Lâu Đài Bay Của Pháp Sư Howl

Chương 9: Michael mắc kẹt vì một lá bùa



Chính ông thuyền trưởng tàu biển đã đứng ngoài cửa, cuối cùng ông ta cũng đến để lấy bùa gió, và chẳng hề hài lòng chút nào vì phải đợi chờ.

– Chú nhóc, nếu ta bị lỡ thủy triều, ta sẽ mách tội chú với Pháp sư đấy. Ta không thích những thằng bé lười nhác đâu.

Michael, theo Sophie nghĩ, đã quá lịch sự với ông ta, nhưng cô quá buồn nản nên chẳng buồn bận tâm can thiệp. Khi ông thuyền trường đi khỏi, Michael đi tới bàn để ngồi lại nhíu mày xem xét lá bùa của mình còn Sophie thì im lặng ngồi mạng tất. Cô chỉ có mỗi một đôi tất và đôi bàn chân xương xẩu của cô cọ vào đôi tất khiến nó bị lỗ chỗ nhiều vết thủng lớn. Đến lúc này, chiếc áo dài xám của cô đã sờn và bẩn thỉu. Cô tự hỏi liệu cô có dám cắt những mảnh ít dính bẩn từ bộ cánh xanh bạc bị hỏng của Howl để may cho mình một cái áo dài mới không. Nhưng cô hoàn toàn không dám.

– Sophie – Michael nói, ngước lên khỏi trang ghi chép thứ mười một – bà có mấy cô cháu gái?

Sophie vẫn sợ Michael sẽ bắt đầu chất vấn cô.

– Chàng trai của ta – cô nói. – Bao giờ cháu bằng tuổi ta thì cháu sẽ lẫn thôi. Trông chúng nó đứa nào cũng giống nhau cả. Theo ta nhớ thì hai con Lettie đó có thể là sinh đôi.

– Ồ, không đâu, thật đấy – Michael nói, trước sự ngạc nhiên của Sophie. – Cái cô ở Folding Thượng không xinh bằng Lettie của cháu. – Cậu ta xé trang ghi chép thứ mười một và bắt đầu trang thứ mười hai. – Cháu rất mừng là Howl đã không gặp Lettie của cháu. – Lúc bà Fairfax nói bà ấy biết Howl là ai, cháu chỉ muốn phá lên cười, bà có buồn cười không?

– Không – Sophie nói – điều đó chẳng làm cho tình cảm của Lettie thay đổi. Cô nghĩ đến gương mặt rạng rỡ, tôn thờ của Lettie dưới bụi tóa nở hoa. – Ta nghĩ chẳng có cơ may nào khiến lần này Howl yêu thật lòng – cô nói một cách vô vọng.

Calcifer xì một tia lửa xanh lên ống khói.

– Cháu rất tiếc là bà bắt đầu nghĩ thế – Michael nói. – Nhưng bà đang tự lừa mình đấy, giống như bà Fairfax vậy.

– Sao cậu biết? – Sophie hỏi.

Calcifer và Michael nhìn nhau.

– Sáng nay, ông ấy có quên không ở trong buồng tắm ít nhất một tiếng đồng hồ không? – Michael hỏi.

– Ông ta ở trong đó hai tiếng – Calcifer nói – để yểm bùa mặt. Ngố tệ!

– Vậy thì, đấy! – Michael nói. – Cháu sẽ chỉ tin Howl đang yêu thực sự vào cái ngày Howl quên không làm việc đó, trước đó thì không.

Sophie nghĩ đến cảnh Howl quỳ một gối trong vườn quả, cố lấy tư thế sao cho thật điển trai, và cô biết hai người kia nói đúng. Cô nghĩ đến chuyện vào buồng tắm và quẳng đống bùa làm dáng của Howl vào toa lét. Nhưng cô không dám. Cô đành tập tễnh đi vào lấy bộ cánh màu xanh bạc, rồi cặm cụi cắt những mảnh tam giác nhỏ màu xanh lơ để may một cái áo dài bằng vải chắp.

Michael ân cần vỗ vỗ vai cô trong lúc cậu đi tới quẳng cả mười bảy trang ghi chép vào chỗ Calcifer.

– Cuối cùng ai cũng sẽ vượt qua được thôi, bà biết đấy. – cậu nói.

Đến lúc này thì đã rõ, Michael đang gặp rắc rối với lá bùa của mình. Cậu bỏ các ghi chép và cạo một ít bồ hóng trong ống khói. Calcifer nghển cổ nhìn cậu ta vẻ khó hiểu. Michael lấy ra một bộ rễ khô quắt từ một trong những cái túi treo trên xà nhà và bỏ nó vào chỗ bồ hóng. Rồi, sau hồi lâu suy nghĩ, cậu ta xoay cho màu xanh lơ quay xuống và biến mất trong khoảng hai mươi phút đến Porthaven. Cậu ta trở về đem theo một cái vỏ ốc biển to và xoắn, bỏ nó vào chỗ bồ hóng và rễ cây. Sau đó cậu ta xé giấy, hết trang này đến trang khác và cũng bỏ cả vào đó. Cậu đặt tất cả những thứ này trước chiếc đầu lâu rồi đứng thổi cho bồ hóng và những mẩu giấy nhỏ bay vương khắp bàn.

– Cô nghĩ cậu ta làm gì vậy? – Calcifer hỏi Sophie.

Michael ngừng thổi và bắt đầu lấy chày cối giã nát mọi thứ, giấy và những thứ khác, thỉnh thoảng lại nhìn cái đầu lâu vẻ chờ đợi. Khi thấy không có gì xảy ra, cậu đành thử lại với các thành phần khác lấy từ các gói và lọ.

– Cháu cảm thấy không hay về chuyện theo dõi Howl – cậu ta tuyên bố trong khi nghiền nát nhóm hỗn hợp thứ ba trong một cái bát. – Có thể ông ấy hay thay lòng đổi dạ đối với phụ nữ, nhưng với cháu thì ông ấy tốt vô cùng. Ông ấy nhận cháu khi cháu còn là một đứa trẻ mồ côi chẳng ai cần đến ngồi trên bậu cửa nhà ông ấy ở Porthaven.

– Chuyện như thế nào? – Sophie hỏi trong khi cắt một mẩu tam giác màu xanh lơ khác.

– Mẹ cháu mất và cha cháu chết đuối trong một cơn bão – Michael kể – Và khi chuyện đó xảy ra, chẳng ai cần đến cháu nữa cả. Cháu phải ra đường vì không thể trả nổi tiền thuê nhà, và cháu đã thử sống ngoài đường phố nhưng người ta xua đuổi cháu khỏi bậu cửa hay những con thuyền, cho đến khi nơi duy nhất cháu nghĩ được để đến là một nơi nào đó mà mọi người khiếp sợ không dám đến gần. Lúc đó, Howl mới hơi nổi lên dưới cái tên Phù thủy Jenkins. Nhưng người ta đồn nhà ông ta có quỷ dữ, vì thế cháu ngủ ở ngưỡng cửa nhà ông ấy hai đêm,cho đến một buổi sáng Howl mở cửa để đi mua bánh mì và cháu ngã vào trong nhà. Thấy vậy, ông ấy bảo cháu có thể chờ bên trong khi ông ấy đi kiếm đồ ăn. Cháu vào nhà, Calcifer đang ở đó, và cháu bắt chuyện với lão vì trước đó cháu chưa bao giờ gặp một con quỷ nào.

– Hai người nói chuyện gì? – Sophie hỏi, thắc mặc liệu Calcifer có đề nghị Michael phá vỡ giao kèo hộ lão không.

– Nó kể cho tôi nghe những nỗi khổ của nó và nó khóc lóc với tôi, đúng không? – Calcifer nói. – Có vẻ như nó chẳng hề nghĩ là tôi cũng có những nỗi khổ riêng.

– Cháu không nghĩ là ông cũng có nỗi khổ. Ông chỉ hay làu bàu thôi. – Michael nói. – Sáng hôm ấy, ông rất tốt đối với cháu, và cháu nghĩ Howl đã rất ngạc nhiên. Nhưng bà biết ông ấy thế nào rồi đấy. Ông ấy không bảo cháu có thể ở lại. Ông ấy chỉ không đuổi cháu đi thôi. Vì thế cháu bắt đầu tỏ ra có ích bất cứ lúc nào có thể, chẳng hạn như trông nom chuyện tiền bạc để ông ấy không tiêu hết ngay khi vừa kiếm được, và đại loại thế.

Lá bùa kêu phụt một tiếng và nổ nhẹ. Michael phủi bồ hóng khỏi cái đầu lâu, thở dài, rồi thử lại với những thành phần mới. Sophie bắt đầu chắp những mẩu tam giác màu xanh lơ dưới sàn, quanh chân cô.

– Cháu đã phạm rất nhiều sai lầm ngớ ngẩn hồi mới bắt đầu – Michael nói tiếp. – Howl đã rất tử tế với cháu về chuyện đó. Cháu nghĩ bây giờ cháu đã vượt qua. Và cháu nghĩ cháu cũng có thể giúp được về chuyện quản lí tiền bạc. Howl mua những bộ quần áo rất đắt tiền. Ông ấy bảo không ai muốn thuê một pháp sư trông có vẻ không kiếm ra tiền bằng nghề nghiệp đó.

– Cái đó chỉ là vì anh ta thích quần áo thôi – Calcifer nói. Đôi mắt màu cam của lão nhìn Sophie đang may vá đầy ngụ ý.

– Bộ đồ này hỏng rồi – Sophie nói.

– Đó không chỉ là chuyện quần quần áo áo – Michael nói. – Ông có nhớ mùa đông năm ngoái khi chúng ta đốt đến khúc củi cuối cùng và rồi, Howl ra ngoài và mua về cái đầu lâu cùng cây ghi ta nghớ ngẩn đó không? Cháu đã thực sự bực mình vì ông ấy. Ông ấy bảo là mấy thứ đó trông tốt.

– Các cậu làm gì với mấy khúc củi? – Sophie hỏi.

– Howl hóa phép lấy một ít từ nhà một kẻ còn nợ ông ấy tiền – Michael nói. – Ít ra thì đó là ông ấy nói vậy, và cháu chỉ mong ông ấy nói thật. Và chúng cháu ăn tảo biển. Howl bảo thứ đó tốt cho sức khỏe.

– Ngon lắm – Calcifer lẩm bẩm. – Khô và giòn.

– Cháu ghét món đó – Michael nói và nhìn chằm chằm vào cái bát đựng những thứ đã được nghiền một cách khó hiểu. – Cháu không rõ lắm, cần phải có bảy thành phần, trừ phi đó là bảy quy trình, nhưng dù sao cũng thử đặt nó trong một biểu tượng xem sao.

Cậu ta đặt cái bát xuống sàn và dùng phấn vẽ một ngôi sao năm cánh xung quanh.

Thứ bột nổ tung với một lực thổi bay cả những hình tam giác của Sophie xuống trước lò sưởi. Michael chửi thề và vội vã xóa vết phấn đi.

– Sophie – cậu ta nói – cháu bị kẹt trong lá bùa này rồi. Bà không nghĩ bà giúp được cháu à, phải không?

Chẳng khác gì một đứa trẻ đem bài tập về nhà nhờ bà, Sophie nghĩ trong khi nhặt những mẩu tam giác và kiên nhẫn trải lại chúng ra.

– Để ta xem thử – cô cảnh giác nói. – Cậu biết đấy, ta chẳng biết tí gì về pháp thuật cả.

Michael hăm hở ấn một tờ giấy lạ lùng, hơi bóng vào tay cô. Trông tờ giấy không được bình thường, ngay cả với một lá bùa. Nó được in bằng chữ in đậm, nhưng hơi nhòe và xam xám, và quanh các mép giấy có rất nhiều vết nhòe xam xám, trông giống như mây giông đang tan.

– Thử xem bà nghĩ gì – Michael nói.

Sophie đọc:

“Hãy đi bắt một ngôi sao băng,

Tìm đứa rẻ có rễ cây mandrake,

Hãy nói cho ta: đâu rồi những tháng năm quá khứ,

Ai là kẻ chẻ bàn chân Ác Quỷ.

Hãy dạy ta nghe giọng ca của nàng tiên cá,

Hay làm sai tránh cơn ghen rấm rứt,

Và hãy tìm

Một phương gió

Cho một trí tuệ chân thành.

Hãy đoán xem đoạn này viết về cái gì.

Và tự mình viết đoạn hai.”

Câu đố khiến Sophie vô cùng bối rối. Nó không giống như bất cứ lá bùa nào cô từng xem trộm được trước nay. Cô nghiền ngẫm hai lần, và thật sự những lời giải thích hăng hái của Michael cũng chẳng giúp được gì trong khi cô cố đọc:

– Bà biết là Howl đã nói với cháu rằng mọi lá bùa cao cấp đều chứa câu đố trong đó chứ? Vâng, thoạt đầu cháu nghĩ là mỗi dòng đều có nghĩa là một câu đố. Cháu dùng bồ hóng với các tia lửa trong đó để thay cho ngôi sao băng, và vỏ ốc thay cho tiếng hát của nàng tiên cá. Và cháu nghĩ cháu có thể tính là một đứa trẻ, vì thế cháu lấy một cái rễ cây mandrake xuống, rồi cháu lập một danh sách liệt kê tất cả những năm quá khứ nhờ những cuốn niên giám, nhưng cháu không chắc lắm về chuyện đó – có thể cháu bắt đầu sai từ đó chăng – và liệu một cái lá chút chít có thể tránh cơn ghen rấm rứt được không? Trước đây cháu không nghĩ đến chuyện đó – dù sao đi nữa, chẳng cái nào có tác dụng cả.

– Ta không hề ngạc nhiên – Sophie nói. – Ta thấy như đó là một tổ họp gồm những thứ bất khả thi.

Nhưng Michael không tán thành. Nếu những thứ đó là không thể, cậu ta phản biện một cách hợp lí, thì sẽ chẳng bao giờ có ai làm nổi lá bùa này cả.

– Với lại – cậu ta nói thêm – cháu rất xấu hổ vì đã theo dõi Howl nên cháu muốn sửa chữa việc đó bằng việc làm đúng lá bùa này.

– Tốt lắm – Sophie nói. – Vậy thì bắt đầu với câu ‘Hãy đoán xem đoạn này viết về cái gì’. Cần phải khởi động cho mọi thứ bắt đầu, nếu việc quyết định dù sao cũng là một phần của lá bùa.

Nhưng Michael cũng không nghe.

– Không – cậu nói. – Loại bùa này sẽ tự bộc lộ khi bà làm nó. Đó là ý nghĩa của dòng cuối cùng. Khi bà viết đoạn thứ hai, nói rằng lá bùa đó nghĩa là gì thì sẽ khiến lá bùa có tác dụng. Những thứ như vậy rất cao cấp. Chúng ta phải phá được mảng đầu tiên trước đã.

Sophie thu lại những mẩu tam giác màu xanh thành đống:

– Hỏi Calcifer xem – cô nói. Calcifer, ai …?

Nhưng đây lại là một việc nữa Michael ngăn không để cô làm:

– Không, yên nào. Cháu nghĩ Calcifer là một phần của lá bùa. Nhìn cách họ nói mà xem ‘Nói cho ta’ và ‘Dạy cho ta’. Thoạt tiên cháu nghĩ đó là dạy cái đầu lâu, nhưng không đúng, vậy thì đó nhất định phải là Calcifer.

– Cậu có thể tự mình làm lấy, nếu cứ nhất định ngồi xổm lên bất cứ điều gì ta nói như thế!- Sophie nói. -Dẫu sao đi nữa, nhất định Calcifer biết rõ ai là kẻ đã chẻ chân lão ra chứ.

Nghe thấy thế, Calcifer hơi lóe lên một chút.

-Ta chẳng có bàn chân nào cả. Ta là quỷ, chứ không phải ác quỷ. – Vừa nói thế, lão vừa rụt xuống dưới mấy khúc củi, chỉ còn nghe tiếng lão xủng xẻng gì đó phía dưới và lẩm bẩm ‘Toàn chuyện vớ vẩn!’ suốt trong lúc Michael và Sophie thảo luận với nhau về lá bùa. Đến lúc này câu đố cũng đã choán hết đầu óc Sophie. Cô gói những mẩu tam giác màu xanh lơ lại, lấy giấy bút ra và bắt đầu ghi chép cũng nhiều như Michael lúc nãy. Cho đến hết ngày, cô và Michael ngồi đó mắt nhìn xa xôi, nhấm bút và thốt ra với nhau những giả thiết.

Một trang ghi chép trung bình của Sophie viết:

Liệu tôi có thể xua được sự ghen tuông đi không? Mình có thể cắt được một ngôi sao bằng giấy và thả nó xuống. Liệu chúng ta có thể nói điều đó với Howl được không? Howl sẽ thích các nàng tiên cá hơn Calcifer. Chớ có nghĩ rằng Howl có trí tuệ chân thành. Liệu trí tuệ Calcifer có chân thành không? Dẫu sao đi nữa thì những năm quá khứ ở đâu? Liệu có phải nghĩa là một trong những cái rễ khô ấy phải có quả không? Trồng nó xuống à? Cạnh cái lá chút chít? Trong một cái vỏ ốc? Móng chẻ, hầu hết các thứ trừ ngựa. Móng ngựa với một nhánh tỏi? Phương gió? Mùi? Hướng của đôi ủng bảy lý? Howl là ác quỷ? Ngón chân chẻ trong đôi ủng bảy lý? Tiên cá trong ủng?

Michael hỏi với vẻ tuyệt vọng khi Sophie viết những dòng này.

– Liệu ‘phương gió’ có thể là một loại bánh xe gì đó không? Một người trung thực bị treo cổ? Dù vậy, cái đó là pháp thuật đen.

– Chúng ta ăn tối nào – Sophie nói.

Họ ăn bánh mì và pho – mát, mắt vẫn nhìn ra xa xăm. Cuối cùng, Sophie đề nghị:

– Michael, vì Chúa, đừng đoán nữa và thử làm theo những gì nó nói xem. Đâu là nơi tốt nhất để có thể bắt được một ngôi sao băng? Ngoài đồi à?

– Đầm lây Porthaven bằng phẳng hơn – Micahel nói. – Liệu chúng ta có thể? Sao băng rơi nhanh khủng khiếp.

– Vậy thì chúng ta có thể bắt được, bằng đôi ủng bảy lý – Sophie nói.

Michael bật dậy, vẻ nhẹ nhõm và vui mừng:

– Cháu nghĩ bà hiểu đúng đấy! – cậu nói và quờ đôi ủng. – Chúng ta cứ đi và thử xem sao.

Lần này, Sophie thận trọng mang theo gậy và khăn san, vì lúc này trời đã rất tối. Michael đang xoay cái núm màu xanh lơ quay xuống dưới thì có hai chuyện lạ xảy ra. Cái đầu lâu trên bàn bắt đầu lách cách hai hàm răng. Và Calcifer cháy rực lên tận ống khói.

– Tôi không muốn hai người đi đâu! – lão nói.

– Cháu và bà ấy sẽ về ngay thôi – Michael hòa nhã nói.

Họ đi ra con phố ở Porthaven. Đó là một đêm trời sáng, êm dịu. Tuy nhiên, ngay khi họ vừa đến cuối phố, Michael chợt nhớ sáng hôm đó Sophie hơi mệt và bắt đầu lo lắng về ảnh hưởng của không khí ban đêm đến sức khỏe của cô. Sophie bảo cậu ta chớ có ngớ ngẩn. Cô liều lĩnh chống gậy tập tễnh đi cho đến khi những khuôn cửa sổ sáng đèn bị bỏ lại phía sau và màn đêm trở nên thênh thang, ẩm ướt và lạnh giá. Đầm lầy bốc hơi muối và đất. Biển lấp lánh và khe khẽ rì rào phía sau lưng. Sophie cảm thấy rõ – hơn là nhìn thấy – hàng dặm hàng dặm bình nguyên trải dài trước mặt họ. Cái cô có thể nhìn thấy là những dải sương thấp lững lờ và vũng nước lấp lánh mờ mờ trong đầm lầy, lặp đi lặp lại cho đến khi tạo thành một dải nhợt nhạt chập vào với bầu trời. Bầu trời ở đâu cũng vậy, bao giờ cũng thật bao la. Dải Ngân hà trông như một dải sương dâng lên từ đầm lầy, và những ngôi sao sáng lấp lánh.

Michael và Sophie đứng, mỗi người một chiếc ủng sẵn sàng trước mặt, đợi chờ một trong những vì sao rơi.

Sau khoảng một giờ, Sophie bắt đầu phải giả vờ không run vì sợ Michael lo lắng.

Nửa giờ sau, Micahel nói:

– Có lẽ tháng Năm không phải là thời điểm thích hợp trong năm. Tháng Tám hoặc tháng Mười một là tốt nhất.

Nửa giờ sau nữa, cậu ta hỏi, vẻ lo lắng:

– Chúng ta làm gì với cái rễ cây madrake bây giờ?

– Cứ lo cho phần này đã, trước khi lo đến cái đó – Sophie vừa nói vừa cắn chặt răng vì sợ chúng đánh lập cập.

Một lúc sau, Michael nói:

– Sophie, bà về đi. Rốt cuộc thì đây là bùa của cháu kia mà.

Sophie há miệng định nói rằng đó là một ý kiến rất hay thì một trong những vì sao rời khỏi bầu trời và lao vụt xuống thành một vệt trắng.

– Một ngôi sao băng kìa! – thay vì thế Sophie ré lên.

Michael thọc chân vào chiếc ủng của mình và vút đi. Sophie tì người lên cái gậy và một giây sau cũng bay vút theo. Roạt!Soạt! Họ đáp xuống, tít xa dưới đầm lầy phủ sương mù và những vũng nước lấp lánh mờ mờ ở mọi hướng. Sophie chọc gậy xuống đất và cố đứng vững.

Chiếc ủng của Michael là một vết đen đứng ngay bên cạnh cô. Còn bản thân Michael thì chỉ còn là âm thanh ì oạp của một đôi chân đang chạy như điên đâu đó phía trước.

Và ngôi sao băng kia rồi. Sophie thấy nó rất rõ, một đốm nhỏ màu trắng hình ngọn lửa đang hạ xuống cách cái bóng đên đen đang chuyển động là Micael vài yard. Lúc này đốm sáng đó đang rơi chậm lại, và có vẻ như Michael sẽ có thể bắt được nó.

Sophie lôi giày khỏi chiếc ủng .

– Đi nào, gậy ơi! – cô reo lên. – Đưa ta đến đấy! – Và cô bắt đầu tập tễnh bước với tốc độ nhanh nhất, nhảy qua những bụi cỏ và loạng choạng qua các vũng nước, mắt nhìn về phía đốm sáng trắng nhỏ bé đó.

Tới lúc cô bắt kịp thì Michael đang đuổi theo ngôi sao từng bước nhẹ nhàng, hai tay dang ra để bắt nó. Sophie nhìn rõ dáng cậu qua ánh sáng của ngôi sao. Ngôi sao bập bềnh ngang tầm tay Michael và chỉ cách khoảng một bước. Nó lo lắng nhìn lại Michael. Kỳ quặc thật! – Sophie nghĩ. Ngôi sao làm bằng ánh sáng, nó chiếu sáng cả một vòng cỏ sậy và những vũng nước đen quanh Michael, vậy mà nó lại có đôi mắt to, lo âu nhìn Michael chòng chọc, và một khuôn mặt nhỏ, nhọn.

Sophie tới gần làm nó sợ. Nó chao một vòng chập choạng và hét lên bằng giọng run run, the thé:

– Cái gì thế? Các người muốn gì?

Sophie cố nói với Michael, Dừng lại – nó sợ đấy! Nhưng cô chẳng còn chút hơi nào mà nói nổi nữa.

– Ta chỉ muốn bắt cô thôi, – Michael giải thích – Ta sẽ không làm cô đau đâu.

– Không! Không! – ngôi sao run run tuyệt vọng. – Như thế là sai! – Tôi phải chết!

– Nhưng ta có thể cứu cô nếu cô để ta bắt – Michael dịu dàng nói với nó.

– Không! – ngôi sao kêu lên. – Tôi thà chết còn hơn! -Nó vụt lao khỏi những ngón tay của Michael. Michael nhào theo nó, nhưng nó quá nhanh. Nó chao xuống vũng đầm gần nhất, và trong giây lát nước đen tóe lên trong một vòng sáng trắng. Tiếng xèo xèo nhỏ dần và tắt lim. Khi Sophie tập tễnh đi tới thì Michael đang đứng nhìn những tia sáng cuối cùng tan biến dần trên những cụm tròn nhỏ dưới mặt nước tối tăm.

– Như vậy buồn quá – Sophie nói.

Michael thở dài:

– Vâng. Tim cháu như ngừng đập theo nó vậy. Chúng ta về thôi. Cháu chán ốm lá bùa này rồi.

Phải hai mươi phút sau họ mới tìm được đôi ủng. Sophie nghĩ họ tìm được chúng cũng đã là cả một phép màu rồi.

– Bà biết đấy – Michael nói, khi hai người chán nản lê bước qua những con phố tối tăm của Porthaven – cháu có thể nói là cháu sẽ không bao giờ làm được lá bùa này. Nó quá cao cấp đối với cháu. Cháu sẽ phải hỏi Howl. Cháu rất ghét phải chịu thua, nhưng ít nhất bây giờ cháu cũng sẽ hiểu được một chút về Howl khi cái cô Lettie Hatter này đã chịu thua ông ấy.

Điều này chẳng hề làm Sophie vui lên tí nào.

—œ¯—


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.