Bất cứ khi nào Emily nghĩ về chị mình trong những năm sau đó – và không thật thường xuyên – cô luôn tự nhủ với mình rằng cô đã gắng hết sức. Cô đã quyết định nói chuyện với Tony, và cô cũng đã đưa cho Sarah cơ hội nơi trú ngụ. Liệu có ai có thể làm tốt được hơn như thế? Thỉnh thoảng cô phát hiện ra Sarah xây dựng những câu chuyện thú vị để nói với đàn ông.
“Tôi có một cô em gái luôn bị chồng đánh,” cô nói.
“Thế á? Đánh cô ta thật sự á?”
“Thật sự. Đã đánh nó được hai mươi năm rồi. Và anh có biết điều hài hước là gì không? Tôi biết điều này nghe thật khủng khiếp, khi nói về chính em ruột của mình, nhưng tôi nghĩ rằng con bé lại thích thú với chuyện ấy.”
“Thích thú á?”
“Thật ra, có thể con bé không thích thú gì, chính xác là như thế, nhưng nó vượt qua khó khăn. Nó tin tưởng vào hôn nhân, anh thấy đấy. Nó nói với tôi một lần “Em còn trinh trắng khi em đi lấy chồng, và kể từ đó đến giờ em vẫn là một phụ nữ trinh trắng.” Chẳng phải đó là một lời tuyên bố đáng ngạc nhiên nhất hay sao?”
Khi cô chị nói chuyện như vậy với một người đàn ông – thường là đã ngà say rồi, thường là đã khuya rồi – sau đó cô chị thường rất hối tiếc; nhưng không khó khăn gì để làm dịu đi tội lỗi của cô chị bằng cách thề rằng cô chị sẽ không bao giờ nói như vậy nữa.
Nhưng thật ra không có nhiều thời gian để lo lắng. Cô em bận rộn suốt ngày. Đầu năm 1965, công ty Quảng cáo Baldwin nhận được cái mà Hannah Baldwin thường gọi là một tài khoản ước mơ: National Carbon, là nơi sáng chế ra loại sợi tổng hợp mới hiệu Tynol dường như hoàn toàn chắc chắn đã làm nên một cuộc đại cách mạng về ngành công nghiệp dệt. “Hãy nghĩ về những gì được làm từ nylon!” Hannah hoan hỉ. “Bầu trời là giới hạn của công trình này, và chúng ta đã may mắn kéo được công trình này chạm đất.”
Emily phát triển một loạt các quảng cáo giới thiệu về loại sợi này, và Hannah thích tất cả những bài quảng cáo. “Cưng à, tôi nghĩ rằng em đã thành công rồi đấy,” bà ta nói. “Chúng ta sẽ làm cho họ ngỡ ngàng.”
Nhưng thay vào đó lại có sự bế tắc thật phiền hà. “Tôi không hiểu có gì sai nhỉ,” Hannah nói với Emily. “Tư vấn luật của National Carbon vừa mới gọi tôi; ông ta muốn cô đến và nói chuyện với ông ta về chiến dịch này. Ông ta không muốn nói bất cứ một điều gì qua điện thoại, nhưng ông ta có vẻ rất dữ. Tên ông ta là Dunninger.”
Cô tìm thấy ông ta trong một cái tháp bằng thép-và-kính đồ sộ, ngồi một mình trong văn phòng trải thảm. Ông ta to béo và sung sức, với một cái quai hàm bạnh và một giọng nói làm cho cô muốn cuộn tròn người lại và loạt xoạt trong cái ví của ông ta như một chú mèo con.
“Hãy để tôi giúp cô cởi chiếc áo choàng ra, cô Grimes,” ông ta nói. “Mời ngồi – à, mà không, hãy đi qua đây và ngồi cạnh tôi; rồi chúng ta sẽ cùng nhau xem xét chất liệu. Nói chung tôi nghĩ rằng cũng ổn thôi,” ông ta bắt đầu nói, khi ông ta nói cô nhìn ra xa, bỏ qua cách bài trí và những chồng tài liệu để khám phá toàn bộ mặt bàn làm việc rộng rãi của ông ta. Đồ trang trí duy nhất là một bức ảnh một cô gái tóc đen đáng yêu, có thể là con gái ông ta; họ có thể sống ở Connecticut, và mỗi khi về nhà chắc hẳn ông ta sẽ phải chơi một vài set tennis nhanh với cô ta trước khi đi tắm thay quần áo và cùng uống cocktail với bà Dunninger trong thư viện. Và trông bà Dunninger sẽ như thế nào nhỉ?
“… Chỉ có một điểm thôi,” ông ta nói. “Một đoạn đoản ngữ, và thật không may cái đoạn này xuất hiện lặp đi lặp lại trong bản thảo của cô. Cô nói Tynol có “nét đẹp tự nhiên của len.” Điều này có thể dễ dàng bị phân tích thành như sự xuyên tạc, cô thấy đấy, khi chúng ta nói về một chất tổng hợp. Tôi e rằng nếu chúng tôi cứ tiến hành thì chúng tôi sẽ có tráp của F.T.C(1) kề cổ ngay”.
“Tôi không hiểu,” Emily nói. “Nếu tôi nói “Anh có sự kiên nhẫn của một vị thánh,” chắc chắn điều đó không có nghĩa anh chính là người đó.”
“À,” ông ta tựa lưng vào ghế, mỉm cười với cô. “Nhưng nếu tôi nói “Anh có đôi mắt của con điếm,” sẽ gây nên sự hiểu nhầm có thể hiểu được.”
Họ ngồi đó cười và nói chuyện lâu hơn công việc yêu cầu, và cô không thể không nhận ra dường như ông ta đang lưu tâm đến chân cô, cơ thể cô và khuôn mặt cô. Cô đã ba mươi chín, nhưng mắt ông ta làm cho cô cảm thấy cô trẻ hơn.
“Kia có phải là con gái của ông không?”
Cô hướng về bức ảnh.
Trông ông ta ngượng ngập. “Không, đó là vợ tôi.”
Và cô không thể cất lời “tôi xin lỗi” hay bất cứ lời nào tương tự như vậy mà không làm cho tình hình trở nên xấu đi. “Ôi,” cô nói, “Cô ấy đáng yêu quá.” Rồi cô lẩm bẩm rằng cô nên đi, và đứng dậy.
“Tôi nghĩ cô sẽ nhận thấy “tự nhiên” là một từ sai lầm,” ông ta nói, khi đưa cô ra cửa. “Nếu cô có thể tìm từ tương tự thì tôi không nghĩ rằng sẽ có thêm bất kỳ một phiền phức nào.”
Cô nói với ông ta rằng cô sẽ cố gắng hết sức, và khi thang máy đưa cô quay trở lại hiện thực cô kiểm tra lại những suy nghĩ kỳ quặc của mình: ông ta không sống ở Connecticut; ông ta sống ở một căn hộ tầng áp mái của chung cư Bờ Đông nơi có cô gái xinh đẹp luôn bĩu môi và tô điểm trước gương suốt cả ngày, đang chờ ông đi làm về.
“Cô Grimes!”, ông ta nói chuyện trên điện thoại vài ngày sau đó. “Howard Dunninger. Tôi không biết liệu cô có thể ăn trưa với tôi được không?”
Hầu như điều đầu tiên ông ta nói chuyện với cô, khi họ nhấp rượu theo những gì cô mô tả với chính mình như một nhà hàng Pháp “tuyệt vời”, là ông ta chưa thực sự có gia đình: ông ta và vợ ông ta đã ly thân cách đây ba tháng.
“Thật ra, “ly thân” là một uyển ngữ,” ông ta nói. “Vấn đề là cô ta đã bỏ tôi. Không phải để chạy theo một người đàn ông khác; chỉ bởi vì cô ta quá mệt mỏi vì tôi – tôi tưởng tượng đôi khi cô ta rất mệt mỏi vì tôi – và cô ta muốn biết tự do là gì. Ôi, có thể hiểu được mà, tôi nghĩ thế. Tôi đã năm mươi; cô ta hai mươi tám. Khi chúng tôi quyết định sống với nhau tôi bốn mươi hai và cô ta hai mươi.”
“Chẳng phải là khá lãng mạn hay sao khi trên bàn làm việc của ông có ảnh của cô ta?”
“Một sự hèn nhát trong sáng,” ông ta nói. “Nó đã được đặt ở đó quá lâu và tôi nghĩ rằng mọi người trong văn phòng sẽ cho là thật hài hước nếu tôi cất nó đi.”
“Bây giờ cô ta ở đâu?”
“California. Cô ta muốn có một khoảng cách lớn nhất có thể giữa chúng tôi, cô thấy đấy.”
“Ông đã có con chưa?”
“Với cuộc hôn nhân thứ nhất của tôi; cách đây lâu lắm rồi. Hai con trai. Giờ chúng đã lớn hết rồi.”
Nhai miếng bánh mì Pháp tươi và salad, nhìn quanh với những người trông thật sành điệu, ăn vận chau chuốt ở những cái bàn khác, Emily nhận ra thật dễ dàng có thể làm tình được với ông ta ngay trong chiều nay. Hannah sẽ không quan tâm đến việc chiều nay liệu cô có mặt ở văn phòng hay không, và chắc chắn là luật sư cho chương trình National Carbon cũng sẽ xếp lịch cho riêng mình. Họ đều bỏ qua được thời gian dành cho trách nhiệm của những công việc bình thường.
“Mấy giờ thì cô muốn quay lại văn phòng, Emily?” Ông ta hỏi khi người hầu bàn đặt một ly cognac sáng bóng lên bên cạnh cốc cà phê của cô.
“Ôi, không thành vấn đề gì; không có việc gì đặc biệt.”
“Hay quá.” Cái môi mỏng của ông ta cong lên thẹn thùng. “Tôi đã nói nhiều quá rồi, hầu như tôi không biết gì về cô. Hãy kể cho tôi về cô nào.”
“Thật ra thì cũng không có gì nhiều để kể về tôi.”
Nhưng thật ra là có: tự truyện của cô, được biên tập và được làm nổi bật ở đâu đó để gây ấn tượng sâu sắc, dường như làm cho cô đi vào đoạn kết được. Cô vẫn nói khi ông ta đưa cô đi qua lối dành cho người đi bộ đang sáng rực lên cho đến lúc vào trong taxi, và đến tận khi taxi thả họ ở căn hộ của ông ta. Cuối cùng thì cô đã không nói nữa khi đi vào trong thang máy – không phải vì cô đã đi được vào phần kết, mà bởi vì dường như thật quan trọng khi phải giữ im lặng ở nơi đây.
Nó không phải căn hộ ở tầng áp mái, và nó cũng không rộng như cô tưởng. Nó có màu xanh, nâu và trắng và bốc mùi của da; nó hoàn toàn là một căn hộ bình thường, và sàn nhà dường như nghiêng đi ở những góc nguy hiểm khi ông ta bắt đầu phần mở đầu một cách lịch sự: “… Tôi có thể lấy cho em một ly chứ? Ngồi gần lại đây nào…” Chẳng bao lâu sau khi ông ta ngồi gần cô trên chiếc sofa, họ đã xoắn lấy nhau, và những âm thanh của tòa nhà mười chín tầng của thành phố ở phía dưới đã bị chôn vùi bởi những âm thanh lớn hơn của tiếng thở; khi ông ta đưa cô vào buồng, nó giống như thể một cuộc hành trình đi vào vũ trụ mà đã chờ đợi từ lâu và xứng đáng được hưởng vậy. Howard Dunninger đã lấp đầy cuộc sống của cô. Ông ta cũng quyến rũ như Jack Flander vậy, nhưng hoàn toàn không bị bất kỳ một sự lệ thuộc nào giống như của Jack; ông ta dường như hoàn toàn có ít nhu cầu với cô giống như Michael Hogan; và khi cô lục tìm sự so sánh trong cách ông ta làm cho cô cảm thấy lúc trên giường như thế nào, hằng đêm, cô phải hồi tưởng lại tận thời kỳ với Lars Ericson. Sau một vài tuần đầu họ không sử dụng căn hộ của ông ta nữa – ông ta nói ông ta không muốn luôn phải nhớ đến vợ mình – và bắt đầu sử dụng căn hộ của cô. Điều đó làm cho cô dễ dàng hơn trong việc đi làm đúng giờ vào buổi sáng, và còn có sự thuận lợi tinh tế khác nữa: khi cô là một người khách ở chỗ của ông ta, dường như sự việc trở nên thật là ngập ngừng và tạm bợ; khi ông ta đến chỗ cô, điều đó ngụ ý cho một sự cam kết mạnh mẽ hơn.
Hay thật sự nó là như vậy nhỉ? Cô càng nghĩ về điều đó nhiều thì cô càng nhận ra luận cứ của cô có thể dễ dàng bị đảo lộn: khi ông ta là một người khách, ông ta có thể đứng dậy và bỏ đi bất kỳ lúc nào.
Dù với bất kỳ trường hợp nào thì căn hộ của cô đã trở thành nhà của họ. Lúc đầu ông ta hơi ngại khi chuyển đồ của mình vào, nhưng chẳng bao lâu sau một trong những ngăn kéo chứa đồ của cô đã được lấp đầy bởi những chiếc áo sơ mi đã được giặt là của ông, và có ba bộ vét sẫm và một đống cà vạt treo trong phòng để đồ. Cô thích được vuốt tay mình dọc theo chiều dài của những chiếc cà vạt đó, như thể chúng là một sợi dây thừng làm bằng lụa dày vậy.
Howard có một chiếc xe bỏ mui hiệu Buick được gửi ở một garage khu phố trên, và khi thời tiết tốt họ lái xe đi chơi ngoại ô. Một lần, khi khởi hành đi Vermont vào chiều thứ sáu, họ đi suốt cả chặng đường đến thành phố Quebec, nơi họ đăng ký phòng nghỉ ở khách sạn Chateau Frontenac như thể là đăng ký phòng ở một nhà nghỉ vậy; và tối Chủ nhật, trong chuyến đi dài quay về nhà, họ uống champagne Pháp bằng những cái cốc làm bằng bọt biển.
Thỉnh thoảng họ đi nhà hát, và đến những quán rượu nhỏ mà cô chỉ biết đến nó qua việc đọc trước đó, nhưng hầu hết các buổi tối họ ở nhà, im lặng và lịch sự với nhau như những cặp vợ chồng có cuộc sống gia đình hạnh phúc hàng nhiều năm rồi. Mỗi khi cô kể chuyện cho ông ta nghe – và cô biết có thể là sẽ sáng suốt hơn nếu như không nói với ông ta – cô chưa bao giờ tự cảm thấy thích thú nhiều đến như thế với bất kỳ một người nào khác trước đó.
Vấn đề là ông ta vẫn còn yêu vợ.
“Đó!”, một lần ông ta nói, vào lúc cô thậm chí không biết là ông ta đang nhìn mình. “Những gì mà em vừa mới làm – cách mà em túm tóc bằng một tay và cong người qua bàn cà phê để với lấy cái cốc – trông hệt như Linda.”
“Em không nghĩ là em đã làm cho ông nhớ về cô ta,” cô nói. “Thật ra là, cô ta là một cô gái trẻ, còn em đã bốn mươi rồi.”
“Tôi biết; và em thật sự không giống bất kỳ điều gì, ngoại trừ việc cô ta cũng có ngực bé và em có cùng một kiểu chân như cô ta, nhưng đôi khi, một vài phong cách riêng của em… nó thật kỳ lạ.”
Một lần khác, khi ông ta về nhà trong một trạng thái cáu kỉnh và uống nhiều rượu vào bữa tối, ông ta ngồi chơi với cái ly rượu và cốc nước thật lâu, im lặng, cho đến khi ông ta bắt đầu cuộc nói chuyện với cách cho thấy là ông ta sẽ không bao giờ dừng.
“… Không, nhưng em phải biết về Linda,” ông ta nói. “Không hẳn chỉ là cô ấy là vợ tôi; cô ấy là tất cả những gì mà tôi muốn có ở một người đàn bà. Cô ấy… tôi có thể giải thích như thế nào bây giờ nhỉ?”
“Ông không phải giải thích đâu.”
“Không, có chứ. Tôi phải bắt tâm trí mình nhìn thẳng vào vấn đề, nếu không tôi sẽ không bao giờ loại bỏ được cô ấy ra khỏi đầu. Hãy để cho tôi kể cho em nghe tôi đã gặp cô ấy như thế nào. Cố hiểu điều này nhé, Emily. Khi tôi bốn mươi hai tuổi, tôi cảm thấy tôi già hơn. Tôi đã lấy vợ và đã ly dị, dường như tôi đã có cả tá các em; tôi nghĩ rằng tôi cảm thấy tôi đã hơi mất đi khả năng của mình. Tôi đi khỏi Đông Hampton trong một vài tuần và có người đã mời tôi đến một buổi tiệc. Một cái bể bơi tràn ngập ánh sáng, đèn lồng Nhật treo trên cây, bài hát của Sinatra vọng ra từ trong nhà – một thể loại không khí như vậy. Một đám đông hỗn độn: có rất nhiều diễn viên trên những chương trình quảng cáo thương mại của vô tuyến, một cặp người vẽ tranh minh họa cho sách của thiếu nhi, một cặp nhà văn, một vài thương gia đang cố tỏ vẻ nghệ sĩ trong bộ sóc Bermuda màu đỏ tía. Và khỉ thật, Emily, tôi nhìn quanh và chính sinh vật bé nhỏ này đang nằm dài trên ghế màu trắng. Tôi chưa bao giờ gặp một ai có một làn da như vậy, đôi mắt như vậy hay là đôi môi như vậy. Cô ấy đang mặc…”
“Ông sắp sửa nói với em là cô ta mặc gì đấy a?”
“… mặc một chiếc váy ngắn màu đen, đơn giản, tôi làm một ngụm thật to để lấy can đảm và đi về phía cô ta và nói ‘Chào cô. Cô là vợ của ai đấy?’ Và cô ấy ngước mắt nhìn lên – cô ấy quá ngượng hoặc, tôi đoán, cũng có thể là quá dè dặt để nở một nụ cười – và cô ấy…”
“Ôi, Howard, thật ngốc quá,” Emily nói. “Ông đang bắt mình phải nhớ lại. Ông thật là quá lãng mạn rồi đấy.”
“Được rồi, tôi sẽ nói vắn tắt nhất có thể. Tôi không muốn làm em chán.”
“Ông không ‘làm phiền’ em; chỉ vì ông đang…”
“Được rồi. Vấn đề là tối hôm sau cô ấy đã ở trên giường của tôi, và mọi tối sau đó; khi chúng tôi quay trở lại thành phố, cô ấy chuyển đồ của mình lên căn hộ của tôi. Cô ấy vẫn đang đi học – cô ấy học ở Barnard, cùng trường với em – và khi lớp học của cô ấy kết thúc, hàng ngày cô ấy vội về chỗ tôi vì cô ấy muốn có mặt ở đó khi tôi đi làm về. Tôi không thể tả hết được với em điều đó ngọt ngào đến như thế nào. Tôi về nhà gắng hết sức mình, suy nghĩ. Không, quá tốt đẹp để có thể coi đó là hiện thực; cô ấy sẽ không ở đó – và cô ấy luôn có mặt ở đó. Tôi nhìn lại quãng thời gian đó, trong vòng một năm rưỡi đầu tiên, đó là quãng thời gian hạnh phúc nhất trong cuộc đời tôi.”
Ông ta đứng dậy, đi quanh trên sàn với ly rượu trong tay, và Emily biết rằng tốt hơn nên dừng ông ta lại.
“Rồi chúng tôi lấy nhau, và tôi đoán là đã làm mất đi một chút thi vị – đối với cô ấy, tôi nghĩ vậy, hơn là cho tôi. Tôi vẫn – thật ra, tôi ghét phải dùng mãi cái từ ‘hạnh phúc’, nhưng chỉ có từ đó mới có thể diễn tả được. Quá tự hào; một sự tự hào quá lớn. Tôi đưa cô ấy đến mọi nơi, mọi người chúc mừng tôi và tôi nhớ tôi đã nói ‘Tôi không tin tưởng cô ấy; tôi vẫn chưa tin được điều này.’ Rồi dĩ nhiên, sau một khoảng thời gian tôi bắt đầu tin tưởng cô ấy; tôi bắt đầu cho đó là điều dĩ nhiên theo cách mà chưa một ai đã từng coi đó là điều hiển nhiên đến như vậy. Trong những năm đầu cô ấy thường nói tôi chưa bao giờ làm cho cô ấy cảm thấy chán, và tôi coi đó như là một lời khen cao cả, nhưng tôi không nhớ liệu cô ấy đã từng nói như vậy ở thời gian về sau này. Tôi chắc hẳn đã bắt đầu làm cho cô ấy cảm thấy nhàm chán vì thói kiêu căng và tự phụ của tôi và… tôi không biết nữa. Đúng là sự oán thán của riêng tôi. Và tôi nghĩ rằng khi cô ấy bắt đầu cảm thấy bồn chồn, thì cũng là thời gian tôi làm cho cô ấy chán nản. Khỉ thật, Emily, làm thế nào để tôi có thể làm cho em hiểu được cô ấy duyên dáng đến mức nào nhỉ? Đó là một cảm nhận mà không thể diễn tả được. Dịu dàng, đáng yêu, đồng thời cô ấy cũng rất cứng rắn. Tôi không có ý muốn nói từ ‘cứng nhắc’ theo nghĩa miệt thị, ý tôi là kiên cường và can đảm; cô ấy có một cách riêng nhìn cuộc đời hoàn toàn không ủy mị. Thông minh! Chúa ơi, thỉnh thoảng thật là giật mình mỗi khi cô ấy giải quyết những vấn đề phức tạp, khó nắm bắt bằng cách đi thẳng vào cốt lõi của sự việc với một sự thấu hiểu bằng trực giác sâu sắc. Cô ấy cũng hài hước – ôi, cô ấy không ngồi ì ra đấy để rũ bỏ những lời bông đùa không bình thường, mà cô ấy luôn có một cái nhìn sắc sảo về những điều phi lý ẩn giấu dưới bất kỳ một thứ gì kiêu căng, tự phụ. Cô ấy là một người bạn đồng hành tuyệt vời. Tại sao tôi cứ nói mãi từ “đã” thế nhỉ? Nó không giống như thể cô ấy đã chết. Cô ấy là một người bạn đồng hành tuyệt vời đối với tôi và giờ thì cô ấy là một người bạn đồng hành đối với một người đàn ông khác – hay là với nhiều người đàn ông khác. Tôi hình dung cô ấy sẽ thử với một vài người đàn ông trước khi cô ấy ổn định lại.”
Ông ta rơi mình nặng nề xuống chiếc ghế tựa, nhắm mắt lại, và bắt đầu xoa cái sống mũi mỏng của mình bằng ngón cái và ngón trỏ. “Và bây giờ thỉnh thoảng mỗi khi tôi nghĩ về cô ấy trong một bối cảnh cụ thể,” ông ta nói với một cái giọng hoàn toàn tê cóng và dứt khoát, “khi tôi hình dung cô ấy ở đó với một vài người đàn ông khác, mở chân của mình ra cho hắn ta và…”
“Howard, em sẽ không để cho ông tiếp tục nữa,” Emily nói, đứng lên nhấn mạnh. “Thật là ủy mị. Ông giống như một cậu bé si tình vậy, và rất không ổn. Thêm nữa, thật là rất không…”, cô không hoàn toàn chắc chắn nếu cô kết thúc câu này, nhưng cô đã làm “… ý tứ với em chút nào.”
Câu nói đó đã làm cho ông ta mở mắt, nhưng ông ta lại nhắm mắt lại. “Tôi nghĩ tôi và em là những người bạn,” ông ta nói. “Tôi quan niệm là, tôi có thể nói thoải mái với em như một người bạn.”
“Chẳng nhẽ ông không mảy may nghĩ rằng em có thể sẽ hơi ghen chăng?”
“Mm,” ông ta nói. “Không, trên thực tế thì tôi không nghĩ về điều đó. Tôi không cảm nhận điều đó. Làm sao em có thể ghen với một điều gì đó đã xảy ra trong quá khứ?”
“Ôi, Howard. Thôi nào. Chuyện sẽ như thế nào nếu em dành những buổi tối để ôn lại những điều thú vị mà em đã có với những người đàn ông khác?” Nhưng chính câu hỏi đó đã là câu trả lời: cô có thể nói với Howard Dunninger bất cứ chuyện gì về bất kỳ một người đàn ông nào mà cô đã biết, hoặc có thể là tất cả bọn họ, và ông ta cũng không mảy may về điều đó.
Tháng mười hai năm đó, National Carbon điều ông ta đến California trong hai tuần. “Và em nghĩ là ông sẽ đến thăm Linda ở đó, phải vậy không?” Cô nói khi ông ta chuẩn bị đi.
“Tôi không nhìn thấy có cách nào để làm được việc đó.” Ông ta nói. “Tôi sẽ ở Los Angeles; cô ấy ở mãi tận phía bắc San Francisco. Đó là một bang rất rộng lớn. Ngoài ra, tôi…”
“Ngoài ra, ông còn gì cơ?”
“Ngoài ra tôi chẳng là gì. Dường như tôi không thể đóng được cái va li chết tiệt này lại.”
Đó là hai tuần tồi tệ – ông ta chỉ gọi cô có hai lần, vào lúc sắp về – nhưng cô vẫn tồn tại được; và ông ta đã về nhà.
Rồi vào tháng hai, vào ban đêm, lúc họ chuẩn bị đi ngủ, Sarah gọi.
“Emmy! Em ở một mình chứ?”
“Không, thật ra, em…”
“Ôi, em không. Chị hiểu rồi. Chị đã mong là em sẽ…” Nhịp điệu và nội dung trong giọng nói của Sarah gợi lên một cảm giác nhói buốt về ngôi nhà kinh khủng ở St.Charles – mùi ẩm mốc, sự ớn lạnh, những ông cố bà cố nhìn chằm chằm trên những bức tường, mùi thùng rác trong phòng bếp.
“Có chuyện gì thế, Sarah?”
“Chuyện là thế này. Trích câu của John Steinbeck, đây là mùa đông của sự bất bình.”
“Em không nghĩ rằng đó là câu nói gốc của Steinbeck, chị à,” Emily nói. “Tony đã…?”
“Đúng thế. Và chị đã quyết định, Emmy. Chị sẽ không ở đây nữa. Chị muốn đến ở với em.”
“Thật ra, Sarah, vấn đề là… em e rằng điều đó bây giờ là không thể được.” Cô liếc nhìn Howard, đang mặc áo choàng ngồi cách một vài phút(1), lắng nghe và trông như rất quan tâm. Cô đã nói với ông ta về chị mình. “Vấn đề là, hiện giờ em không ở đây một mình.”
“Ôi, ý em là em đã có một… chị hiểu rồi. Thật là, câu chuyện trở nên phức tạp rồi đây, nhưng chị cũng không quan tâm. Chị sẽ ra đi. Chị sẽ sống ở trong một khách sạn không đắt tiền hay là một nơi đại loại như vậy. Nghe này, dù sao thì: em có nghĩ rằng em có thể giúp chị tìm việc làm được chứ? Chị cũng có thể viết quảng cáo mà. Chị vẫn thường – em biết đấy – dí dỏm mà.”
“Công việc đòi hỏi hơn như thế,” Emily nói. “Phải mát một vài năm mới có thể kiếm được một việc làm giống như em. Em thật sự nghĩ rằng chị nên tìm một loại công việc khác.”
“Loại công việc nào?”
“Thật ra, có thể làm một lễ tân, hay một công việc nào đó tương tự như vậy.” Dừng một lúc. “Nghe này, Sarah, chị có chắc là chị muốn làm điều đó không?” Emily cầm điện thoại bằng cả hai tay và bặm môi, cố gắng hiểu được động cơ của chị mình. Cách đây không lâu cô giục giã chị mình phải bỏ đi; nay cô lại khẩn thiết chị mình ở lại.
“Ôi, chị không biết nữa, Emmy,” Sarah nói. “Chị nghĩ chị không chắc lắm về bất kỳ một việc gì. Mọi thứ đều… bị lộn xộn.”
“Tony có ở đó không?” Emily hỏi. “Em có thể nói chuyện với anh ta được không?” Và khi Tony đến với một tiếng lẩm bẩm ngà ngà say, cô cảm giác sự cảm phẫn quay trở lại thật mau lẹ, chính xác mà cô đã cảm nhận được đêm hôm đó ở khách sạn. “Nghe này, Wilson,” cô bắt đầu. “Tôi muốn anh hãy để cho chị tôi được yên, anh hiểu chứ?” Khi giọng cô dâng lên rồi lại dịu lại, cô hiểu vì sao cô đang làm như vậy: cô đang thể hiện với Howard. Điều này sẽ chứng tỏ cô không luôn dịu dàng và đáng yêu; cô có thể cứng rắn, kiên cường và can đảm; cô có một cách nhìn về cuộc sống hoàn toàn không ủy mị. “… tôi muốn anh hãy giữ lấy cái bàn tay chết tiệt của anh,” cô nói, “và nếu tôi là một người đàn ông, tôi sẽ đến đó tối nay và làm cho anh hiểu là anh chưa bao giờ tồn tại cái bàn tay này. Có hiểu không? Để Sarah nói chuyện lại với tôi.”
Có những tiếng loạt soạt, nặng nề, như thể đồ đạc nặng nề trong nhà phải di chuyển trước khi Sarah có thể đến được chỗ để điện thoại. Khi cô chị đến được chỗ để điện thoại, rõ ràng là cô đã thay đổi ý định.
“Chị xin lỗi là đã lại làm phiền em, Emmy.” Cô nói. “Đáng nhẽ chị không nên gọi em mới phải. Chị sẽ ổn thôi.”
“Chị ơi, nghe em nói này,” Emily nói, cảm thấy thở phào nhẹ nhõm. “Hãy gọi cho em bất kỳ lúc nào. Chị hãy gọi em lúc nào chị muốn, trong lúc chờ đợi em sẽ tìm kiếm trong mục quảng cáo ‘Cần trợ giúp’ ở tờ Thời báo, được chứ ạ? Tất cả chỉ vì em không nghĩ rằng bây giờ chưa phải là lúc thích hợp cho chị đến.”
“Không, chị cũng nghĩ thế. Ổn thôi, Emmy. Chị cảm ơn.”
Khi chiếc điện thoại đã được đặt vào giá đỡ, Howard đưa cho cô một ly rượu và nói “Thật kinh khủng. Điều đó chắc rất khó khăn với em.”
“Thật ra em cũng không làm gì khác được, Howard,” cô nói. Cô muốn ông ta ôm cô trong vòng tay, như thế cô có thể khóc trên bờ vai của ông ta, nhưng ông ta không hề đến gần cô chút nào.
“Thật ra,” ông ta nói, “Thật ra, em nên để cho chị em sử dụng căn hộ của em một thời gian; chúng ta có thể ở tại căn hộ của tôi.”
“Em biết, điều đó đã nảy lên trong em; nhưng vấn đề là căn hộ chỉ là điểm bắt đầu. Ông sẽ không thể hình dung được chị ấy vô dụng đến như thế nào đâu, chị ấy – một người phụ nữ ngoại tứ tuần, bé nhỏ hài hước với những bộ quần áo kinh dị và cái hàm răng khủng khiếp và không hề có một kỹ năng gì – chị thậm chí còn đánh máy mổ cò.”
“À, thế thì tôi hình dung ra được những công việc mà chị em có thể làm rồi. Tôi thậm chí có thể giúp chị em tìm được công việc gì đó ở National Carbon.”
“Và chị ấy sẽ là gánh nặng cho ông đấy,”
Emily nói với một giọng cay đắng hơn là cô dự định. “Chúng ta sẽ không bao giờ được tự do với chị ấy, dù là chỉ một phút nếu chị ấy ở đây. Em không muốn có chị ấy, Howard. Em biết rằng nghe rất phũ phàng, nhưng em không muốn chị ấy kéo theo cuộc đời của em.”
“Được thôi,” ông ta nói, mỉm cười và cau mày cùng một lúc. “Được thôi. Hãy làm cho mọi việc được đơn giản.”
Một vài tuần trôi qua trước khi có một cuộc điện thoại tiếp theo, vào cùng giờ buổi tối, và lần này là Tony gọi. Nghe có vẻ anh ta lại say xỉn, và cô hầu như không nghe thấy anh ta nói gì vì có những giọng khác của nam giới nói líu nhíu ở phía đằng sau, mà chỉ sau hai giây cô phát hiện ra đó là tiếng vô tuyến bật quá to.
“… chị cô ở trong bệnh viện,” giọng của Tony lại vang lên, cố gắng nói ở mức độ trung giống như giọng của một gã cảnh sát thô lỗ đang thuật lại cảnh nạn nhân tiếp theo.
“Bệnh viện á? Bệnh viện nào?”
“Central Islip,” cái giọng lại vang lên; rồi lại thêm vào “nơi thuộc về cô ta,” và sự im lặng được lấp đầy chỉ với tiếng vang đến nghẹt thở và tiếng rầm rầm của giọng nói phát ra từ vô tuyến.
“Ôi, Chúa ơi, Howard,” Emily nói khi cô gác máy điện thoại. “Chị ấy đang ở Central Islip.”
“Chuyện gì thế?”
“Đó là nơi mẹ em đang nằm. Bệnh viện bang. Nhà thương điên.”
“Nghe này, Emily,” Howard nói nhẹ nhàng. “Chồng chị ấy không thể để chị ấy ở đấy được. Nếu chị ấy cam kết ở đó thì chỉ có lý do duy nhất là vì bác sĩ đã quyết định đưa chị ấy tới đó để chữa trị. Bây giờ không phải là thế kỷ thứ mười chín; không ai nói là ‘nhà thương điên’ nữa. Nó là một bệnh viện tâm lý hiện đại và nó…”
“Ông không biết sự việc là như thế nào đâu, Howard. Còn em thì có. Em đã đến đó thăm mẹ. Đó là nơi có hai mươi hay có thể năm mươi tòa nhà xây bằng gạch; thậm chí khi ông ở đó ông cũng không thể nhận ra được nó rộng lớn đến như thế nào vì có quá nhiều cây. Ông đi dọc trên những con đường đó và nghĩ cũng không đến nỗi tồi, và rồi hai tòa nhà khác hiện lên trước mắt ông qua rặng cây, và hai tòa nhà nữa, và hai tòa nhà nữa. Và họ có những trấn song trên cửa sổ, và thỉnh thoảng ông sẽ nghe thấy một ai đó kêu lên ở đó.”
“Đừng có cường điệu sự việc lên như thế, Emily,” Howard nói. “Việc đầu tiên phải làm là điện thoại đến bệnh viện và tìm hiểu xem chị ấy ở đó là vì lý do gì?”
“Đã là mười một giờ đêm rồi. Ngoài ra, họ sẽ không bao giờ cho em biết – một giọng nói xa lạ sẽ vang lên trên điện thoại. Chắc họ sẽ có nguyên tắc về việc đó. Ông nên là một bác sĩ để…”
“Hay là một luật sư, có thể như vậy,” ông ta nói. “Thỉnh thoảng là một luật sư cũng có ích vào một việc gì đó. Tôi sẽ tìm ra chẩn đoán của chị em vào ngày mai, và tôi sẽ nói cho em biết vào tối mai. Được không? Còn bây giờ thì đi ngủ thôi và đừng có hành động như một diễn viên nữa.”
Khi ông ta về nhà buổi tối sau đó, ông ta nói “nghiện rượu cấp tính.”
Rồi ông ta nói tiếp “Thôi nào, Emily, điều đó không quá tệ. Tất cả những việc mà chị em cần làm là phải cấm rượu hoàn toàn và rồi họ sẽ thả chị em ra. Nó không giống như ‘chứng hoang tưởng, tâm thần phân liệt,’ hay là một loại bệnh gì đó tương tự như vậy.” Chuyện xảy ra vào ngày thứ hai. Đến thứ bảy trước khi Emily được tự do để có thể đáp chuyến tàu đến Central Islip mang theo hai hộp thuốc lá (một hộp cho mẹ và một hộp cho chị); trên sân ga cô vẫy một trong những lái xe taxi trông thật lôi thôi đang mời chào quanh cô – dường như họ cũng kiếm được khá từ dịch vụ phí một đôla để đưa khách đến bệnh viện và quay trở lại – và rồi cô rơi vào trạng thái hoang mang của mê cung những cây và nhà.
Tòa nhà của Sarah là một trong những tòa nhà cũ hơn – nó có một vẻ nhìn của sự “chuyển giao thế kỷ” – và Emily có thể tìm thấy cô chị đang ở ngoài hiên trên gác được che chắn rất nặng nề, ngồi nói chuyện say sưa với một người phụ nữ khác cùng lứa tuổi của mình. Cả hai người đều đang mặc áo bệnh viện được ghi tên và đi giày vải, và toàn bộ đầu của Sarah được bao bởi một cái gì đó màu trắng mà thoạt nhìn thì trông giống như một cái mũ không vành – một kiểu mũ thịnh hành ở đầu những năm bốn mươi – nhưng thật ra nó là một cái băng.
“Emmy!” Cô chị kêu lên. “Mary Ann, tôi muốn giới thiệu với chị đây là cô em gái xuất sắc của tôi – người mà tôi vừa mới kể với chị. Emmy, đây là bạn tốt nhất của chị, Mary Ann Polchek.”
Và Emily cười với khuôn mặt trắng bệch, hơi hoảng sợ một chút.
“Hãy ra đây ngồi, em, để chúng ta có thể nói chuyện,” Sarah nói, dịch chuyển chậm chạp khi cô đưa Emily đến chỗ một vài cái ghế trống trong bóng chiều. “Chúa ơi, em thật tốt quá, đã đi cả một chặng đường đến đây thăm chị. Ôi, mà em còn mang theo cả thuốc lá nữa; em có dễ thương không cơ chứ.”
“Ý chị là người phụ nữ kia là bạn thân nhất của chị từ khi chị còn ở nhà?” Emily hỏi khi họ đã ổn định chỗ ngồi, “hay là vừa mới ở đây?”
“Vừa mới ở đây. Chị ấy là một người tuyệt vời. Em không cần phải đi cả một đoạn đường xa đến như thế này; chị sẽ ra khỏi đây sau một vài tuần nữa thôi.”
“Thật vậy chứ?”
“Thật ra, nhiều nhất là ba tuần, bác sĩ nói thế. Chị chỉ cần nghỉ ngơi một chút. Thật ra, tất cả những gì chị quan tâm là ra khỏi đây trước khi Tony Junior về nhà. Chị đã nói với em là thanh toán viện phí của Tony Junior đã được giải quyết chưa? Tony Junior đã bị thương ở hông trong lần gặp phải tai nạn của chiếc xe jeep, và việc này làm cho cu cậu không phải đến Việt Nam; tin tức gần đây nhất về cu cậu là cu cậu đã cưới một cô gái người California. Chị không thể đợi để gặp nó được,” Sarah nói. “Cu cậu đã quyết định sẽ ổn định tại St.Charles với gia đình của cu cậu.”
“Gia đình của cu cậu?”
“Thật ra, người con gái mà cu cậu đã cưới có hai con, em thấy đấy.”
“Ôi, rồi cậu ấy sẽ làm gì?”
“Quay trở lại làm việc ở garage, chị nghĩ thế. Họ thích có cu cậu ở đó.”
“Nghe này, Sarah, hãy nói em nghe chuyện của chị. Chị cảm thấy thế nào?”
“Ổn thôi.” Nụ cười của Sarah dường như muốn chứng tỏ không có chuyện gì xấu cả, và Emily đã nhận ra bàn răng chị cô đã trắng trở lại: chắc hẳn chị ấy đã phải chuẩn bị và đánh rửa sạch sẽ.
Một câu hỏi quan trọng cần phải được hỏi, thay vì nở một nụ cười, và Emily đã hỏi câu hỏi đó. “Chị đã làm đầu chị bị thương như thế nào?”
“À, thật ra đó là điều ngu xuẩn,” Sarah nói. “Tất cả đều là lỗi của chị. Cái hôm chị tỉnh dậy vào lúc nửa đêm vì không ngủ được, chị đi xuống tầng dưới để uống một cốc sữa. Và trong lúc quay lên, gần đến đầu cầu thang thì chị bị trượt chân và lộn nhào xuống cầu thang. Em thấy có ngớ ngẩn không?”
Và Emily cảm nhận thấy miệng của mình méo xệch khi phải công nhận việc đó thật sự là ngớ ngẩn đến mức nào. “Chị bị đau lắm, đúng không?”
“Không, không có gì.” Cô chị lơ đãng lấy một tay chỉ vào cái băng. “Chuyện này chẳng là gì cả.”
Chuyện đó chẳng là gì cả; họ chắc hẳn đã phải cạo đầu cô trước khi quấn băng – nó được quấn thật chặt – và Emily gần như suýt nói “Họ đã cạo đầu chị phải không?” nhưng lại nghĩ ra điều hay hơn. “Thế ạ,” cô nói thay vì một câu hỏi. “Thật là tốt khi nhìn thấy chị tươi tỉnh như thế này.”
Trong khoảnh khắc họ ngồi đó và hút thuốc, mỉm cười mỗi khi mắt họ chạm nhau để thể hiện là mọi việc vẫn ổn.
Sarah không biết rằng Emily đã biết về chẩn đoán “nghiện rượu cấp tính”; Emily tự hỏi không biết có nên khéo léo đưa vấn đề này ra không, và quyết định không nên.
Rõ ràng là khi họ ngồi đó Sarah có thể tự mình giải quyết với những vướng mắc của mình kể từ nay trở đi. Bây giờ sẽ không có giãi bày tâm sự, không điện thoại và cũng không một cầu cứu nào nữa.
“Chị có… nghĩ rằng mọi việc sẽ ổn khi chị về nhà?” Emily hỏi.
“Ý em là gì?”
“Liệu chị vẫn còn giữ ý định đến New York chứ?”
“À, không.” Trông Sarah ngượng nghịu. “Điều đó thật ngốc nghếch. Chị xin lỗi đã gọi em tối hôm đó. Chị chỉ – em biết đấy – mệt mỏi và chán nản. Mọi thứ đã qua. Chị cần được nghỉ ngơi, tất cả chỉ có thế.”
“Vì em vẫn đang theo dõi mục ‘Cần trợ giúp’”, Emily nói, “và em có người bạn nghĩ rằng chị có thể có được việc làm ở National Carbon. Và không có lý do gì để chị không ở tại căn hộ của em trong một khoảng thời gian, cho đến khi chị ổn định.” Sarah lắc đầu. “Không, Emmy. Tất cả đều đã qua. Hãy quên chuyện đó đi, được không em?”
“Vâng, được thôi. Ngoại trừ việc em… vâng, được thôi.”
“Em sẽ đi thăm Pookie trong lúc em ở đây chứ?”
“Em nghĩ rằng em sẽ. Chị có biết đi đến chỗ mẹ như thế nào không?” Và Emily nhận ra ngay đây là một câu hỏi ngớ ngẩn. Làm sao mà Sarah có thể biết chỗ của bất kỳ một tòa nhà nào khác khi cô ấy đang bị giữ ở đây? “Không sao,” cô nói thật nhanh. “Em sẽ tìm được.”
“Thật ra,” Sarah nói, chầm chậm đứng lên. “Chị nghĩ em nên đi về đi. Chị cám ơn em đã đến. Thật vui khi được gặp em ở đây. Cho chị gửi lời thăm mẹ nhé.”
Lại đi dưới những rặng cây, Emily đi bộ một đoạn đường dài trước khi nhận ra cô không thể nhớ nổi liệu người đàn ông ở cửa ra vào chỉ ba tòa phía dưới và bốn tòa về phía bên tay phải hay là bốn tòa ở phía dưới và ba tòa ở phía bên tay phải, và cũng không có một ai để hỏi. Một cái biển ở chỗ đường giao nhau chỉ E-4 đến E-9, nhưng cũng chẳng giúp được gì, và một cái biển khác dưới đó chỉ NHÀ XÁC. Ở đằng xa là hai ống khói chọc vút lên nền trời xám xịt. Có thể đó duy nhất là nhà máy điện – cô biết thế – nhưng cô cũng tự hỏi liệu nó có phải là lò hỏa thiêu không. “Xin lỗi,” cô nói với một ông già ngồi trên ghế băng. “Ông có thể chỉ cho tôi nơi…”
“Đừng làm phiền tôi, thưa quý bà,” ông ta nói, và rồi, trong lúc dùng ngón tay cái cho vào một lỗ mũi, ông ta ngả người về đằng trước và sỉ mũi ở lỗ mũi bên kia. “Đừng làm phiền tôi.”
Cô đi tiếp và cố không nghĩ đến ông già, cho đến khi taxi đi chầm chậm về chỗ vòng và người lái xe taxi hất đầu và nói “Đi taxi chứ?”
“Vâng,” cô nói. “Cám ơn.”
Và thật sự không vấn đề gì, cô quả quyết với chính mình khi taxi chuyển bánh đi về phía sân ga. Pookie già nua chắc hẳn chỉ nằm lặng lẽ với cái vẻ hờn dỗi theo định kỳ hiện trên gương mặt; bà có thể với tay lấy thuốc lá nhưng sẽ không thèm nở một nụ cười, không thèm nói chuyện, có thể còn không thể hiện là có biết Emily là ai nữa hay không.
Quay trở lại thành phố, cô đợi phải ngoài ba tuần trước khi cô gọi St.Charles để xem là Sarah đã về nhà chưa. Cô làm việc đó ở văn phòng, vào cuối giờ làm của buổi sáng, vì chắc rằng Tony sẽ không ở đó.
“Ôi, Emmy… đương nhiên rồi, chị đã về nhà được nhiều ngày rồi… ai làm sao cơ?”
“Em nói mọi việc thế nào?”
“Mọi thứ ổn. Tony Junior đã ở đây, cùng với vợ và con của cô ta, vì thế nơi đây như thể là một bệnh viện tâm thần vậy. Cô ta rất nhã nhặn và đang có bầu. Chúng sẽ ở đây một thời gian và bọn chị sẽ giúp chúng tìm một ngôi nhà cho chúng.”
“Em hiểu rồi. Giữ liên lạc nhé, Sarah. Hãy nói với em bất cứ điều gì chị cần – chị biết đấy – bất kỳ điều gì em có thể làm được.” Và Sarah đã giữ liên lạc, nhưng không phải bằng điện thoại. Một thời gian sau đó cô ấy gửi cho Emily một lá thư. Phong bì được đề địa chỉ bằng cách viết tay non nớt, ngộ nghĩnh cổ xưa, nhưng chính lá thư lại được đánh máy, với rất nhiều lỗi chính tả được đánh dấu bằng bút bi.
“Emmy thương yêu:
Chị viết thư đến em thay vì gọi điện vì chị muốn thử chiếc máy tính mà Peter tặng chị nhân ngày sinh nhật. Đó là một cái máy chữ dùng rồi, xách tay hiệu Underwood, và nó có một vài lỗi ở đôi chỗ, nhưng nó đã đánh được! Với một chút lau chùi và chỉnh sửa, chị sẽ luôn mang nó bên mình.
Đó là một cu tí! Tám pao bảy ounce(1). Và cu tí trông giống y hệt ông nội, chồng chị. (Điều này làm cho chồng chị rất tức giận, vì nó làm cho anh ta cảm thấy mình giống như ông vậy, và anh ta không quan tâm đến việc có ý nghĩa như thế nào.) Chị vừa làm xong một cái xe đẩy có mui bằng mây. Không bao giờ lặp lại nữa! Chị bắt đầu với một giỏ quần áo to, một vài miếng bọt cao su, một vài miếng lót đệm được tráng nylon trên bề mặt, một vài tấm ga, một vài đinh bấm, và một vài dải ruybăng dài vô tận màu xanh. Đó là một sự khởi đầu dũng cảm, và dần dần một tuần sau đó thì có được thành quả. Sự chiến thắng, nhưng mệt lử, chị lái xe mang nó đến nhà Tony Junior, nhưng không có ai ở nhà.
Cái đồ ngớ ngẩn này ở trong xe của chị hai ngày trước khi cuối cùng nó cũng đã được đưa về nơi cần đến.
Tuần này chị ngập đầu với cánh đồng mâm xôi. Cánh đồng của nhà chị gồm một phần tư mẫu toàn mâm xôi đang cần phải được thu họach. Cho đến giờ chị đã hái, rửa, làm xi-rô và làm đông 30 panh(2), và làm 20 lọ mứt, và chị vẫn không làm xuể. Cá nhân mà nói, chị ghét mâm xôi. Chị làm điều này, nhớ lại những gì mà người ta đã nói khi được hỏi tại sao lại muốn leo lên đỉnh Everest… Chỉ vì có nó ở đó.”
Chị đã không gặp Pookie hai mùa nay rồi. Trước hết, việc lái xe của chị bị hạn chế nghiêm ngặt ở địa phương, ít nhất cho đến khi chị cảm thấy tự tin hơn và mọc thêm tóc ra. Sau đó, vì chị hầu như không bao giờ lái xe, Tony lái chiếc xe T-bird của anh ta đến Magnum, Eric lái chiếc xe T- bird của cu cậu đến xưởng xe máy nơi cu cậu làm việc, và Peter lái chiếc xe của chị đến chỗ có công việc hè ở Setauket.
Chị phải dừng bút thôi và quay trở lại với cánh đồng mâm xôi đây.
Hãy chăm sóc mình nhé.
Yêu em,
Sarah”
“Anh hiểu nó là gì?” Emily hỏi Howard khi ông ta đọc lá thư.
“Ý em là gì, “hiểu nó là gì”? Chỉ là một lá thư chia vui thôi mà, tất cả chỉ có vậy thôi.”
“Nhưng đó chính là vấn đề, Howard – nó quá vui. Trừ có một dòng nói về việc mọc tóc của chị ấy làm cho ông nghĩ là chị ấy là một bà nội trợ bé nhỏ thoả mãn nhất, hạnh phúc nhất trên đời.”
“Có thể đó là cách mà chị em thích nhìn về mình như thế.”
“Thật ra, nhưng vấn đề là em biết nhiều hơn như thế… và chị ấy cũng biết em biết nhiều hơn như thế.”
“Thôi nào,” Howard nói, đứng lên khỏi ghế đi quanh phòng một cách thiếu kiên nhẫn. “Em muốn gì từ cô ta? Em muốn cô ta cởi lòng cởi dạ với em cứ năm phút một lần hay sao? Để nói với em rằng trong tháng này hắn ta đã đánh cô ấy bao nhiều lần hay sao? Khi cô ta nói với em thì em nói em ‘không muốn cô ta kéo cuộc đời của em vào’. Em thật là một cô gái hóm hỉnh, Emily”
Và tối muộn đêm đó, khi họ nằm ôm nhau trên chiếc giường của cô, cô ngập ngừng chạm tay vào ông ta và nói “Howard!”
“Mm?”
“Nếu em hỏi ông điều này, liệu ông sẽ trả lời em thành thật chứ?”
“Mm.”
“Ông có thật sự nghĩ em là một cô gái hài hước không?”
***
Mùa hè năm 1967 họ đi nghỉ ở chỗ cũ của Howard, ở Đông Hampton, nơi ông ta đã không ở đó kể từ năm cuối cùng của cuộc hôn nhân. Cô thích sự tươi sáng, sự rộng rãi và mùi cỏ, mùi cát của ngôi nhà – đằng sau cuộc sống nơi thành phố, nó giống như được hít thở không khí trong lành – và cô thích những cái ván lợp bằng gỗ tuyết tùng được phơi nắng gió, phản chiếu ánh bạc trên nền trời. Cái từ “thú vị” cứ vang mãi trong đầu cô (“Chúng tôi đã có một kỳ nghỉ thú vị,” cô sẽ nói như vậy với bất kỳ một ai hỏi cô, khi họ quay về New York). Cô thích lướt sóng, và cái cách Howard lao vào từng cơn sóng và nhảy lên với mỗi lần cơn sóng vỡ tan; cô thích cái cách mà cái phần quý giá nhát của ông ta nhăn lại và ngả màu tím chuyển sang xanh dưới gió và nước biển, đến nỗi chỉ có môi và lưỡi cô, cảm nhận vị mặn, mới có thể làm cho nó lớn khoẻ trở lại.
“Howard?” Cô nói ở buổi sáng cuối cùng, vào ngày Chủ nhật. “Em đang nghĩ là em nên gọi điện cho chị em. Có thể chúng ta sẽ đi đường vòng và dừng ở đó để thăm chị em trên đường về nhà.”
“Hay đấy,” ông ta nói. “Một ý kiến hay.”
“Nhưng ý em là liệu ông có cảm thấy bị phiền không? Nó thật sự cách xa đường về nhà, và có thể chúng ta sẽ rơi vào tình trạng nhếch nhác, bẩn thỉu và mệt lử.”
“Chúa ơi, Emily, đương nhiên là tôi không ngại gì cả. Tôi luôn muốn được gặp chị của em.”
Và vì thế cô gọi điện thoại. Một người đàn ông trả lời, nhưng đó không phải là Tony. “Hiện giờ bà ấy đang nghỉ,” anh ta nói. “Tôi có thể ghi lời nhắn được không?”
“Thôi, không cần đâu, tôi chỉ… ai đấy? Có phải là Tony Junior đấy không?”
“Không, tôi là Peter.”
“Ôi, Peter. Dì đây… Dì Emily đây. Emily Grimes.”
“Ôi, Dì Emmy!” Cậu ta nói. “Con đã nghĩ nghe có vẻ như giọng của dì…”
Kế hoạch được sắp xếp là họ sẽ dừng ở đó vào khoảng hai hay ba giờ gì đó vào buổi chiều. “Ông sẽ phải gắng sức lắm đấy, Howard,” cô nói khi cuối cùng họ cũng tìm thấy đường vào St.Charles.
“Thật là ngớ ngẩn quá.”
“Đừng có ngốc nghếch thế,” ông ta nói với cô như vậy.
Cô đã hy vọng Peter có thể là người ra mở cửa – rồi sau đó sẽ là ôm hôn và bắt tay lịch sự (“Xin chào ông”) trước khi họ cười nói đi vào trong phòng khách – nhưng thay vào đó là Tony. Anh ta mở cửa chỉ một vài inch và đứng đó sẵn sàng đóng cửa lại, giống như một người đàn ông có ý định bảo vệ sự bất khả xâm phạm của nhà mình. Khi anh ta nhìn ra là ai, anh ta chớp mắt và lùi lại, mở cửa rộng hơn, và Emily tự hỏi cô có thể chào anh ta như thế nào, sau khi gọi anh là một kẻ đáng khinh, đồ quỷ tha ma bắt và dọa nạt cuộc sống của anh ta. “Xin chào, Tony,” cô nói. “Đây là Howard Dunninger; Tony Wilson.”
Anh ta mở lời một chút, lẩm bẩm rằng anh ta vui khi được gặp Howard, và dẫn họ qua tiền sảnh.
Sarah ngồi cuộn tròn trên ghế sofa, theo cách mà Edna Wilson thường hay ngồi, cười một cách lơ đãng. Emily nhìn sâu vào điệu cười đó ít nhất là một giây trước khi nhận ra rằng có gì không ổn: nửa dưới của khuôn mặt Sarah bị méo mó.
“Ôi, Emmy,” cô chị rên rỉ, cố gắng một cách vô vọng để che đi cái miệng của mình với một bàn tay, “chị quên không lắp răng vào”
“Không sao đâu,” Emily nói. “Chị cứ ngồi yên.” Nhưng rõ ràng rằng Sarah đã ngồi im suốt cả ngày; cô ấy có thể đã không thể đứng lên cho dù cô ấy có muốn đi chăng nữa.
“Hãy đến ngồi cạnh chị, Emmy,” cô chị nói khi phần giới thiệu kết thúc. “Thật là tuyệt khi lại được gặp em.” Và cô nắm cả hai tay Emmy thật chặt đầy xúc động. Emily cảm thấy bất tiện khi ngồi ở đó, với tay qua lối đi để được âu yếm trong lòng chị mình; cách duy nhất là phải ngồi gần hơn, cho đến tận khi họ chạm được vào đùi nhau, và khi cô đến gần cô nhận thấy mùi rượu nồng nặc.
“… Người em gái duy nhất của tôi,” Sarah nói trong khi Emily cố gắng không nhìn vào cái lợi đen sì, nhăn nhở. “Mọi người có nhận ra đây chính là cô em gái bé bỏng duy nhất của tôi không?”
Tony ngồi lạnh nhạt trong cái ghế chéo qua ghế sofa, mặc bộ quần áo công nhân bị dính sơn và trông giống như một kẻ lao công mệt lử. Bên cạnh anh ta, Howard Dunninger cười một cách không dễ dàng gì. Thành viên duy nhất trong nhóm người ngồi ở đây có được tự tin là Peter, người đã trở thành một thanh niên đầy ấn tượng. Cậu cũng mặc quần áo bị vấy bẩn – chắc hẳn cậu và bố cậu đã sơn nhà trước khi khách đến – và Emily thích dáng vẻ của cậu ta. Cậu ta không cao và không hẳn là đẹp trai, nhưng khi cậu đi quanh trong dáng vẻ phong nhã thì có cái gì đó hài hước và thông minh thể hiện trên nét mặt cậu.
“Con đã kết thúc trường dòng chưa, Peter?” Cô hỏi.
“Còn hơn một năm nữa ạ,” cậu ta nói. “Khoá học bắt đầu từ tuần sau.”
“Mùa hè của con thế nào?”
“Ổn ạ. Con ở châu Phi một thời gian.”
“Ở châu Phi Á? Thật à?”
Và cậu dẫn buổi nói chuyện trong một vài phút, để đỡ cho những ai cố gắng muốn nói gì đó, trong lúc cậu mô tả Châu Phi như một người khổng lồ đang ngái ngủ “chỉ vừa mới bắt đầu vươn vai.” Khi cậu ta nói, cậu ta nâng và sải rộng cánh tay cân đối, nắm tay rắn chắc trong một trạng thái vươn mình ngái ngủ, và điều đó làm cho Emily nghĩ rằng chắc hẳn sẽ có một số các cô gái nhìn nhận Peter là một người rất hẫp dẫn.
“Ôi, Emmy,” Sarah nói. “Cô em gái bé bỏng thông minh của chị – Chị yêu em.”
“Được rồi,” Emily nói. “Thôi mà chị.” Và cô nhận ra ngay lập tức, nếu chỉ vì Tony đang nhìn cô từng li từng tí, thì điều đó có nghĩa rằng đó là một lời nói không đúng chỗ. “Ý em là,” cô sửa lại, “chị biết mà; em cũng yêu chị.”
“Chẳng phải cô ấy thật tuyệt diệu hay sao?” Sarah hỏi mọi người. “Chẳng phải cô em gái bé bỏng của tôi thật tuyệt vời hay sao? Anh thấy thế nào, Howie? Nếu gọi anh là Howie có được không?”
“Vâng, được mà,” Howard nói một cách chân tình. “Tôi nghĩ cô ấy thật tuyệt diệu.” Đến bây giờ đã là hơn một năm kể từ ngày đầu của Sarah bị cạo, nhưng tóc cô vẫn có một dáng vẻ bù xù và ngắn, và nó không bóng. Phần còn lại, phía dưới một nửa khuôn mặt bị méo mó, tất cả đều giảm sút và phù nề: trông cô già hơn so với tuổi. Ngay khi mọi người bắt đầu nói chuyện với nhau, bỏ mặc chị em gái ngồi một mình trên ghế sofa, Emily tận dụng ngay cơ hội đó để hỏi “Em không biết là chị đã bị mát răng, Sarah. Chuyện xảy ra khi nào thế?”
“Ôi, chị cũng không nhớ nữa; cách đây một vài năm,” Sarah nói với cùng một cách thể hiện nhấn mạnh thật thoải mái, ngượng nghịu mà cô đã thốt ra khi phủ nhận chấn thương trên đầu cô bằng câu “không có gì” hồi còn ở Central Islip, và Emily nhận ra quá muộn đó không phải là một câu hỏi khéo léo. Để thay đổi tình thế cô nắm thật chặt âu yếm bàn tay xanh xao đang tự siết chặt lấy cô và nói “Trông chị rất khỏe.”
“Peter!” Sarah gọi cao giọng, và Emily nghĩ có thể chị ấy sẽ nói ‘Trật tự nào’, nhưng thay vào đó chị ấy nói “Hãy kể cho mọi người nghe linh mục da đen mà con gặp ở châu Phi đi.”
“Không có gì đâu, mẹ,” cậu ta nói.
“Thôi nào, Peter.”
“Mẹ, con thật sự không muốn nói về chuyện đó, có được không mẹ? Dù sao đi nữa, đó không phải là một “câu chuyện”.”
“Không, đương nhiên đó là một câu chuyện,” cô van nài. “Khi Peter ở châu Phi, cu cậu đã gặp người linh mục tuyệt vời này, và cu cậu…”
“Mẹ, mẹ có thể dừng lại được không?” Cậu ta nói, cười để thể hiện là cậu ta thật sự không cáu với mẹ mình, và chỉ có như vậy mẹ cậu mới buông tha cho cậu. vẫn cười, cậu chun nhẹ môi như thể hôn gió mẹ mình. Rồi cậu ta quay sang Howard và nói “Ông theo ngành luật nào ạ?”
Một chút sau đó cánh cửa phòng bếp đóng sầm lại và một thanh niên mắt lé, vụng về bước vào, đang mặc một chiếc áo jacket bằng da toàn đinh và đi ủng bước vào, trông như thể cậu ta có thể làm đau tất cả mọi người; phải mất một lúc Emily mới nhận ra đây là cậu con trai thứ ba của Sarah, Eric. Cậu ta cúi đầu chào Emily một cách lịch sự và bắt tay Howard; rồi cậu kéo bố và anh mình sang bên để thảo luận rì rầm một lúc lâu, có vẻ như đang nói về những công việc của xe, và rồi khi câu chuyện của họ kết thúc cậu ta lại lừ đừ biến ra ngoài.
Đó là một buổi chiều tháng chín rực rỡ. Cây xào xạc trong gió phía đằng xa cửa sổ, và bóng in lên chiếc cửa ra vào đầy bụi. Không ai nghĩ ra được bất kỳ một chủ đề để nào để nói chuyện.
“Anthony?” Sarah gọi nhỏ, như thể nhắc chồng mình về một vài việc cá nhân. “Mm,” anh ta trả lời, và đi ra ngoài về phía phòng bếp. Khi anh ta quay lại, anh ta mang theo cái gì đó trông giống như một ly nước cam, nhưng không có gì hồ hởi trong cái cách mà anh ta đưa đến cho cô: cái ly lửng lơ từ những ngón tay anh ta, đặt sát với một bên đùi của chiếc quần jean, và dường như anh ta lén ấn nó vào bàn tay đang chờ đợi của cô chị. Cô chị nuốt vài ngụm đầu tiên thật chậm và nghiêm nghị đủ để nói rõ là có vodka hay là gin gì đó trong đó.
“Mọi người có muốn một chút cà phê… hay gì đó không?” Tony Wilson hỏi những vị khách của mình.
“Không, xin cảm ơn,” Emily nói. “Thật ra, chúng tôi nên đi bây giờ; đường còn dài lắm.”
“Ôi, em không thể đi bây giờ,” Sarah nói với cô. “Em vừa mới đến mà. Chị không cho em đi đâu.” Và rồi, khi ly nước của cô bắt đầu có tác dụng, cô gợi mở ra một ý kiến. “Peter,” cô nói. “Con có thể giúp mẹ được chứ? Một việc nhỏ thôi?”
“Việc gì thế ạ?”
Cô dừng lại để gây ấn tượng xúc động. “Lấy guitar ra đây con.”
Trông cậu ta đầy xấu hổ. “Thôi mà, mẹ,” cậu ta nói, và một trong những cánh tay của mình đang để ở trên gối khi cậu ngồi làm điệu bộ từ chối muốn nói là không thích hợp.
“Thôi nào, Peter.”
“Không.”
Nhưng Sarah không chấp nhận câu trả lời không. “Tất cả những gì con cần làm,” cô giải thích, “là đi ra chỗ đỗ ô tô của con và mang nó đến đây, và chơi bài ‘Tất cả những bông hoa đi đâu rồi’.”
Cuối cùng thì chính Tony là người giải tỏa sự bế tắc. “Con không muốn mà em,” anh ta nói với vợ mình.
Rồi Emily chuẩn bị đứng dậy, mỉm cười, để muốn nói rằng cô thật sự có ý khi cô nói là cô và Howard phải rời khỏi đây. Sarah, trông thật hoang mang trên ghế sofa, đã không đứng lên để chào tạm biệt họ.
Không có thêm một lá thư nào từ Sarah, và cũng không một cuộc điện thoại nào nữa. Và mùa Giáng sinh bức thiệp chúc mừng của gia đình Wilson được Tony ký vội vàng, chứ không phải từ bàn tay hân hoan của Sarah, điều này khá là khó chịu. “Ông có nghĩ là em nên gọi chị ấy không?” Emily hỏi Howard.
“Để làm gì? Chỉ vì cái thiệp chúc mừng Giáng sinh á? Đừng, em yêu. Nếu cô ấy gặp trục trặc cô ấy sẽ gọi em.”
“Vâng, được thôi. Em hy vọng rằng ông đúng.”
Và rồi vào một buổi tối muộn tháng năm của năm 1968 – ba tháng, vì Emily phát hiện ra sau đó, trước sinh nhật lần thứ bốn mươi bảy của Sarah – chuông điện thoại reo làm cho Emily nhảy ra khỏi giường.
“Dì Emily đấy ạ?”
“Peter đấy à?”
“Không, con là Tony Junior… Con muốn nói chị của dì đã qua đời hôm nay.”
Và điều đầu tiên hiện lên trong cô, thậm chí còn trước cả lúc cái tin reo xuống, là chính cái điều giống như Tony Junior phải nói “qua đời” thay vì nói là “chết”.
“Chị ấy… chết vì lý do gì?” Cô van nài trong khoảnh khắc.
“Bà ấy đã bị mắc chứng đau gan từ rất lâu,” cậu ta nói khàn khàn, “nên, thật sự là, đã trở nên rất nặng vào mùa thu bà chuyển về nhà.”
“Dì hiểu rồi.” Và Emily nhận thấy giọng mình chết lặng đi theo cách mà người ta vẫn thể hiện khi nhận được thông báo về cái chết ở trong phim. Không một điều gì dường như là thật cả. “Bố con thế nào?”
“À, ông ta… giải quyết tình hình khá tốt.”
“Thế à,” cô nói, “Chuyển cho ông ta… con biết đấy… sự thương cảm của dì nhé.”