Lễ Diễu Hành Phục Sinh (The Easter Parada)

Chương 2



Chính Sarah là người cho Emily biết kiến thức đầu đời về tình dục. Chúng đang ăn kem que vị cam và đùa cợt với nhau quanh cái võng bị đứt ở sân sau nhà chúng ở Larchmont, New York – là một trong những thành phố ngoại ô mà chúng sống sau khi sống ở Tenafly – và khi Emily lắng nghe đầu óc cô bé đầy những suy nghĩ băn khoăn và xáo trộn.

“Và ý chị là họ đưa cái đó vào trong cơ thể mình?”

“Đúng rồi. Cho đến tận cùng. Và nó rất đau.”

“Sẽ như thế nào nếu nó không vừa?”

“Không, nó vừa chứ. Bọn họ sẽ làm cho chúng vừa.”

“Và rồi sẽ thế nào?”

“Rồi thì em sẽ có em bé. Vì thế tại sao em sẽ không làm chuyện đó cho đến khi em lấy chồng. Ngoại trừ, em biết Elaine Simko ở lớp tám chứ? Cô ta đã làm việc đó với một cậu bạn trai và đã có con, và vì thế mà cô ta đã phải bỏ học. Không một ai có thể biết được bây giờ cô ta đang ở đâu.”

“Chị có chắc không? Elaine Simko?”

“Hoàn toàn chắc chắn.”

“Thế tại sao cô ta lại muốn làm một chuyện giống như thế?”

“Bạn trai đã quyến rũ cô ta.”

“Điều đó có nghĩa là gì?”

Sarah mút que kem thật chậm và sâu. “Em còn quá bé để có thể hiểu được.”

“Em không còn bé nữa. Nhưng chị bảo là nó đau cơ mà, Sarah. Nếu nó đau, tại sao cô ta lại…”

“Thật ra, nó đau, những nó cũng có cảm giác dễ chịu. Em biết cảm giác như thế nào khi thỉnh thoảng em tắm trong bồn, hay thỉnh thoảng em đưa tay xuống chỗ đó và rửa, và có cảm giác…”

“Ôi,” Và Emily nhìn xuống ngượng ngùng. “Em hiểu rồi.”

Cô bé thường nói “Em hiểu rồi” về những điều mà cô thật sự không hoàn toàn hiểu – và vì thế, về vấn đề này, với Sarah cũng vậy thôi. Không một ai trong bọn chúng có thể hiểu được tại sao mẹ chúng lại phải chuyển nhà thường xuyên đến như vậy, chẳng hạn – chúng bắt đầu kết bạn được với nơi chúng ở thì cũng là lúc chúng phải chuyển đi nơi khác – nhưng chúng không bao giờ thắc mắc về điều đó cả.

Pookie thật khó hiểu về nhiều chuyện. “Tôi nói với các con về mọi chuyện,” chị sẽ nói khoác với những người khác như vậy; “chúng tôi không có bất kỳ một bí mật nào trong gia đình” – và rồi trong câu nói tiếp theo chị sẽ hạ giọng nói điều gì đó để bọn trẻ không nghe thấy được.

Để giữ đúng cam kết trong ly hôn, Walter Grimes thường đến thăm bọn trẻ hai hay ba lần trong một năm ở bất kỳ ngôi nhà nào chúng đang ở thuê, và thỉnh thoảng anh sẽ ngủ đêm tại ghế sofa ở phòng khách. Vào năm Emily lên mười, cô bé thức trắng cả đêm vào đêm Giáng sinh, lắng nghe âm thanh bất thường phát ra từ bố mẹ chúng ở dưới nhà – họ đang nói và nói – và vì cô phải biết chuyện gì đang xảy ra nên cô hành động như một đứa trẻ: cô gọi mẹ.

“Gì thế con?” Pookie bật đèn và cúi xuống với cô, nồng nặc mùi rượu gin.

“Dạ dày con khó chịu.”

“Con có muốn uống thuốc tiêu hoá không?”

“Không.”

“Vậy con muốn gì?”

“Con không biết.”

“Đừng nhõng nhẽo nữa. Để mẹ bế con vào, và con chỉ cần nghĩ đến những món quà tốt đẹp nhất cho Lễ Giáng sinh và rơi vào giấc ngủ. Và con không được gọi mẹ nữa nhé; con hứa chứ?”

“Vâng ạ.”

“Vì mẹ và bố đang có một chuyện quan trọng muốn nói. Bố mẹ đang nói chuyện về rất nhiều việc mà đáng nhẽ ra bố mẹ đã phải nói từ rất, rất lâu rồi, và bố mẹ đã bắt đầu hiểu nhau…”

Chị dành cho Emily một nụ hôn ướt át, tắt đèn và đi vội xuống tầng, nơi mà cuộc nói chuyện vẫn tiếp diễn, và Emily nằm đó chờ đợi một giấc ngủ trong dạt dào hạnh phúc. Đi đến một sự hiểu nhau! Giống như một lời nói của một bà mẹ ly hôn trong phim được nói trước khi nhạc nổi lên cho hồi cuối.

Nhưng buổi sáng hôm sau mử ra giống như tất cả các sáng của những lần đi thăm trước: bố lặng lẽ và lịch sự như một người lạ mặt ở bữa sáng, và Pookie tránh không nhìn bố; rồi bố gọi taxi để đưa bố ra tàu. Thoạt đầu Emily nghĩ rằng có thể bố chỉ đi về thành phố để lấy những thứ bố cần, nhưng hy vọng đó đã tan biến trong những ngày và tuần sau đó. Cô bé có thể sẽ không bao giờ tìm ra được từ ngữ để hỏi mẹ mình về điều đó, và cô cũng không nhắc điều đó với Sarah.

Cả hai cô con gái đều mắc những gì mà nha sĩ nói là bị hàm nhô và bọn trẻ gọi là răng vẩu, nhưng tình trạng của Sarah còn xấu hơn: khi cô bé mười bốn tuổi cô không thể ngậm được miệng. Walter Grimes đồng ý chi trả cho việc chỉnh răng, và điều này có nghĩa là Sarah sẽ đi tàu ra New York một tuần một lần có cả buổi chiều với bố để chỉnh hàm. Emily cảm thấy ghen tị, cả về việc chỉnh răng cũng như việc đi ra thành phố, nhưng Pookie giải thích rằng bố mẹ không thể có đủ kinh phí để điều trị cho cả hai con cùng một lúc; rồi sẽ đến lượt cô, khi cô lớn hơn.

Trong thời gian chỉnh sửa, hàm của Sarah thật kinh khủng: chúng giữ lại những mẩu thức ăn màu trắng, và ai đó ở trường gọi cô bé là một nhà kho đồ ngũ kim biết đi. Ai có thể tưởng tượng ra hôn một người như vậy? Ai, với vấn đề đó, có thể chịu đến gần cô được bao lâu? Sarah giặt chiếc áo len rất cẩn thận với sự cố gắng giữ cho màu nhuộm vẫn còn ở chỗ nách áo, nhưng điều đó đã không thực hiện được: chiếc áo len màu xanh hải quân bạc màu thành màu xanh trứng chim cổ đỏ ở chỗ nách, và một chiếc áo màu đỏ thì biến thành màu hồng hơi vàng. Mồ hôi nặng của cô, không ít tồi tệ hơn cái hàm, dường như là một tai họa vậy.

Một tai họa nữa gieo đến cho cả hai cô gái khi Pookie thông báo chị đã tìm thấy một ngôi nhà tuyệt vời trong một thị trấn nhỏ tuyệt vời có tên là Bradley, và rằng họ sẽ chuyển đến đó trong mùa thu. Chúng hầu như đã không thể nhớ nổi số lần chúng chuyển nhà nữa rồi. “Con này, không quá tồi chứ, phải vậy không con?” Pookie hỏi chúng sau buổi học đầu tiên ở trường Bradley. “Kể cho mẹ nghe nào.”

Emily đã cam chịu một ngày với thái độ thù địch trong im lặng – một trong hai cô học sinh mới duy nhất ở toàn khối sáu – và nói rằng cô nghĩ nó sẽ ổn thôi. Nhưng Sarah, một học sinh cáp ba, vui mừng với tin nó đã tuyệt vời đến thế nào.

“Họ có một hội đồng đặc biệt dành cho những học sinh mới,” cô nói, “và ai đó chơi piano và tất cả những học sinh nữ cũ đều đứng dậy và hát. Nghe này: “Bạn thế nào, những học sinh mới, bạn thế nào?

Liệu chúng tôi có thể làm gì cho bạn?

Chúng tôi rất vui là bạn đã đến đây Vì bạn luôn mang lại những điều vui vẻ Bạn thế nào, những học sinh mới, bạn thế nào?”

“Thế à!” Pookie nói rất vui. “Chẳng phải điều đó là tuyệt vời hay sao?”

Và Emily chỉ có thể quay mặt đi trong sự căm phẫn. Điều đó có thể là “tuyệt vời,” nhưng đó là dối trá; cô biết sự phản bội ngấm ngầm trong một bài hát như vậy.

Trường tiểu học và trường trung học ở trong cùng một toà nhà, điều đó có nghĩa là thỉnh thoảng Emily có thể thoáng nhìn thấy chị mình trong ngày, nếu cô may mắn; điều đó cũng có nghĩa là chúng có thể đi bộ về nhà cùng nhau vào các buổi chiều. Sự thoả thuận là chúng sẽ gặp nhau ở lớp học của Emily sau khi tan học.

Nhưng một ngày thứ sáu trong mùa bóng đá Emily nhận thấy mình đã phải đợi và đợi trong lớp học trống rỗng, với không hề có bóng dáng của Sarah đâu cả, cho đến khi lòng dạ cô bắt đầu cảm thấy lo lắng. Khi Sarah đến, cuối cùng trông cô thật hài hước – cô có một điệu cười hài hước – và đằng sau cô là một cậu bé nghiêm nghị.

“Emmy, đây là Harold Schneider,” cô nói.

“Chào anh.”

“Chào em.” Anh ta thật to lớn, cơ bắp và khuôn mặt nổi mụn.

“Bọn chị sẽ đi xem một trận đấu ở Armonk,” Sarah giải thích. “Em chỉ cần nói với Pookie là chị sẽ về nhà vào bữa tối, được không? Liệu em có thể về nhà một mình được không?”

Vấn đề là Pookie đã đi đến New York sáng hôm đó và đã được thông báo vào bữa sáng. “Thật ra, em nghĩ rằng em sẽ về nhà trước chị, nhưng em không nên hứa.” Điều đó không những chỉ hàm ý là đi về nhà một mình và còn ở trong nhà một mình hàng giờ liền với những đồ đạc trơ trụi và chiếc đồng hồ tích tắc, chờ đợi. Và nếu mẹ về nhà… “Sarah đâu?” – làm sao cô có thể nói với mẹ là Sarah đang đi chơi với một cậu bé tên là Harold ra thị trấn tên là Armonk? Nó ngoài tầm kiểm soát.

“Chị sẽ đến đó bằng cách nào?” Cô hỏi.

“Bằng xe của Harold. Anh ấy đã mười bảy tuổi.”

“Em không nghĩ rằng Pookie sẽ thích điều này, Sarah. Và em nghĩ rằng chị cũng biết là mẹ không thích. Chị nên đi về nhà với em.”

Sarah quay lại một cách tuyệt vọng với Harold có bộ mặt to đang co rúm lại với nụ cười nửa miệng ngờ vực, như thể muốn nói rằng cậu ta chưa bao giờ gặp một đứa bé hỗn xược đến như vậy.

“Emmy, đừng như thế nữa mà,” Sarah khẩn nài, với giọng run run chứng minh là cô đang yếu thế.

“Đừng như thế nào? Em chỉ nói những gì chị biết.”

Và cuối cùng thì Emily đã thắng. Harold Schneider lừ lừ người quay đi về phía hành lang, lắc lắc cái đầu (cậu ta có thể tìm được một cô gái khác trước thời gian trận đấu bắt đầu), và những cô con gái nhà Grimes cùng nhau đi về nhà – hay đúng ra là đi hàng một, Emily đi trước.

“Quỷ tha ma bắt mày đi,” Sarah nói đằng sau lưng trong lúc đi bộ về. “Tao sẽ giết mày vì chuyện này…” và cô nhảy ba bước và đá thật mạnh vào mông em mình, làm cho Emily ngã gập tay xuống và sõng xoài trên cặp, một bên khoá văng ra và làm rơi hết sách. Tao sẽ giết mày vì đã làm hỏng chuyện của tao.”

Hoá ra, một cách trớ trêu, Pookie đã ở nhà khi chúng về đến nơi. “Có chuyện gì thế con?” Chị hỏi, và khi Sarah kể lại toàn bộ câu chuyện, khóc gào lên – đó là một trong những lần hiếm hoi khi Emily nhìn thấy chị cô khóc đến như vậy – câu chuyện đã trở nên rõ ràng toàn bộ lỗi lầm của buổi chiều ngày hôm đó là tội của Emily.

“Và có nhiều người đi xem trận đấu không, Sarah?” Pookie hỏi.

“Vâng, toàn là những học sinh lớp trên và tất cả mọi người…”

Pookie trông đỡ hoang mang hơn bình thường. “Thế là, Emily,” chị nói một cách nghiêm nghị. “Điều đó thật không hay, những gì con đã làm ấy. Con có hiểu điều đó không? Điều con làm thật không hay tí nào.”

Có những cơ hội tốt hơn ở Bradley. Mùa đông năm đó Emily kết bạn với một vài người ở quanh trường, và việc này đã làm cho cô bớt lo lắng về chuyện Pookie có về nhà hay không; và trong cùng thời gian này Harold Schneider bắt đầu đưa Sarah đi xem phim. “Anh ấy đã hôn chị chưa?” Emily van nài sau lần họ hẹn gặp nhau lần thứ ba hay thứ tư gì đó.

“Đó không phải là chuyện của em.”

“Thôi nào, Sarah.”

“Được rồi. Rồi. Anh ấy đã hôn chị.”

“Nó có cảm giác như thế nào ạ?”

“Nó giống như những gì mà em tưởng tượng.”

“Ôi.” Và Emily muốn nói “Chẳng nhẽ anh ta không quan tâm đến cái hàm đeo hay sao?” nhưng nghĩ chín chắn hơn, thay vào đó cô nói “Chị nhìn thấy ở Harold có gì hấp dẫn?”

“À, anh ấy rất… tuyệt,” Sarah nói, và quay vào giặt áo len.

Rồi lại đến một thị trấn khác sau khi rời khỏi Bradley, và rồi lại đến thị trấn khác nữa; ở thị trấn cuối cùng mà Sarah tốt nghiệp trung học với không một kế hoạch nào cho việc đăng ký học đại học, và cha mẹ cô cũng không có khả năng để chu cấp cho việc đó. Răng của cô bây giờ đã thẳng và cái hàm đã được tháo ra; dường như cô không bao giờ phải toát mồ hôi về việc đó nữa, cô có dáng hình của một bộ ngực đầy đặn làm cho tất cả đàn ông trên phố phải quay lại nhìn và làm cho Emily phải ghen tị. Răng của Emily vẫn hơi nhô và sẽ không bao giờ được chỉnh nữa (mẹ cô đã quên mất lời hứa); cô cao gầy và ngực nhỏ. “Con hãy còn bé, con yêu”, mẹ cô cam đoan. “Con sẽ rất hấp dẫn.”

Năm 1940, họ chuyển về thành phố, và nơi ở mà Pookie tìm thấy cho các con là một căn hộ bình thường: tiền thuê là một nghìn đô, “một căn hộ một buồng” cũ kĩ tồi tàn bên bờ nam của Quảng trường Washington, với những cửa sổ lớn nhìn ra công viên. Nó tốn phí nhiều hơn khả năng của Pookie, nhưng chị tằn tiện chi tiêu ở những việc khác; họ không mua quần áo mới và hầu như chỉ ăn mỳ ống. Những đồ đạc cố định ở bếp và phòng tắm là những đồ cổ đã bạc màu, nhưng trần cao một cách khác thường và khách đến chơi chưa bao giờ sai về việc đánh giá nơi này có “cá tính.” Nó ở dưới tầng trệt, có nghĩa là những hành khách ở trên những chiếc ô tô hai tầng của Đại lộ Số 5 có thể ngó thấy khi họ đi vòng qua công viên để đi lên khu trên, và dường như chắc chắn là Pookie nhận ra điều này.

Wendell L.Willkie là ứng cử viên Đảng Cộng hoà năm đó, và Pookie đã gửi các cô gái lên phố trên để làm tình nguyện viên ở cơ quan đầu não quốc gia của một tổ chức đó có tên gọi là Những câu lạc bộ cộng sự Willkie của người Mỹ. Chị nghĩ rằng điều đó có thể tốt cho Emily, người đang cần làm một việc gì đó; quan trọng hơn, chị nghĩ nó sẽ cho Sarah cơ hội để “gặp mọi người”, theo ngụ ý là cơ hội cho việc tìm được người đàn ông thích hợp.

Sarah đã có cơ hội gặp gỡ mọi người ở Những câu lạc bộ của Willkie; sau một vài tuần cô đưa về nhà một thanh niên tên là Donald Clellon. Cậu ta hơi nhợt nhạt và rất lịch sự, mặc quần áo cầu kỳ đến mức điều đầu tiên bạn có thể nhận thấy ở cậu ta là quần áo: một bộ vét kẻ sọc rất nhỏ, một chiếc áo sơ mi vùng Chesterfield có cổ nhung, và một chiếc mũ quả dưa. Chiếc mũ quả dưa khá kỳ cục – chúng đã lạc mốt trong nhiều năm – nhưng cậu ta vẫn đội nó sành điệu đến như vậy với mong mỏi rằng mốt đó sẽ quay trở lại. Và cậu ta cũng nói chuyện hoàn toàn kiểu cách, kỹ càng như cách ăn mặc vậy: thay vì việc nói “điều gì đó giống như thế”, cậu ta luôn nói “điều gì đó với bản chất như vậy.”

“Chị cảm nhận như thế nào về Donald?” Emily hỏi.

“Anh ấy rất chín chắn và rất chu đáo,” Sarah nói. “Và anh ấy rất… chị cũng không biết nữa. Chỉ đơn giản là chị thích anh ấy.” Cô dừng lại và nhìn xuống giống như một ngôi sao điện ảnh ở cận cảnh. “Chị nghĩ là chị sẽ yêu anh ấy.”

Lúc đầu Pookie cũng thích cậu ta vừa đủ – thật là dễ chịu khi Sarah có một người theo đuổi chu đáo đến thế – và khi chúng chính thức hỏi chị xin đính hôn chị đã hơi khóc nhưng không phản đối.

Chính Walter Grimes, người mà quan niệm rằng đính hôn là thể hiện sự hoàn thành việc lập gia đình, đã có rất nhiều câu hỏi. Donald Clellon thực ra là ai? Nếu cậu ta hai mươi bảy tuổi, như cậu ta nói, thì công việc gì và chuyên môn gì cậu ta đã làm trước khi cậu ta tham gia vào chiến dịch của Willkie? Nếu cậu ta thật sự là người được giáo dục tốt như tính cách cậu ta thể hiện, cậu ta đã học ở trường đại học nào? Đối với vấn đề này nữa, cậu ta từ đâu đến?

“Tại sao anh không hỏi cậu ta, Walter?”

“Anh không muốn tra tấn bọn trẻ trên bàn ăn, trong lúc Sarah ngồi đó; anh nghĩ rằng chắc hẳn em đã có câu trả lời.”

“Ôi.”

“Ý em là em chưa bao giờ hỏi cậu ta bất kỳ một điều điều gì?”

“Thật ra, cậu ta luôn dường như… mà không; em chưa hỏi.”

Thế là bắt đầu những cuộc phỏng vấn căng thẳng, thường là vào tối muộn sau khi Pookie đợi chúng về, với việc Emily lắng nghe phía ngoài cửa của phòng khách.

“… Donald, có một vài điều mà cô thật sự chưa hiểu được. Thật sự là cháu đến từ đâu?”

“Cháu đã nói với cô, thưa cô Grimes. Cháu sinh ra ở đây, ở thành phố Garden nhưng cha mẹ cháu thường hay di chuyển chỗ ở. Cháu lớn lên chủ yếu là ở giữa miền Tây. Ở nhiều địa điểm Giữa miền Tây. Sau khi cha cháu mất, mẹ cháu chuyển về Topeka, Kansas; đó là nơi mẹ cháu hiện đang sống.”

“Và cháu học ở trường đại học nào?”

“Cháu nghĩ rằng cháu cũng đã nói với cô về việc này, khi cháu gặp cô lần đầu. Thực tế là cháu không vào đại học; gia đình cháu không đủ khả năng. Cháu đã may mắn tìm được một công việc ở một hãng luật ở Topeka; rồi sau sự bổ nhiệm của ông Willkie cháu làm việc cho Câu lạc bộ Willkie cho đến khi cháu chuyển về đây.”

“À, thì ra là thế.”

Và dường như để quan tâm được hết chuyện này thì chỉ mất một tối thôi, nhưng họ đã mất thêm một vài tối khác nữa.

“… Donald, nếu cháu chỉ làm việc cho hãng luật trong ba năm, và nếu cháu đến đó làm việc ngay sau khi tốt nghiệp trung học, vậy thì sao cháu lại…”

“À, không phải là ngay sau khi tốt nghiệp trung học ạ, thưa cô Grimes. Lúc đầu cháu có làm một vài công việc. Xây dựng, những công việc lao động nặng, những công việc thuộc bản chất như vậy. Bất kỳ một công việc gì mà cháu có thể làm. Cháu có mẹ hỗ trợ, cô biết đấy.”

“Thì ra là thế.”

Cuối cùng thì, sau khi Willkie không trúng cử và Donald làm một vài công việc không rõ ràng với việc môi giới nhà đất ở khu buôn bán, cậu ta mâu thuẫn với chính bản thân mình đủ để lộ ra là cậu ta không phải hai mươi bảy tuổi; cậu ta hai mươi mốt tuổi. Cậu ta đã tăng tuổi của mình lên lúc nào đó vì cậu luôn cảm thấy mình già hơn so với hiện tại; mọi người ở Câu lạc bộ Willkie thường nghĩ rằng cậu ta “đương nhiên” là “hai mươi bảy tuổi”. Liệu cô Grimes không thể suy xét việc này hay sao? Liệu Sarah không thể hiểu được việc này?

“Thật ra, nhưng Donald,” Pookie nói, trong khi Emily căng ra lắng nghe từng sắc thái của câu chuyện, “nếu cháu không thể nói được với cô sự thật về chuyện đó thì làm sao chúng tôi có thể tin được những điều khác ở cháu?”

“Cháu phải làm gì để cô có thể tin cháu? Thật ra cô biết cháu yêu Sarah; cô biết là cháu có một tương lai tốt với công việc môi giới…”

“Làm sao mà chúng tôi có thể biết được? Không, Donald. Điều này không thể được, không thể được.” Khi giọng nói của họ dừng lại, Emily lén nhìn trộm vào phòng khách. Pookie trông thật căng thẳng, còn Sarah trông như bị tác động thật mạnh; Donald Clellon ngồi một mình, tay ôm đầu. Hơi nhô lên là một cái chỏm vòng quanh đỉnh đầu được chải cẩn thận bằng sáp, đánh dấu chỗ chiếc mũ mà cậu ta đội.

Sarah không đưa cậu ta về nhà nữa, nhưng cô vẫn tiếp tục gặp gỡ và đi chơi với cậu ta vài lần một tuần.

Những nữ anh hùng trong những bộ phim mà cô đã từng xem cho thấy rõ ràng là cô không thể làm theo cách nào khác; tuy nhiên, đối với những người mà cô đã từng giới thiệu đây là vị “hôn phu” của tôi thì sẽ sao đây?

“… Cậu ta là một kẻ nói dối!” Pookie sẽ hét lên. “Cậu ta là một đứa trẻ! Thậm chí chúng ta còn không biết cậu ta là gì nữa!”

“Con không quan tâm,” Sarah hét trở lại. “Con yêu Donald và con sẽ cưới anh ấy!”

Và không có gì khác để Pookie có thể thể hiện ngoài việc đập tay xuống và khóc. Những cuộc tranh luận thường hay kết thúc bằng việc cả hai bọn họ đều suy sụp trong nước mắt ở nhiều nơi khác nhau của căn hộ xưa cũ thanh đạm, mốc meo, trong khi Emily lắng nghe và mút ngón tay.

Nhưng mọi việc đã thay đổi khi năm mới đến: một gia đình chuyển đến ở tầng trên và Pookie nhận thấy thú vị ngay lập tức. Tên họ là Wilson, một đôi vợ chồng trung niên có một cậu con trai đang lớn, và họ là dân tị nạn trong chiến tranh Anh. Họ đã từng trải qua Cuộc oanh tạc Luân-Đôn (Geoffrey Wilson quá kiệm lời khi nói về chuyện đó, nhưng vợ ông ta Edna có thể kể những câu chuyện đáng sợ đến kinh hoàng), họ đã trốn thoát khỏi đát nước chỉ với bộ quần áo trên người và những gì họ có thể mang trong vali. Đó là tất cả những gì Pookie thoạt biết đến họ, nhưng chị đã Cẩn thận nấn ná với những hộp thư với hy vọng phát hiện ra điều gì đó, và không phải đợi quá lâu để chị có thể biết được thêm.

“Gia đình Wilson không hoàn toàn là người Anh,” chị nói với con gái mình. “Con sẽ không bao giờ đoán được qua trọng âm của họ, họ là người Mỹ. Ông ta đến từ New York – ông ta đến từ một gia đình New York cổ xưa – và bà ta là người dòng họ Tate đến từ Boston. Họ đến Anh cách đây đã nhiều năm để làm ăn – ông ta là một đại diện ở Anh cho một công ty của Mỹ – Tony đã được sinh ra ở đó và đi học trường công ở Anh. Đó là cách người Anh gọi những trường nội trú tư nhân, con biết đấy. Mẹ vừa được biết cậu ta đã đi học ở một trường công của Anh vì cách nói thú vị mà cậu ta sử dụng khi cậu ta nói “Tôi nói,” và “Ôi, hỏng hết cả rồi,” và cách nói tương tự như vậy. Dù sao thì họ cũng là những người tuyệt vời. Con đã nói chuyện với họ chưa, Sarah? Thế còn con, Emmy? Mẹ biết là cả hai con đều ưa thích họ. Họ là – mẹ không biết nữa, những người Anh tuyệt vời.”

Sarah lắng nghe một cách đủ chăm chú, nhưng cô không thích thú lắm. Sự căng thẳng của việc đính hôn với Donald Clellon đang bắt đầu có biểu hiện: cô xanh xao, và sút cân. Thông qua những người ở chiến dịch Willkie cô đã tìm được một công việc với đồng lương chiếu lệ ở những văn phòng Sự cứu trợ Trung Quốc Thống nhất; cô được xem như Chủ tịch của ủy ban Con gái mới lớn, một chức danh mà Pookie thích được thông báo, và công việc của cô là giám sát những cô gái nhà giầu tình nguyện thu nhặt niken và quyên tiền trên dọc Đại lộ thứ Năm để giúp dân chúng Trung Quốc trong chiến tranh chống lại Nhật. Công việc không khó khăn nhưng mỗi tối khi về đến nhà là cô mệt lử, thỉnh thoảng còn bị quá mệt mỏi khi phải đi chơi với Donald, cô dành nhiều thời gian trong im lặng nghiền ngẫm mà cả Pookie và Emmy đều không thể làm phiền được.

Và rồi điều đó đã xảy ra. Tony Wilson trẻ trung chạy vội xuống cầu thang vào một buổi sáng, đôi giầy Anh bảnh choẹ chỉ kịp chạm vào mặt bậc cầu thang của mỗi bước méo mó thì cũng vừa lúc Sarah bước ra ngoài hành lang, và họ gần như đâm sầm vào nhau. “Xin lỗi,” cô nói.

“Xin lỗi. Cô là cô Grimes?”

“Vâng. Và anh là…”

“Tony Wilson; tôi sống ở trên gác.”

Cuộc nói chuyện của họ không kéo dài quá ba hay bốn phút trước khi cậu lại xin thứ lỗi để ra khỏi nhà, nhưng nó cũng đủ để cho Sarah mộng du quay trở lại căn hộ, cho phép mình đi làm muộn. Những cô gái mới lớn và dân chúng Trung Quốc có thể đợi được. “Ôi, Emmy,” cô nói, “Em đã gặp anh ta chưa?”

“Thỉnh thoảng em lướt qua anh ta trong hành lang.”

“Thế à, chẳng nhẽ anh ta không để lại ấn tượng gì chăng? Chẳng nhẽ anh ta không phải là người – người đẹp nhất mà em đã từng gặp hay sao…”

Pookie bước vào phòng khách, mắt chị mở to và đôi môi không kiên định của chị sáng bóng với mỡ món thịt xông khói của bữa sáng. “Ai cơ?” Chị hỏi. “Ý con muốn nói Tony? Ôi, mẹ vui quá; mẹ biết là con sẽ thích cậu ta, con yêu.”

Sarah phải ngồi xuống một trong những chiếc ghế cũ rích để thở. “Ôi, Pookie,” cô nói. “Trông anh ấy – trông anh ấy giống như Laurence Olivier.”

Đúng là như vậy, mặc dầu Emily đã không nghĩ thế trước đó. Tony Wilson cao trung bình, vai rộng và lực lưỡng; mái tóc màu nâu gợn sóng của cậu thả một cách vô tư trên trán và quanh tai; miệng cậu đầy đặn và hóm hỉnh, mắt cậu dường như luôn sẵn ánh cười với chuyện cá nhân tế nhị nào đó mà chắc hẳn là cậu sẽ nói với bạn khi bạn biết cậu nhiều hơn. Cậu hai mươi ba tuổi.

Chính một vài ngày sau đó cậu gõ cửa để xin phép liệu cậu có thể được đồng ý đưa Sarah đi ăn tối một buổi tối nào đó, và đó là sự kết thúc cho Donald Clellon.

Tony không có nhiều tiền… “Tôi là một người lao động,” cậu nói, điều đó có nghĩa là cậu làm việc ở nhà máy sản xuất thủy phi cơ ở Long Island và rất giống như một việc quan trọng “tối mật” nào đó – cậu đã làm chủ một chiếc xe ô tô có thể bỏ được mui hiệu Oldsmobile đời 1929 và lái nó với sự tinh nhạy. Cậu sẽ đưa Sarah ra những nơi xa ngoài Long Island hay Connecticut hay New Jersey, nơi họ có thể ăn tối với những gì mà cô luôn mô tả như một nhà hàng “tuyệt vời”, và rồi họ luôn quay trở lại đúng giờ để uống ở một quán bar “tuyệt vời” có tên là Anatole, nơi Tony phát hiện ra ở phía trên bờ Đông.

“Bây giờ thì chàng trai này là một câu chuyện hoàn toàn khác,” Walter Grimes nói trên điện thoại. “Anh thích cậu ta; em không thể không thích cậu ta…”

“Này chị Grimes, dường như bọn trẻ nhà chúng ta đang có quan hệ tốt,” Geoffrey Wilson nói vào một buổi chiều, cùng với vợ đang đứng cạnh. “Có thể bây giờ là thời điểm để chúng ta kết thân hơn.”

Emily thường hay nhìn thấy mẹ cô đùa cợt với đàn ông trước đó, nhưng chưa bao giờ cởi mở theo cách mà mẹ cô đã ứng xử với Geoffrey Wilson, “Ôi, thế thì thật tuyệt!”, chị sẽ khóc lên với những lời nhận xét dí dỏm nhỏ bé, và rồi chị sẽ rơi vào những chuỗi cười tận sâu trong cổ họng, ấn ngón tay giữa một cách đỏm dáng vào môi trên để che đậy thực tế lợi chị bị hở và răng chị trở nên xáu đi.

Và Emily nghĩ người đàn ông này thật là hài hước – không phải hài hước ở những gì ông ta nói, cô cho là như vậy, mà là cách ông ta nói – nhưng cô thấy ngượng bởi sự nhiệt tình của Pookie. Ngoài ra, quá nhiều sự hài hước của Georffrey Wilson phụ thuộc vào việc cách nói kỳ lạ, theo cách đó trọng âm nặng của tiếng Anh dường như pha trộn bằng một chướng ngại vật của câu nói: ông ta nói như thể ông ta đang giữ một quả bóng bi-a trong mồm. Vợ ông Edna có vẻ thú vị hơn, bà đầy đặn và uống nhiều rượu nặng. Emily luôn được có mặt cùng mẹ vào những buổi chiều và buổi tối ngồi cùng với vợ chồng Wilson – cô ngồi im lặng và cắn hạt dẻ rang muối trong khi họ nói chuyện và cười – nhưng cô thích đi chơi cùng với Sarah và Tony hơn, đi trên chiếc xe cổ tráng lệ với tóc bay đầy quyến rũ trong gió, tản bộ cùng với họ dọc trên bãi biển vắng vẻ nào đó rồi quay về Manhattan vào nửa đêm, ngồi trong cái lều đặc biệt ở Anatole trong khi người chơi piano chơi bản nhạc của họ.

“Chị và Tony có bài hát nào không?” Cô hỏi Sarah. “Một bài hát á?” Cô đang sơn móng tay, và cô đang vội vì Tony sẽ gọi cô trong mười lăm phút nữa. “Thật ra, Tony thích “Bewitched, Bothered and Bewilderd,” còn chị lại thích “All the Things You are”.

“Ôi,” Emily nói, và cô đang có sở thích âm nhạc đồng hành với chị. “Thật ra, chúng đều là những bài hát hay.”

“Và em có biết bọn chị làm gì không?”

“Làm gì cơ?”

“Thật ra, khi bọn chị uống ly đầu tiên bọn chị đã móc tay vào nhau như thế này – ở đây, chị sẽ chỉ cho em. Cẩn thận với móng tay của chị.” Và cô ngoắc cổ tay qua khuỷu tay của Emily, đưa một ly rượu tưởng tượng đến gần môi. “Như thế này này. Chẳng phải là thú vị hay sao?”

Chắc chắn là như thế rồi. Mọi thứ về sự lãng mạn của Sarah với Tony dường như quá đẹp để có thể chịu đựng được.

“Sarah?”

“Mm?”

“Liệu chị có đi đến tận cùng nếu anh ấy yêu cầu chị?”

“Ý em là trước khi cưới á? Ôi, Emily, đừng có ngốc nghếch như thế.”

Vì thế không hẳn hoàn toàn lãng mạn giống như một vài chuyện tình mà cô đã được đọc, nhưng dù thế đi nữa thì điều đó cũng thật là thú vị. Tối hôm đó Emily ngâm mình trong bồn tắm một lúc thật lâu, khi cô bước ra và lau khô người, với nước tắm được tháo ra dần dần, cô đứng ở tư thế khoả thân trước gương. Vì ngực cô gầy gò nên cô tập trung vào vẻ đẹp của vai và cổ. Cô trề môi và hé môi, cách mà con gái trong phim hay làm khi họ chuẩn bị hôn.

“Ôi, em thật đáng yêu,” một thanh niên trong tưởng tượng nói giọng Anh, chỉ vừa mới ra khỏi ống quay. “Anh muốn nói điều này hàng ngày, hàng tuần, và nay anh phải: đó chính là em người anh yêu, Emily.”

“Em cũng yêu anh, Tony,” cô thì thầm, và đầu ti cô bắt đầu cứng dần và dâng lên đầy tự nguyện. Đâu đó trong hậu cảnh vang lên tiếng nhạc nho nhỏ bài “All the thing You are.”

“Anh muốn ôm em. Ôi, hãy để anh ôm em và anh sẽ không bao giờ để em đi.”

“Ôi,” cô thì thầm. “Ôi, Tony.”

“Anh cần em, Emily. Liệu em… liệu em có đi đến cùng với anh không?”

“Vâng, có, Tony, em sẽ. Em sẽ…”

“Emmy?” Mẹ cô đang gọi ngoài phía cánh cửa. “Con đã ở trong nhà tắm một giờ đồng hồ rồi đấy. Con đang làm gì trong đó đấy?”

Vào Lễ Phục sinh những người chủ của Sarah cho cô mượn một chiếc váy đắt tiền bằng lụa dày, nó được coi là mốt quần áo dành cho những quý bà Trung Quốc trước chiến tranh, và một chiếc mũ có vành rộng dệt bằng rơm. Nhiệm vụ của cô là hoà lẫn vào đám đông ở phía trên của Đại lộ thứ Năm và để một nhiếp ảnh gia chụp từ văn phòng quan hệ cộng đồng. “Ôi, trông con ấn tượng quá,” Pookie nói vào buổi sáng Phục sinh. “Mẹ chưa bao giờ nhìn thấy con đáng yêu đến thế.”

Nhưng Sarah chỉ cau mày, và điều này làm cho cô đáng yêu hơn. “Con không quan tâm đến việc đi diễu hành trong ngày lễ Phục sinh,” cô nói. “Tony và con đang đặt kế hoạch đi đến Amagansett hôm nay.”

“Thế à, thế thì đi đi,” Pookie nói. “Sẽ chỉ mất khoảng một hay hai giờ gì đó; Tony sẽ không khó khăn gì đâu.”

Rồi Tony đến, cậu nói “Ôi, phải nói là… Thật là quá tuyệt.” Và sau khi nhìn Sarah một lúc cậu nói tiếp “Nhìn này, anh có một ý. Em có thể đợi năm phút được không?”

Họ nghe thấy tiếng cậu chạy lên gác, giống như muốn làm rung chuyển cả ngôi nhà cũ kĩ, và khi cậu quay trở lại cậu mặc một chiếc áo đuôi tôm của người Anh, phối với chiếc cà vạt lớn bay dập dờn, chiếc áo gi-lê màu xám giống màu lông chim bồ câu và cái quần kẻ sọc.

“Ôi, Tony,” Sarah nói.

“Nó cần phải được là có nếp,” cậu nói và quay vòng để mọi người chiêm ngưỡng và nhằm vào chiếc gấu lơ-vê, “và thật sự nên có một chiếc mũ chóp cao màu xám, nhưng anh nghĩ sẽ ổn thôi. Em đã xong chưa?” Emily và Pookie nhìn từ cửa sổ khi cửa xe ô tô mờ ra và lăn bánh trên đường đi về phía khu phố trên – Tony hơi quay lại từ chỗ quay xe và mỉm cười với họ, Sarah đang ôm lấy chiếc mũ bằng một tay và tay kia thì vẫy mọi người – rồi họ đi khuất.

Nhà nhiếp ảnh quan hệ cộng đồng thực hiện công việc của mình rất tốt, và người biên tập của bộ phận quay phim của tờ Thời báo New York cũng làm tốt công việc của mình. Bức ảnh được đăng tin ở bản tin Chủ nhật tuần sau đó trong một trang với những bức ảnh khác ít gây ấn tượng hơn. ống quay đã chụp được lúc Sarah và Tony cười với nhau rất lãng mạn trong nắng tháng Tư, với những hàng cây và một góc cao của khách sạn Plaza vừa vặn trong tầm nhìn của họ.

“Con có thể lấy tám cho đến mười tờ tạp chí ở văn phòng,” Sarah nói.

“Tốt rồi,” Pookie nói. “Lấy càng nhiều càng tốt. Và lấy thêm nữa nhé. Emmy! Lấy cho mẹ ít tiền ở trong ví. Chạy xuống quầy báo và mua bốn tờ nữa nhé. À mà là sáu tờ.”

“Con không thể mang được nhiều đến như thế.”

“Có chứ, con có thể mà.”

Và dù cho cô có cảm thấy khó chịu hay không khi cô rời khỏi nhà, Emily biết là có càng nhiều báo càng tốt quan trọng đến mức nào. Đó là một bức ảnh có thể được đóng khung và treo trên tường và có giá trị mãi mãi.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.