Mũi đao đã xuyên
qua lớp áo bông của Lỗ Nhất Khí, song không thể đi sâu hơn, bởi lẽ đã bị một vật cứng cản lại. Vật đó giấu ở phía trước bụng Lỗ Nhất Khí, đã
được cậu dùng dây lưng bằng vải quấn chặt lại với tấm áo bông, chính là
một khẩu pạc hoọc.
Mũi đao không thể xuyên sâu hơn còn vì một
nguyên nhân nữa, đó là nửa thân trên của đao thủ đã bị giữ chặt, lập tức khựng lại không thể tiến thêm dù chỉ một tấc. Song hai chân hắn vẫn
tiếp tục lao lên, thành ra thân dưới văng về phía trước, cả thân người
bật ngửa ngã nhào.
Cổ của đao thủ đã bị giữ chặt bởi tay cầm của
một chiếc cưa thợ mộc cỡ lớn. Một bàn tay đang nắm chắc tay cầm còn lại, đó là một bàn tay vô cùng mạnh mẽ, từ khoảnh khắc chiếc cưa được lồng
vào cần cổ đao thủ bàn tay không hề nhúc nhích, cả cơ thể đang lao vùn
vụt về phía trước của đao thủ không hề khiến bàn tay lay chuyển lấy một
ly.
Chiếc cưa lớn vừa giữ được đao thủ, từ phía đông bỗng vọng
lại hàng tràng những tiếng rầm rầm vang động. Vừa mới đây thôi khu chợ
đã phải hứng chịu một cơn mưa lửa, giờ đây lại đến nước lũ tràn về. Là
một cơn lũ gỗ. Đống gỗ thô cao chất ngất đã đổ ập, vô số thân gỗ to
ngang chum vại sầm sập lao xuống, lăn lông lốc về phía quán cơm.
Trong cơn lũ gỗ, có hai thân hình phì nộn lông lá xồm xoàm đang nhảy loi
choi, bọn họ nhẹ nhàng giẫm lên điểm cao nhất trong dòng gỗ, tựa như hai quả thông nhẹ xốp nhấp nhô trên đỉnh sóng. Hai thân hình kia không
những luôn chọn đúng điểm cao nhất để giậm chân tung mình, không bị cuốn vào dòng lũ, mà còn liên tục di chuyển đến sát mép ngoài. Rất nhanh
chóng, bọn họ đã tìm được một thời cơ tuyệt hảo để ung dung thoát khỏi
dòng gỗ, nhảy lên mặt đất và lao nhanh tới bên Lỗ Nhất Khí.
Đám
đao thủ nhanh chóng tung mình nhảy bật lên, vừa nhảy vừa chạy trối chết, song vẫn có vài kẻ bị cuốn vào dòng lũ. Tuy bị những khối gỗ khổng lồ
phang đập đè nghiến, song chúng không hề bật lên một tiếng kêu gào. Vì
trong quá trình tập kích, những tiếng thét gào đau đớn sẽ ảnh hưởng tới
đồng bọn, khiến khí thế chùn nhụt, thậm chí trở nên nao núng.
Gã
đao thủ suýt nữa hạ sát Lỗ Nhất Khí thành công sau khi bị cán cưa giật
ngã bổ chửng, mũi đao đã xuyên qua lớp áo bông của Lỗ Nhất Khí cũng theo đà rạch thẳng xuống, cứa rách toạc vạt áo bông, cũng cứa đứt dải thắt
lưng buộc bên ngoài áo. Khẩu pạc hoọc đang giấu trước bụng lập tức lộ
ra.
Lúc này, đám đao thủ bên mé tây đã kịp ào tới. Một tên nhảy
vọt lên cao, lao bổ về phía Lỗ Nhất Khí. Hai kẻ khác cũng tung người lên xông thẳng vào người cầm cưa.
Chỉ thấy người cầm cưa vung mạnh
tay trái, một vật thể tròn như chiếc đĩa bay vụt về phía đao thủ đang
tấn công Lỗ Nhất Khí. Hắn chưa kịp né tránh hay đánh đỡ, chiếc đĩa đã
xẹt thẳng đến mạng sườn. Chỉ nghe hắn “hự” lên một tiếng, cả thân người
đã rơi đánh huỵch lên một khúc gỗ vừa lăn tới sau lưng. Lúc này, một
miếng gỗ thông lùn nhựa hồng ngọc tròn xoe mới lăn ra, xoay tít một hồi
mới dừng lại.
Hai đao thủ đang xông về phía người cầm cưa cũng đã ngã nhào cả xuống, vì có hai chiếc rìu cán dài đã lao về phía chúng.
Hai chiếc rìu bay ra từ hai cơ thể lông lá xồm xoàm khi nãy, trông khác
hẳn với rìu thợ mộc thông thường, phần cán dài hơn rất nhiều, có lẽ
chừng ba thước. Lưỡi rìu không lớn, trông vuông vức đày dặn, có lẽ là
loại rìu chuyên dùng để đốn cây, chẻ củi.
Nhìn vào đường bay của
hai chiếc rìu, có thể đoán rằng đây không phải cách xuất chiêu của cao
thủ võ công, song nghe tiếng gió rít khi lưỡi rìu bay đi, đủ biết chúng
mang theo một lực đạo kinh người. Hai đao thủ vừa lơ lửng trên không đã
rơi phịch xuống, ngã nhào trên đống gỗ lăn hỗn độn. Chúng không bị lưỡi
rìu chém phải, song đã bị cán rìu xoay tít quật trúng.
Dòng thác
gỗ tuy vô cùng hung hãn, song chỉ duy trì trong một thời gian ngắn ngủi. Bởi vậy cục diện vừa hơi lắng dịu, những đao thủ không bị thương lập
tức ồ ạt lao lên, chớp mắt đã dàn thành một trận ngũ trùng nhỏ hơn,
nhưng chặt chẽ nghiêm mật y hệt như khi mới bắt đầu triển khai tập kích.
Nhưng đám đao thủ còn chưa kịp hành dộng, hai thân người xồm xoàm đã lập tức
ra tay. Họ đã không còn rìu làm vũ khí, nên hợp sức cùng nhấc bổng lên
một súc gỗ to như cái chum, động tác của họ vô cùng ăn ý, lấy mũi chân,
đầu gối, hông, sườn làm điểm tựa, thoắt cái đã gác được súc gỗ lên vai,
rồi quăng vụt ra.
Súc gỗ rơi xuống, vụn gỗ tung toé tứ bề, nhưng đám đao thủ chỉ hơi rẽ ra, rồi ngay lập tức lại trở về vị trí.
Hai người kia vừa định tiếp tục nhấc một cây gỗ khác, song đám đao thủ đã
không cho họ cơ hội ra tay, từ trong trận hình ngũ trùng tàn sát đã có
một nhóm tách ra, lao sang vây kín lấy họ, mấy luồng đao quang đồng thời giáng xuống.
Lúc này Lỗ Nhất Khí đã lôi được khẩu pạc hoọc ra,
chốt an toàn đã mở, từng viên đạn khạc khỏi nòng súng một cách lạnh lùng và chuẩn xác tuyệt đối. Đầu tiên, cậu nhằm đến đám đao thủ đang tấn
công hai thân người lông lá, mỗi phát đạn đều xuyên trúng ấn đường.
Khi Lỗ Nhất Khí bắn ra phát đạn thứ năm, đám đao thủ đã ào ào bỏ chạy tháo
thân với một tốc độ điên cuồng tựa như bầy khỉ khiếp đảm lao vào rừng
rậm.
Mấy tên đao thủ đang vây đánh thợ rèn ở gần đó nhất chứng kiến cảnh tượng này, đã cuống cuồng tháo chạy trước tiên.
Cây gậy của lão mù vừa đâm xuyên cổ họng một gã đao thủ, bị hai bàn tay của kẻ giãy chết túm chặt, nhất thời không thể rút về. Một đao thủ khác
thấy thời cơ quá tốt, lập tức tấn công, nhưng thanh đao vừa mới vung
lên, một phát đạn đã xuyên ngay giữa trán, cả thân người đổ ập xuống đất như bao gạo. Những đao thủ khác mắt vừa liếc thấy, chân đã nhảy vọt ra
xa, sau vài cú nhún mình, đã biến mất tăm phía sau dãy nhà gỗ.
Đám đao thủ vây đánh Quỷ Nhãn Tam cũng đã quay đầu chạy thục mạng, nhanh
tới mức cây Vũ Kim Cương vụt ra từ tay Quỷ Nhãn Tam cũng không đuổi kịp, chỉ đâm trúng đầu vai một tên, rồi rơi ngay xuống đất. Tên đao thủ đầu
vai toé máu, thân hình vùn vụt lao đi như một con chim sẻ bị thương,
thoắt cái đã mất dạng phía sau một đống gỗ thù lù.
Cả một khu chợ vừa mới đây thôi náo nhiệt là thế, bỗng chốc trở nên im ắng rợn người,
nồi vỡ chum mẻ lăn lóc ngổn ngang, phát ra những tiếng lọc cọc đơn điệu. Lều che quán cơm rách bươm, những mảnh vải bạt bay phần phật trong gió
lạnh.
Người cầm dùi sắt nhặt thanh đao bên xác một đao thủ lên, lật qua lật lại xem xét một hồi rồi lên tiếng:
– Loại đại đao giải uyển của cẩm y vệ đời Minh, rèn từ thép Đông Cát tôi
kỹ, cán dao bọc sợi da hươu, thời gian đúc từ tám mươi lăm năm đến chín
mươi năm, là binh khí của “Minh tử tiêm đao hội”*.Tể chức này đã bặt
tích mấy chục năm nay, không hiểu vì sao lại tái xuất.
* Có nghĩa là “hội đao nhọn của con cháu nhà Minh”, thành lập vào những năm Thuận
Trị đời Thanh, giống như Bạch Liên giáo, Thiên Địa hội, đều là những tổ
chức phản Thanh phục Minh. Tương truyền phần lớn thành viên là hậu duệ
của các quan lại triều Minh. Song tổ chức này chỉ tồn tại trong một thời gian rất ngắn, cũng không gây ảnh hưởng nhiểu đến xã hội. Nghe nói nó
đã mau chóng tan rã do mâu thuẫn nội bộ.
Lỗ Nhất Khí không nói
gì, cậu đang lùng sục trong cảm giác để tìm kiếm cổ vật ở trung tâm “ngũ trùng đăng nguyên hội” khi nãy. Thứ này đang ở rất gần đây, bởi lẽ cậu
vẫn mơ hồ cảm giác thấy có làn linh khí đang lẩn khuất.
Những
người khác cũng đang tìm kiếm, song không phải là bằng cảm giác giống
như Lỗ Nhất Khí. Chẳng hạn như ông thợ rèn tay cầm dùi sắt đang không
ngừng hít ngửi. Ông ta suốt ngày làm bạn với bếp lò, nên khứu giác đặc
biệt nhạy cảm với mùi khói lửa. Lúc này ông ta đã ngửi thấy mùi cháy,
song không dám chắc hoàn toàn, bèn lên tiếng hỏi:
– Mọi người thử ngửi xem, phải chăng có thứ gì đang cháy?
Câu hỏi này đã thức tỉnh lão mù, lão đã nghe thấy những âm thanh mà trước đó không hề có, là những tiếng lách tách rất khẽ.
Thời còn là tặc vương, lão đã rất nhiều lần nghe thấy âm thanh này. Lão vội kêu lên:
– Chúng ta mau rời khỏi đây, gỗ đã bén lửa rồi!
Lời lão mù vừa thốt ra, người có phản ứng mạnh nhất chính là người đang cầm cưa. Gã là người kiếm sống nhờ rừng núi, nên hiểu rõ một khi cả đống gỗ lớn bén lửa sẽ gây nên tai hoạ khủng khiếp nhường nào. Nhẹ thì thiêu
trụi cả thị trấn, còn nặng thì toàn bộ vùng rừng núi quanh đây đều sẽ ra tro.
Thế là cả đám người vội vã thu gom đồ đạc bỏ chạy ra ngoài. Song lúc này cả thị trấn đã chìm trong màn khói, không thể nhận ra
hướng nào với hướng nào.
– Mau chạy theo tôi! – Người cầm cưa hét lớn, rồi dùng một món đồ sắt gõ mạnh lên lưỡi cưa, vừa gõ vừa dẫn đầu
đoàn người chạy về một hướng. Họ phải tháo chạy thật nhanh, nếu không
muốn bị thiêu sống hoặc chết sặc trong màn khói.
Khói bủa mịt mù, không nhìn rõ hình người, song mọi người đều nghe thấy tiếng gõ cưa
choang choảng, nên cứ theo đó mà chạy. Tiếng gõ giờ đây khác nào nhạc
tiên dẫn lối, dẫn dắt đoàn người chạy ra khỏi địa ngục tối tăm.
Khi đoàn người chạy lên được ngọn núi nhỏ bên cạnh, toàn bộ thị trấn đã
chìm trong biển lửa, những cột khói đen bốc lên ngùn ngụt che kín một
khoảng trời. May mà xung quanh thị trấn có đào sẵn những hào rãnh phòng
hoả hoạn nên lửa mới không cháy lan sang khu rừng rậm.
Nhưng thật quái lạ, từ lúc ngọn lửa bốc lên đến giờ, không hề thấy một người chạy
ra khỏi trấn, cũng không hề nghe thấy một tiếng kêu gào. Cả một phiên
chợ đông nghịt những người khi nãy cứ như đã đột ngột biến mất.
Sự thể quái lạ chính là điềm báo nguy hiểm, thế nên chốn này không thể ở
lâu, nhanh chóng rời đi chính là quyết định sáng suốt nhất.
Trèo
đèo vượt núi liền chân không nghỉ quả là vô cùng mệt mỏi, điều này thể
hiện rõ nhất ở Lỗ Nhất Khí. Cậu đã thở hổn hển như muốn đứt hơi, và cuối cùng quyết định dừng bước. Không phải là cậu không đi nổi nữa, mà vì
cậu muốn làm rõ một số việc quan trọng hơn nhiều.
Trước hết, cậu muốn biết những người vừa liều mạng giúp mình là ai, họ đến đậy có mục đích gì.
Ông thợ rèn tầm năm mươi tuổi, dáng người tầm thước, khuôn mặt đen bóng,
qua lần áo khoác mỏng manh, có thể nhận ra một thân thể vô cùng cường
tráng. “Nhậm Hoả Cuồng”, cái tên vừa được xướng lên, lão mù bỗng ngây
người, còn Quỷ Nhãn Tam “ối” lên một tiếng. Nhìn vào phản ứng của họ, Lỗ Nhất Khí có thể đoán ra ông thợ rèn hẳn rất có danh vọng trong
giang hồ. Nhưng ba người còn lại không có phản ứng gì, họ đều quen biết
ông ta, cũng như quen biết những thợ rèn khác kiếm sống ở vùng rừng núi
quanh đây. Họ không hề biết ông ta có danh tiếng giang hồ ra sao, lại
càng chưa thấy ông ta có tài cán gì khác biệt.
Nhậm Hoả Cuồng nói với Lỗ Nhất Khí, ông là bạn thân của Lỗ Thịnh Nghĩa, hai người đã từng
vào sinh ra tử khi xây dựng lọng trấn ma thân gỗ đỉnh sắt* ở sông Muội
Đài tỉnh Sơn Đông. Hồi đó, may mà Lỗ Thịnh Nghĩa đã giúp ông ta nhể được con sâu mười chân trăm gai** ra khỏi sợi gân sau gáy, nên ông mới tránh khỏi kiếp nạn bị người ta không chế rồi toàn thân bại liệt. Ông cũng đã từng gặp Lỗ Thịnh Hiếu, vì thế mà nhận ra được lưỡi rìu Lộng phủ của
Ban môn.
* Đây là vật trấn vô cùng kỳ diệu, khác hẳn với lọng
kinh được xây bằng gạch đá thông thường. Nó gổm một đỉnh lọng làm bằng
sắt thép có đúc sẵn kinh văn. Thân lọng làm bằng gỗ với kết cấu cực kỳ
tinh xảo, vừa chắc chắn lại vừa yếu ớt. Bình thường chục người cùng xô
đẩy cũng không thể lay chuyển được nó, song chỉ cần có luồng gió âm tà
thổi qua, toàn bộ khung gỗ sẽ lập tức đổ sập, phần đỉnh bằng sắt có đúc
kinh văn cũng rơi xuống, trấn áp yêu ma quỷ quái mang theo âm phong phía dưới.
** Là một loài côn trùng thần kỳ, còn gọi là mười vuốt
trăm gai. Giống trùng này muốn thâm nhập vào cơ thể người tương đối khó
khăn, người bị xâm nhập phải có thương tích trên người và đang trong
tình trạng vô thức thì chúng mới xâm nhập được. Nhưng một khi vào được
cơ thể, mười móng vuốt của con trùng sẽ xuyên thẳng vào tuỷ sống, toàn
bộ một trăm chiếc gai trên người nó sẽ ăn sâu vào thần kinh và huyết
quản. Như vậy, nó sẽ thông qua tuỷ sống và dây thần kinh để nối liền với não bộ, cùng với thời gian, sự liên kết ngày càng bền chắc. Người khống chế có thể dùng âm thanh để điều khiển con trùng chuyển động, mỗi
một hình thức chuyển động khác nhau, sẽ lôi kéo những dây thần kinh và
huyết quản khác nhau. Người khống chế sẽ dùng cách này để điều khiển
hành động và suy nghĩ của người bị hại.
Người cầm cưa biệt hiệu
là “sài đầu” hay “lái gỗ”, đều có nghĩa là người trung gian trong buôn
bán gỗ. Gỗ mang từ rừng về sẽ được bọn họ cưa cắt sơ qua, sau đó phân
loại, phân hạng rồi bán cho người khác, hoặc thậm chí cưa gỗ thành súc
bán theo cân như trong phiên chợ vừa rồi.
Gã lái gỗ tên gọi Phó
Lợi Khai, tầm tuổi trung niên, là người tháo vát, thân hình cao lớn vạm
vỡ, song vẻ mặt có phần thô tục. Ngũ quan trên mặt vẹo vọ không cân xứng tẹo nào, một mắt bình thường, con mắt còn lại híp tịt như một khe hở,
nhưng ánh nhìn chiếu ra từ hai con mắt bên to bên bé lại tinh khôn xảo
quyệt khác thường.
Gã nói gã không quen bất kỳ ai trong nhà họ
Lỗ, cũng chưa từng nhìn thấy Lộng phủ thực sự, song gã có biết về Lộng
phủ, nhờ sư phụ có để lại một cuốn “Ban kinh” và một tranh vẽ tô màu,
chính là vẽ hình Lộng phủ. Trước lúc lâm chung, sư phụ có trăng trối
lại, dặn gã phải lưu lại nơi này, đợi đến khi có người mang Lộng phủ tới thì trao lại bức tranh cho người đó, đồng thời phải trợ giúp người đó
hoàn thành đại sự. Nếu đời này không thấy người đó xuất hiện, phải tìm
một hai đệ tử tiếp tục truyền lại nhiệm vụ.
Nghe những lời trên,
Lỗ Nhất Khí vô cùng xúc động, tựa như vừa gặp lại người thân thích. Thì
ra gã lái gỗ chính là truyền nhân của Lỗ gia lưu lại nơi này, cũng là đệ tử thực thụ của Ban môn.
Những người khác, trong đó có cả Nhậm Hoả Cuồng, nghe được điều này đều “ồ” lên một tiếng, họ đều hiểu rõ sự tình hơn gã lái gỗ.
– Hoá ra cũng là đệ tử của Ban môn! Nhưng tại sao bản thân ngươi lại không biết?
– Sư phụ chưa từng nói đến! – Phó Lợi Khai thành thật nói.
– Vậy sư phụ của ngươi danh tính là gì? Ông ta có nói với ngươi tại sao
lại phải chờ đợi ở chốn núi rừng này hay không? – Nhậm Hoả Cuồng cũng
hỏi rất thực tình.
– Tôi không biết! Khi sư phụ lôi được tôi ra
từ trong đống tuyết, tôi vẫn còn là một đứa trẻ sơ sinh. Ông một tay
nuôi tôi khôn lớn, dạy tôi kỹ nghệ, song lại chỉ bảo tôi gọi ông là sư
phụ, họ Phó của tôi cũng là lấy từ chữ “sư phó” (tức sư phụ) mà ra.
Không có sư phụ cũng không có tôi, bởi vậy những điều sư phụ dặn dò, tôi dù phải mất mạng cũng tuân thủ đến cùng! – Lời nói của Phó Lợi Khai đã
khiến lão mù bồi hồi xúc động, bởi lẽ cũng ít nhiều giống với cảnh ngộ
cuộc đời lão.
– Vậy việc ngươi thu nạp đồ đệ hẳn cũng có nguyên nhân gì khác biệt? – Lão mù chỉ về phía hai kẻ lông lá xồm xoàm rồi hỏi.
– Ông nói hai người kia ư? Họ không phải là đồ đệ của tôi, chỉ là thợ
phụ. Họ theo tôi kiếm ăn, song không học kỹ nghệ của tôi. Tôi vẫn chưa
tới tuổi thu đồ đệ để lưu truyền di mệnh! – Phó Lợi Khai đáp.
Hai kẻ kia kỳ thực đã mặc lộn ngược lớp lót lông thú của tấm áo bông ra bên ngoài, như vậy có thể giúp họ cử động tay chân thoải mái hơn. Họ là hai anh em ruột. Người mặc áo lông nhiều màu là anh cả, tên Tùng Đắc Lễ;
người mặc áo lông tuyền một màu nâu là em tên Tùng Đắc Kim. Nhà họ vốn
có bốn anh em, nhưng hai người em đã bị đống gỗ thô đổ sập đè chết khi
đang buôn bán ở chợ. Đó là một nỗi mất mát đau thương cho hai người còn
lại, và cũng là một bài học xương máu. Bởi vậy họ đã quyết chí khổ luyện được một sức khoẻ phi thường và công phu nhảy trên đống gỗ lăn. Cho
nên, khi Phó Lợi Khai tới cứu viện Lỗ Nhất Khí, hai người họ đã chặt dứt dây thừng buộc gỗ, khiến gỗ thô ào ào đổ xuống tấn công đám đao thủ sát nhân.
Nhậm Hoả Cuồng biết Lộng phủ là tín vật do môn trưởng Ban
môn nắm giữ, song ông không hiểu chức vị môn trưởng Ban môn đã được
chuyển cho cậu thanh niên tướng mạo tầm thường kia từ lúc nào. Ông ta vô cùng kinh ngạc, nhưng kể cũng khó trách, vì nơi đây núi non hẻo lánh
tách biệt với bên ngoài, tin tức trong giang hồ khó mà truyền tới. Thứ
nữa, cả Lỗ gia và Chu môn đều không phải là những môn phái giang hồ thực thụ. Ví như Chu môn, hành vi của họ người ngoài thường không thể biết
được. Thành Bắc Bình, thành Cô Tô xảy ra sự biến, mà họ đều ém nhẹm kín
bưng, không để cho người giang hồ hay quan chức phát hiện ra một dấu vết gì. Lỗ gia lại càng không để người khác biết những sự biến xảy ra có
liên quan gì đến họ. Xưa nay hành động bí mật vẫn luôn là nguyên tắc của Lỗ gia.
Nhậm Hoả Cuồng chăm chú lắng nghe ba người Lỗ Nhất Khí
thay nhau thuật lại những chuyện xảy ra trong suốt hơn một tháng vừa
qua, trong lòng bàng hoàng chấn động, bất chợt trào dâng một niềm kính
trọng đối với Lỗ Nhất Khí. Cậu thanh niên này là con trai của người bạn
chí thân, tuy thuộc hàng tiểu bối, song giờ đây đã là môn trưởng, lại có tài năng thực thụ, bởi vậy quan hệ giữa ông và cậu ta không thể đi
ngược với quy củ giang hồ yêu cầu phải tôn trọng môn trưởng của môn phái khác. Nếu không, cho dù Lỗ Nhất Khí không để bụng, cũng khó tránh kẻ
khác thừa cơ châm chọc. Đặc biệt, sau khi biết Phó Lợi Khai kỳ thực cũng được coi là đệ tử Ban môn, ông ta càng thấy phải chú trọng đến điều
này.
Trái ngược với Nhậm Hoả Cuồng, Phó Lợi Khai lại chẳng bận
tâm đến chuyện Lỗ Nhất Khí là môn trưởng, bởi lẽ gã chẳng biết Ban môn
là thứ gì, lại càng không biết môn trưởng là nhân vật ra sao. Gã chỉ
biết rằng mình cần phải giúp đỡ cậu thanh niên này hoàn thành trọng
trách theo đúng di nguyên của sư phụ mà thôi.
Nhậm Hoả Cuồng nói với Lỗ Nhất Khí, ngữ điệu đầy khách khí:
– Lỗ môn trưởng, cậu tới vùng đất khỉ ho cò gáy này chắc hẳn là có việc
cần kíp. Năm xưa tôi đã chịu ơn của bậc tiền bối trong nhà cậu. Nếu như
cậu không chê, tôi sẵn sàng trợ giúp cậu san sẻ trọng trách nặng nề.
Lỗ Nhất Khí còn chưa kịp cảm ơn, Phó Lợi Khai cũng lên tiếng:
– Phải! Việc của cậu tôi cũng sẵn sàng giúp đỡ để mau chóng hoàn thành.
Như vậy, tôi sẽ có thể rời khỏi chốn rừng sâu núi thẳm này, thoải mái
ngao du trong thế giới nhộn nhịp ngoài kia.
Nghe lời gã nói, niềm cảm kích đang trào dâng trong lòng Lỗ Nhất Khí bỗng chốc đã biến thành một nụ cười khổ sở:
– Tôi cũng muốn mau chóng hoàn thành nhiệm vụ, chỉ có điều giờ đây, đến địa điểm chính xác ở đâu tôi còn chưa biết rõ!
Câu nói của cậu khiến ông thợ rèn và gã lái gỗ lập tức ỉu xìu. Quỷ Nhãn Tam vốn không thích nói nhiều, đột nhiên bật ra một câu:
– Bức tranh sư phụ để lại không chừng lại là chỉ dẫn!
Cả mấy người mắt đều vụt sáng. Không sai! Phó Lợi Khai lập tức lôi từ
trong tay nải to kềnh khoác chéo vai ra một túi vải thô, rồi lại mở tiếp ba lớp túi nữa mới lộ ra một cuốn sách đã ố vàng, đó chính là bản “Ban
kinh” chép tay. Những ngón tay dài mà cứng cáp của Phó Lợi Khai nhẹ
nhàng lật giở vài trang sách, liền lộ ra một bức tranh tô màu được kẹp ở giữa sách. Bức vẽ sống động như thật, Lộng phủ trong tranh hầu như
không có một chút khác biệt so với rìu ngọc ở bên ngoài.
Lỗ Nhất
Khí nhẹ nhàng nâng bức tranh trên tay, bắt đầu cảm giác. Cậu cảm thấy
chất giấy khá nặng, đặc biệt dai bền, có lẽ là loại giấy Ngọc Lâm đã
được trộn lẫn bột lá gai và lông tơ cừu. Làn khí toả ra từ tờ giấy đã
mách bảo với Lỗ Nhất Khí rằng, niên đại của nó không thực cổ xưa, chắc
hẳn không quá một trăm năm.
Hiển nhiên là giấy có trước, tranh vẽ có sau, bởi vậy tuổi thọ của bức tranh càng ngắn hơn nữa. Thế nhưng Lỗ
Nhất Khí vẫn cảm nhận thấy chút hơi hướng cổ xưa toả ra từ bức vẽ, bởi
vì chất liệu dùng để vẽ rất cổ, có lẽ là thứ màu “Cung hội thái” từ thời Nguyên. Khi tô màu Cung hội thái, cần phải pha chế với dầu băng tinh,
nếu không sau khi tô màu xong, màu sẽ khô lại và bong tróc. Nếu pha với
thứ dầu mỡ khác, màu sắc sẽ mờ nhạt, không được tươi tắn. Nhưng màu Cung hội thái có rực rỡ tới đâu, sau vài chục năm cũng sẽ dần dần sạm đi mà
phai nhạt. Nếu không biết cách bảo quản, màu sắc còn phai nhanh hơn nữa. Bức tranh này màu sắc vẫn rất tươi, lại nhìn vào cách bảo quản sơ sài
của Phó Lợi Khai, chắc hẳn tuổi đời của nó không quá ba chục năm.
Ngoài những điều trên, Lỗ Nhất Khí không còn nhận ra điểm gì khác ở bức tranh nữa. Cậu lật lên lật xuống một hồi, quan sát vô cùng tỉ mỉ, song vẫn
không tìm ra được manh mối hay điểm nào khác lạ.