Động tác bấm độn bên tay phải cũng đã dừng lại, Chu thiên sư nét mặt hoang mang.
-Là thứ ô uế gì ư? – Lỗ Thiên Liễu hỏi.
-Không biết! Rất quái lạ. Kết quả bấm độn là nửa người nửa ma. – Chu thiên sư đáp.
-Ông nói nhịu rồi phỏng? Cái gì mà người cái gì mà ma? Ở chỗ núi hoang rừng thẳm lại không đèn không đóm như thế này, đừng có nói nhảm, lại gọi mấy thứ linh tinh đến bây giờ! – Thủy Du Bạo đi ngang qua bên cạnh Lỗ Thiên Liễu và Chu thiên sư, đã nghe thấy đoạn đối thoại giữa hai người.
Thủy Du Bạo vừa nói dứt lời, lại một cơn gió mạnh thổi vèo qua, kèm theo những tiếng lào xào sột soạt. Trong gió như văng vẳng tiếng nuốt nghẹn, khiến người nghe không khỏi liên tưởng đến cảnh yêu ma uống máu nhai xương, mà rùng mình ớn lạnh.
-Là tiếng gì thế? Nghe rùng rợn quá! – Đệ tử của Du Hữu Thích lên tiếng, răng môi gõ vào nhau cầm cập.
-Đừng sợ! Là tiếng gió thổi rừng trúc mà thôi! – Chúc Tiết Cao trấn an.
-Tiếng gió thổi rừng trúc không giống như thế! – Ngũ Lang cất giọng ồm ồm phản bác – Nhà chúng tôi ở vùng Dương Sơn, rừng trúc sát cạnh nhà, tôi nghe không biết bao nhiêu năm rồi, nhưng chưa bao giờ nghe thấy âm thanh tương tự.
-Tre trúc vốn chẳng loại nào giống loại nào, hơn nữa khi trồng trúc, khoảng cách và bố cục lại mỗi nơi một khác. Những nguyên nhân đó đều tạo nên sự khác biệt trong tiếng gió thổi rừng trúc. Ngay cả cùng một cây trúc, không có lỗ thì làm ống thổi lửa, có lỗ thì làm ống sáo, cậu nói xem âm thanh của chúng có giống nhau không?
Ngũ Lang tính tình chất phác, nói không lại Chúc Tiết Cao, mặc dù cảm thấy cách gã giải thích không thực thỏa đáng, cũng chỉ biết ngậm miệng không nói được gì thêm.
Chúc Tiết Cao nói không sai, rừng trúc nằm ở ngay sườn núi bên kia cách đỉnh núi chỉ chừng mươi bước. Trúc ở đây quả thực cũng không giống với những loại tre trúc khác, có màu đen nhánh, thân cao cành thưa, lá chỉ lơ thơ, song phiến lá rất lớn. Kỳ quặc nhất là trên thân trúc quả thực có lỗ, trông hệt như cây sáo, những tiếng nghẹn ngào văng vẳng đúng là do gió thổi qua các lỗ thủng phát ra. Trúc mọc rất dày, mỗi khi có gió thổi qua, thân trúc, lá trúc cọ quẹt vào nhau phát ra thứ âm thanh hết sức lạ lùng.
-Trúc sáo định hồn! – Chu thiên sư kiến thức uyên thâm, vừa nhìn đã nhận ra chủng loại của giống trúc lạ.
-Đó là truyền thuyết, hình như gọi là “trúc sáo dàn tiếng định ba hồn”, nói rằng đây là giống trúc do Diêm Vương trồng ở ranh giới âm dương để trấn định những cô hồn dã quỷ không chịu đầu thai. Nhưng thực chất là do tại các mắt đốt, gốc cành trên cây trúc tiết ra nhựa ngọt, thu hút sâu bọ đục lỗ trên thân trúc để chui vào. Thế nhưng cách sắp xếp kiểu “dàn tiếng định hồn” lại là do con người trồng nên! – Chu thiên sư nói đúng, các thân trúc ngay hàng thẳng lối, khoảng cách đều đặn, chỉ có thể do con người bố trí – Trúc trồng theo kiểu này hẳn không phải để nhìn cho đẹp mắt, mà chắc chắn còn có tác dụng khác!
-Đương nhiên là có tác dụng rồi! Chẳng phải đã khiến mấy người sợ hết vía rồi ư? – Chúc Tiết Cao chỉ đơn thuần là nói ra phán đoán của mình, không có ý cãi cọ hay xem thường ai cả. Theo như gã biết, đám trúc này ngoài việc phát ra những âm thanh rùng rợn thì không còn tác dụng gì khác.
-Cãi lời người già, gặp họa chẳng xa. Đúng là cá không ăn muối cá ươn, bảo ngươi bẻ măng ăn, ngươi lại gặm thân trúc. Vậy cũng hay, rồi ị ra nguyên một cái ghế trúc gắn sau mông đít, đi đến đâu ngồi luôn đến đấy! – Lời của Chúc Tiết Cao đã đắc tội với mọi người, cũng kích động thói điêu ngoa của Thủy Du Bạo, thế là lão chẳng cần để ý tới thời gian hoàn cảnh, lập tức phun ra một tràng thóa mạ gã thợ đan.
Chúc Tiết Cao chỉ cười nhạt, chẳng thèm đếm xỉa đến lão. Gã cảm thấy kiểu ăn nói của lão Thủy giống hệt như mình, đều thẳng ruột ngựa.
-Đừng có dông dài chuyện tre trúc nữa, nhanh chân lên! Nhìn dưới chân núi đen đặc một đám, có lẽ là một vạt rừng, xuống tới đó chúng ta sẽ nghỉ chân! – Du Hữu Thích ngoài miệng nói vậy, nhưng chân vẫn đứng yên, chỉ đưa mắt hết nhìn Chúc Tiết Cao lại nhìn Chu thiên sư.
Chu thiên sư khẽ mỉm cười, không tiếp tục tranh luận với Chúc Tiết Cao nữa.
Chúc Tiết Cao cũng không nói thêm lời nào, chỉ vuốt lại bó nan tre quấn ngang hông, sửa sang lại con dao pha nan trong túi vải, sau đó dẫn đầu rẽ trúc mở đường, đi thẳng xuống sườn núi.
Lỗ Thiên Liễu đi bên cạnh Chúc Tiết Cao. Gã thợ đan vừa cất bước, cô vội vàng thở ra để thu ngực thót bụng, luồn qua khe hở giữa các thân trúc mà đi.
Ngũ Lang cũng bám theo Lỗ Thiên Liễu, nhưng với khổ người vạm vỡ to cao, thật khó lòng len lách được qua vạt trúc. Anh ta liền giơ phác đao đâm chéo xuống, chặt đứt phăng gốc một thân trúc to ngang miệng chén. Việc này khác nào mở ra một cánh cửa trên tường kín, những người phía sau đều bám theo anh ta mà đi.
Người đi cuối cùng là Thủy Du Bạo. Vừa chui qua vạt trúc, lão lập tức chun mũi hít lấy hít để, rồi hai hàng lông mày giật lên vài cái.
Sau khi vượt qua vạt trúc, Lỗ Thiên Liễu không vội đi ngay. Bởi vì vừa mới bước qua, cô đã cảm thấy lồng ngực ngột ngạt, hơi thở nặng nề. Cô chợt nhớ trong “Huyền giác” có viết rằng, nếu đột ngột xuất hiện tình trạng này, gọi là “ý áp” cần hết sức thận trọng, nên lập tức tập trung tinh khí để quan sát biện nhận, cảm giác từng biến đổi tinh vi nhất ở từng ngóc ngách xung quanh và từng bộ phận trên cơ thể.
Lúc này, mọi người đều muốn nhanh chóng đi đến vạt rừng dưới chân núi. Trong tình hình đó, Lỗ Thiên Liễu không thể tập trung tinh khí, cô còn lâu mới đạt tới trình độ có thể tụ khí nhập huyền trong nháy mắt. Nhưng tình trạng này đã khiến cô càng thêm thận trọng, bước đi thật chậm, cố gắng sử dụng ba giác trong sáng rà soát khắp xung quanh xem có động tĩnh gì không.
Khi tụt lại phía sau, Lỗ Thiên Liễu vừa hay nhìn thấy Thủy Du Bạo đang hít hít ngửi ngửi như con chó già, liền phì cười mà hỏi:
-Ông Thủy ơi, ông có ngửi ra cái gì không? Có món gì ngon ư?
Song Thủy Du Bạo không trả đũa câu nói đùa của Lỗ Thiên Liễu, mà nói với cô bằng một giọng rất lạ lùng:
-Liễu bán tiên, cô cũng ngửi kỹ đi, xem có điều gì bất thường không?
Lỗ Thiên Liễu nghe Thủy Du Bạo gọi mình là Liễu bán tiên, thì ngẩn ra kinh ngạc. Khi còn ở núi Long Hổ, cô đã được chưởng giáo thiên sư và mấy vị lão thiên sư thân phận cực cao xem tướng giúp, và nói rằng cô có tướng nửa người nửa tiên, thanh đồng bích nhãn, chuyện này vốn dĩ chỉ có ông Lục và mấy vị thiên sư xem tướng được biết, vả lại cái tên “Liễu bán tiên” cũng chỉ có chưởng giáo thiên sư gọi trêu cô hai lần. Lão Thủy Du Bạo kia rốt cuộc là nhân vật thế nào, tại sao ngay cả chuyện này cũng biết? Trí não Lỗ Thiên Liễu nhanh chóng rà soát lại một lượt tất cả những sự việc thoạt nhìn có vẻ ngẫu nhiên đã xảy ra suốt dọc đường đi. Xem ra lời ông Lục nói với cô trước đây quả thực không sai, “chỉ người cao thâm mới làm được việc ngẫu nhiên”.
-Hỏi cô kìa! Sao lại nghệt ra thế? Đang nghĩ đến miếng thịt đầu lợn giấu dưới gối à?
-Có! – Lỗ Thiên Liễu đáp quấy quá.
-Có cái gì? – Thủy Du Bạo có vẻ không tin, dường như lão đã biết Lỗ Thiên Liễu không ngửi thấy gì, chỉ nói bừa để trêu ghẹo mình mà thôi.
-Tôi ngửi thấy đã mấy ngày nay ông không uống rượu, không biết là muốn cai rượu hay không nỡ uống?
-Không nỡ uống. Để dành rượu cho việc khác.
-Ồ! – Mặc dù Lỗ Thiên Liễu không biết có thể dùng rượu vào việc gì, song cô cảm thấy Thủy Du Bạo không cầm bình rượu trong tay cũng chẳng khác nào cô không có Phi nhứ bạc, Ngũ Lang không có phác đao.
-Hai người đừng có lắm chuyện nữa, trời tối như mực lại không có đường đi, đừng có để gạo sống cơm rời chạy nước sôi (đi lạc không tìm thấy) đấy nhé! – Du Hữu Thích phía trước lớn tiếng gọi.
-Biết rồi!
-Hiểu rồi!
Lỗ Thiên Liễu và Thủy Du Bạo cùng lên tiếng, chứng tỏ bọn họ đều hiểu thứ tiếng lóng thổ phỉ của Du Hữu Thích.
Xuống tới lưng chừng núi, Lỗ Thiên Liễu càng cảm thấy lồng ngực đau tức, tâm tư buồn bực, còn Thủy Du Bạo hai hàng lông mày càng nhíu giật liên hồi.
Người dừng chân đầu tiên là Chu thiên sư, vừa dừng bước vừa gọi người đi trước là Chúc Tiết Cao dừng lại.
-Sao thế? Sắp tới khu rừng phía dưới rồi! – Gã thợ đan cảm thấy khó hiểu trước hành động của Chu thiên sư.
-Không phải! Tôi cảm thấy rất bất ổn, xung quanh đây tà khí nồng nặc! – Chu thiên sư đáp.
-Đừng có thần hồn nát thần tính nữa, hãy nhìn cả vạt… A! – Chúc Tiết Cao còn chưa nói dứt lời, một cơn gió lạnh buốt đã thình lình ập tới thốc thẳng vào mũi miệng.
Không ai nói gì thêm nữa. Cơn gió âm hàn ma quái đã đủ để thức tỉnh mọi người nhớ lại sự việc rùng rợn từng gặp ở rừng Giá Trinh.
-Than đượm thì lửa xanh, gió to thì mưa đến, có chuyện quái gì đâu, là trời sắp mưa đấy! – Lời của Thủy Du Bạo xem chừng có lý, mọi người nghe vậy cũng thấy bớt căng thẳng.
Quả nhiên, lời vừa nói dứt, những hạt mưa lạnh toát đã táp lên đầy mặt.
-Mưa thật rồi! Chúng ta mau chạy xuống khu rừng trú tạm! – Lỗ Thịnh Nghĩa nói rồi lập tức lao đi ngay, nhưng mới được mấy bước, một tiếng quát nghiêm khắc đã vang lên:
-Không được cử động!
Đó là giọng của Chu thiên sư. Mặc dù trong bóng tối không nhìn thấy vẻ mặt của ông, song trong tiếng quát tràn đầy lo sợ và hãi hùng, khiến bầu không khí như đông cứng lại.
Cơn mưa mỗi lúc một dày. Nhưng lúc này mới chỉ đầu xuân, mưa trong núi có lớn cỡ nào, cùng lắm cũng chỉ giống như một màn bụi nước giăng kín đất trời, khiến bóng đêm càng trở nên thâm u mờ mịt.
-Lỗ sư phụ, ông bước sang phải bốn bước. Ngũ Lang, cậu bước sang trái ba bước! – Chu thiên sư nói rành mạch từng câu từng chữ – Cậu Du, dẫn đệ tử của cậu lùi về phía sau bốn bước, sau đó hai người tách nhau ra năm bước. Cậu Chúc, hãy bước lên phía trước hai bước! – Chu thiên sư tiếp tục sắp xếp.
-Ông Thủy, ông bước lên phía trước bốn bước đi, tôi cũng bước lên trước một bước! – Lỗ Thiên Liễu đã hiểu Chu thiên sư muốn sắp xếp kiểu gì, nên chưa đợi Chu thiên sư lên tiếng, đã mau mắn sắp xếp vị trí cho mình và Thủy Du Bạo.
-Còn ngươi nữa, tạm thời tránh sang bên phải, tránh ra cả trăm bước cũng không sao, chỉ cần khi ta gọi ngươi nghe thấy là được! – Đệ tử của Chu thiên sư đang đứng ở ngoài cùng bên phải, cách những người còn lại khá xa, vì vậy Chu thiên sư cho hắn đứng ở một vị trí khác hẳn, vì hắn vẫn chưa bước vào phạm vi nguy hiểm.
Rất lâu, rất lâu sau, những người đang đứng bất động ở nguyên vị trí đều đã bị mưa tạt ướt sũng. Ướt mưa chỉ là chuyện nhỏ, quan trọng hơn là nỗi sợ hãi, lo lắng, căng thẳng đè nặng trong tâm lý, lại không dám cựa quậy, không biết phải làm gì. Tình trạng này khiến cho mấy kẻ thường ngày chẳng màng sống chết, chém giết quen tay, giờ lại thấy ruột gan như lửa đốt.
-Làm cái quái gì thế này, kết lưới sống hay giậm ván trượt? Này ông Chu, ông có tính lầm không đấy? Đừng có lừa chúng tôi đứng dầm mưa ở đây. Tôi chỉ muốn lao xuống dưới kia, cho dù có chém giết đến tan xương nát thịt cũng xong! – Du Hữu Thích là người đầu tiên lên tiếng phản đối.
-Ngươi dù gì cũng là kẻ đầu gấu có nghề, mới thế mà đã không chịu được à? Đến như nấu rượu cũng phải đủ lửa đủ thời gian mới sủi tăm được chứ! – Thủy Du Bạo chưa đợi Chu thiên sư lên tiếng, đã vặc lại Du Hữu Thích.
-Chẳng phải ông vừa nói nổi gió là vì sắp mưa hay sao? Bây giờ mưa cũng đã mưa, gió cũng đã dừng, sao còn chưa đi? Chẳng lẽ cứ đứng lì cả đêm ở đây chịu ướt? – Đến lượt Chúc Tiết Cao lên tiếng.
-Lúc trận gió âm hàn thổi tắc mũi tắc miệng cậu, chẳng phải cậu cũng cảm thấy bất thường ư? Hơn nữa, nếu bây giờ đi, cậu có nhận ra được phải đi về hướng nào không? – Là giọng nói trầm tĩnh của Chu thiên sư.
-Thì đi xuống dưới… – Chúc Tiết Cao vừa thốt được nửa câu đã khựng ngay lại, vì gã đột nhiên không còn cảm thấy độ dốc vốn có của sườn núi dưới chân nữa. Ngay cả rừng cây đen kịt vừa ở trước mắt cũng chẳng thấy đâu. Không nhìn thấy rừng cây còn dễ hiểu, vì lúc này đã sắp nửa đêm, lại thêm mưa bụi mù mịt. Đây là một sườn núi không rộng cũng không dài, độ dốc rất rõ ràng, chẳng lẽ do đứng bất động quá lâu nên bàn chân đã tê dại?
-Mọi người hãy nghe tôi nói! – Chu thiên sư vận khí để phát âm, nên giọng nói rất trầm ổn – Lúc nãy, ở bên ngoài vạt trúc sáo định hồn, tôi đã sơ suất, chưa xem xét kỹ tác dụng của vạt trúc sáo đã vội lao vào. Nó là sáo trúc dàn tiếng định ba hồn. Sau khi người ta chết đi, ba hồn bảy phách sẽ tiêu tán, nhưng nếu như định ba hồn lại không cho tiêu tán, thì xác chết có thể nuôi được. Lúc này, chúng ta đã sa vào vùng đất dưỡng thi. Thế nhưng có thể dùng sườn núi đất ít đá nhiều như thế này làm đất dưỡng thi, quả thực không thể ngờ tới!
Vùng đất dưỡng thi theo lời Chu thiên sư, chính là khi người ta chưa chết hẳn, dùng màng mỏng bằng bạc thuần hình tam giác phong kín cung Nê hoàn của họ. Như vậy, bảy phách của người chết sẽ tiêu tán, nhưng vẫn giữ lại được ba hồn trong thi thể. Sau đó, chôn thi thể xuống đất trong tư thế đứng thẳng, đầu cách mặt đất khoảng một thước rưỡi, đó chính là ranh giới giao thoa giữa âm và dương. Như vậy, xác chết có thể cùng lúc hấp thụ hai luồng địa khí âm dương. Xác chết kiểu này được gọi là “dưỡng thi”, tức xác chết được nuôi dưỡng. Dưỡng thi có cả đặc điểm của xác dương và hồn âm, không biết đau đớn, không có cảm giác, sức mạnh vô địch. Khi dùng bùa chú để điều khiển, nó sẽ trở thành một cỗ máy giết người, một công cụ mê hoặc.
Trong các trước tác “Dị táng ký” của Lê Đại người đời Tống và “Kiềm bạc dã đàm” không rõ tác giả viết vào đời Nguyên đều có những ghi chép liên quan đến dưỡng thi.
Mặc dù Chu thiên sư đã tự gánh trách nhiệm về mình, nhưng mọi người trong thâm tâm đều rõ, nguyên nhân chủ yếu vẫn là do Chúc Tiết Cao và Du Hữu Thích quá hấp tấp và ngoan cố, mới dẫn đến sai lầm đáng tiếc này.
-Bây giờ mọi người hãy coi như đang giúp tôi. Nếu mọi người cảm thấy mệt mỏi, có thể ngồi hoặc nằm tùy ý, có điều phải ở nguyên vị trí không được di chuyển, nhất định phải duy trì được vị trí “Bát tiên định tà”. Chỉ có bố cục hình dương khí này mới có thể trấn áp dưỡng thi không cho chúng đội đất chui lên. Còn về việc chúng ta phải thoát khỏi đây bằng cách nào, xin hãy cho tôi thêm chút thời gian suy nghĩ.
Lời nói của lão thiên sư đã thể hiện rõ phong độ của bậc tu đạo cao thâm, nhưng lại khiến Chúc Tiết Cao và Du Hữu Thích cảm thấy trong lòng hổ thẹn.
-Hề hề, vị trí “Bát tiên định tà”[4] à? May mà ở đây có một vị Hà tiên cô là cô, nếu không bố cục này đã không bày được! – Thủy Du Bạo hạ giọng nói với Lỗ Thiên Liễu, không biết là trêu đùa cô, hay lão thực sự hiểu được tuyệt chiêu đuổi yêu hàng ma của núi Long Hổ.
-Nếu tôi là Hà tiên cô, chắc ông là Thái Thượng Lão Quân! Đứng nhầm chỗ rồi! – Lời nói của Lỗ Thiên Liễu mang ý thăm dò, cô hy vọng Thủy Du Bạo có thể hiểu được mà chủ động tiết lộ thân phận thật của lão.
-Ha ha, đúng là bán tiên có khác, lời nói cũng mang khí tiên. Nhưng cục “Thất điện nhất nghê”[5] không chỉ có một vị trí “Bát tiên định tà”. Một tép tỏi còn xào được bảy con tôm nõn, thật khó nói tôi có đứng nhầm chỗ hay không. – Thủy Du Bạo thì thào.
Lỗ Thiên Liễu không nói gì, không phải giận Thủy Du Bạo ví cô là một tép tỏi, mà vì cô đã phát hiện ra điểm bất thường trong lời của lão. Vị trí “Bát tiên định tà” là phương pháp sắp xếp bố cục thường gặp khi các thiên sư trên núi Long Hổ đi làm ngoại công[6]. Nhưng những lời vừa rồi của lão Thủy lại như vô tình hay hữu ý nhắc nhở cô rằng, bố cục bảy nam một nữ ở đây chưa chắc đã là “Bát tiên định tà”. Vậy đó là cục tướng huyền diệu nào? Trong đó còn có dụng ý gì khác?
Thời gian chậm chạp nhích từng chút một, ít nhất thì những người phải đứng chôn chân trong vùng đất dưỡng thi đang cảm thấy như vậy. Cùng với thời gian nặng nề trôi đi, cơn sợ hãi bất an vừa được Chu thiên sư xoa dịu lại dần dần trỗi dậy. Điều này cũng khó trách, Chu thiên sư nói là sẽ nghĩ cách thoát thân, nhưng đến tận lúc này vẫn chưa thấy hé răng, chỉ ngồi xếp bằng trên đất, nhắm chặt mắt bấm ngón tay miệng lầm rầm không ngớt.
Chúc Tiết Cao không thể ngồi yên được nữa. Gã cho rằng sai lầm lần này là do bản thân quá cố chấp, làm liên lụy đến mọi người, trong lòng vừa hổ thẹn, vừa thấy mất mặt vô cùng. Nhưng nghĩ lại, trong những kỹ năng mà tổ tiên đời đời truyền thụ, không thấy có chỗ nào nhắc đến chuyện hồn ma quỷ quái. Trong khi lúc nãy, ngoài hai cơn gió âm tà thốc thẳng vào mặt mũi, cũng không thấy có hiện tượng bất thường nào khác. Không lẽ lão già mũi trâu kia đang bày trò huyền bí để trả đũa gã?
Nghĩ đến đây, Chúc Tiết Cao quyết định biến mình thành cây gậy dò đường. Nếu không có chuyện gì, sẽ bóc mẽ được màn kịch huyền bí của lão Đạo sĩ, còn nếu quả thực có điều bất trắc, cũng đáng đời gã. Dù sống hay chết, cũng coi như làm tròn trách nhiệm với mọi người.
Chúc Tiết Cao đã nghĩ là làm, chẳng thèm nói lấy một tiếng, đã đứng bật dậy lao thẳng người đi.
Động tác của gã thợ đan không hề chậm chạp, song gã vừa mới dấn lên một bước đã ngã sấp mặt xuống đất, bùn nước xung quanh bắn lên tung tóe như nan quạt.
-Đừng cố giãy giụa! Hãy thả lỏng! Kệ cho nó kéo! Chúng tôi sẽ cứu cậu! – Chu thiên sư hướng về phía Chúc Tiết Cao la lớn. Song lúc này, Chúc Tiết Cao không còn nghe thấy gì nữa. Vừa ngã xuống đất, gã đã trở thành một kẻ mất hồn, động tác đờ đẫn, trong cơn quẫn loạn đã mù quáng giãy giụa kịch liệt.
-Á!!! Cái gì kia? – Lỗ Thịnh Nghĩa cũng rú lên khiếp đảm, bởi vì trên mặt đất ngay trước chỗ ông đang đứng, bỗng thò lên một cánh tay đen đúa, da quắt xương khô, song móng tay lại dài nghêu, trắng ởn, cong vút như một cái móc sắt.
Không phải chỉ có một mình Lỗ Thịnh Nghĩa, mà xung quanh những người khác cũng đã thình lình mọc lên một hai cẳng tay tương tự. Những cánh tay khua khoắng dữ dội, nắm chụp liên hồi, như đang khao khát cực độ được túm bắt thứ gì đó.
Chính một cánh tay tương tự đã đột ngột đội đất vươn lên túm chặt lấy gót chân Chúc Tiết Cao. Song đấy vẫn chưa phải là điều đáng sợ nhất, mà sau khi gã ngã xuống, đất trên sườn núi bỗng nhiên nhão nhoét như bùn. Vạt cỏ, bùn đất, đá vụn, tất cả đang trồi sụt, đang cuộn lật nháo nhào. Cánh tay đen đúa nhăn nheo vẫn túm chặt lấy bàn chân gã thợ đan, từ từ lôi xuống mặt đất xốp nhuyễn từng chút một, hệt như đang nhận gã xuống đầm lầy. Chúc Tiết Cao càng giãy giụa điên cuồng, tốc độ lún xuống lại càng chóng vánh.
Chú thích
[4] Bát tiên tức là tám vị tiên trong thần thoại Đạo giáo, gồm có Thiết Quải Lý, Hán Chung Ly, Lã Động Tân, Trương Quả Lão, Hà tiên cô, Tào Quốc Cữu, Hàn Tương Tử và Lam Thái Hòa, trong đó chỉ có Hà tiên cô là nữ.
[5] Có nghĩa là bảy tia chớp một cầu vồng.
[6] Thiên Sư giáo cho rằng, ngoài việc tĩnh tu ngộ đạo, thì ra ngoài giúp dân chúng trừ yêu phục ma cũng là một cách tu luyện công đức, được gọi là “ngoại công”.