người khác không nhìn thấy con rùa trong chậu. Gã đâm sợ, con rùa bèn bò ra khỏi chậu, đột nhiên mở miệng nói tiếng người, trấn an gã. Kết quả lại càng khiến Đỗ Như Uyên khiếp vía, khóc bù lu bù loa, đương khi nước mắt tèm lem, gã trông thấy con rùa hóa thành một người, bước tới trước mặt, xoa đầu gã, giúp gã lau nước mắt, đó chính là người gã từng nhìn thấy bên ao.

Lạc Việt càng lúc càng khâm phục Đỗ Như Uyên, câu chuyện tuổi thơ của gã chẳng khác nào chuyện ma, vậy mà Đỗ Như Uyên hồi nhỏ đã thật gan dạ, không hề sợ đến đần người đi.

Lâm Tinh trỏ Thương Cảnh đang nằm trong chăn, nói, “Ôi chao, hổ thay một đại trưởng lão Quy tộc, lại dùng cách hiện thân này đi lừa trẻ con. Còn suốt ngày chê người khác nông cạn.”

Đỗ Như Uyên nói, “Trước kia thân mẫu tới thăm tại hạ mỗi năm một lần, nhưng hễ tại hạ đem kể với cha thì đều bị đánh cho một trận, về sau mới biết người khác không nhìn thấy thân mẫu, nên dần dần cũng quen với những chuyện như thế.” Thương Cảnh vẫn ngủ im bên tay gã, Đỗ Như Uyên nói tiếp, “Từ ấy, quy huynh ở bên cạnh tại hạ, rất nhiều kiến thức, đều do huynh ấy dạy, đối với tại hạ, quy huynh vừa là bạn vừa là thầy.”

Chiêu Nguyên ngưỡng mộ nhìn Thương Cảnh, càng lúc càng cảm thấy mình rất không đủ tư cách. Lâm Tinh có thể bảo vệ Lạc Việt, Thương Cảnh dạy cho Đỗ Như Uyên bao nhiêu thứ, còn nó, không giúp nổi Lạc Việt thì thôi, trái lại còn để Lạc Việt kè kè chỉ bảo giúp đỡ. Nó cúi đầu thở dài.

Đỗ Như Uyên lại nói, “Hôm nay kể lại những chuyện cũ này, cũng là vì muốn nói với Lạc Việt sư huynh, cha đệ tỏ thái độ căm ghét thuyết quỷ thần, khăng khăng cố chấp là có nguyên do, trên thực tế, trong lòng ông rõ hơn ai hết, chỉ hiềm không muốn thừa nhận mà thôi. Vì vậy chỉ cần tìm được cách thích hợp, khiến ông tin rằng huynh là hậu nhân Hòa thị, ông chắc chắn sẽ giúp huynh.”

Lạc Việt ngẫm nghĩ, quá khứ của Định Nam vương thực sự quá đau thương, nếu vì muốn lôi kéo sự giúp đỡ của ông mà đào xới vết thương này lên, thì có vẻ hơi không nhân đạo, hắn bèn nói, “Tới lúc đó hẵng hay. Trước mắt cần giải quyết ổn thỏa chuyện thái tử và Nghênh Xuân Hoa cái đã.”

Sự kiện thái tử giờ đã trở thành trò cười, thực sự không còn kích thích được nhiệt tình của ai nữa.

Lâm Tinh ngáp dài, “Nếu không phải muốn xem xem Lạc Lăng Chi rốt cuộc giấu giếm điều gì, ta cũng chẳng buồn tới đó đâu.”

Lạc Việt nói, “Chưa biết chừng lại được xem cảnh thái tử lên đồng, rất đáng giá mà.”

Thông thường thực hiện nghi thức tế lễ, đều phải vẽ trận đồ trên mặt đất, bày một cái bàn dài, thắp hương nến, đốt vàng mã, khua kiếm gỗ đào, xõa tóc di chuyển theo bộ pháp, Lạc Việt tưởng tượng thái tử trong tình cảnh ấy, cảm thấy rất đáng mong đợi.

Trời đã tối muộn, mấy người ai về chỗ nấy, ngả đầu nằm ngủ. Lạc Việt mau chóng chìm sâu trong mộng đẹp, cảm giác Chiêu Nguyên bên cạnh giật giật gấu áo hắn, “Tôi sẽ không kém cỏi thế mãi đâu.” Lạc Việt ậm ừ một tiếng, tiếp tục thiếp đi.

Chiêu Nguyên nằm bên mép gối, rúc đầu vào góc chăn, rốt cuộc phải làm sao mới có thể mau chóng biến thành một thần hộ mạch mạnh mẽ đây.

Ngoài lều màn đêm đen đặc, trăng sáng treo cao, chiếu đến nơi này, cũng chiếu cả nơi kia. Dưới chân núi Vân Tung, căn lều lớn của thái tử đã dựng xong, chỉ đợi trưa ngày mai là bày trận làm phép.

Đám thân binh canh gác lều lớn đi qua đi lại tuần tra, trong một căn lều nhỏ, mấy đệ tử Thanh Huyền cùng vây quanh một chiếc lồng sắt. Trong lồng sắt là một con cọp con bé bỏng nằm cuộn tròn, nó đã biết điều gì đang đợi mình vào ngày mai, gân yêu của nó đã bị Phụng Đồng chặt đứt, không làm phép được nữa, cũng không thể biến thành hình dạng khổng lồ. Nó buồn bã nằm im, thỉnh thoảng le lưỡi liếm vết thương chưa lành ở chân trước bên phải.

Đêm sắp canh ba, phải bôn ba đi đường mấy ngày liên tiếp, vài đệ tử còn nhỏ trong Thanh Huyền đã bắt đầu thấm mệt.

Một tiểu đệ tử len lén ngáp, quay sang nói với sư huynh bên cạnh, “Nếu chuyện ngày mai thành công, sư phụ sẽ trở thành quốc sư thật chứ?”

Sư huynh nọ trừng mắt nhìn sư đệ, “Be bé cái mồm thôi, chớ để thân binh bên ngoài nghe thấy. Bọn họ đều là người của vương phủ, chưa biết chừng lại đi báo cáo với tên Phụng Đồng kia đấy.”

Tiểu đệ tử rụt cổ, “Nhưng đệ thấy, thái tử vô cùng coi trọng Phụng Đồng, hơn nữa người đó còn rất lợi hại. Nghe nói hắn một mình phóng hỏa thiêu trụi cả Thanh Sơn, con phệ cốt thú này cũng là do hắn hàng phục.”

Sư huynh hừ mũi, “Có lợi hại nữa cũng đâu thể bằng sư phụ? Phụng Đồng là phụ tá của An Thuận vương, thái tử đương nhiên sẽ nể mặt thân phụ mà tôn trọng hắn. Nhưng thái tử là đồ đệ của sư phụ. Bảo vật của Thanh Sơn và cả chuyện ngày mai, đều sư phụ dạy thái tử. Theo ta thấy, tên Phụng Đồng kia không thể sánh với sư phụ được.”

Các đệ tử còn lại đều thi nhau khen phải, lại có một đệ tử lên tiếng, “Hôm đó, đại sư huynh và thái tử nói chuyện xong liền từ biệt quay về, ngay chào cũng không chào chúng ta một tiếng, chắc là vội về báo cáo hoặc bàn bạc đối sách với sư phụ. Không biết ngày mai sư phụ và đại sư huynh có tới đây không.”

Nghênh Xuân Hoa nằm co ro trong lồng, lời những người này nói nó đều nghe hiểu, nó biết ngày mai mình sẽ phải chết, bọn họ muốn giết nó, đem máu của nó bôi lên một cái vại. Nghênh Xuân Hoa rất sợ hãi, nó vô cùng nhớ chủ nhân.

Vốn dĩ phệ cốt thú non sau khi sinh ra không lâu sẽ bị mẹ bỏ rơi, để mặc bọn chúng tự sinh tự diệt. Bọn chúng là yêu thú, bộ dạng xấu xí, người phàm trông thấy đều sợ hãi. Nhưng bọn chúng có một cách tự vệ bẩm sinh, đó là biến thành thú nhỏ đáng yêu, khiến các con thú cái khác sinh lòng thương mến mà đem về nuôi dưỡng.

Một ngày đầu xuân, Nghênh Xuân Hoa bị vứt lại trên sườn núi, nó dầm mưa một ngày một đêm, thoi thóp hơi tàn, đến sáng hôm sau, mưa dàn tạnh, có một con cọp mẹ dẫn cọp con tới gần đó tìm thức ăn. Trông bầy cọp con vờn qua giỡn lại, lăn lộn chơi đùa rất vui vẻ, Nghênh Xuân Hoa liền biến thành một con cọp con, định để cọp mẹ thu dưỡng mình. Đáng tiếc là nó đã không bò dậy nổi nữa, cọp mẹ không chú ý gì đến nó, cứ thế dẫn bầy cọp con rời đi. Nghênh Xuân Hoa rất tuyệt vọng, đúng lúc này, đột nhiên có tiếng người vang lên bên trên, “Sư huynh sư huynh, ở đây có con cọp con, hình như có linh khí, là linh thú.” Tiếp đó nó được một đôi bàn tay ấm áp nhẹ nhàng nhấc lên, dưới ánh nắng rạng ngời, lần đầu tiên nó trông thấy vẻ mặt vui cười của chủ nhân. Chủ nhân nói, “Ta nhặt được ngươi trong bụi hoa nghênh xuân, nên sẽ gọi ngươi là Nghênh Xuân Hoa nhé.” Chủ nhân tắm rửa chải lông cho nó, bón đồ ăn ngon, lại ôm nó ngủ. Chủ nhân nói, “Ngươi phải biến thành linh thú lợi hại bậc nhất, để ta mở mày mở mặt.”

Vậy nên nó muốn bảo vệ chủ nhân, ai dám ức hiếp chủ nhân nó liền cắn người đó. Nghênh Xuân Hoa muốn ở bên cạnh chủ nhân mãi mãi.

Chủ nhân…

Nghênh Xuân Hoa khép mắt, giọt lệ lăn ra từ khóe mắt rơi xuống chân trước của nó, ngấm vào vết thương xon xót.

Tiểu đệ tử chỉ cái lồng, “Sư huynh, nó khóc này.”

Sư huynh hừ mũi, “Đại sư huynh suýt nữa bị nó cắn chết. Có khóc đáng thương nữa cũng vẫn là yêu thú.”

Gió đêm thổi tung tấm mành vải che lều. Dưới ánh trăng, một bóng người đứng trên cành cây bên hông doanh trại của thái tử dõi mắt nhìn xuống. Mọi chi tiết trong trại đều lọt vào tầm mắt hắn, kể cả cuộc thảo luận của các đệ tử Thanh Huyền nơi căn lều nhỏ ban nãy.

Phụng Đồng đứng lặng thinh giữa gió hiu hiu.

Mấy thứ “hùng tâm tráng chí” của đám người trần thật nực cười, thì ra chưởng môn Thanh Huyền có mưu đồ này. Phụng Đồng nhớ lại ở Luận võ Đại hội, Trọng Hoa Tử hễ gặp hắn là tỏ vẻ xun xoe nịnh bợ, mở miệng ra là Đồng tiên sinh, rõ ràng đã nhìn thấu thân phận phụng thần của hắn, trắng trợn tỏ ý muốn được Phụng Đồng tiến cử, bái kiến Phụng quân. Thế mà sau lưng lại giở ngón tiểu xảo này.

Trọng Hoa Tử xúi bẩy thái tử làm chuyện này, là muốn gã dứt bỏ thần hộ mạch, thái tử vâng theo, chứng tỏ đã nuôi sẵn ý định như thế. Nên khen gã một tiếng có hoài bão chăng? Phụng Đồng khẽ cười. Gã ta cho rằng từ người biến thành thần tiên dễ dàng thế sao?

Phụng Đồng đã thám thính kỹ càng núi Vân Tung, cả ngọn núi thấp thoáng tiên khí, hẳn là do một món binh khí tiên gia hóa thành. Xiềng xích chế tạo bằng huyền thiết vạn năm dưới đầm nước lạnh mọc đầy rêu xanh, quả thật đã từng giam giữ một vị tiên gia pháp lực cao cường. Đáng tiếc đến nay dây xích đã đứt, tiên gia sớm đã không thấy tăm tích đâu nữa.

Tâm huyết lần này của Hòa Trinh, định sẵn là công cốc.

Phụng Đồng rất biếng nhác, huynh trưởng Phụng Ngô đã phò tá được hai đời hoàng đế, còn hắn vẫn ngày ngày ung dung tự tại đi theo Phụng quân uống trà chơi cờ ngủ nghê. Nếu không phải Phụng quân sai bảo, cộng thêm việc phò tá loạn thế quân vương có vẻ thú vị, còn lâu hắn mới qua lại với đám người trần mắt thịt này. Phụng Đồng không hiểu, cớ gì ban đầu Phụng quân phải tranh đoạt ngôi thần, sửa đổi thiên mệnh vì người trần, hắn cảm thấy không đáng phải làm chuyện như vậy cho họ. Ví như hiện nay, hắn phụng mệnh giúp đỡ Hòa Trinh, nhưng động tĩnh của ba thần mạch kia còn thu hút hắn hơn.

Lòng tham không đáy, không tự biết mình, những tật chung của người phàm, Hòa Trinh phạm phải không thiếu tật nào, cứ để gã nếm chút đắng cay khổ cực, may ra sẽ được một bài học dài lâu. Phụng Đồng nhìn về phía căn lều lớn của thái tử, tự nhủ tạm thời không hiện thân, khoanh tay đứng nhìn, để mặc Hòa Trinh tự làm khổ mình.

Tự khổ đủ rồi sẽ yên ổn được đôi chút.

Phụng Đồng nheo mắt, từ khóm cây cạnh doanh trại chợt tỏa ra một làn khói trắng đáng ngờ, đám thân binh đi tuần từng người một im lặng gục xuống. Tiếp đó, một bóng đen từ bóng tối nhảy ra, chạy vụt tới căn lều nhỏ nhốt phệ cốt thú, nhẹ nhàng nhét một ống tiêu mảnh qua kẽ hở mành lều, thổi vào bên trong. Độ một tuần trà, bóng đen luồn vào lều, thoáng chốc ôm theo một thứ chạy ra, nhảy vút vào khóm cây, băng ra con đường mòn.

Phụng Đồng thích thú nhướng mày, thứ bóng đen ôm chạy mất, hình như chính là con phệ cốt thú giả cọp kia. Hắn hơi lưỡng lự không biết nên tiếp tục đứng đây trông thái tử, hay đuổi theo xem thế nào?

Có vẻ đuổi theo sẽ thú vị hơn. Hắn búng ngón tay, đám thân binh đang hôn mê dưới đất lập tức bật dậy như bị sét đánh, sau khi ngơ ngác nhìn quanh thì hò nhau hét lớn, “Không hay rồi! Có thích khách! Bảo vệ thái tử.”

Đến đây, Phụng Đồng phẩy tay áo, đạp gió đuổi theo hướng bóng đen vừa chạy trốn. Hắn cố tình không ẩn thân, gió quật qua tà áo phần phật, đám thân binh ngẩng đầu nhìn lên trời kêu to, “Thích khách dùng khinh công chạy rồi.

Mau đuổi theo.”

Hôm sau, Chiêu Nguyên tỉnh dậy từ sớm tinh mơ, ra sông nhỏ lấy đầy mấy bao nước để đi đường uống. Khi trở về thấy Lạc Việt, Lạc Lăng Chi và Đỗ Như Uyên đứng bên xe ngựa nói chuyện, nhưng không thấy bóng dáng Thương Cảnh đâu. Chiêu Nguyên đang muốn thỉnh giáo Thương Cảnh, hỏi xem năm xưa long thần hộ mạch bảo vệ hoàng đế thế nào, bèn ẵm theo bao nước tìm kiếm xung quanh. Bước qua tấm mành cửa vén hờ, nó phát hiện ra Thương Cảnh và Lâm Tinh đang ở trong lều nói chuyện.

Lâm Tinh khoanh tay nhìn Thương Cảnh, “… Không liên quan đến ông thật chứ? Hôm qua nghe Đỗ Như Uyên kể lại chuyện cũ của cha mẹ, ta đã cảm giác có chỗ nào đó không xuôi. Hà Tiên tự tung tự tác đến đâu cũng không thể theo người phàm những hai năm lại còn sinh con, vui vẻ dâng hiến như thế. Rất có khả năng ai đó đã sớm tính được, đứa trẻ do cô ấy sinh ra có liên quan đến thời loạn, bèn thỉnh tấu Thiên đình, để Hà Tiên không thể không sinh.”

Thương Cảnh chậm rãi nói, “Tiểu kỳ lân, đừng nghĩ mọi chuyện quá phức tạp, cũng đừng cho rằng ai cũng giỏi tính kế.”

Lâm Tinh nhướng mày, “Thôi, ta cũng chẳng lấn sân vào chuyện nhà người khác. Ta chỉ lo, ngộ nhỡ chuyện này thực sự liên quan đến ông, sớm muộn có một ngày, Đỗ Như Uyên cũng sẽ biết được, nếu vì thế mà hắn trở mặt với ông, ảnh hưởng đến đại cuộc thì không hay chút nào.”

Thương Cảnh không nói gì nữa.

Lâm Tinh xoay mình bước ra khỏi lều, tới chỗ Chiêu Nguyên lại quay người lại, “Mới đầu, ông đứng bên ao cá để Đỗ Như Uyên trông thấy, chỉ là tình cờ đi ngang qua thôi sao?”

Thương Cảnh vẫn im lặng.

Chiêu Nguyên cảm thấy, lúc này tìm Thương Cảnh thỉnh giáo có vẻ không hay cho lắm, bèn lặng lẽ theo Lâm Tinh rời đi. Lát sau, Đỗ Như Uyên bước vào lều, cúi người chìa tay, “Quy huynh, chuẩn bị khởi hành rồi.” Thương Cảnh bò vào tay gã, Đỗ Như Uyên đặt lão lên đỉnh đầu. Thương Cảnh nằm vững, khép hờ hai mắt. Tiểu kỳ lân nhìn nhận thiển cận, tự cho mình thông minh. Chỉ có trải nghiệm nhiều mới hiểu được, giữa phàm trần tục thế có rất nhiều sự tình cờ, rất nhiều sự vừa khéo.

Như lão gặp được Đỗ Như Uyên, đích thị chính là vừa khéo. Dạo ấy tên tiểu tử Thương Huyền buông thõng một câu ta không làm thần hộ mạch đâu, các trưởng lão đi mà chọn người khác, rồi chân như bôi mỡ, hớn hở đào tẩu, khiến lão phải tức tốc rời Quần Tiên yến quay về, đích thân đi bắt Thương Huyền. Trời lạnh già cả dễ mệt, nhân ngang qua một hào môn dưới trần gian, lão định vào mượn chiếc giường ngả lưng, kết quả lại phát giác một luồng tiên khí mỏng manh. Lão lách vào một căn phòng trống, phát hiện trên giường có một quả trứng. Hào môn này là vương phủ, bên trong có rất nhiều người hầu kẻ hạ, nhưng căn phòng lại bị khóa chặt, cũng không có người coi sóc quả trứng.

Thương Cảnh trước nay không hay xen vào những chuyện không liên quan đến mình, nhưng quả trứng làm lão nhớ đến bầy rùa non mới sinh trong tộc. Lão quyết định biến thành một con rùa lớn, ấp trứng mà ngủ, mười ngày sau, đứa trẻ trong trứng cuối cùng cũng được lão ấp nở. Đợi cha đứa trẻ chạy tới, lão mới an tâm lên đường, tiếp tục truy bắt Thương Huyền. Sự việc tuy nhỏ nhưng lão vẫn luôn ghi nhớ, mấy năm trời đi vẫn chưa bắt được Thương Huyền, lão lại ngang qua nơi này, bèn tiện đường vào xem đứa trẻ. Lão đứng bên ao cá, trông thấy một đứa bé đeo kiềng như ý, bò trên lan can hành lang, hai mắt mở to hiếu kỳ, chỉ vào lão hỏi nhũ mẫu bên cạnh, “Kia là ai?”

Thương Cảnh biết, đứa trẻ này bẩm sinh có tiên duyên, từ thân thể toát ra một luồng khí tức rất thân thuộc, nên quyết định ở lại xem xét. Lão biến thành hình rùa nằm bên bờ ao, được Đỗ Như Uyên nhặt nuôi mấy ngày. Sau khi điều tra kỹ càng, lão xác định, đứa trẻ này có sao Văn Xương bảo hộ, là người có duyên với quy thần hộ mạch.

Cuối cùng cũng bắt được Thương Huyền, Thương Cảnh bèn trói gô lại xách về tộc. Thương Huyền la lối, vẫn sống chết không chịu tiếp tục làm thần hộ mạch, “Văn nhân tính tình bủn xỉn, con cứ như bị ngâm trong vại giấm suốt mấy trăm năm rồi, có đánh chết cũng không làm nữa. Hơn nữa, đứa trẻ của loại tiểu tiên hạc định vin chuyện chơi đùa người trần mà trèo cao kia, con cũng không muốn đèo bòng.”

Những con rùa nhỏ khác trong tộc, hoặc là ngốc nghếch, hoặc là xốc nổi, đều không thể tin tưởng giao phó trách nhiệm lớn lao. Đỗ Như Uyên đã bảy tám tuổi, có tạm thời bồi dưỡng cho đám rùa con cũng không kịp nữa. Thương Cảnh nhớ lại khuôn mặt tươi cười rạng rỡ của đứa trẻ khi đặt lão vào chậu nước, sấp ngửa bưng về phòng, trong lòng có chút xúc động, bèn thở dài nói, “Nếu không thì, nhiệm vụ lần này để ta làm.”

Những chuyện ấy, Thương Cảnh cho rằng chẳng cần báo cáo với ai, kể cả Đỗ Như Uyên, bởi có những điều không nhất thiết phải nhiều lời. Lão một tay dạy dỗ đứa trẻ này, giúp gã trở thành người như ngày hôm nay, có thể gã còn nhiều điểm chưa thể coi là hoàn mỹ, nhưng Thương Cảnh vẫn cảm thấy yên tâm thanh thản. Lão tin tưởng rằng, đứa trẻ này sẽ trở thành công thần trụ cột chống đỡ tân triều, làm được nhiều việc cho thế gian, lưu danh sử sách. Lão đã sống rất nhiều năm, chứng kiến rất nhiều chuyện, lão vẫn rất thích trần gian, cũng rất thích người trần.

Bởi ở trần gian, lão vĩnh viễn không cách nào dự liệu, ai có duyên với ai.

Xe ngựa tiếp tục phi như bay trên đường cái quan, theo lời đám binh lính, trước buổi trưa, nhất định có thể tới được Vân Tung sơn. Dọc đường, Lâm Tinh cứ xoa tay hằm hè, đe rằng nếu con tiểu phụng hoàng kia dám xuất hiện, cô sẽ cho hắn một trận thích đáng ngay giữa đồng không mông quạnh, xả mối hận phóng hỏa thiêu trụi Thanh Sơn hôm nào. Lạc Việt rảnh rỗi không có gì làm, quay sang nói chuyện với Ứng Trạch, “Điện hạ, chúng ta thương lượng thế này đi. Lát nữa gặp thái tử, ông giúp tôi giữ lấy gã, để gã không thể làm hại Nghênh Xuân Hoa, hoặc để Nghênh Xuân Hoa không làm hại được gã. Chuyện nợ nần giữa ông và tôi coi như huề, ông thấy thế nào?”

Lão rồng đi đường chuyến này ngoài ăn chỉ có ăn, không làm gì khác, không phiền nhiều, nhưng Lạc Việt trông lão, vẫn thấy lo lắng bất an.

Ứng Trạch không đồng ý, lão nói như thế quá đơn giản, không thể hiện được thủ đoạn của bậc lão làng. Lão ăn hết hai đĩa điểm tâm, chợp mắt gà gật cho tiêu cơm, lại rất biết cách hưởng thụ, chỉ đích danh Chiêu Nguyên giúp lão bóp vai, Chiêu Nguyên cũng qua bóp thật. Lâm Tinh nóng mắt, “Sao ông ta bảo ngươi bóp là ngươi cứ thế mà bóp?” Chiêu Nguyên ngờ nghệch cười khì khì. Lâm Tinh bất lực đảo mắt nhìn Lạc Việt, cô rất muốn hỏi, ngươi nuôi kiểu gì để nó càng ngày càng không ra giống rồng nữa thế?

Bọn họ nói chuyện dần dần đã không kiêng dè gì Lạc Lăng Chi, y cũng không gạn hỏi nhiều, chỉ lạnh nhạt ngồi một bên. Lạc Việt rảnh quá hóa hoảng, bốc một nắm hạt dưa vừa cắn vừa nói, “Mọi người bảo, nếu phụng hoàng chực sẵn ở đấy, liệu có phải đã phát giác chúng ta đang tiến đến gần, sắp đặt mai phục, đợi lát nữa, bất chợt, từ trên trời lao xuống một bầy thích khách, nói thì lâu la nhưng lúc ấy thì nhanh lắm…”

Hắn đang chỉ lên khoa chân múa tay, đột nhiên nghe “binh” một tiếng, một vật nặng đập vào nóc xe, xuyên thủng tấm bạt căng nóc rơi thẳng xuống. Chỉ tích tắc, Lâm Tinh đã giơ phắt tay lên, Thương Cảnh trên đầu Đỗ Như Uyên tỏa ánh xanh lục bao bọc toàn thân… Lạc Việt còn chưa kịp chớp mắt, cái bóng đã phóng vèo lên trời, chỉ để lại lỗ thủng trên nóc xe và bầu trời rộng bên ngoài, ngay lập tức, Lâm Tinh túm lấy nhuyễn tiên, vụt ra ngoài qua lỗ thủng, đuổi theo bóng đen.

Ngựa chồm lên, hí vang hoảng loạn, bấy giờ ngoài xe mới rào rào tiếng tuốt binh khí, “Tất cả đề phòng! Có thích khách.”

Lạc Việt cầm nắm hạt dưa nhìn lên đỉnh đầu, Lạc Lăng Chi cũng nhìn lên theo hắn, “Cô nương này thân thủ tốt thật.”

Thương Cảnh cất giọng ồm ồm, “Người trẻ tuổi tinh lực được cái dồi dào.”

Đợi khi con ngựa lồng được binh lính vỗ yên, Lạc Việt bước ra khỏi khoang xe, Lâm Tinh đã quay trở về, mỗi tay xách một vật, thảy cả xuống đất, tiếc rẻ phủi tay, “Không phải tiểu phụng hoàng.” Lạc Việt nhìn xuống ngạc nhiên, Lạc Lăng Chi cũng sững sờ.

Đây chẳng phải…

“Bạch Tổ Mậu?”

“Nghênh Xuân Hoa?”

Người bị Lâm Tinh lẳng xuống đất nhìn thấy Lạc Việt và Lạc Lăng Chi mặt cũng trắng bệch, gã vùng vẫy bò dậy, quỳ rạp trên đất ra sức dập đầu, “Hai vị sư huynh, cứu chúng đệ với. Xin hai huynh giơ cao đánh khẽ, hôm đó là đệ đáng chết, mong hai huynh thả cho đệ và Nghênh Xuân Hoa một con đường sống.”

Người này chính là chủ nhân của Nghênh Xuân Hoa, đệ tử Hoa Sơn phái đã thả yêu thú cắn người ở Luận võ Đại hội. Lạc Việt nghe Lạc Lăng Chi gọi mới biết, thì ra gã tên là Bạch Tổ Mậu. Lạc Lăng Chi cúi mình định đỡ gã dậy, “Bạch sư đệ mau đứng lên, đừng như vậy, chẳng phải đệ đã bị đuổi khỏi sư môn rồi ư, sao lại…” Nhưng tay y còn chưa chạm tới Bạch Tổ Mậu, Nghênh Xuân Hoa đã xù lông nhe nanh.

Bạch Tổ Mậu vội quát “Nghênh Xuân Hoa”, đoạn ôm chặt nó vào lòng.

Lạc Việt xoa cằm quan sát sự việc trước mắt, “Đệ vừa cứu Nghênh Xuân Hoa từ tay thái tử sao? Không ngờ con người đệ cũng thật có tình nghĩa.”

Bạch Tổ Mậu run cầm cập ôm lấy Nghênh Xuân Hoa, người như bông lúa mạch trong gió, Lạc Lăng Chi an ủi gã, “Đệ cứ yên tâm, chúng ta đang trên đường tới ngăn chặn thái tử, không làm khó đệ và Nghênh Xuân Hoa đâu.”

Bấy giờ Bạch Tổ Mậu mới lắp bắp giải thích, “Đệ… sau khi bị đuổi khỏi sư môn… bèn trốn ở ngoài thành… rồi đuổi theo thái tử tối hôm qua…”

Lâm Tinh ngắt lời gã, “Quá trình không cần kể nữa, nói thẳng kết quả đi, giờ có phải ngươi đang bị người của thái tử truy đuổi không? Có tên nào mặc áo đỏ đuổi ngươi không?”

Bạch Tổ Mậu siết Nghênh Xuân Hoa chặt thêm, “Không, tại hạ không biết.

Sau khi cứu được Nghênh Xuân Hoa, tại hạ chỉ biết cắm đầu chạy chạy chạy, có lúc nghe tiếng truy binh, tại hạ liền chạy vào đường mòn… về sau dùng thuật ngự kiếm, ban nãy gió to quá, nội lực tại hạ không đủ, mới…”

Mới rớt xuống, đập trúng vào nóc xe bọn họ.

Lạc Việt bỏ tọt hạt dưa vào miệng, đập cũng thật chuẩn. Lâm Tinh không hỏi được tin tức của tiểu phụng hoàng, đầy vẻ tiếc nuối, cô kiến nghị, hay mọi người cũng đừng phí công lên Vân Tung sơn làm gì nữa, cứ ở bên đường đợi thái tử chui vào rọ, dù sao đã có con phệ cốt thú này rồi, lo gì thái tử không tới.

Bạch Tổ Mậu càng run lên bần bật, chân mềm nhũn, lại quỳ sụp xuống, “Cầu xin các vị sư huynh nữ hiệp cùng binh gia giơ cao đánh khẽ, thả cho chúng tôi một con đường sống…”

Lâm Tinh cười hì hì xoa dịu gã, “Ngươi đừng sợ, chỉ là dùng các ngươi làm mồi câu thôi, có ta… và Lạc thiếu hiệp đây, nhất định sẽ bảo vệ các ngươi.” Trong lúc hứa hẹn, cô vẫn không quên giúp Lạc Việt tăng chút huy hoàng hiệp nghĩa. Chiêu Nguyên chú ý thấy tiểu tiết này, khâm phục âm thầm ghi nhớ. Song, nó cứ cảm thấy, kể từ ban nãy, quanh đây hình như có một cặp mắt vô hình dõi theo bọn họ. Nhưng những người khác đều không phát hiện ra, lẽ nào là nhầm? Nó liếc sang rừng cây ven đường.

Loáng thoáng có tiếng vó ngựa từ hướng Vân Tung sơn vẳng lại. Lâm Tinh vung vẩy cây nhuyễn tiên, vui mừng ra mặt, “Cuối cùng cũng đến rồi.”

Tiếng vó ngựa mỗi lúc một gần, đám thân binh đều nắm chắc binh khí, Đỗ Như Uyên xua tay, “Chớ động đao thương, chuẩn bị cung kính đón thái tử, không được mạo phạm.”

Bóng người cưỡi ngựa dần ập tới gần, Lâm Tinh ỉu xìu nói, “Hình như không có con tiểu phụng hoàng kia.”

Ứng Trạch khoanh tay đứng một bên nói giễu, “Tiểu kỳ lân, ngươi suốt ngày khoác lác rằng mình lợi hại, sao còn không bằng cả tiểu bối đồng tộc của bản tọa, cái đứa thường xuyên bị ngươi chê cười ấy thế? Nó phát giác ra từ nãy rồi, ngươi lại không biết gì sao? Con tiểu phụng hoàng ngươi mở mồm ra là kêu muốn tìm, ngay từ đầu đã đứng trên ngọn cây đằng kia kìa.”

Lâm Tinh kinh ngạc, quay ngoắt nhìn lên ngọn cây, chỉ nghe một tràng cười, “Thì ra một phép chướng nhãn tầm thường cũng có thể che được mắt Lâm Tinh công chúa.”

Một bóng người đỏ rực, cùng với tràng cười ấy nhẹ nhàng phấp phới từ không trung đáp xuống bên đường, Lâm Tinh vừa định vung roi xông tới, Lạc Việt đã giơ tay cản cô lại, “Vì quan hệ giữa Định Nam vương và thái tử, bọn họ đã không khiêu chiến thì chúng ta cũng không nên động thủ trước.”

Phụng Đồng đáp xuống đất rồi, chỉ khoanh tay đứng đó, không hề soi mói kiếm chuyện, ánh mắt lần lượt quét qua Đỗ Như Uyên, Thương Cảnh, Lạc Việt, Chiêu Nguyên, Ứng Trạch, dừng lại hơi lâu ở ba người cuối cùng. Lạc Việt ôm quyền chào hắn, “Đồng công tử, lại hữu duyên tương phùng, hân hạnh hân hạnh.”

Phụng Đồng mỉm cười gật đầu, “Lạc Việt thiếu hiệp.” Nghe hắn gọi hai tiếng Lạc Việt, Chiêu Nguyên hồi hộp muốn đứng tim, điều này chứng tỏ phụng hoàng đã chú ý đến Lạc Việt rồi.

Nó cảnh giác nhìn Phụng Đồng, ánh mắt Phụng Đồng nửa hữu ý nửa vô tình lại đảo qua nó.

Lúc này, đám người cưỡi ngựa đã đến rất gần. Theo lệnh của Đỗ Như Uyên, một binh sĩ bước lên trước cao giọng hô, “Chúng ta phụng mệnh Định Nam vương gia tới bảo vệ thái tử, phía trước là ai?”

Đám người kia ghìm ngựa đứng lại, chậm rãi tách mấy bước về hai bên, từ khoảng trống có hai người thúc ngựa tiến ra, một người cất tiếng sang sảng, “Thì ra là thân binh của Định Nam vương phủ. Vậy thì khéo quá, chúng ta là gia thần của Trấn Tây vương phủ, phụng mệnh tới đưa thiệp mời.”

Không phải người của thái tử? Lạc Việt tập trung nhìn kỹ, thấy đám người này đều cưỡi tuấn mã đỏ thẫm, mặc giáp trụ bạc, chỉ riêng hai người vừa tách nhóm là mặc áo dài lụa mềm.

Hoa văn trang trí trên áo giáp quả thật không phải ấn ký của An Thuận vương phủ. Thế này thì không dính dáng gì đến bọn họ, chỉ liên quan đến Đỗ Như Uyên mà thôi.

Đỗ Như Uyên tiến lên, cung tay nói, “Thì ra là người của Trấn Tây vương phủ, hân hạnh hân hạnh, nếu tiện mời các vị dịch bước lại gần đây, để ta tiện bề trò chuyện.”

Đoàn người ngựa bèn tiến lại gần hơn, Lạc Việt nhận thấy hai người đứng giữa nheo nheo mắt. Thiếu niên vận trường bào màu hồ thủy quét mắt nhìn khắp lượt mọi người, “Thế tử của Định Nam vương cũng ở đây ư?”

Đỗ Như Uyên lại cung tay, “Các hạ thật tinh mắt.”

Thiếu niên mỉm cười, “Xe ngựa bên đường tuy rách thủng, nhưng vẫn không che đậy nổi vẻ xa hoa, lại có ấn ký của Định Nam vương phủ, hẳn dùng cho vương gia hoặc thế tử. Trong chư vị không có ai lớn tuổi, suy ra người có mặt phải là thế tử.”

Tùy tùng bên cạnh nhanh chóng nhảy khỏi yên ngựa, bước đến trước mặt Đỗ Như Uyên, quỳ một gối xuống, dâng lên một bức thiệp đỏ. Thiếu niên vẫn ở trên lưng ngựa, “Thế tử đã ở đây thì chúng ta cũng không đến quấy rầy vương phủ nữa, tấm thiệp mời này, mong thế tử nhận cho.”

Đỗ Như Uyên đón lấy thiệp mời, đút vào tay áo. Cặp mắt trong như nước mùa thu của thiếu niên nhìn xoáy vào gã, đôi mày thanh tú nhướng cao, “Thì ra thế tử du ngoạn trong đất phong tư gia, cũng không cưỡi ngựa chỉ ngồi xe.”

Đỗ Như Uyên nói, “Đáng chê cười, đáng chê cười, tại hạ từ bé đã không giỏi cưỡi ngựa bắn tên, so với quận chúa hào khí cân quắc chẳng kém tu mi, ngay tổ chức hội kén rể cũng đích thân cưỡi ngựa nghìn dặm đưa thiệp mời, thực lấy làm hổ thẹn.”

“Thiếu niên” cau mày ngài rồi lại giãn ra ngay, “Mắt thế tử cũng tinh không kém.”

Ồ ồ ồ, vị này quả nhiên là quận chúa của Trấn Tây vương. Lạc Việt thích thú đứng một bên quan sát, Đỗ Như Uyên định để bản thiếu hiệp dụ dỗ cô ta, nhưng trông vị quận chúa này có vẻ chẳng phải là người dễ bị dụ dỗ đâu. Chiêu Nguyên cũng tạm thời lơ là Phụng Đồng, tập trung tinh thần nhìn về bên này. Nó không hiểu vì sao lại có nhiều cô gái muốn cải trang thành giống đực đến thế. Mà rõ ràng đóng giả chẳng giống chút nào, vóc dáng không giống, mặt mũi không giống, giọng nói càng không giống luôn. Lạc Việt huých nó, “Này, quận chúa đẹp quá, đệ nhìn đến đờ đẫn luôn hả?”

Chiêu Nguyên lắc đầu, “Quận chúa chỉ xinh hơn thỏ tinh cô nương một chút, nhưng còn kém xa Lâm Tinh, tôi nghĩ chắc huynh không thể nào thích được.”

Lạc Việt bật cười vỗ vai nó, “Khá lắm khá lắm, kinh nghiệm giang hồ cũng phong phú hơn nhiều. Nhưng yêu cầu của đệ đối với nữ giới có vẻ cao quá đấy.” Hắn tặc lưỡi, “Sắc đẹp thế kia là đủ xếp vào hàng chim sa cá lặn, hoa nhường nguyệt thẹn rồi.”

Lâm Tinh lập tức liếc xéo Lạc Việt. Chiêu Nguyên cau mày nghi hoặc, đẹp đến thế sao? Nó thấp giọng hỏi Lạc Việt, “Có phải huynh thích quận chúa không?”

Thái độ của Lạc Việt rất miễn cưỡng, “Nếu cứ khen ai xinh đẹp là thích người ấy, thì bản thiếu hiệp đây chính là thiên hạ đệ nhất đa tình rồi. Chuyện thích hay không rất phức tạp, mặt mũi đương nhiên quan trọng, nhưng quan trọng nhất vẫn là cái bên trong, xem có hợp tính hay không. Học vấn này uyên thâm lắm.”

Chiêu Nguyên gật đầu, như hiểu mà không hiểu.

Phụng Đồng đứng từ xa, đánh giá Lạc Việt và Chiêu Nguyên hồi lâu, nhìn ngang nhìn dọc chỉ thấy độc một chữ “ngốc”. Một người một rồng thế này hợp lại với nhau, nếu có thể lật đổ được triều đình hiện giờ, thì chỉ chứng tỏ thế đạo đảo lộn cả rồi. Phụng Đồng nghĩ tới Hòa Trinh, đột nhiên thấy đau nửa đầu thái tử thật ra cũng hơi… ngốc. Ví dụ như trò hề chém thần tu tiên này, tên Lạc Việt kia nhất định không làm, nhưng thái tử lại làm ra được. Rốt cuộc giữa ngốc to gan và ngốc vô tư, cái nào khiến người ta phải lo lắng hơn đây, Phụng Đồng nhất thời không sao đoán định nổi. Thần hộ mạch thực ra chẳng phải công việc ngon lành gì, Phụng Đồng sầu não thở dài. Lạc Việt quan tâm hỏi thăm, “Đồng công tư, sắc mặt huynh không được tốt, có phải đau đầu không?”

Phụng Đồng lạnh nhạt trả lời, “Ta đau răng.”

Bên này, Đỗ Như Uyên thành tâm mời quận chúa xuống ngựa nghỉ chân, quận chúa đáp, “Không cần. Ta còn có việc khác phải làm, xin cáo từ trước, ngày sau gặp lại.”

Đỗ Như Uyên cười nói, “Quận chúa không định đợi thêm thật sao? Chúng ta ở đây nghênh giá thái tử điện hạ, chắc chỉ lát nữa là điện hạ tới nơi thôi.”

Quận chúa nói, “Không cần, đi mời thái tử đại giá có phần quá bất kính.” Cô ôm quyền như nam tử, nói lời cáo từ, đoạn quay đầu ngựa, dẫn đoàn tùy tùng vung roi chạy xa.

Lạc Việt nhìn theo bụi đất cuộn lên sau gót ngựa, lẩm bẩm, “Quận chúa đúng thật anh tuấn oai phong.” Hắn bỏ nốt nhân hạt dưa cuối cùng vào miệng, “Kỳ lạ quá mà!”

Lâm Tinh thắc mắc, “Con gái anh tuấn oai phong rất kỳ lạ ư?”

Lạc Việt nói, “Là ta nói thái tử. Đã hơn nửa ngày, cũng nên tới rồi chứ?”

Lâm Tinh chớp chớp mắt, “Đúng rồi, chắc không phải… trên đường xảy ra chuyện gì chứ. Ví như… trêu ghẹo dân nữ bị đánh?”

Thái tử và Trấn Tây quận chúa đi cùng một đường, khả năng đôi bên chạm mặt là rất lớn, căn cứ tình hình trước đây thái tử từng có ý đồ tán tỉnh quấy rối Lâm Tinh, mọi người đều cho rằng, chuyện gã trêu ghẹo quận chúa rồi bị đánh rất có khả năng xảy ra. Kỹ năng tán tỉnh của thái tử rõ ràng chẳng ra sao, quận chúa trông lại có vẻ không dễ đụng vào.

Phụng Đồng cau mày, “Nói bừa.” Thái tử tuy thỉnh thoảng có làm những chuyện không tự lượng sức mình, nhưng quyết không phải hạng người thiếu kiểm soát như thế.

Đúng lúc ấy, trên bầu không cách đó không xa vang lên một tiếng huýt lanh lảnh, một bông pháo hoa bung ra. Người cầm đầu đội thân binh của Định Nam vương phủ liền nói, “Là pháo hiệu của vương gia, hỏi xem chúng ta đang ở đâu.” Rồi vẫy tay, lập tức có tên lính ở hàng đầu móc ra một ống trúc, châm lửa mồi ném lên trời, lại một tiếng rít chói tai, tiếp đó một bông pháo hoa nổ bung.

Phụng Đồng bay vút về hướng phát ra bông pháo thứ nhất, Lạc Việt thừa cơ quay sang giục Bạch Tổ Mậu nãy giờ vẫn đứng co ro một góc, “Chạy mau.”

Bạch Tổ Mậu vẫn đứng sững, tay ôm Nghênh Xuân Hoa. Lạc Việt lại thúc, “Mau chạy đi, nếu tên áo đỏ kia quay lại, hoặc người của thái tử đến đây thì đệ chạy không thoát đâu.”

Lạc Lăng Chi cũng nói, “Bạch sư đệ, mau đi đi, chúng ta sẽ bày trận cản đường giúp đệ.”

Bạch Tổ Mậu bấy giờ mới sực tỉnh ngộ, còn lèo nhèo khóc lóc nước mắt ngắn dài đa tạ đại ân đại đức không biết lấy gì báo đáp. Lạc Việt hận không thể nhờ Lâm Tinh giúp một tay, đánh bay gã đi cho rồi. Bạch Tổ Mậu còn chưa nói xong câu “kiếp sau nguyện làm trâu làm ngựa”, đã nghe tiếng vó ngựa như sấm dậy, từ sấm rền đì đùng biến thành sấm vang chấn động đại địa, hơn nữa không chỉ tới từ một hướng, mà là bốn phương tám hướng.

Thế này muốn chạy cũng không thoát nổi rồi. Lạc Việt chán nản thở dài, binh lính Định Nam vương phủ thảy đều hào hứng, nghển cổ nhìn quanh, “Là Thiết Kỵ Doanh.”

Trong cát bụi đầy trời, cả ngàn tinh kỵ binh vận giáp trụ đen từ hai đầu đường, cộng thêm hai bên bìa rừng ùn ùn ùa tới, bao vây bọn họ, có hai người quất ngựa tiến ra, binh lính xung quanh bọn Lạc Việt lập tức rào rào quỳ rạp xuống đất. Người vận cẩm bào bên trái, chính là thái tử, người vận trường bào tím thẫm, thắt mãng đai bên phải, lại là Định Nam vương.

Đỗ Như Uyên cung kính gọi một tiếng cha, Định Nam vương nghiêm sắc mặt, “Vô lễ, thấy thái tử còn không quỳ xuống.”

Thái tử đưa mắt nhìn Đỗ Như Uyên, nhếch một bên khóe miệng, “Thì ra vị này là lệnh lang.” Gã lần lượt đảo mắt nhìn trước mặt, “Xem ra dị thú bản cung muốn tìm quả nhiên bị người ta trộm mất. Định Nam vương, chuyện chứa chấp trộm cắp, lệnh lang hình như cũng có phần, đám người này giờ nhìn thấy bản cung vẫn không quỳ xuống, phải xử trí sao đây?”

Miệng còn chưa dứt lời, ánh mắt đã quét qua một chỗ, đồng tử đột nhiên mở to, vẻ mặt như trông thấy ma, Lạc Lăng Chi bước lên trước một bước, thần sắc điềm tĩnh, “Điện hạ.”

Thái tử nắm chặt dây cương, mặt cứng ngắc, Lạc Lăng Chi chỉ im lặng đứng nguyên tại chỗ, trong khoảnh khắc ấy, bốn bề trở nên tĩnh lặng lạ thường. Lạc Việt tỏ vẻ ngạc nhiên, “Thái tử sao có vẻ kinh hãi thế. Lẽ nào sư huynh cũ của điện hạ bắt thóp được gì dọa điện hạ ư?”

Thái tử nghiêm nét mặt, hồi phục lại vẻ cao ngạo, “Lạc Lăng Chi, ngươi không từ mà biệt, đến nay gặp bản cung còn không chịu hành lễ?”

Lâm Tinh xoắn cây nhuyễn tiên quanh ngón tay, bước lên đứng cạnh Lạc Lăng Chi, “Ta cũng không định màng đến ngươi đâu, ngươi có cần trị tội ta trước không?”

Ánh mắt Hòa Trinh dịu lại, “Lâm Tinh cô nương…”

Định Nam vương nhíu mày quan sát mọi việc xảy ra trước mắt, không khí trở nên có phần kỳ lạ.

Lạc Việt đột nhiên giơ tay lên trời khua khua, cười hì hì gọi, “Đồng công tử, thái tử ở đây, công tử mau qua đây đi.”

Phụng Đồng từ trên cao nhẹ nhàng đáp xuống, đứng bên đường. Trông thấy hắn, thái tử lại biến sắc mặt, “Đồng tiên sinh… tiên sinh…” Phụng Đồng rõ ràng đã cùng phụ vương gã hồi kinh, sao giờ lại một mình xuất hiện ở đây? Hòa Trinh từng được chứng kiến không ít thủ đoạn của kẻ này, biết hắn không phải người thường, giờ đột nhiên trông thấy hắn, lại càng bội phần kính sợ bản lĩnh của Đồng tiên sinh. Nhưng ngoài mặt gã vẫn tỏ ra bình thản hỏi, “Tiên sinh đến đây từ bao giờ?”

“Vừa mới,” Phụng Đồng mỉm cười.

Hòa Trinh lập tức suy đoán, chuyện tới Vân Tung sơn gã cố ý tránh né Phụng Đồng, nhưng nay Phụng Đồng lại thu được tin tức nhanh chóng đuổi đến, rốt cuộc bên mình đã bị cài cắm bao nhiêu tai mắt, có phải mọi động tĩnh cử chỉ của mình đều nằm trong lòng bàn tay Phụng Đồng hay không? Trọng Hoa Tử từng nói, muốn nắm đại quyền, vừa phải biết dùng vừa phải biết phòng những kẻ quá giỏi thủ đoạn, nếu ta không khống chế nổi chúng, chúng sẽ trở mặt khống chế lại ta. Người mà Trọng Hoa Tử ám chỉ lúc đó, chính là Phụng Đồng. Hòa Trinh hiểu, Trọng Hoa Tử nói như vậy cũng có ý đồ riêng của mình, nhưng hai câu này quả thật rất đúng. Hòa Trinh còn biết rõ, gã có leo lên được ngai vàng hay không, phải trông vào Phụng Đồng. Thậm chí, An Thuận vương phủ có thế lực như ngày nay, rồi gã được lập làm thái tử, đều là nhờ con người này cả. Phụng Đồng là sư đệ của Đương kim quốc sư Phùng Ngô, cũng có lời đồn rằng, Phùng Ngô vốn tên Phụng Ngô, là huynh đệ ruột rà của Phụng Đồng. Từ khi Sùng Đức đế đích thân nhiếp chính, Phùng Ngô không màng quản chuyện triều chính nữa, Sùng Đức đế nghe nói đến Phụng Đồng, từng sai người đi mời, nhưng Phụng Đồng cự tuyệt không chịu xuất sơn. Mấy năm trước, đột nhiên một hôm Phụng Đồng xuất hiện trong An Thuận vương phủ, tự tiến cử làm phụ tá Hòa Trinh, nghe nói cha gã khi đó rất sửng sốt, hỏi han Phụng Đồng vì duyên cớ gì, Phụng Đồng nói, ta muốn nương nhờ quý chủ, lệnh lang thế tử Mộ Trinh sau này nhất định tiền đồ rộng mở. Cha có lẽ cho rằng Phụng Đồng chính là phụng thần trong truyền thuyết, trước sau đều nhất nhất nghe lời. Sau khi gã được sách phong thái tử, Phụng Đồng từ phụ tá của cha trở thành phụ tá của gã. Phụng Đồng quá lợi hại, khiến Hòa Trinh vừa yên tâm lại vừa không yên tâm, giả như lần này chuyện lấy tiên nguyên có thể thành công, thì cả thiên hạ lẫn Phụng Đồng đều sẽ nằm gọn trong tay gã, không nghi ngờ gì nữa.

Hòa Trinh bất giác nghĩ đến thần người.

Sự xuất hiện của Phụng Đồng khiến không khí vốn đang căng như gươm tuốt vỏ nỏ giương dây chùng xuống ít nhiều, Định Nam vương bèn nhân lúc này dịu giọng lên tiếng, “Thứ điện hạ nói bị trộm là gì?”

Phụng Đồng hỏi, “Ồ? Điện hạ có đồ bị trộm ư?”

Hòa Trinh vung roi ngựa chỉ về phía Bạch Tổ Mậu đang rúm ró bên cạnh chiếc xe ngựa xập xệ, “Con cọp con của bản cung, bị tên kia trộm mất.”

Ở trước mặt Định Nam vương, nếu nói là phệ cốt thú, chắc chắn sẽ khiến ông đặt nghi vấn, nên Hòa Trinh chỉ nói đó là một con thú non. Lạc Việt ngoáy lỗ tai, mặt ngơ ngác, “Cọp, cọp ở đâu cơ?”

Hòa Trinh nói lạnh tanh, “Thứ gã đang ôm trong lòng kia chẳng phải con cọp của bản cung sao?”

Lạc Việt càng mù mờ, quay người chỉ vào Bạch Tổ Mậu và Nghênh Xuân Hoa đang run cầm cập, “Thái tử điện hạ nói con mèo đệ ấy đang ôm kia ư?”

Hòa Trinh xị mặt, “To gan, lại dám chỉ hổ nói mèo trước mặt bản cung.”

Lạc Việt làm mặt vô tội, “Thái tử điện hạ không nhìn nhầm đấy chứ, nó rõ ràng là một con mèo mà.”

Định Nam vương và đám thân binh vương phủ không rõ chân tướng đều cùng đổ dồn mắt nhìn Nghênh Xuân Hoa, túm lông vàng mượt mà trông có vẻ rất lanh lợi, nhưng đôi tai tròn kia, tứ chi vững chắc kia, vằn vện trên thân kia, cái đuôi to mập cụp phía sau kia, thực sự rất giống cọp.

Hòa Trinh khắp người tỏa ra hàn khí lạnh như dao cắt, “Cọp.”

Lạc Việt hùng hổ nói, “Là mèo.”

Thái tử giơ tay, “Đem…” Hai chữ “đem đây” mới nói được một nửa, Nghênh Xuân Hoa trong lòng Bạch Tổ Mậu đã đột nhiên cựa quậy kêu, “Meooo…”

Bốn bề lập tức im lìm. Đám thuộc hạ của thái tử đã tuốt được một nửa kiếm, giờ tuốt nốt cũng dở mà tra lại cũng dở, ai nấy đều sững ra.

Thái tử giận tím mặt, “Con yêu thú kia đang tác quái, đem đây!”

Lạc Việt bước lên trước một bước, “Hẵng khoan.” Hắn bừng bừng chính khí, nhìn thái tử, “Điện hạ vừa rồi còn nói nó là cọp, giờ lại nói nó là yêu thú? Vậy nó là yêu thú gì? Xin chỉ rõ?” Hắn hơi ngừng lại, vẻ xót xa, “Cho dù nó chỉ là một con mèo, điện hạ cũng không thể đặt điều thế chứ.”

Nghênh Xuân Hoa giật giật tai, cong đuôi lên khẽ phe phẩy, giương cặp mắt đen nháy vô tội kêu, “Meo, meo meo…”

Thái tử giương mắt nhìn nó trơ trẽn dối gạt, nhưng hiềm có Định Nam vương ở đây, lại không thể giở lý lẽ phản bác, nộ khí tụ lại trong ngực, cấp hỏa công tâm. Gã đốt Thanh Sơn, trộm vại báu, bí mật tới Nam quận, bao nhiêu tâm huyết giờ đều sắp thành bọt biển, ngay Nghênh Xuân Hoa cũng bị trắng trợn cướp đi.

Định Nam vương trịnh trọng nói, “Điện hạ, trên đời vốn không có quỷ thần, cũng không có yêu thú gì hết. Đó chỉ là lời bịa đặt của những kẻ có dụng tâm mà thôi, tuyệt đối chớ nên coi là thật.”

Thái tử đành thấp giọng cầu cứu, “Đồng tiên sinh.”

Phụng Đồng cụp mắt, “Điện hạ, biết kêu như vậy, đích thị là mèo, không phải hổ.”

Hòa Trinh chết sững trên lưng ngựa, “Đồng… Đồng tiên sinh…”

Bọn Lạc Việt cũng ngàn vạn lần không thể ngờ Phụng Đồng lại nói như vậy, có hơi giống đang giúp bọn họ, không khỏi vô cùng kinh ngạc. Lạc Việt thả lỏng quả tim đang thầm thắt chặt trong lồng ngực, cười hì hì ôm quyền nói với Phụng Đồng, “Đồng công tử thật là người hiểu chuyện.”

Phụng Đồng gật đầu, “Quá khen rồi.” Đoạn đưa mắt nhìn thái tử, “Điện hạ đại lễ sách phong sắp đến. Dù vì cầu phúc cho hoàng thượng, dẫn cọp con tới núi Vân Tung lấy nước thiêng, thành tâm có lòng hiếu, cũng khó tránh khỏi quá tùy tiện. Hãy mau chóng hồi kinh thôi.”

Lời Phụng Đồng nghe có vẻ rất hợp lý hợp tình, lại rõ ràng tỏ ý muốn Hòa Trinh quay về kinh thành. Thái tử trong lòng đang bừng bừng nộ hỏa lại bị bôi thêm một muỗng dầu sôi hậm hực, sắc mặt càng lúc càng xanh lét.

Phụng Đồng bước đến trước ngựa của gã, dâng lên một tờ giấy gấp. Thái tử đón lấy mở ra, liếc mắt đọc qua, sắc mặt trở lại bình thường, vê tròn tờ giấy nhét vào tay áo, “Chuẩn bị khởi hành hồi kinh.”

Trên giấy chỉ viết một câu: Dưới núi Vân Tung không hề có thần kiếm thần tướng.

Lạc Việt cao giọng, “Xin hỏi thái tử điện hạ, Bạch sư đệ và con mèo của đệ ấy có thể đi được chưa?”

Thái tử cuối cùng cũng không nén nổi cơn giận quát, “Còn không mau cút.”

Lạc Việt nhoẻn cười đáp một câu đa tạ. Bạch Tổ Mậu lần này coi như được bài học đắt giá, ôm Nghênh Xuân Hoa chạy biến như làn khói mỏng bị cuồng phong cuốn đi.

Đám thuộc hạ của thái tử quay lại chân núi Vân Tung thông báo cho các đệ tử Thanh Huyền vẫn đang đứng trông bên đầm nước lạnh. Định Nam vương hộ tống, ra khỏi Nam quận, trở về kinh thành. Đỗ Như Uyên bấy giờ mới có cơ hội hỏi Định Nam vương, “Cha, sao cha lại tới đây?”

Định Nam vương sầm mặt, “Để con và mấy tay thiếu niên thần bí này đi bảo vệ thái tử chẳng khác nào trò đùa, không ổn, chỉ là ta có ý thử thách rèn luyện con, nên mới dẫn quân đuổi theo con đến đây.”

Sau khi bọn Lạc Việt khởi hành không bao lâu, Định Nam vương xử lý xong một vài công việc quan trọng, bèn lựa lấy một ngàn tinh binh trong Thiết Kỵ Doanh, thúc khoái mã, đuổi đến Vân Tung sơn.

Bọn Lạc Việt đi đường cái quan, quân Định Nam vương lại đi đường mòn, sáng sớm hôm nay vừa hay gặp phải thái tử đang trên đường truy đuổi Bạch Tổ Mậu, vì vậy mới dây dưa đến tận bây giờ.

Định Nam vương nói, “Con đêm tối hạ trại, mặt trời lên tận ngọn sào mới khởi hành, nếu hành quân đánh trận thật mà như vậy chỉ e mộng đẹp còn chưa tỉnh, đầu đã lìa khỏi cổ dưới đao kẻ địch rồi.”

Đỗ Như Uyên cúi đầu, “Lời giáo huấn của cha, con nhất định khắc ghi trong lòng.”

Định Nam vương hừ mũi, “Ra ngoài chạy rong một chuyến, đúng là cũng lanh lợi ra nhiều, chịu khổ sở rồi mới biết ở nhà vẫn là nhất hả?”

Đỗ Như Uyên cười khì khì. Định Nam vương sầm mặt, “Về nhà rồi, trước tiên tới xin lỗi mẹ con, sau đó tới tàng thư lâu chép phạt Lục thao, Tam lược mỗi thứ mười lần.”

Đỗ Như Uyên cúi đầu thưa vâng.

Lạc Việt, Chiêu Nguyên, Lâm Tinh ngồi ở phía xa, trên bãi cỏ ven đường, thái tử và thuộc hạ cũng xuống ngựa nghỉ ngơi, đợi người Thanh Huyền từ chân núi Vân Tung tới tập hợp rồi mới khởi hành.

Thuộc hạ bê ra đệm gấm lót vóc, xếp tầng tầng trên mặt đất, thái tử ngồi xuống rồi, vẫn còn sợ sệt cỏ quệt bụi đất làm bẩn áo mình. Điệu bộ khiến đám Lạc Việt nhìn mà ngứa mắt. Ngay đến Định Nam vương cũng phải thoáng nhíu mày. Lâm Tinh nói, “Chỉ cần trông cử chỉ hành động cũng biết khó thành đại sự.”

Lạc Lăng Chi nãy giờ vẫn im lặng đứng bên bọn Lạc Việt đột nhiên thong thả bước lại phía thái tử. Lạc Việt, Chiêu Nguyên, Lâm Tinh lập tức dỏng tai hướng mắt chăm chú nghe ngóng. Thái tử rõ ràng rất kiêng dè Lạc Lăng Chi, đám thuộc hạ của gã đều lẳng lặng đưa tay sờ vào binh khí nơi thắt lưng. Lạc Lăng Chi vẫn mang vẻ mặt lặng như nước, “Điện hạ, ta có chuyện này muốn thỉnh giáo.”

Thái tử nói, “Ờ.”

Tên thuộc hạ đứng bên cạnh quát Lạc Lăng Chi hành lễ với thái tử, Lạc Lăng Chi không thèm đếm xỉa, chỉ nhìn trân trân thái tử nói, “Thanh bội kiếm điện hạ mang bên mình, hình như là Huyền Thanh kiếm?”

Thái tử nói, “Không sai, thanh kiếm bản cung mang theo bên mình, chính là Huyền…”

Đúng lúc này, mặt đất bỗng rung chuyển, ai nấy bất giác loạng choạng. Lập tức có người kinh hãi kêu lên, “Động đất rồi.” Định Nam vương hét lớn, “Tất cả bình tĩnh. Tránh xa cây lớn. Ngồi thụp xuống không được động đậy.”

Đám thuộc hạ của thái tử cao giọng hô to bảo vệ chủ nhân, bốn bề hỗn loạn.

Giữa đám lộn xộn, Lâm Tinh và Phụng Đồng vẫn đứng vững, không hẹn mà cùng nhìn về phía Vân Tung, bọn họ đều cảm thấy, đây hoàn toàn không phải động đất. Lâm Tinh quay đầu nhìn quanh, đoạn hỏi Lạc Việt và Chiêu Nguyên, “Có biết lão rồng đâu rồi không?”

Lạc Việt và Chiêu Nguyên đồng thời lắc đầu.

Lâm Tinh buông một câu, “Để ta đi xem sao.” Đoạn phi thân bay về hướng Vân Tung.

Thương Cảnh lảo đảo ló ra từ trên đầu Đỗ Như Uyên, nói với Chiêu Nguyên, “Ngươi cũng đi xem thế nào đi, một mình tiểu kỳ lân thì không ổn. Ở đây đã có ta lo.”

Chiêu Nguyên lập tức gật đầu, cảm giác phấn khích lần đầu được gánh vác trách nhiệm quan trọng. Nó chạy vào rừng, lén sử dụng thuật cưỡi mây. Thuật cưỡi mây của nó mới ở bậc sơ cấp, căn bản không thể đuổi kịp Lâm Tinh. Nó biến lại hình rồng nằm bò trên mây đụn nhỏ, đuôi ra sức quẫy gió để mây trôi nhanh hơn, thở hồng hộc lao về phía trước. Dần dần trước mắt nó hiện ra một ngọn núi cao xanh biếc, bốn mặt vách đá dốc đứng, nhìn như một thanh bảo kiếm rẽ mây đâm xuống mặt đất, ngọn núi đang rung lắc dữ dội, làm cho đất đai trong phạm vi mấy chục dặm xung quanh cũng rung lên theo.

Chiêu Nguyên cưỡi đụn mây nhỏ đáp xuống đất, có phần hơi chấp chới, ngã nhào một cú. Nó vừa bò trở dậy, sau gáy liền bị hai bàn tay tóm chặt. Chiêu Nguyên giãy giụa cựa quậy, đôi tay từ phía sau xoay nó lại, nó nhìn thấy Lâm Tinh ngay sát mặt giơ ngón tay chắn trước môi, ra ý cho nó không được phát ra tiếng động. Chiêu Nguyên nằm trong lòng bàn tay Lâm Tinh, cùng cô trốn đằng sau gốc cây, nhìn về phía ngọn núi.

Vân Tung sơn vẫn ầm ầm rung chuyển, đầm nước dưới núi cuộn sóng trắng xóa cao hàng trượng. Bên đầm nước có một bóng người đen thui đang đứng, chắp tay sau lưng, ngẩng đầu nhìn đỉnh núi đang rung lên từng hồi.

Bóng người đó, là Ứng Trạch.

Cặp mắt Chiêu Nguyên mở to hơn.

Ứng Trạch thở dài thườn thượt, “Vân Tung, mấy trăm năm không gặp, ngươi nhớ ta ư, ta cũng nhớ ngươi. Ngươi kêu gào được ra, nhưng ta đã chẳng nhấc nổi ngươi nữa. Ta già rồi, ngươi cũng già rồi.” Lão giơ tay vỗ lên đá núi, “Ngươi cứ tạm ở trần gian này tiếp tục làm một ngọn núi đi vậy.”

Vân Tung sơn lại ầm vang đinh tai nhức óc, mây đen ùn ùn kéo đến, cuồng phong nổi lên, sấm sét loang loáng ánh tuyết giội xuống đỉnh núi. Trong chớp mắt tia sét cắt trời, Chiêu Nguyên ngỡ ngàng chứng kiến núi cao vời vợi rùng mình biến thành một thanh kiếm đen khổng lồ, được bao bọc trong ánh lửa rừng rực âm u. Trong ngọn lửa mãnh liệt, có cảnh tượng thiên quân vạn mã, tiếng rền vang hóa thành tiếng kêu gào nơi chiến trường, một bóng người vận giáp đen đứng sừng sững trên một cỗ chiến xa, bay vút qua giữa tầng không, kiếm vung lên, máu tươi bắn tung tóe, ma binh phía xa bỏ chạy tán loạn.

Lâm Tinh lầm bầm bằng giọng khẽ nhất có thể, “Đây chính là quá khứ huy hoàng của lão rồng.”

Lại một chớp mắt, tia sét tắt ngấm, cự kiếm, lửa cháy và trùng trùng ảo ảnh thảy đều tan biến, Vân Tung sơn không còn rung lắc nữa, sừng sững đứng lặng thinh, lại trở về làm ngọn núi cô quạnh.

Ứng Trạch vẫn đứng đó hồi lâu, phẩy tay áo, một hòn đá từ trên vách núi rơi cộp xuống đất hóa thành cát bụi. Ứng Trạch hóa thành một luồng sáng đen, mất tăm mất tích.

Đợi lão biến mất, Lâm Tinh đem Chiêu Nguyên từ sau gốc cây bước ra, đứng đúng chỗ Ứng Trạch vừa đứng. Cô chắp hai tay trước ngực, thầm niệm mấy câu với đống đá vụn dưới đất, một quả cầu sáng tụ lại, bắn vào đống đá, những vụn đá được cầu sáng bao bọc dần chụm lại, dựng dậy.

Chiêu Nguyên ngồi xổm một bên, nó cảm thấy bí mật điều tra đời tư của Ứng Trạch thế này không được hay lắm.

Hòn đá bị đánh vỡ kia có một mặt trơn nhẵn như gương, bên trên khắc hàng chữ, “Khanh Dao của Thanh Huyền từng ngao du qua đây.”

Lâm Tinh và Chiêu Nguyên quay về, đã thấy Ứng Trạch nằm dưới một gốc cây chợp mắt, bộ dạng thản nhiên như không hề có chuyện gì xảy ra. Lạc Việt và Lạc Lăng Chi ngồi một bên.

Lạc Lăng Chi không nói không rằng, Lạc Việt đang vô cùng buồn chán, trông thấy bọn họ thì phấn chấn tinh thần, lập tức nhảy dựng lên xúm lại gần nhỏ giọng hỏi là chuyện gì, Lâm Tinh đá mắt sang phía Ứng Trạch. Lạc Việt sực hiểu, thì ra là lão rồng quay về Vân Tung sơn ôn lại chuyện xưa, có điều “ôn” cũng hơi ầm ĩ quá thì phải.

Đợi chừng nửa canh giờ nữa, đệ tử Thanh Huyền đến nơi, cũng một phen khiếp vía vì trận chấn động kia, thi nhau bàn tán là do địa long trở mình hay Vân Tung có đại yêu quái sắp xuất thế. Thái tử nghe vào tai, sắc mặt biến ảo bất định, các đệ tử Thanh Huyền trông thấy Lạc Lăng Chi đều vô cùng mừng rỡ, lập tức vây lại hỏi han vì sao y không từ mà biệt, riêng Đồng Lam chỉ cung kính đứng bên thái tử.

Lạc Việt tránh ra xa một chút, không buồn ngó ngàng đến người Thanh Huyền. Lạc Lăng Chi trước sau ngậm chặt miệng, không đáp lại những lời truy hỏi của các sư đệ. Thái tử cất tiếng gọi vọng ra chỗ bọn họ, “Lạc Lăng Chi!”

Lạc Lăng Chi quay người lại, bước mấy bước về phía thái tử, “Điện hạ.”

Hòa Trinh nở một nụ cười mỉm, “Lạc Lăng Chi, ban nãy câu ngươi hỏi bản cung vẫn chưa trả lời. Không sai, thanh kiếm ta đeo, chính là Huyền Thanh kiếm.” Gã xòe tay phải, tùy tùng quỳ một gối xuống, hai tay nâng thanh trường kiếm hình dáng cổ phác đặt vào tay gã, trên chuôi kiếm treo một miếng lục châu cùng tua kiếm màu vàng, chính là Huyền Thanh kiếm chỉ có chưởng môn các đời của Thanh Huyền mới có tư cách đeo. Hòa Trinh nắm thanh trường kiếm, giơ ra trước mặt, “Thanh kiếm này, là do sư phụ đích thân đưa cho bản cung trước khi bản cung lên đường, bản cung chỉ tạm thời sử dụng mà thôi. Song, bản cung cũng đã thỏa thuận với sư phụ về chủ nhân tương lai của thanh kiếm này rồi.”

Gã hất tay, vứt thanh kiếm cho Đồng Lam đứng bên cạnh. Đồng Lam vội vàng bước lên đón lấy, nắm chặt trong tay quỳ xuống, “Đa tạ thái tử thiên tuế.”

Hòa Trinh tủm tỉm cười nhìn Lạc Lăng Chi, “Lạc Lăng Chi, có phải ngươi si tâm vọng tưởng cho rằng, thanh kiếm này sẽ thuộc về ngươi? Ngươi vừa thiếu tài cán, lại không biết đường thế, chẳng qua từ khi sinh ra đã ở bên sư phụ, nên mới được làm đại đệ tử Thanh Huyền, nói thật, ngươi chỉ làm mất mặt sư môn.”

Các đệ tử Thanh Huyền còn lại đều biến sắc mặt, nhưng bọn họ không dám đắc tội với thái tử, chỉ đành im lặng đứng đó.

Hòa Trinh nhướng mày, “Bản cung niệm tình đồng môn khi xưa nể mặt sư phụ ân chuẩn cho ngươi ở lại Thanh Huyền, hy vọng ngươi từ nay về sau cẩn thận hơn một chút. Đừng quá cứng nhắc, không biết tiến thoái, tự cho mình là nhất.”

Lạc Lăng Chi vẫn giữ vẻ mặt điềm nhiên im lặng đứng tại chỗ, đợi thái tử nói hết, mới rút từ trong ngực áo ra một vật, tháo bội kiếm đeo ngang hông, đưa cả cho một đệ tử Thanh Huyền đứng bên cạnh, “Giúp ta đưa cho sư phụ, ta không về bái biệt người nữa.”

Vật kia chính là thẻ bài bằng đồng, chứng minh thân phận đệ tử Thanh Huyền. Tiểu đệ tử kia sững người nhìn y, “Đại sư huynh…”

Lạc Lăng Chi đưa tay phải vỗ lên vai sư đệ, “Từ giờ khắc này, ta không còn là đại sư huynh nữa, bảo trọng.” Đoạn quay người sải bước bỏ đi.

Đồng Lam nói vọng theo, “Đại sư huynh hà tất phải ghen tị chứ, sau này đệ lên làm chưởng môn, nhất định vẫn tiếp tục tôn huynh làm đại sư huynh. Sư phụ cũng nói, người vẫn sẽ tiếp tục coi huynh là đại đồ đệ.”

Lạc Lăng Chi như thể không nghe thấy, tiếp tục tiến bước. Tới bên Lạc Việt, y cung tay nói, “Việt huynh, chuyến này xin đa tạ huynh, giờ tôi tạm đường cáo từ, món nợ ân tình, ngày sau nhất định báo đáp.”

Lạc Việt ngăn y lại, “Này này, vậy huynh định đi đâu?”

Lạc Lăng Chi mỉm cười, không trả lời, tung người mất hút vào trong rừng.

Thái tử dõi theo hướng Lạc Lăng Chi, ánh mắt đông cứng, lát sau mới lại nhìn sang các đệ tử Thanh Huyền đang rầu rĩ ủ ê, sắc mặt thoạt sáng thoạt tối, đột nhiên khua tay hạ lệnh khởi hành hồi kinh.

Đỗ Như Uyên bước tới bên Lạc Việt, “Lạc Việt sư huynh, chúng ta cũng nên đi thôi.”

Lạc Việt vẫn đang đăm đắm nhìn về phía khu rừng đã nuốt mất bóng hình Lạc Lăng Chi, nghĩ đi nghĩ lại vẫn không thể an tâm, “Đỗ sư đệ, ta hơi lo cho Lạc Lăng Chi. Hay thế này đi, chúng ta tạm đường chia hai hướng, đệ cứ về vương phủ trước, ta sẽ đuổi theo Lạc Lăng Chi, sau đó đến thẳng Tây quận, chúng ta hẹn gặp nhau ở hội kén rể của phủ Trấn Tây vương.”

Đỗ Như Uyên suy nghĩ chốc lát, rồi nói, “Cũng được. Gia phụ đang ở đây, đệ chắc chắn phải về nhà một chuyến, nếu không sẽ khó ăn khó nói với gia mẫu. Hơn nữa chuyện đi Tây quận vẫn còn phải thu xếp vài việc. Đệ về nhà sẽ thử thuyết phục cha trước, nhưng trước mắt chắc chưa thành công ngay được.”

Hội kén rể của Trấn Tây quận chúa diễn ra ngày hai mươi tháng Năm, bọn họ bèn hẹn gặp nhau trước cổng phía Đông của Quảng Trì thành, thuộc Quận Châu phủ Tây quận, vào ngày hai mươi tháng Năm.

Chiêu Nguyên chắc chắn đi theo Lạc Việt. Lâm Tinh cũng nói muốn đi cùng hắn, dọc đường tiện thể tìm người cần tìm.

Ứng Trạch thì muốn theo Lạc Việt tiếp tục báo ân. Thành ra chỉ còn lại Thương Cảnh theo Đỗ Như Uyên về nhà.

Nhóm Định Nam vương và thái tử cưỡi ngựa xuất phát men theo đường cái quan, nhóm Lạc Việt, Chiêu Nguyên, Lâm Tinh, Ứng Trạch đi ngược về phía con đường mòn trong rừng.

Lâm Tinh vừa đi vừa hỏi Lạc Việt, “Ngươi việc gì phải lo cho Lạc Lăng Chi, y rời khỏi lũ Thanh Huyền mịt mù chướng khí ấy càng tốt chứ sao.”

Lạc Việt lắc đầu, “Cô không hiểu rồi, con người Lạc Lăng Chi rất cố chấp, y khác với bản thiếu hiệp, lão già Trọng Hoa và Thanh Huyền phái chính là bầu trời của y. Mà nay đến kiếm cũng không cần nữa, tâm nguội ý lạnh, nhỡ đâu nhất thời nghĩ quẩn, kiếm một chạc cây, vắt dây đai lưng, hoặc trèo lên đỉnh ngọn núi nào đó, nhảy xuống, ặc… Hầy!”

Nghe Lạc Việt nói vậy, Chiêu Nguyên cũng hơi lo lắng. Lâm Tinh lầm bầm, “Nếu y thực sự nghĩ quẩn, thì giữ lại thanh kiếm xoẹt ngang cổ chẳng phải càng nhanh sao? Ta thấy y không nông cạn vậy đâu.”

Bọn họ men theo đường mòn rẽ vào một khúc ngoặt, liền trông thấy bên gốc cây trước mặt một bóng đỏ quen thuộc.

Lâm Tinh lập tức phấn chấn tinh thần, “Ê, tiểu phụng hoàng, ngươi đi theo chúng ta làm gì?”

Phụng Đồng nói nhẹ như không, “Các vị phải đi, vừa rồi không kịp từ biệt nên ta tới chào một tiếng.”

Lâm Tinh cười nhạt. Lạc Việt ôm quyền, “Khách khí rồi, khách khí rồi.”

Bọn họ đang định tảng lờ Phụng Đồng để tiếp tục cất bước, chợt nghe hắn đủng đỉnh hỏi Chiêu Nguyên, “Lệnh tôn Thần Thượng gần đây vẫn khỏe chứ?”

Chiêu Nguyên chết điếng, đứng đờ ra tại chỗ. Phụng hoàng quả nhiên đã biết tất cả mọi chuyện. Vảy khắp mình nó dựng lên đề phòng. Lạc Việt giữ lấy vai nó, hỏi Phụng Đồng, “Tôn thượng Phụng quân gần đây vẫn khỏe chứ?”

Phụng Đồng cong vành mắt, cười, “Lạc Việt thiếu hiệp thật biết nói đùa.”

Lạc Việt cười khì khì nói, “Đâu có đâu có, Đồng công tử, như nhau cả thôi.” Cặp mắt mảnh dài của Phụng Đồng nhìn hắn chằm chằm, “Ngày sau nếu các vị có tới kinh thành, ta nhất định sẽ bày tiệc rượu thiết đãi.”

Lạc Việt lại ôm quyền, “Đa tạ đa tạ, tới lúc đó nhất định không thất hẹn.”

Đoạn kéo Chiêu Nguyên, sải dài bước rời đi.

Tiếng Phụng Đồng cuối cùng vẫn từ sau lưng đuổi tới, “Người các vị muốn tìm, đã đi lên ngọn núi phía Tây Bắc rồi.”

Nam quận nhiều núi, ngoài Vân Tung sơn ra, còn có vài ngọn núi lớn nhỏ cao thấp khác nhau, phân bổ lộn xộn, có tách có liền.

Ngọn núi Phụng Đồng chỉ cho bọn họ ở cách đây không xa, Lạc Việt ngắm nghía áng chừng một lúc, núi rất cao. Hắn cùng Chiêu Nguyên, Lâm Tinh, Ứng Trạch thở hồng hộc trèo lên đỉnh núi, quả nhiên trông thấy Lạc Lăng Chi.

Lạc Lăng Chi đang ngồi trên một phiến đá nơi bờ vực, Lạc Việt biết rõ lúc này không thể kích động y, bèn để Chiêu Nguyên, Lâm Tinh và Ứng Trạch ở lại lùm cây phía sau tạm thời nghỉ ngơi, chờ đợi, một mình thận trọng từng bước tiếp cận Lạc Lăng Chi, “Lăng huynh.”

Lạc Lăng Chi quay đầu nhìn hắn, mặt thoáng vẻ ngạc nhiên, “Việt huynh?”

Lạc Việt cười ha ha, “Ờ, tôi nghe nói, từ đỉnh ngọn núi này trông ra phong cảnh rất đẹp, liền trèo lên đây xem thế nào, không ngờ lại gặp Lăng huynh, ha ha, trùng hợp thật đấy.” Hắn thừa cơ bước lại ngồi xuống cạnh Lạc Lăng Chi, đảm bảo y ở trong phạm vi mình giơ tay ra là có thể túm được, “Lăng huynh, huynh có thấy ngồi trên đỉnh núi nhìn ra bốn phía, lòng cũng rộng mở, khoáng đạt hơn không?”

Lạc Lăng Chi không trả lời.

Lạc Việt giơ tay chỉ về phía trước, “Lăng huynh, huynh xem ngọn núi đằng kia, cái cây đằng kia, dòng nước đằng kia, đồng hoang đằng kia, núi sông mới hùng vĩ bao la nhường nào. Đây chính là đất trời thuộc về đại trượng phu chúng ta. Trong đất trời sông núi này, có hố đất nào mà không nhảy qua được chứ.”

Lạc Lăng Chi thu lại ánh mắt đang thả trôi ngoài vách núi, quay sang nhìn Lạc Việt, “Việt huynh, tôi chỉ lên đây ngồi thôi, không phải định nhảy vực đâu.”

Lạc Việt lập tức bối rối, đưa tay gãi gáy, “Là tôi lo chuyện bao đồng…”

Lạc Lăng Chi khẽ nói, “Đa tạ.”

Lạc Việt vỗ vai Lạc Lăng Chi, “Hầy, Lăng huynh, giờ tôi và huynh đồng bệnh tương lân, đều là con sói nơi chân trời bị đuổi khỏi sư môn. Song, làm độc hành hiệp cũng rất có tiền đồ đấy.”

Nhìn ra ngọn núi phía xa, Lạc Việt lại nhớ đến núi Thiếu Thanh, không biết sư phụ và các sư đệ đang sống thế nào, nhà mới của Thanh Sơn đã bắt đầu đào móng chưa. Hắn còn nhớ năm mình lên bảy lên tám, thường băng qua núi tới mảnh đất trống giữa Thanh Huyền và Thanh Sơn tìm Lạc Lăng Chi chơi cùng. Bởi khi đó các huynh đều đã lớn, chỉ có Lạc Lăng Chi và hắn xấp xỉ tuổi nhau. Lạc Lăng Chi tuy phép tắc cứng nhắc lại là người môn phái đối thủ, nhưng vẫn hơn là không có ai chơi cùng. Về sau hắn dần trưởng thành, hiểu tính nghiêm trọng của ân oán môn phái, lại có thêm mười mấy sư đệ, không còn đi kiếm Lạc Lăng Chi chơi nữa, sau này xảy ra chuyện các sư huynh tới nương nhờ Thanh Huyền, Lạc Lăng Chi liền triệt để trở thành kẻ địch.

Đến nay cả hai đều đã rời khỏi sư môn, nhớ lại chuyện ân oán trước kia thật chỉ như trẻ con gây sự, chẳng có ý nghĩa gì. Một cơn gió núi thổi tới khô khốc.

Có thể bỏ hết khúc mắc lại làm bạn bè, âu cũng là chuyện tốt.

Lạc Việt hỏi Lạc Lăng Chi, “Về sau định thế nào?”

Lạc Lăng Chi khẽ thở dài, “Tạm thời vẫn chưa biết.”

Lạc Việt nhìn vẻ mặt y quạnh hiu, buột miệng nói, “Gần đây quận chúa Tây quận công khai kén rể, nhất định rất thú vị, bọn tôi định tới xem cho vui, huynh có muốn đi cùng không?”

Lạc Lăng Chi suy nghĩ một lát, gật đầu, “Được.”

Chuyện đi Tây quận phải đèo bòng thêm Lạc Lăng Chi, là một chuyện hiếm hoi khiến Lâm Tinh bất đồng với Lạc Việt. Cô cho rằng bọn họ hiện giờ cần thường xuyên bàn bạc đại sự thiên hạ cũng như đối phó với phụng hoàng, Lạc Lăng Chi có mặt không tiện nói chuyện, chẳng khác nào rước thêm phiền toái, mình Ứng Trạch với dạ dày như cái động không đáy đã đủ lôi thôi lắm rồi. Lạc Việt rất cương quyết, hắn nói làm người không thể thiếu tình nghĩa, Chiêu Nguyên đồng ý. Lâm Tinh giận dữ trừng mắt nhìn Chiêu Nguyên, “Ngươi có lúc nào không đứng về phe Lạc Việt không hả?”

Chiêu Nguyên nói, “Tỉ trước đây cũng thế…”

Lâm Tinh tức tối giậm chân, Lạc Việt hí hửng khoác vai Chiêu Nguyên, “Nói hay lắm.”

Trước khi đêm xuống, bọn họ kịp tới một tiểu trấn gần đó, tìm khách điếm trú chân.

Canh ba, cả tiểu trấn đang chìm trong giấc ngủ sâu, Chiêu Nguyên lẳng lặng từ góc chăn bò dậy, âm thầm mở cửa sổ, lách ra ngoài. Nó trèo lên mái nhà, dưới ánh trăng, có một bóng đen đã đứng đợi sẵn, xách theo nó bay ra vùng hoang dã ngoài thành.

Ứng Trạch cùng nó đáp xuống bên bờ suối, “Rồng oắt, ngươi muốn xin bản tọa dạy ngươi điều gì?”

Chiêu Nguyên thành khẩn nhìn lão, “Xin điện hạ dạy tôi cách nào để mau trở nên mạnh mẽ.”

Ứng Trạch nheo mắt, “Để giúp tên người trần kia ư?”

Chiêu Nguyên biết Ứng Trạch có thành kiến với Lạc Việt, nhưng vẫn gật đầu, lại bổ sung, “Cũng là để đánh bại phụng hoàng, giành lại vị trí long thần hộ mạch nữa.”

Nét mặt Ứng Trạch rất khó đoán, “Được rồi, bản tọa muốn xem xem, con rồng oắt nhà ngươi đến cuối cùng sẽ nhận được kết quả gì. Có điều, bản tọa không dạy không cho ngươi đâu, về sau ngươi cũng phải giúp ta làm một chuyện.”

Chiêu Nguyên liền gật đầu thật mạnh. Ứng Trạch nói, “Trước tiên bản tọa sẽ dạy ngươi vài cách dưỡng khí đơn giản nhất.”

Ứng Trạch nói, lão là Ứng Long, không cùng một loài rồng với Chiêu Nguyên, vì vậy pháp môn tu luyện cũng không giống. Song, hút tinh hoa, dưỡng tính khí, phép tu luyện tiên nguyên cơ bản nhất này thì chung cả. Rồng, không phải chỉ ở trong nước mới có thể tu dưỡng tiên khí. Khí âm nhuận của mặt trăng, khí dương trạch của mặt trời, vân khí vụ khí, thậm chí khí tức thở ra hít vào, cũng đều có thể hấp thu tinh luyện, nạp vào cơ thể, nuôi dưỡng tiên nguyên. Hai từ mấu chốt của việc xây dựng nền móng này chính là “dưỡng” và “súc”, dưỡng và súc không yêu cầu trong hoàn cảnh thời gian đặc biệt, đây vốn là chuyện có thể tiến hành bất kể lúc nào, phải trở nên tự nhiên như nước chảy thành sông.

Chiêu Nguyên tạm thời vẫn chưa thể đạt đến cảnh giới Ứng Trạch truyền dạy, nó chỉ có thể từng bước cẩn trọng thực hành phương pháp thổ nạp vừa học được. Thử để tiên khí chầm chậm lưu thông vận hành trong cơ thể, truyền đi khắp nơi.

Ngộ tính của nó không thể coi là thấp, Ứng Trạch rất hài lòng.

Ứng Trạch lại nhắc nhở nó, giữa đất trời có thanh khí cũng có trọc khí, tuyệt đối không thể vì muốn tốc thành mà hấp thu trọc khí do huyết quang tàn bạo sản sinh, càng không được lấy giết chóc dưỡng thân, bằng không sẽ rơi vào ma đạo, bị nó dội ngược lại chính mình. Bởi vậy có lúc mới nói, tiên và ma, chỉ cách nhau một bước chân.

Ứng Trạch long thần thượng cổ, những điều lão dạy cho Chiêu Nguyên đều là phép tu dưỡng của bậc thượng tiên trên Thiên đình, so với Thần Thượng cha của Chiêu Nguyên rõ ràng cao minh hơn nhiều. Chiêu Nguyên nhả nuốt suốt mấy canh giờ liền thấy toàn thân khoan khoái, có một cảm giác nhẹ nhõm trước nay chưa từng có.

Trời dần ửng xanh, Chiêu Nguyên lắc mình để giũ sương bám khỏi cơ thể, lại lẳng lặng rúc trở về bên cạnh Lạc Việt, vùi đầu vào gối, nhắm mắt.

Chiêu Nguyên ngày ngày tu luyện, bề ngoài trông có vẻ vẫn không có gì biến đổi. Ứng Trạch hướng dẫn nó, tu luyện tiên pháp cũng giống như tích nước vũng sâu, sau khi tích lũy từng chút một, sẽ có một ngày, nhờ một bước ngoặt mà triệt để thoát thai hoán cốt. Trên đường theo Lạc Việt tới Tây quận, Ứng Trạch đêm nào cũng phải chỉ dạy cho nó, dạ dày ngày một to ra, đi ba bốn ngày đường, số lộ phí hôm nào mới cướp về đã dần dần bị ăn sạch.

Trước khi kịp khuynh gia bại sản, Lạc Việt tính làm mấy vụ giao dịch nho nhỏ ở các tiểu trấn dọc đường, kiếm thêm chút lộ phí bổ sung. Những giao dịch ấy chính là nghề nằm lòng của hắn, giúp người ta xem bói coi tướng. Đáng tiếc Lạc Việt còn trẻ tuổi cho dù mồm miệng nói năng dẻo quẹo, người khác vẫn thấy hắn không đáng tin, cho rằng giống như gạt tiền, không chịu chiếu cố hắn. Lạc Việt cũng không nản lòng, ngồi sau chiếc bàn xập xệ thuê về để trước miếu thành hoàng, tiếp tục mời chào làm ăn. Hắn ngồi từ sớm đến trưa, bỗng có một người chạy xồng xộc tới hét lớn, “Không hay rồi, Tôn tướng quân sắp dẫn người đánh vào trong thành rồi.”

Những người qua lại trên đường tức thì cuống lên tháo chạy tứ tung. Lạc Việt ngơ ngác nhìn.

Không đen đủi vậy chứ, kiếm chút lộ phí cũng đụng phải đánh nhau?


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.