Người ấy vận bào lục đã bạc màu, giắt hai vạt lên đai lưng cho khỏi vướng, quần đen chịt ống, chân dận hài thêu, lưng đeo học hành lý, và thanh trường kiếm giải đỏ tươi như máu. Tóc búi ngược nét
mặt tuy còn trẻ, nhưng bộ râu ba chùm đen lánh dài quá ngực, khiến người khách bộ hành ấy già thêm đến mười tuổi nữa. Khuôn mặt dài, xương
xương, mũi cao và thẳng, mi thanh mục tú long lanh tựa sao băng. Thoạt
nhìn ai cũng biết khách bộ hành đó từ phương xa tới dù chẳng có bọc hành lý trên lưng.
Trong Tam Môn cốc chỉ có hai trang trại nuôi gia súc, trừ những
người lui tới giao dịch buôn bán quen thuộc với hai Trại chủ, ngoài ra
không có một ai xa lạ qua lại khu vực này cả. Bởi vậy, khi mới thấy
người thọt chân bước thấp bước cao, trên đường khô khan đầy sỏi đá, hai
cha con họ Địch và Lâm Diêm Bá lấy làm lạ lùng, không ai bảo ai mà cũng
nhìn nhau thăm dò ý kiến.
Họ chắc chắn cũng không phải khách của bên Hàn gia trại nữa, vì
không có ai lại dại đi bộ vào Tam Môn cốc, để điều đình mua hay bán gia
súc với họ Hàn, Địch. Những người ấy không đi ngựa thì dùng xe.
Đang tập tễnh chống gậy đi giữa đường, chợt nghe thấy tiếng vó
ngựa ở phía sau, người thọt chân vội tránh bên ven đường, ngừng bước
chống gậy chăm chú nhìn.
Đoàn người ngựa cũng nhìn lại nhận xét. Chờ ngựa đi qua hắn ít bước, Địch Lân mời dừng ngựa hỏi :
– Tiên sinh từ phương xa tới, tìm kiếm ai trong khu này?
Người kia đưa mắt nhìn Địch Lân qua Lâm Diêm Bá rồi tới Phượng Tiên và Tú Kiều, như kẻ không nghe thấy câu hỏi của họ Địch.
Địch Lân cũng mặc xem người đó định làm gì.
Giây lâu, nhìn hầu như đã chán mắt, người lạ mới cất giọng ấm áp :
– Dạ, tôi từ Bắc Hà tới. Phải chăng người là Trại Mạnh Thường.
Nói đoạn người ấy lại đăm đăm nhìn họ Địch không chớp mắt.
Địch Lân cười ha hả :
– Lão phu biết ngay là khách lạ lầm đường mà!… Không, tôi
không phải Trại Mạnh Thường, nhưng có quen với người ấy. Tiên sinh cần
điều chi, tôi xin giúp.
Người thọt chân bèn khoanh tay vái chào bộ tịch rất đường hoàng :
– Đa tạ lão tiên sinh có lòng giúp, tôi chỉ cần biết đường vào Âu Dương trang thôi.
Địch Lân xuống ngựa đáp lễ :
– Đây là con đường khi chính Đông vào Tam Môn cốc có bản trại,
và một trại nữa nuôi gia súc. Còn đường vào khu đại trang của Trại Mạnh
Thường thì ở lối Đông Bắc. Giờ đây hãy còn sớm, đường không xa mấy,
chúng tôi sẵn ngựa xe nếu tiên sinh không nề hà, tôi sẽ chờ người tới
tận nơi.
Người thọt chân tươi nét mặt :
– Như vậy phiền lão tiên sinh đi lại mất cả ngày giờ?
– Không, chỉ xa hơn chút đỉnh thôi. Lối đó đi vòng cũng tới bổn trại. Tiên sinh muốn dùng ngựa hay ngồi xe.
Nhìn qua hai thiếu nữ trên xe, người ấy đáp :
– Lão tiên sinh cho tôi ngồi ngựa được không.
– Tiên sinh tự cầm cương lấy!
– Dạ, thế cũng được.
– Nào, xin mời.
Người đó tấp tểnh đi đến bên con ngựa.
Địch Lân nhận thấy y bị thọt nhiều bèn đổi ý :
– Hay là mời tiên sinh lên xe, tôi cầm cương. Hai tiện nữ đây cũng biết kỵ mã.
Nghe vậy, Phượng Tiên và Tú Kiều cùng xuống xe nhường chỗ.
Địch Lân toan đỡ người lạ lên xe, nhưng y đã nói :
– Khỏi phiền lão tiên sinh, tôi lên được.
Nói đoạn, y chống tay vào thành xe nhảy một chân lên xe khá lẹ làng rồi dựng cây gậy sang một bên.
Địch Lân chờ Phượng Tiên và Tú Kiều lên ngồi chung ngựa của
mình, rồi mới lên xe cầm roi quất bốp một tiếng, thúc ngựa quay trở ra
đầu đường, rẽ lên hướng Đông bắc.
Chị em Phượng Tiên và Lâm Diêm Bá theo sau.
Trong khi đi đường, Địch Lân hỏi khách lạ :
– Tiên sinh đi ngựa hay xe từ Hà Bắc xuống Tô Châu?
– Dạ, tôi đi xe theo các đoàn khách thương.
– Đường đi có bình an không?
– Có mấy nơi nguy hiểm, nhưng nhờ tiêu sư kinh nghiệm nên đi thoát.
Địch Lân nhìn người nọ :
– Nếu tiên sinh thuê xe vào Âu Dương trang đã không đến nỗi lầm đường.
– Người ta chỉ lối cho tôi đi và bảo là gần nên tôi mới đi chân.
– Chao ôi! Gần thì cũng bảy, tám dặm đường.
– Tôi may mắn nên được gặp lão tiên sinh giúp cho phương tiện
tới nơi. Chắc người cũng thân giao với lão anh hùng Trại Mạnh Thường.
– Có chớ! Nhưng chẳng nói gì tôi, cả thị trấn Tô Châu này và hơn nữa, toàn cõi Giang Nam ai ai cũng nghe danh Trại Mạnh Thường. Trong
trang lúc nào cũng có vài trăm miệng thực khách từ khắp bốn phương trời
qua đó đủ các hạng người giang hồ hảo hán, quái khách dị nhân chẳng
thiếu một ai.
Hai người thủng thẳng chuyện trò, không mấy chốc đã tới Âu Dương trang.
Khách lạ xuống xe từ biệt Địch Lân rồi đứng sang bên đường chờ
đoàn người ngựa đi khỏi mới chống gậy chập chững tiến tới cổng trang.
Tráng đinh thấy người thọt chân, lưng đeo trường kiếm thì tò mò
nhìn. Khách lạ cũng nhìn quanh hồi lâu mới từ từ đi vào. Tráng đinh
trình cuốn sổ ghi danh.
Người nọ lật mấy trang sổ đọc qua rồi cầm bút ghi “Lư Cầu Kiều Tề Quân Bảo”, nét chữ rắn rỏi lạ thường.
Ghi danh xong, Tề Quân Bảo bảo :
– Tôi muốn gặp Chu gia song hiệp, hiện có mặt tại đây chớ.
Tráng đinh đáp :
– Xin quý khách theo tôi nhập trang, chừng nào gặp Trang chủ sẽ biết rõ.
Họ Tề điềm đạm :
– Làm ơn vào báo trước, tôi tự kỷ vào sau.
Thấy thái độ dị kỳ của tân khách, tráng đinh lấy làm lạ nhìn kỹ rồi bảo một tráng đinh khác :
– Vào đại sảnh báo với Trang chủ đi.
Chờ tên tráng đinh đó đi khỏi hồi lâu, Tề Quân Bảo mới đủng đỉnh chống gậy đi vào.
Lúc đó Trại Mạnh Thường đang ngồi ở hậu đường, đàm luận cùng Chu gia và ba con thì tráng đinh vào báo :
– Thưa Trang chủ, có khách lạ họ Tề ở Lưu Cầu Kiều muốn gặp Chu thiếu gia và Nữ hiệp.
Trại Mạnh Thường cau mày hỏi :
– Sao các ngươi không theo thường lệ mời vào ngay.
– Thưa, Tề tân khách nhất định nhờ vào báo trước.
– Người đó thế nào?
– Thưa tân khách mi thanh mục tú, đeo trường kiếm nhưng… thọt chân.
Lão anh hùng nhìn anh em Chu gia có ý hỏi. Lam Y và Chu Đức Kiệt nhìn nhau, lắc đầu tỏ ý không quen ai họ Tề ở Lưu Cầu Kiều mà thọt chân cả.
Âu Dương Tòng Cát nói :
– Thì cứ ra xem là ai đã, rồi sẽ hay.
Sáu người cùng đẩy kỷ đứng dậy, ra đại sảnh, bước xuống thềm
nhìn họ Tề đang lững thững đi vào. Cách nhau độ mươi bước, Tề Quân Bảo
ngừng lại dương cặp mắt sáng như sao mai, nhìn từ người nọ đến người kia hồi lâu mới lên tiếng :
– Vị nào là Chu gia song hiệp.
Từ này, sáu người lấy làm lạ, về thái độ kỳ dị của tân khách, nhưng cũng mặc xem họ Tề hành động thế nào.
Thấy hỏi đến tên mình, anh em Chu gia thận trọng tiến lên hai bước cùng đáp :
– Chúng tôi đây.
Tề Quân Bảo lại trừng trừng nhìn hồi lâu rồi bỗng quái tài tay
hữu rút phắt thanh trường kiếm co chân hữu bị thọt lên, toàn thân dồn cả vào chân tả, giơ kiếm ngang mặt rồi lại đăm đăm nhìn, sắc diện tái đi
lạnh như tiền.
Thanh kiếm bị rút soạt ra khỏi vỏ, long lanh sáng ngời tia ra
muôn vạn hào quang dưới ánh Thái Dương le lói, khi kiếm lạnh ngắt như
giá băng.
Không ai bảo ai, sáu người cùng lùi lại mấy bước tưởng vị kiếm gia nào có thù tới gây sự đây!
Nhưng không! Tề Quân Bảo vẫn đứng y nguyên độc cước như con hạc
đậu trên mỏm đá vậy. Bỗng họ Tề cười ha hả, ghê rợn, lao thanh trường
kiếm cắm phập xuống đất cách nơi Chu gia song hiệp vài bước, giãi kiếm
đỏ lừ phe phẩy trước gió thu man mát.
Buông chân chưa thọt xuống, Tề Quân Bảo đưa tay hữu chỉ kiếm hất hàm hỏi anh em Chu gia như thách thức :
– Xin mời coi kiếm gì đây.
Không do dự, Lam Y nữ hiệp nhìn quanh một vòng, lúc đó mọi người trông thấy lạ đều kéo tới đứng xem đông đảo, bước tới rút cây trường
kiếm lên, lật đi lật lại nhận xét, đoàn nàng tiến thêm mấy bước nữa đảo
kiếm hoa lên mấy đường linh diệu toàn thân uyển chuyển tựa giao long,
lưỡi kiếm rít lên từng hồi bao phủ quanh mình nàng lạnh lẽo như sương
lam một buổi chiều tà sơn cước.
Tề Quân Bảo tươi hẳn nét mặt, mê man nhìn vị cân quắc giai nhân thử kiếm.
Nữ hiệp ngừng tay thâu kiếm giữa những tiếng hoan hô vang dậy, xem lại một lần nữa, nhìn thẳng vào mặt Tề, buông xõng :
– Trảm Lư hùng kiếm.
Nghe vậy, Tề Quân Bảo tháo dây đeo kiếm quỳ xuống tam bối, hai tay nâng lên ngay trán :
– Từ nay, báu kiếm này đã có chủ, Tề mỗ xin người nhận lấy và cho phép tôi thưa một điều…
Lam Y đỡ Tề Quân Bảo dậy, nhưng y lắc đầu :
– Xin người nhận kiếm linh này đã! Tôi từ Bắc xuống Nam chỉ có một việc đó.
Lam Y đỡ lấy bao tra kiếm vào vỏ. Tề Quân Bảo liền đứng lên, Lam Y chỉ họ Âu Dương giới thiệu từng người một.
Họ Tề nghiêm chỉnh thi lễ và nói với Trại Mạnh Thường :
– Tự nhiên tới quý trang khinh động, mong lão anh hùng đại xá.
Trại Mạnh Thường vui vẻ khoác tay Quân Bảo dìu lên đại sảnh :
– Khách quý đến nhà là nguyện vọng của lão phu, xin mời vào nhà đã, sẽ nói chuyện sau.
Bảy người cùng vào đại sảnh, phân ngôi chủ khách, gia nhân dâng trà.
Lam Y nữ hiệp đặt thanh trường kiếm lên giữa án, chỉ hai chữ
“Trảm Lư” bằng vàng dát trên vỏ kiếm đồng Hoài Ngọc sạm màu khói, và chữ Hùng cũng bằng vàng ở chuôi kiếm cho mọi người xem.
Trại Mạnh Thường nhấc kiếm lên ra khỏi vỏ tấm tắc khen ngợi và chuyền tay cho ba anh em Tòng Cát xem.
Âu Dương Bích Nữ xem kiếm sau chót, khen ngợi luôn miệng mãi mới đặt kiếm xuống mặt án.
Lam Y nhìn nàng tủm tỉm cười, ngụ ý gì mà cô gái Thiếu Lâm tự chưa hiểu.
Chu Đức Kiệt nhìn Tề Quân Bảo :
– Sao tiên sinh biết anh em tôi ở Âu Dương trang mà xuống tận đất Giang Nam này tìm.
Tề Quân Bảo chậm rãi :
– Đại danh nhị vị ở Hoa Bắc, ai ai cũng biết, nên tôi mạo muội
vào Bình Dương huyện xin yết kiến để cậy nhờ một việc tối ư quan trọng
cho đời tôi.
– Tiên sinh biết sanh quán chúng tôi ở Bình Dương huyện.
Họ tề gật đầu :
– Dạ, nhờ sự ngẫu nhiên. Nhị vị có quen biết một người nào tên
là Lôi Vân Long không? (muốn biết Lôi Vân Long là nhân vật nào, bạn đọc
thân mến hãy coi lại Giang Hồ Kỳ Văn từ số đầu).
Chu Đức Kiệt nhìn Lam Y rồi đáp :
– Có, Tề tiên sinh cũng biết người đó.
– Tôi đã nói là do một sự ngẫu nhiên. Nguyên do cách đây độ hai
năm, một buổi chiều mùa hạ, mưa gió tầm tã, có hai người khách lạ, vào
khu trại nhỏ của tôi xin trú mưa.
– Bản trại ở đầu phía Bắc Lư Cầu kiều chắc nhị vị thừa biết khu đó?
Đức Kiệt gật đầu :
– Chúng tôi đã qua lại nơi ấy mấy lần. Khu Bắc phần nhiều là trang trại, chớ không tấp nập như nơi trung tâm.
– Dạ, chính thế. Bởi vậy hai người khách lạ cố đi tới đó có lẽ bị thương mưa nặng hột quá nên rẽ vào tệ gia trú mưa.
Người trẻ tuổi trạc ngoại tam tuần dong dỏng cao, quắc thước,
khỏe mạnh. Còn người kia là đạo sĩ trạc năm mươi, năm mươi sáu tuổi, béo mập, diện mạo không được hiền từ.
Theo cách xưng hô thì hai người đó là sư đệ. Người học trò Lôi Vân Long, đạo sĩ tên gì không rõ, nhưng vận bào bát quái…
Lam Y nữ hiệp nhìn mọi người giải thích :
– Đó là Bát Quái đạo sĩ, sư phụ của Lôi Vân Long… Thế rồi sao nữa hả Tề tiên sinh.
Tề Quân Bảo nói tiếp :
– Lúc đó trời đã tối, mưa vẫn nặng hột, tôi khoản đãi hai người. Trong khi chuyện trò, họ có nhắc tới nhị vị và tỏ thái độ không được
quân tử, bởi vậy sau khi họ mời về tư phòng, tôi cố ý rình nghe xem hai
người ấy nói những gì nữa…
Lôi Vân Long nói :
– Hai anh em Lam Y nổi danh hành hiệp mà bao nhiêu lâu nay đệ tử tìm kiếm cũng không hề gặp thế mới lạ kỳ.
Đạo sĩ suy nghĩ hồi lâu :
– Hay là chúng ta về cả Bình Dương huyện.
– Không đệ tử mới về Sơn Đông mà không gặp.
Hôm sau hai người từ tạ ra đi.
Tề Quân Bảo nhắp hụm trà, nói tiếp :
– Riêng phần tôi, từ ngày được nghe danh nhị vị cũng muốn được
diện kiến, để yêu cầu một việc, nhưng nhị vị như cặp nhạn phương trời,
lần nữa mãi, mấy tháng trước đây, tôi sang Bình Dương huyện hỏi thăm tới quý trang thì Vương quản gia cho hay là nhị vị đã xuống Giang Nam từ
hồi đầu năm.
Thăm dò mãi có người khuyên nên đến trang trại Âu Dương lão anh
hùng là nơi có nhiều giang hồ hảo hán qua lại, may ra biết tin tức gì
chăng, và quả nhiên tôi đã gặp cái may hãn hữu ngay hôm nay.
Lam Y hỏi :
– Thế còn thanh trường kiếm này.
Nhìn thanh kiếm báu, Tề Quân Bảo khẽ gật đầu :
– Dạ, tôi xin nói tiếp. Cây Trảm Lư này của nội tổ tôi là Tề Kim Báo, xưa kia theo Mã Định Quốc. Nguyên soái bình thiên hạ đoạt được của tướng Kim. Truyền đời đời gia phụ, Tề Minh Châu bỏ học võ cần công
chẳng hành, danh chẳng đạt, làm một chức quan nhỏ dưới quyền Tỉnh Vương
Chu Trường Đức. Chẳng ngờ đệ tam Thế tử của Tĩnh Vương là Chu Vĩnh An
tánh tình dâm dật, thấy gia mẫu nhan sắc nên tìm cách hãm hại gia phụ
những mong đoạt vợ người. Lúc đó tôi còn nhỏ tuổi, gia mẫu bèn giao phó
tôi và cây báu kiếm cho người cửu phụ lánh về Lư Cầu kiều, trối trăng
lại phải báo thù và tuẫn tiết theo gia phụ. Nhưng không may cho tôi, năm mười ba tuổi, lâm bệnh suốt một năm trời, khi khỏi thì chân hữu bị thọt không sao lành được nữa. Kẻ thù vẫn ngang nhiên sống trên nhung lụa bổ
nhiệm Tổng đốc Hàng Châu, riêng tôi, tấm thân tàn phế biết hành động ra
sao cho thỏa oan hồn mẹ, cha dưới cửu tuyền? Lần nữa mãi sau đây nghe
đại danh nhị vị thiên hành hiệp, tôi ao ước được gặp kính dâng báu kiếm, bái thỉnh khách anh hùng vì họ Tề chúng tôi rửa mối thù huyết hận. Bởi
vậy hôm nay, Tề Quân Bảo tôi ngông cuồng dâng kiếm thì quả nhiên danh
bất hư truyền, hiệp khách anh hùng nhận ngay ra được báu vật. Chủ cây
kiếm ấy, xứng đáng vô cùng.
Nói đoạn, Tề Quân Bảo đứng dậy tấp tểnh đến trước mặt anh em Chu hiệp quỳ lạy khóc rưng rức, khiến ai nấy đều cảm thương, hùng khí nổi
lên muốn bắt ngay gian vương tán ác, moi gan xé ruột báo thù thay cho họ Tề.
Chu Đức Kiệt đỡ Quân Bảo :
– Tiên sinh khá an lòng anh em tôi sẽ vì người báo thù. Công
tiin sanh lặn lội ngàn dặm tới đây tất không uổng, vậy hà tất ưu phiền.
Lam Y nói :
– Chúng tôi hành hiệp có ba người. Chu huynh đã có Thất Tinh
đao, phần tôi có Thái Dương kiếm đều do sư phụ Đức Võ Thượng Nhân trao
tặng. Riêng Âu Dương tẩu tẩu Bích Nữ đây còn thiếu gươm linh, vậy hãy
nhận luôn cả sứ mạng báo thù giúp Tề Quân.
– Thanh báu kiếm Trảm Lư quả có mối duyên kiếp lạ lùng với Âu
Dương, và ngay cả đến mối thù của Tề Quân cũng có một sự liên lạc vô
cùng mật thiết.
Mọi người nghe Lam Y nói vậy đều ngạc nhiên nhìn nhau.
Nữ hiệp hướng sang Chu Đức Kiệt :
– Hiền huynh chắc thừa hiểu ngu muội muốn nói gì.
Đức Kiệt gật đầu cất giọng trầm trầm.
Hồi theo gia sư học đạo trên Cửu Huyền sơn ngoài cửa Quan, anh
em tôi được đọc cuốn Cổ Kim Bảo Kiếm Tùng Thư do tổ sư Huyền Vân trưởng
lão truyền lại.
Vốn chuyên về kiếm thuật, gia sư đã đạt được phương pháp luyện
thép được đúc báu kiếm không thua gì những cây danh kiếm ngàn xưa, Lợi
Giả Thủy Đoạn Giao Long, Bộ Hoa Tây Tượng Trảm Thiết Nhị Nể. Kết quả của công phu nghiên cứu ấy là thanh Thái Dương trường kiếm của gia muội Tú
Anh đang dùng.
Thời Xuân Thu Chiến Quốc có mười tám thanh kiếm báu, chia làm hai thời kỳ luyện đúc.
Mười cây trước là Long Tuyền, Thái A, Bạch Hồng, Từ Điện, Can
Tương, Mạc Gia, Ngư Trường, Cản Khuyết, Trảm Lư Hùng, và Trảm Lư Thư.
Đến Việt Vương Câu Tiễn đem Kiếm gia họ Hoàng tên Giả lên Côn
Ngô Sơn dùng bạch ngưu, bạch mã tế thiên, địa, đúc thêm tám bảo kiếm nữa là Đoạn Thủy, Yểm Nhật, Huyền Tiên, Chuyển Phách, Chân Cương, Diệt Hồn, Khước Tà, Kinh Nghê.
Thanh nào cũng sắc bén chém sắt dễ dàng như chém tre, đặt sợi
tóc lên lưỡi kiếm thổi đứt, sắc kiếm long lanh như tỏa hào quang, lãnh
khí rợn người, không bao giờ vấy máu đáng kể như danh cụ xuất xứ.
Hôm nay, nói riêng Thái Lý Sơn ở giáp giới hai nước Hàn và Sở,
có một thuật gia nổi tiếng về môn luyện thép, và đúc kiếm báu họ Âu
Dương tên Nghĩa tự là Thạch Bằng, vợ là Lý thị người nước Hàn.
Vợ chồng Âu Dương Nghĩa sanh được hai con trai, đứa lớn đặt tên là Thái, đứa thứ nhì là Tòng. Cả hai đều còn nhỏ tuổi.
Âu Dương Nghĩa chế được phương pháp luyện vàng, bạc và thép thâu tinh hoa Nhật, Nguyệt bốn phương, tám hướng, đúc được Thư kiếm và Hùng
kiếm sắc bén vô cùng, chém sắt đá như bùn.
Khi hoa lên, làn Thư kiếm màu trắng xanh và làn Hùng kiếm màu
lam lợt. Tuốt ra khỏi bao, để hai lưỡi thư, hùng gần nhau, thì phát ra
thứ âm thanh vi vu nhè nhẹ tựa thông reo.
Dãy Thất Sơn chạy dọc biên giới Hàn Sở một khúc dài trên hơn hai chục dặm, nên phân nửa thuộc Hàn, phân nửa thuộc Sở. Chia ra như vậy,
thiệt ra dân sơn cước trong dãy Thất Lý sơn sống hoàn toàn độc lập,
không có quốc gia nào cả, chẳng theo Hàn và cũng không ngả về Sở.
Hồi đó, Sở Bình Vương là một tay kiếm đại tài, có ý thâu gom thiên hạ, đích thân chinh chiến nên muốn được kiếm báu phòng thân.
Sở Vương bèn cho người đi khắp mọi nơi tìm danh nhân đúc kiếm đem về Sở.
Mật sứ viên là Văn Công đi khắp nước nọ, nước kia trong mấy năm
trời tìm thuật đưa về cho Sở Vương, nhưng tuyệt nhiên không kiếm được
người nào sở dĩ đúc nổi kiếm báu theo ý muốn của vua Sở.
Văn Công buồn rầu, trở về thì Sở Vương quở trách, mà đi nữa thì
thập bát chư hầu đã qua hết rồi, còn biết tìm kiếm danh nhân nơi đâu?
Một hôm lang thang về tới đầu dãy núi Thất Lý sơn, Văn Công do
dự không biết nên về hay nên đi nữa, bèn ngồi thần người ra trên phiến
đá rồi ngủ thiếp đi lúc nào không biết.
Lúc hoảng hốt tỉnh dậy, Văn Công cảm thấy như đã có người nào
vừa qua đây ngó trước ngó sau, thì thấy một mảnh giấy vàng phất phơ trên càng cây thấp sà xuống phía sau phiến đá. Văn Công lấy làm lạ cầm lấy
mảnh giấy thấy ghi có hàng chữ: “Trung ương Thất Lý đắc hữu kiếm thuật
gia Âu Dương chi mệnh danh”, nét chữ mềm mại như rồng bay phượng múa.
Chạy đâu đó nhìn chẳng thấy bóng người, kêu lớn lên mấy tiếng
thì chỉ âm vang vách núi đập lại, nhưng Văn Công vẫn lấy làm mừng rỡ cho rằng gặp tiên chỉ bảo giúp mình vào khu trung ương dãy núi Thất Lý sơn, tìm thuật gia họ Âu Dương đem về Sở đúc kiếm.
Quỳ xuống bái tạ tiên nhân đã chỉ điểm giúp mình, Văn Công đeo hành lý thất thểu đi theo dãy núi hỏi thăm.
Quả nhiên có họ Âu Dương thật ở ngay khu trung tâm dãy núi Thất Lý.
Nhìn kỹ địa điểm, Văn Công về thẳng nước Sở ra mắt nhà vua, trình bày tự sự.
Sở Vương mừng lắm hậu thưởng cho Văn Công, và cho cầm đầu một phái đoàn vào núi Thất Lý rước cho kỳ được họ Âu Dương về Sở.
Chuyến này đi đông người lại có ủy nhiệm thơ của Sở Vương, Văn Công không do dự nữa đến thẳng nhà Âu Dương nghĩa.
Khi gần tới nơi, Văn Công bảo bọn tùy tùng :
– Ta có lệnh của Quốc vương đi mời chủ nhân khu nhà kia. Nếu y
không chịu đi theo, ta sẽ ra hiệu các ngươi cứ việc xông vào bắt đem đi. Tuy vậy, không được bạo động đánh đập người ta nhé.
Văn Công cho đoàn tùy tùng đứng ở nơi khuất, rồi ung dung bước tới gọi cổng.
Thư đồng chạy ra lễ phép chào khách lạ.
Văn Công hỏi :
– Âu Dương tiên sinh có nhà không?
– Thưa có, người cho biết quý danh để con vào báo.
– Ngươi cứ nói là có người bạn nước Sở?
Thư đồng mở cửa mời khách vào rồi lon ton chạy vào trong nhà.
Đủng đỉnh dạo quanh mấy luống bông trong thửa vương xinh xắn trước mấy căn nhà mái rơm tao nhã, Văn Công nghĩ thầm:
“Công hầu vương bá mà chi, đời sống ẩn dật trong thâm sơn thiệt là an nhàn sung sướng”.
Văn Công đang mông lung với cảnh vật nên thơ, thì một người trạc ngót tứ tuần tóc búi ngược, dong dỏng cao, nét mặt thanh tú, râu năm
chòm đen lánh, dài xuống quá ngực, vận áo dài lụa xanh, dây lưng đen, từ trong nhà bước ra ngoài hành lang vái chào.
– Tôn ông muốn gặp tôi, phải không.
Văn Công đáp lễ :
– Tôi là Văn Công từ Thọ Xuân (kinh đô nước Sở) tới đây để trao lại hầu tiên sinh một bức văn thơ.
– Xin mời tôn ông vào nhà.
Chia ngôi chủ khách xong, Âu Dương Nghĩa hỏi :
– Kẻ ẩn dật sơn dã này còn có việc chi ở ngoài đời khiến tôn ông phải tốn công tới đây.
Văn Công lấy trong ngực áo ra một bức thư đưa cho Âu Dương Nghĩa :
– Lá thơ này do chính tay Sở Vương tự thảo, tiên sinh đọc sẽ rõ.
Âu Dương Nghĩa nhìn Văn Công dò ý, đỡ lấy bức thơ, bóc vội ra đọc.
“Thư rằng.
Sở Bình Vương gởi Âu Dương ẩn sĩ nhã giám.
Nghe danh hiền sĩ, Trầm muốn thân tới Thất Lý sơn bái thỉnh.
Song lẽ công việc triều chính bộn bề không thể rời kinh thành, nên nhờ
Văn khanh thay mặt thỉnh cầu hiền sĩ về triều cùng Trẫm thảo luận một
việc trọng hệ. Mong hiền sĩ thể tình thu xếp lên đường ngay cùng Văn
khanh. Chớ để Trẫm mong chờ.
Nay thỉnh”.
Đọc xong, Âu Dương suy nghĩ biết không đi tất chẳng xong, vì
không lẽ Văn Công đi có một mình. Lời lẽ trong thư tuy khiêm tốn nhưng
ẩn một mệnh lệnh triệu gấp, chối từ sao nổi! Mình thì là một người biết
đúc kiếm chớ đâu có tài tế thế an bang đến nỗi Sở Vương phải hạ mình cầu thỉnh.
Chắc mệnh lệnh đây không ngoài việc bắt ta đúc kiếm báu. Nghe
nói Sở Vương uy dũng thiệt, nhưng tàn ác vô cùng mà vào tay người ấy thì có khác chi cọp thêm nanh vuốt tất hại nhiều cho thiên hạ. Thôi, việc
tới đâu hay tới đó, bề nào cũng phải đi, sẽ tùy cơ ứng biến.
Từ nãy Văn Công vẫn im lìm ngồi chờ.
Âu Dương Nghĩa bèn nói :
– Phiền tôn ông ngồi dùng trà, tôi vào nhà trong thu xếp hành trang.
Văn Công gật đầu mỉm cười :
– Nếu vậy thì hay lắm, xe ngựa chờ cả ngoài kia rồi…
Tức thì Âu Dương Nghĩa vào nhà trong dặn dò vợ con. Rồi vác bọc hành lý cùng Văn Công ra khỏi nhà.
Văn Công vỗ tay mấy cái. Đoàn người ngựa võ trang đầy đủ từ góc núi tiến tới.
Họ Văn mời Âu Dương Nghĩa lên xe rồi ra lệnh trực chỉ kinh thành Thọ Xuân.
Về tới kinh đô, Văn Công lưu Âu Dương Nghĩa ở dinh mình khoản đãi và ngay ngày hôm sau vào triều kiến Sở Vương.
– Muôn tâu bệ hạ, ngu thần đã mời được Âu Dương Nghĩa về đây rồi, hiện y đang ở trong dinh.
Sở Vương cả mừng :
– Công lao của khanh rất lớn. Trẫm sẽ hạ chỉ đặc cách thăng hai
trật và hậu thưởng. Nay khanh khá triệu y vào thẳng hậu cung để Trẫm xem mặt gấp.
Văn Công tạ ơn, tức tốc về dinh đưa Âu Dương Nghĩa vào chầu.
Sở Vương thấy Âu Dương Nghĩa tướng mạo tuy khô khan nhưng điềm đạm quắc thước, lấy làm đẹp ý, phán :
– Miễn đại lễ cho Âu Dương khanh, vừa mới đi đường xa mệt nhọc.
Đáng lẽ phải để khanh nghỉ ngơi ít bữa, nhưng Trẫm mong gặp hiền sĩ cho
thỏa lòng mong chờ, tưởng hiền khanh chẳng nên thế làm buồn.
Nhác thấy Sở Vương uy nghi, hung dữ, Âu Dương Nghĩa vòng tay tâu :
– Ngu thần quen sống nơi sơn dã không biết lễ phép chốn triều trung, cúi mong Bệ hệ thứ cho mọi điều sơ suất.
Sở Vương truyền mời hai người ngồi. Nội thị dâng yến.
Sở Vương mỉm cười hỏi Âu Dương Nghĩa :
– Chẳng hay hiền khanh đã hội được ý trẫm thỉnh về đây có mục đích gì không?
– Muôn tâu, kẻ hạ thần đang phân vân tư vấn mà chưa tìm được câu trả lời.
Vuốt râu đắc ý, Sở Vương cười ha hả :
– Dễ hiểu lắm! Trẫm là người ưa dùng kiếm, nghe danh hiền khanh
là một thuật gia có tài đúc nổi báu kiếm, nên muốn nhờ hiền khanh giúp
trẫm luyện một cặp Thư, Hùng trước là phòng thân, sau là bình thiên hạ,
công ấy của khanh ắt không nhỏ.
– Dạ, ngu thần xin cố sức, song lẽ…
– Sao!
– … Muôn tâu thì giờ luyện kiếm mất khá lâu và ngu thần phải về Thất Lý sơn mới có thể hoàn thành được.
– Cái đó không ngại. Trẫm chấp nhận điều kiện ấy. Nhưng ước chừng bao lâu?
– Muôn tâu, phải trên một năm mới hoàn thành nổi hai cây Thư, Hùng.
– Trên một năm, chớ nếu ba năm Trẫm cũng kiên tâm chờ đợi. Khanh cần dùng thứ gì, cứ việc bảo Văn Công lấy trong kho. Trẫm đặc cách cho
khanh tùy nghi sử dụng.
– Muôn tâu, ngu thần cần hai mươi cân thép cực hảo, mười nén vàng y, năm nén bạc nguyên chất và mười cân đồng bạch hảo hạng.
– Được lắm!
Đưa mắt nhìn Văn Công, Sở Vương nói tiếp :
– Trẫm sẽ truyền lệnh cho viên quan coi kho. Còn việc giúp đỡ Âu Dương khanh. Trẫm hoàn toàn trông cậy ở Văn khanh khá mau lẹ, hồi triều kẻo Trẫm mong chờ.
Nói đoạn, Sở Vương truyền nội thị lấy nghiên bút ngự phê thăng
thưởng hai người, cho phép Văn Công nghỉ ba ngày, thu xếp việc nhà rồi
sẽ cùng Âu Dương Nghĩa trở về Thất Lý sơn.
Trong ba ngày, hôm nào Sở Vương cũng mời Âu Dương vào cung đãi yến cực kỳ hậu hĩ.
Âu Dương Nghĩa thừa hiểu Sở Vương sợ mình bỏ trốn nên cho Văn
Công theo coi chừng. Thế là từ nay tấm thân an nhàn tự tại, bỗng trở
thành cá chậu, chim lồng.
Sáng hôm thứ tư, Văn Công điểm quân tải đủ lương thực lên nhiều xe rồi cùng Âu Dương Nghĩa trực chỉ nẻo Thất Lý sơn.
Về tới nơi, Âu Dương Nghĩa bắt tay vào việc đúc kiếm ngay.
Còn Văn Công thì truyền quân đóng trại ở cách Âu Dương chừng vài trăm thước canh phòng cực kỳ nghiêm ngặt.
Âu Dương Nghĩa đúc hai cây đặt tên là Thư Hùng, Trảm Lư và một cây kiếm thường cách thức ý hệt thanh Hùng kiếm.
Hai chữ Thư Hùng bằng vàng dát ở chuôi kiếm, còn chữ Trảm Lư thì dát ở bao bằng đồng.
Hai năm sau mới hoàn thành, Âu Dương Nghĩa bảo vợ là Lý thị :
– Như hiền thê đã hiểu, việc đúc kiếm cho Sở Vương là ngoài ý
muốn của ta. Nay công việc đã hoàn thành lẽ ra chỉ trao kiếm cho Văn
Công mang về kinh sư Thọ Xuân cũng được, thì Sở Vương mời ta cùng đi.
– Sở Vương vốn tham tàn, nay được báu kiếm tất y sợ ta đúc kiếm
cho người khác, nên nữa thế nào cũng hại ta. Vậy chuyến đi này vị tất đã hòng ngày về, có lẽ vợ chồng ta từ đây vĩnh biệt. Sau bao năm chăn gối, ta có được hai con trai, hiền thê khá trông nom chúng nên người để báo
thù sau này, lấy được thủ cấp Sở Vương mới hả giận.
Âu Dương Nghĩa ái ngại thương cảm nhìn Lý thị khóc sướt mướt hồi lâu mới nghẹn ngào nói tiếp.
– Ta để lại nhà cây Hùng kiếm khi ta đi khỏi, hiền thê nên đem
con và kiếm về quê ngoại vì ta e Sở Vương hại ta, nhưng sẽ nhổ cỏ nhổ rễ để tránh mối lo hiềm thù. Không thể nào có nổi cây báu kiếm thứ hai
nữa, hiền thê khá giữ gìn cẩn thận cho con sau này báo thù. Chuyến đi
đây lành ít dữ nhiều. Vậy sau khi ta đi rồi, hiền thê khá nghe lời kíp
thi hành những điều căn dặn, dù có chết ta cũng được an tâm là dòng Âu
Dương còn có kẻ nối dõi tông đường.
Lý thị khóc sướt mướt không nói lên lời.
Âu Dương Nghĩa gọi hai con âu yếm đặt ngồi lên đùi :
– Các con ở lại khá ngoan ngoãn nghe lời mẫu thân dạy bảo cho người được vui lòng nhé…
Âu Dương Thái năm đó ngót sáu tuổi, liền hỏi cha :
– Phụ thân còn đi đâu nữa, sao không ở nhà với mẫu thân con? Bao giờ về!
– Cha con đi có việc, lâu năm mới về, các con phải chăm chỉ học hành, nghe lời thân mẫu dạy bảo.
– Dạ, con chăm học nhưng sao mẫu thân lại khóc nhiều thế, thưa cha.
Âu Dương Nghĩa lòng đau như cắt, vuốt tóc trẻ thơ ngây :
– Thôi, con còn nhỏ dại chớ hỏi nhiều, lớn lên sẽ biết.
Âu Dương Tòng lên bốn, từ nãy vẫn há miệng nghe, u ơ hỏi cha :
– Phụ thân nhớ mua bánh về cho mẫu thân và chúng con ăn nhé :
– Ờ!… Cha sẽ mua… Thôi hai con ra sân chơi đi.
Âu Dương Nghĩa thần người ra nhìn hai con dắt tay tung tăng chạy vào sau nhà.
Lý thị òa lên khóc, quỳ trước chồng tam bái :
– Từ nay kể như âm dương cách biệt, xin chàng hãy chứng kiến cho lòng thiếp qua mấy lạy này. Vì hai hột máu dòng họ Âu Dương còn thơ ấu, thiếp phải tạm kéo dài chuỗi ngày tàn. Chàng sống khôn thác linh rán
chờ thiếp chốn cửu tuyền.
Nàng nức nở gục xuống chân chồng.
Âu Dương Nghĩa đau đớn căm hờn xõa tóc rút Trảm Lư hùng kiếm cắt mớ tóc buộc vào chuôi kiếm gác lên đầu Lý thị rồi lẳng lặng bước ra
khỏi phòng lấy hai thanh kiếm xuống thẳng trại quân Văn Công.
– Xong rồi, chúng ta có thể lên đường.
Văn Công mừng rỡ hối quân giở trại tức khắc khởi hành. Ngày đi đêm nghỉ, hơn một tháng sau về tới kinh thành Thọ Xuân.
Được tin Sở Bình vương cho mời hai người vào ngay trong nội sang đãi yến. Âu Dương Nghĩa quỳ dâng hai tay trường kiếm lên Sở Vương :
– Muôn tâu, nhờ đức lớn của Bệ hạ, ngu thần đã hoàn thành được
hai cây Thư Hùng, Trảm Lư trường kiếm, dám mong với báu kiếm này. Bệ hạ
sẽ bình thiên hạ, an trị muôn dân.
Sở Vương sung sướng nhìn cặp trường kiếm, thận trọng hỏi :
– Chẳng hay trước khi đem dùng, cặp kiếm báu này có tánh cách gì khác thường không?
– Muôn tâu, báu kiếm chém sắt như bùn. Bệ hạ dùng Thư trước thử
xem, chừng nào cây Thư được khai kiếm uống máu người rồi sẽ thử tới cây
Hùng thì không phải khai kiếm bằng huyết nữa. Lúc đó, Bệ hạ để hai lưỡi
kiếm gần nhau tự khắc sẽ có tiếng run nhè nhẹ tựa hồ giọng huyền Thiên
Thai… Nếu là kiếm giả tất không có tánh linh đó.
Sở Vương mừng rỡ nhìn chằm chặp vào mặt Âu Dương Nghĩa. Đoạn phá lên cười, tiếng cười lanh lảnh ghê sợ khác thường khiến bọn nội thị hầu tiệc khiếp đởm đưa mắt nhìn nhau. Ngay như Văn Công cũng thấy rùng mình vì trận cười sằng sặc như dao bén, quỷ quái như tiếng má từ âm tự bốc
lên. Họ Văn khiếp đảm, cảm thấy việc chỉ hệ trọng kinh khủng sắp xảy ra
tới nơi.
Tiệc yến kéo dài tới đầu canh một mới tan.
Sở Vương truyền nội thị đem văn phòng tứ bảo đến phê một đạo chỉ đặc cách phong Âu Dương Nghĩa lên chức Trung Đại phu trưởng ban đúc Ngự khí, rồi vuốt râu tự tay đưa cho Âu Dương mà rằng :
– Văn khanh có công tìm ra người tài đã đặc cách trật rồi nay
Trẫm cũng đặc cách phong tước lớn để đền ơn Âu Dương khanh, và kể từ lúc này hiền khanh là người của triều ca Sở quốc.
Âu Dương Nghĩa quỳ lạy đón lấy đạo chỉ cắp vào ngực áo, nhưng Sở Vương phán :
– Khanh khá mở chiếu đọc ngay mới biết mình đã lãnh tước gì chớ.
Âu Dương Nghĩa lãnh đạm mở chiếu ra đọc lớn, rồi lạy tạ về chỗ ngồi.
Sở Vương cười ha hả :
– Âu Dương khanh đã vui lòng chưa?
– Dạ…
Sở Vương nhìn bọn nội thị phán :
– Các ngươi sang võ phòng bày giá võ khí ra chính giữa, đêm nay, Trẫm cao hứng muốn thử xem còn đủ dũng lực đáng làm chủ cặp báu kiếm
này không.
Nội thị dạ rân, sang mở cửa phòng, nơi mà Sở Vương thường luyện võ trong cung.
Lát sau nội thị trở vào tâu :
– Tâu Bệ Hạ, võ phòng sẵn sàng rồi ạ.
Sở Vương đứng lên đưa tay mời Văn Công và Âu Dương Nghĩa :
– Nhị vị hiền khanh hãy theo Trẫm và nhận xét xem sức Trẫm thế nào?
Dứt lời, Sở Vương đi trước, Văn Công và Âu Dương Nghĩa theo sau.
Sở Vương cởi long bào cổn vắt lên lưng kỷ.
Văn Công và Âu Dương Nghĩa ngồi ở kỷ hai bên đấu án thơ.
Sở Vương tiến tới bên án cầm lấy thanh Thư kiếm, lạnh lùng hỏi Âu Dương Nghĩa :
– Hồi nãy khanh nói là có thể cây Thư trước phải không?
– Dạ!
Tuốt ra khỏi bao, Sở Vương lật đi lật lại lưỡi kiếm nhận xét rồi đi ra khỏi phòng hoa lên mấy đường, ánh kiếm loang loáng.
Thét lên một tiếng khiến mọi người giật mình, Sở Vương nhằm cây đại phủ cán sắt gài trên giá, chém mạnh :
– Soạt…
Cán đại phủ bị tiện đứt đôi, lưỡi phủ rớt xuống gạch kêu loảng
xoảng. Thích chí, Sở Vương vẫn múa kiếm chém luôn một lát nữa tiện đứt
đôi ngọn giáo dễ dàng.
Sung sướng, Sở Vương biểu diễn thành bài kiếm lùi dần lại nơi án thư, rồi nhân lúc xuất kỳ bất ý khai kiếm chém rụng đầu Âu Dương Nghĩa
lăn lông lốc trên sàn gạch bông. Thây đổ ngả trên kỷ, máu từ cổ phun vọt lên như cầu vồng.
Văn Công giật nảy người, vội vàng chạy ra núp sau chiếc cột lớn, mặt xám ngắt.
Bọn nội thị tưởng Sở Vương say rượu giết càn cũng vội ùa chạy.
Nhưng Sở Vương ngừng tay kiếm nói lớn :
– Văn khanh và các ngươi đừng sợ, Trẫm hạ Âu Dương Nghĩa vì một lý do khác và nhân thể khai kiếm báu.
Nói đoạn, Sở Vương thản nhiên nhìn lưỡi kiếm thấy không dính máu thì khen thầm là bảo vật.
Tra Thư kiếm vào vỏ, Sở Vương rút cây Hùng kiếm, đoạn đi ra chỗ giá binh khí, múa lên vài đường nhưng lấy làm lạ nghĩ thầm :
– Quái, sao lưỡi kiếm này không phát lãnh khí như cây Thư.
Nghĩ vậy, nhà Vua liền nhằm lưỡi thanh đại đao, hao kiếm chém xuống.
Hai thứ kim khí chạm phải nhau chát chúa, tóe lửa nhưng lưỡi đao vẫn y nguyên, Sở Vương ngờ rằng mình chém nhẹ tay quá, bèn tận lực hạ
luôn một nhát nữa.
Cũng như lần đầu không có hiệu quả!
Bực mình, nhà vua thâu kiếm lại nhìn thì càng thất vọng luôn.
Lưỡi kiếm nhụt và mẻ mất mấy miếng y hệt như kiếm thường.
Sở Vương suy nghĩ chợt hiểu ra là Âu Dương Nghĩa lừa mình chỉ
đưa có một cây Thư kiếm, còn cây Hùng Kiếm là thứ giả, bởi vậy y mới dặn thử Thư kiếm trước, khai kiếm rồi hãy thử cây Hùng.
Sở Vương càng nghĩ càng căm tức. Tại sao Âu Dương Nghĩa lại tráo kiếm.
Dễ hiểu lắm! Vì y đoán biết mình sẽ giết hắn, nên hắn làm ra thất vọng :
– Giờ đây, y chết rồi thì còn ai đúc kiếm khác cho ta nữa.
– À! Không lẽ nào Âu Dương Nghĩa chỉ đúc một cây Thư kiếm. Chắc
thanh Hùng kiếm còn lại trong nhà y ở Thất Lý sơn. Ta phải thân chinh đi lấy mới được.
Nghĩ đoạn, Sở Vương liệng thanh kiếm nhụt xuống gần thủ cấp Âu Dương Nghĩa rồi gọi :
– Văn khanh.
Từ này, Văn Công và bọn nội thị ai nấy đều nơm nớp lo sợ không
hiểu rồi đây Sở Vương sẽ nhằm người nào mà khai thứ kiếm quái ác ấy nữa, nên Văn Công giật mình đánh thót một cái từ từ bước ra khỏi chỗ ẩn nấp :
– Muôn tâu, Bệ hạ có điều chi dạy bảo.
Trông thấy thái độ sợ sệt của Văn Công, Sở Vương phát tức cười :
– Khanh là thủ túc của Trẫm việc chi mà sợ? Âu Dương Nghĩa đã
lừa ta. Y tráo cây Hùng kiếm giả. Sớm mai, Trẫm thân chinh đi Thất Lý
sơn khám xét nhà y tìm thanh Hùng Kiếm thật. Văn khanh khá sửa soạn vệ
quân. Tất cả trá hình thành khách thương để mọi người khỏi chú ý đến ta.
Văn Công lạy tạ lui về dinh. Sở Vương cũng cầm thanh Thư kiếm trở về hậu cung an nghỉ.
Hôm sau, Sở Vương và Văn Công lên đường đem theo hai mươi viên
tùy tướng kéo dốc vào Thất Lý sơn. Văn Công cưỡi ngựa dẫn đường. Lúc tới nơi, thì toàn khu nhà Âu Dương Nghĩa trước kia gọn gàng xinh xắn như
vậy mà nay chỉ còn là đống tro tàn. Những luống bông, đẹp đẽ đã bị cỏ
mọc lấn khắp mọi nơi.
Sở Vương và Văn Công xuống ngựa trong khu đất bước lên những
miếng tường nhà đổ nát tần ngần xem xét. Mấy con sóc núp dưới đống gạch
vụn bị động chạy vụt vào các bụm cây bên vách núi.
Sở Vương khẽ gật đầu nói một mình :
– Âu Dương đoán được ý ta nên đã sửa soạn đủ cả trước khi đi! Đáng tiếc.
Quay lại nhìn Văn Công đứng ở phía sau, Sở Vương hỏi:
– Trước khi rời Thất Lý sơn, văn khanh có nhận thấy gì khác ở Âu Dương Nghĩa không?
– Muôn tâu y rất thản nhiên nên ngu thần không nghi ngờ chi cả.
– Đã đành, ngay đến Trẫm đã dự tính trước mà còn nhầm. Mất công mà không toại ý. Thôi về khanh.
Nói về Lý thị, khi Âu Dương Nghĩa vừa đi được ít ngày, tức khắc
thu xếp mọi vật trong nhà cùng người lão bộc là Trương Đức đem hai con
trai và tiểu đồng về quê ở Kinh Luân huyện thuộc nước Hàn. Trước khi đi, Lý thị bảo Trương Đức hỏa thiêu nhà cũ rồi mới lên đường. Ngoảnh lại
trông ngọn lửa bốc cao thiêu rụi nơi tổ ấm trong khi người chồng thân
yêu xa vắng nơi quê người không biết sống chết thế nào, Lý thị lòng đau
như cắt, lệ mờ khóe mắt trung trinh.
Về quê ngoại được mấy ngày, một đêm mưa gió lạnh lẽo, nàng chong đèn ngồi bên giường khâu áo cho con và thỉnh thoảng âu yếm nhìn hai trẻ nhỏ ngây thơ ngủ say sưa. Trông con nhớ đến chồng, nàng gạt lệ đau
thương. Nàng khâu, khâu mãi đến khuya bất giác, mệt mỏi quá, ngủ gục bên con lúc nào không biết. Bỗng gió thổi tung hẳn cánh cửa phòng, Lý thị
giật mình vội vã chồi dậy định ra đóng cửa thì một người tóc rối bời rủ
xuống mặt từ ngoài sân đen tối lù lù bước vào. Người đó tiến đến bên
ngọn đèn dầu leo lắt đứng thẳng nhìn mẹ con Lý thị. Nhờ ánh đèn, nàng
kinh ngạc nhận ra nét mặt âu sầu của chồng, người chồng yêu quý mà hàng
ngày nàng đếm từng phút giây đợi từng giờ…
Nhưng lạ thay! Coi kìa, sao cổ chàng lại có một vệt đỏ chạy
quanh máu từ vệt ấy vẫn còn thấm lần lần nhỏ giọt xuống án. Sắc mặt
chàng trắng bệch.
Lý thị gọi :
– Lang quân.
Mừng mừng tủi tủi, nàng đưa tay định ôm lấy chồng thì Âu Dương Nghĩa vội vàng lùi lại ra hiệu bảo nàng ngồi nguyên ở giường.
Nghi hoặc, Lý thị gọi nữa :
– Kìa, lang quân! Làm sao vậy.
Âu Dương Nghĩa lẳng lặng nhúng tay vào ly nước để bên ngọn đèn viết ba chữ lên mặt bàn.
Viết xong chàng vẫy tay ra dáng từ biệt vợ con lùi dần ra cửa.
Lý thị thấy chồng bỏ đi, hoảng quá, vùng dậy đuổi theo nhưng một luồng gió mạnh thổi thuốc vào phòng bung cả rèm cửa khiến nàng lạnh quá tỉnh dậy, ngơ ngác nhìn quanh… Không, ngoài trời im lặng như tờ,
không hề mưa gió… Then cửa cài chặt, căn phòng ấm cùng như thường.
Trên giường, ngay bên nàng hai trẻ nhỏ vẫn ngủ say, hơi thở đều đều.
Ồ, thì ra một giấc chiêm bao! Nàng mệt quá, ngủ thiếp đi mở thấy chồng về, tay nàng còn cầm chiếc áo khâu dở dang.
Nhưng kỳ thay, sao tóc chàng rũ rượi, sắc mặt trắng bệch, đầu tử khí, cổ vấy máu… Sao? Hay là… Chợt nhớ ra điều gì Lý thị vùng đứng
dậy lên nhìn xuống chiếc mặt bàn nhỏ nơi mà vừa đây chồng nàng nhúng tay vào ly nước viết mấy dòng chữ… Ồ! Nét chữ hãy còn rành rành trên mặt
bàn. Lý thị cúi xuống đọc:
“Sở Vương sát!”
Nàng hiểu ngay. Chồng nàng chết rồi nên linh thiêng về báo mộng cho mẹ con nàng biết kẻ sát nhân là Sở Vương tàn ác.
Đau đớn quá, Lý thị lăn ra giường vùi đầu xuống mền khóc không ra tiếng…
Âu Dương Thái chợt tỉnh ôm chầm lấy cổ mẹ thỏ thẻ :
– Mẫu thân à, con thấy phụ thân về bảo con báo thù, dặn con hỏi mẫu thân tên kẻ thù là gì…
Lý thị gạt nước mắt ôm lấy con, nói nhỏ :
– Lớn lên con sẽ biết…
– Ồ, sao mẫu thân lại khóc kìa!
– Ngủ đi con, kẻo em nhỏ mất giấc bây giờ, nằm xuống đây ngủ đi, mẹ thương.
Âu Dương Thái ngoan ngoãn theo lời mẹ.
Lý thị không khóc nữa. Bây giờ nàng đã biết sự thật, qua giấc
chiêm bao, nhưng nàng căn cứ ba chữ mà chồng nàng đã hiện về báo thù
viết trên bìa còn rõ rành rành! Mẹ con nàng phải tính cách báo thù.
Hôm sau, Lý thị phát tang lấy chiếc bàn nhỏ kê giữa nhà làm bàn
thờ. Kỳ thay, ba chữ “Sở Vương sát” viết bằng cặn nước trà mà nay thẫm
lại, rõ rệt như viết bằng sơn lau chùi cũng không đi được.
Lý thị lấy cây Trảm Lư hùng kiếm vẫn có mớ tóc buộc ở chuôi dựng trên bàn thờ, sớm tối thắp hương cầu nguyện.
Một hôm, Lý thị đang ngồi dạy hai con học thì bỗng nghe thấy tiếng trẻ trong thôn reo ầm ầm ngoài cổng và có tiếng hát.
“Ai ơi muốn báo thù chồng.
Cho con học tập gánh gồng theo ngay.
Ai ơi muốn báo thù cha.
Theo về Thất Lý lạy ta làm thầy”.
Giọng hát ấm áp như tiếng chuông vàng. Lý thị lấy làm lạ không hiểu cây ngụ ý gì bèn giắt hai con đi ra cổng nhà xem.
Thì ra người có giọng tốt ấy là vị đạo nhân râu tóc trắng như
cước, sắc diện hồng hào, vận đạo bào thiên lý, lưng đeo bầu nước, chống
gậy trúc đi vừa nghêu ngao hát mấy câu trên.
Bọn trẻ trong thôn lấy làm lạ nên kéo nhau theo sau xem.
Đạo nhân hát một lần nữa.
Lý thị nghe rõ ràng lấy làm kỳ lạ bèn bảo Âu Dương Thái :
– Con hãy chạy ra mời đạo nhân vào nhà.
Âu Dương Thái vâng lời chạy tới trước mặt lão đạo nhân vái chào :
– Kính thưa sư phụ, gia mẫu mời người vào nhà lãnh giáo.
Đạo nhân dừng bước nhìn kỹ tiểu thị :
– Nhà con ở đâu?
Âu Dương Thái chỉ tay về phía nhà mình :
– Thưa sư phụ nhà con ở kia, mời người theo con.
Đạo nhân khẽ gật đầu, bảo :
– Con đi trước, ta theo sau ngay. Nhưng con tên là gì?
– Tên con là Âu Dương Thái.
Tiểu nhi nói đoạn đi trước, dẫn đường, đạo nhân mỉm cười theo sau.
Qua cổng vào tới nhà ngoài, Lý thị giắt tay Âu Dương Tòng lạy chào :
– Mẹ con ngu muội không hiểu câu hát của sư phụ, xin người vui lòng chỉ dẫn cho.
Lão đạo nhân lặng lẽ nhìn Lý thị và hai tiểu nhị vận đồ tang chỉ :
– Bàn thờ lệnh phu quân đâu.
Lý thị rơm rớm nước mắt :
– Thưa sư phụ, ở nhà trong.
– Bần đạo có thể vào bái linh hồn người được không?
– Dạ, nhưng xin sư phụ chước đi cho.
Lão đạo nhân cầm tay Âu Dương Thái đi thẳng vào nhà trong, đứng
trước bàn thờ lặng lẽ nhìn hồi lâu rồi châm mấy nén nhang, cầm lấy cây
Trảm Lư nhìn qua, đưa cho Âu Dương Thái mà rằng :
– Tiểu nhi muốn báo thù cha hãy đỡ lấy kiếm linh này lạy trước bàn thờ.
Âu Dương Thái rất tinh khôn, theo lời lão đạo nhân đứng bên lẩm bẩm nhỏ những gì không nghe rõ.
Trong giờ khắc nghiêm trọng, Lý thị cũng cùng Âu Dương Tòng quỳ xuống bên bàn thờ khấn vái linh hồn chồng chứng minh.
Lão đạo nhân khấn xong bảo mẹ con Lý thị đứng dậy, đỡ lấy cây
trường kiếm tháo mớ tóc của người xấu số đặt lên bàn thờ và nói rằng :
– Bần đạo là Thất Lý đạo nhân tu ở trên đỉnh núi cuối dãy Thất
Lý sơn. Trước đây linh cố phu quân đã có nhiều lần tới đó cùng nhau đàm
đạo. Một hôm, bần đạo xuất sơn vân du vừa đi đến đầu Thất Lý sơn thì
thấy người nước Sở đi cầu hiền đãi bén mách bảo những mong Sở Vương biết tài kẻ sĩ thâu dụng lệnh phu quân, ngờ đâu khi trở về qua nơi nhà cũ
thấy đã bị hỏa thiêu. Bần đạo liền qua Sở thăm dò mãi mới tìm được Văn
Công là xứ của Sở Vương. Bần đạo lập mưu khiến họ Văn phải thú thật việc Sở Vương đã manh tâm hãm hại lệnh phu quân. Nhớ rằng trước kia đã có
lần lệnh phu quân cho biết rằng quê ngoại ở Kinh Luân huyện bên nước
Hàn, nên Bần đạo tìm tới đây có ý muốn thâu lệnh lang làm đồ đệ để sau
này đủ tư cách báo thù. Tự xét, Bần đạo thấy có phần trách nhiệm trong
việc Sở Vương sát hại Âu Dương hiền sĩ vì chính bần đạo mách bảo Văn
Công tới nhà Âu Dương. Nay thâu lệnh lang làm đồ đệ, bần đạo thấy lương
tâm áy náy phần nào.
Âu Dương Thái nghe lão đạo nhân thuật lại chuyện xưa, bèn quỳ xuống lạy mẹ cho phép theo người về núi học đạo sau này báo thù.
Lý thị rất đỗi thương con còn nhỏ dại đã mồ côi cha, nay lại xa
mẹ, nhưng biết làm sao? Nếu không cho con bái sư vào núi thì còn chờ
việc nào tốt hơn nữa.
Lý thị chợt nhớ ra điều gì, liền giắt con đứng lên :
– Việc báo thù là bổn phận của mẹ con ta, Mẹ rất mừng thấy con
chí khí, vậy để mẹ thưa lại một điều với sư phụ đây xem người dạy thế
nào.
Thất Lý đạo nhân hỏi :
– Chẳng hay phu nhân có điều chi thắc mắc.
Lý thị nói :
– Mẹ con đệ tử vốn cư ngụ ở Thất Lý sơn đã lâu rồi, nay trở về,
nhân tiện trông nom Âu Dương Thái theo sư phụ học hành có được không?
– Cũng được, nhưng không nên ở nơi nhà cũ vì Sở Vương hiện thời còn sống. Chi bằng lên cả trên núi ẩn danh mới được.
Lý thị bèn giắt Âu Dương Thái quỳ lạy đạo nhân :
– Kham khổ thế nào cũng được, miễn là Thái nhi có chốn học hành
và mẹ con không phải xa cách nhau, vậy xin sư phụ hãy nhận lễ biết ơn
của mẹ con đệ tử.
Thất Lý đạo nhơân đỡ mẹ con Lý thị dậy :
– Phu nhân liệu thu xếp hành trang, ba ngày nữa bần đạo sẽ trở lại đây rước đi.
Dứt lời, đạo nhân ra đi.
Lý thị bàn với lão bộc Trương Đức và người nhà rồi thu xếp cùng
đạo nhân trở lại Thất Lý sơn dựng một ngôi nhà cỏ ở gần am thiên tạm trú trong thời gian hai anh em họ Âu Dương cùng thọ giáo.
Mười năm sau, lúc bấy giờ nước Sở đã mạnh, Bình Vương thi hành
chương trình bình thiên hạ. Mục tiêu đầu tiên là diệt Hàn lấy lối đi.
Đoàn viễn chinh quân đóng trại trùng trùng điệp điệp cả ngoài
kinh thành Thọ Xuân, chỉ còn chờ ngày lành là Sở Vương ra tế cờ thân
chinh.
Ngay dịp đó, một hôm bỗng có hai đạo sĩ một già râu tóc bạc phơ
Tiên Phong đạo cốt, đai giắt hồ lô, một trẻ trạc độ mười chín đôi mươi,
mi thanh mục tú, lưng đeo trường kiếm, đủng đỉnh đi đến trước Ngọ môn
cười sằng sặc xong rồi lại khóc một lúc.
Vệ Quân lấy lạ bèn chạy ra hỏi :
– Hai đạo sĩ điên rồi này sao lại tới chỗ cấm địa này mà cười cười khóc khóc? Biết điều đi nơi khác ngay.
Lão đạo sĩ điềm đạm nói :
– Bộ các ngươi thì biết gì mà hỏi lôi thôi! Ta muốn đi thì đi
muốn đứng thì đứng, cấm làm sao được? Tiếc thay cho vị minh quân sắp
xuất chinh mà ngu tối không hiểu gì cả…
Một vệ quân trừng mắt quát :
– Mấy nhà tu hành gàn dở này đi ngay, coi chừng phạm tội khi quân rụng đầu đó nghe.
Hai đạo sĩ vẫn đứng nguyên chỗ tiếp tục việc “khóc, cười”.
Vệ quân bực mình đẩy hai người ra chỗ khác, nhưng lạ thay cả hai càng đứng vững như núi, lay không chuyển.
Viên trưởng đoàn lấy làm kỳ dị nghĩ thầm, chưa biết chừng hai
đạo sĩ là bậc dị nhân có ích cho việc xuất chinh của Nhà vua, bèn vội
vàng vào báo tự sự cho Sở Vương.
Lúc đó thì nhà vua đang sắp sửa dùng Ngọ phạn, nghe báo lấy làm lạ, tò mò truyền vệ quân điệu hai đạo sĩ đó vào nội điện.
Sở Vương nghĩ thầm :
– Quả nhân vẫn muốn thâu những bực dị nhân có thể giúp ích cho
cuộc trường chinh sắp tới đây, biết đâu không phải là hai người này.
Nghĩ vậy, Nhà vua liền truyền hoãn dọn bữa, chờ xem bọn đạo sĩ làm gì.
Lát sau, vệ quân dẫn đạo sĩ vào tới nơi. Hai người nhìn Sở Vương không chớp mắt hồi lâu bỗng quỳ cả xuống bái kiến, Lão đạo sĩ nói :
– Cúi xin minh quân tha tội mạn thượng cho, nhưng bần đạo vân du khắp thiên hạ mà đến nay mới thấy Thánh thượng quý tướng dáng ngôi
Hoàng đế trị vì thiên hạ thâu gồm chư hầu về một mối giang san, hiềm có
một điều…
Trúng tâm lý, Sở Vương khoan khoái thân đỡ hai đạo sĩ dậy, ban
kỷ cho ngồi, ngắm nghía nhận xét thấy hai đạo sĩ quả rất đạo mạo tiên
cốt, lấy làm đẹp ý hỏi rằng :
– Nhị vị đạo hiệu chi, từ đâu qua đây? Có thuật chi giúp quả nhân trong cuộc thân chinh này?
Lão đạo sĩ nói :
– Muôn tâu, bần tập tu ở Thái Hàng sơn, đạo hiệu là Kiếm Phong, còn ngu đồ là Kiếm Vân, nay y đã tứ tuần…
Sở Vương ngạc nhiên ngắt lời :
– Tứ tuần! Sao còn trẻ như người mới đôi mươi vậy?
– Muôn tâu, bần đạo nghiên cứu thuật trường sanh bất lão, mãi
sau này mới đạt được kết quả nên thử áp dụng cho Kiếm Vân, bởi vậy y mới được trẻ mãi từ năm mười tám cho đến nay không hề thay đổi.
– Riêng phần bần đạo thì chỉ được trường sanh chớ không được
trường thiếu. Năm nay ngót chín mươi ba tuổi mà còn tinh tường khỏe mạnh như thế là nhờ thuật đó.
Sở Vương mừng rỡ :
– Tiên trưởng có thể giúp quả nhân được không?
Muôn tâu, chuyến này từ Nam Hải qua Sở cũng vì coi thiên văn
thấy Đế tinh chói sáng ở đây, nên bần đạo cũng có ý giúp Bệ hạ đúng vận
mạng người có tướng tinh được hưởng thì sẽ thất đức, nên bần đạo phải
thận trọng.
Sở Vương gật đầu ngẫm nghĩ giây lát :
– Cớ sao tiên trưởng lại khóc, cười trước Ngọ môn vậy :
– Muôn tâu nếu không mạo muội thì làm sao được vào bệ kiến ngay.
Sở Vương đắc ý mỉm cười :
– Bây giờ Trẫm phải theo điều kiện gì để được hưởng trường sanh bất lão.
– Thưa rất khó và cũng rất dễ tùy theo trường hợp của từng
người. Trước hết, bần đạo cần có một chiếc vạc dầu cỡ trung bình, sau là hai chiếc sọ người.
Sở Vương giật mình hỏi :
– Sọ người!
Lão đạo sĩ khẽ gật đầu chậm rãi :
– Muôn tâu, chính vậy. Hai sọ người. Một cái của tên tử tù và
một cái của thuật gia đúc võ khí. Có vậy thôi. Sở dĩ bần đạo nói là khó
vì kiếm đâu ra sọ thuật gia đúc võ khí.
Sở Vương liên tưởng đến đầu Âu Dương Nghĩa năm xưa, bèn gật gù phán rằng :
– Được, Trẫm có thể cho kiếm ngay được. Chừng nào tiên trưởng thi hành? Trẫm sắp xuất chinh, không chờ được lâu.
– Muôn tâu, ngay đêm nay, giờ Tý trong một căn phòng kín đáo chỉ có Bệ hạ và chúng bần đạo.
Sở Vương ưng thuận, lưu hai đạo sĩ lại trong cung ban tiệc chay
và ngay chiều hôm đó đòi Văn Công vào chầu truyền lệnh lấy sọ Âu Dương
Nghĩa và sọ một tên tử tù.
Văn Công lúc đó thăng tới chức Tư Mã Đại Phu lấy làm ngạc nhiên hỏi nhà vua, nhưng Sở Vương giấu nhẹm, không trả lời rõ.
Tuy vậy, chung quanh võ phòng là nơi đặt vạc dầu, Sở Vương cũng cắt đặt vệ quân canh phòng nghiêm ngặt.
Đêm hôm ấy, hai đạo sĩ thiệt ra là Thất Lý đạo nhân và Âu Dương Thái vận đạo bào trông coi đun vạc dầu cho thiệt sôi.
Trên án thư gần đó để chiếc khay bày hai đầu lâu phủ vải trắng.
Đúng giờ Tý, Sở Vương vận thường phục tới. Thất Lý đạo nhân nói :
– Muôn tâu, bệ hạ tự tay bê chiếc khay này bày lên án thờ và thắp hương khấn theo nguyện vọng của bệ hạ.
Sở Vương lặng lẽ theo lời.
Chờ nhà vua khấn xong, Thất Lý đạo nhân và Âu Dương Thái cũng
quỳ xuống trước bàn thờ, cũng khấn lẩm nhẩm hồi lâu, lão đạo nhân đứng
lên giả đò đọc chân ngôn thần chú bùa trên hai đầu lâu, rồi mở hẳn vuông vải trắng ra thấy đề ở chiếc sọ bên tả Hoàng Vượng. Còn chiếc bên hữu
thì đề Âu Dương Nghĩa.
Uất hận trào lên tận cổ Âu Dương Thái cố dằn lòng điềm tĩnh hành lễ theo mưu kế do Thất Lý đạo nhân vạch sẵn.
Trước hết, Âu Dương Thái trịnh trọng bê chiếc đầu lâu Hoàng Vượng nhẹ tay thả vào vạc dầu.
Thất Lý đạo nhân nói với nhà vua :
– Tâu bệ hạ, chừng nào bần đạo rắc thuốc làm phép, nếu có khói
bốc lên thì bệ hạ khá cúi đầu trên mặt vạc dầu hô hấp lấy thứ khói đó
cho ngấm vào lục phủ ngũ tạng. Hết khói mới ngừng để chờ giai đoạn thứ
hai.
Nói đoạn, lão đạo nhân dốc hồ lô đổ ra mấy hoàn thuốc trắng,
liệng từng hoàn một vào vạc dầu, lẩm nhẩm đọc chân ngôn, tay bắt quyết.
Quả nhiên, lát sau, một lần khói trắng từ chiếc đầu lâu lững lờ
bay lên. Sở Vương đứng chờ sẵn bên vạc dầu liền cúi xuống thật tình hô
hấp làn khói kỳ diệu ấy để được… trường sinh bất tử.
Thừa dịp nhà vua đang mải miết với làn khói… nhiệm mầu, Âu Dương Thái lẹ như chớp, tuốt Trảm Lư hùng kiếm quát lớn :
– Ác vương, coi con Âu Dương Nghĩa báo thù.
Một làn kiếm hoa lên, đầu Sở Vương rụng xuống vạc dầu đang sôi
sùng sục thịt bị bở hẳn ra, rữa rất mau lẹ. Còn xác thì đổ sang bên, máu phun như suối.
Theo kế hoạch thì Âu Dương Thái phải lặng lẽ hạ sát Sở Vương
nhưng trong lúc trông thấy đầu lâu của người cha thân yêu, chàng thanh
niên uất hận không dằn được lòng nữa, mới quát lớn để cho kẻ thù biết là dòng họ Âu Dương báo thù.
Biết Âu Dương Thái nóng giận làm lộ chuyện, Thất Lý đạo nhân vội vàng sắn đạo bào lên, bọc đầu lâu Âu Dương Nghĩa vào tấm vải trắng toàn mở cửa đi ra, thì viên Vệ tướng có trách nhiệm canh phòng bất trắc ở
ngoài cửa chợt nghe thấy tiếng quát, nên tự ý mở cửa ló đầu nhìn vào
thấy Sở Vương bị sát hại, y tuốt đao nhảy xổ vào định bắt sống hai đạo
sĩ. Chẳng ngờ Âu Dương Thái đã lẹ tay hơn đưa luôn lát kiếm trúng cổ,
đầu vệ tướng bắn luôn vào vạc dầu rữa nát trong nháy mắt như đầu Sở
Vương. Thất Lý đạo nhân vội kéo tay Âu Dương Thái chạy ra ngoài đóng cửa lại cẩn thận rồi băng mình vào bóng tối đi thẳng.
Đồng bọn vệ quân đi tuần quanh khu điện ấy, lúc trở về không
thấy viên Vệ tướng đâu cả lấy làm lạ, tìm quanh quẩn cũng vô hiệu
nghiệm, bèn đánh bạo mở cửa vô phòng nhìn vào. Thấy Sở Vương và viên Vệ
tướng bị ám sát, chúng hoảng hồn chia nhau ra, kẻ vào nội cung đánh
phèng la báo động, kẻ đi lùng bắt thích khách…
Nhưng bắt sao được! Thầy trò Âu Dương Thái đã cao chạy xa bay ra khỏi hoàng cung, nhằm nẻo Thất Lý sơn.
Khi toàn thể hoàng cung và bách quan được báo vào tới võ phòng
thì trong vạc dầu chỉ trơ ra ba chiếc đầu lâu trắng hếu, không ai phân
biệt nổi đâu là đầu Sở Vương, đầu Vệ tướng hay là đầu Hoàng Vượng đâu
nữa. Bách quan đành bàn kế là phải chôn cả ba chiếc sọ với xác Sở Vương. Bởi vậy, người sau khi nhắc tới nước Sở đều nói: “Sở quốc tôn hữu tam
mộ đầu”.
Sở Vương đã mất, cuộc xuất chinh đành bỏ dở. Nhờ cuộc báo thù
của họ Âu Dương, bao nhiêu sanh linh liệt quốc đỡ bị vong mạng vì chinh
chiến.
Nói về thầy trò Âu Dương Thái về tới Thất Lý sơn, Lý thị mừng rỡ vì mối thù huyết đã báo phục, nhưng khi trông thấy đầu chồng thì người
tiết phụ ấy lăn ra khóc thương thảm thiết đến chảy cả nước mắt.
Âu Dương Thái bàn với mẹ đem chôn đầu cha ở sau ngôi nhà cũ, và
cất luôn một ngôi nhà khác lên nền móng xưa để ba mẹ con cùng ở.
Về sau, Thất Lý đạo nhân mất, Âu Dương Thái tình nguyện thể phát nối nghiệp sư phụ tu luyện thiền am, lấy pháp hiệu là Âu Dương đạo
nhân.
Nhiều năm sau, Lý thị mất, Âu Dương Tòng đeo Trảm Lư hùng kiếm
đi chu du thiên hạ và không thấy ai nói tới nữa vì tiểu sử cây báu kiếm
đến đây là hết…
Nghe Chu Đức Kiệt kể chuyện tới đây mọi người đều lấy làm thích thú.
Nhấp ly nước trà do Âu Dương Bích Nữ rót, Đức Kiệt nói tiếp :
– Không hiểu tại sao thanh Hùng kiếm này lại lạc ra khỏi họ Âu
Dương. Đến đời Đường, Tần Vương Lý Thế Dân ham cây Hùng kiếm ấy cho viên kiện tướng dày công hãn mã phò họ Lý là Chu Đức Qui tức là nội tổ nhà
họ Chu chúng tôi.
Chu gia giữ mãi báu kiếm này, đến đời Chu Tam Úy thời Nam Tống
bỏ võ theo văn, thì tặng cho Nhạc Phi báu kiếm còn lưu lạc một thời gian mới về tay họ Tề Quân. Và bây giờ lại về tay Chu gia chúng tôi, nhưng
theo ý gia muội Lam Y có lẽ muốn hoàn lại họ Âu Dương, tặng cho Bích Nữ.
– Nhà ta người nào cũng có Tòng, phải chăng là dòng dõi của Âu Dương Tòng thời Xuân Thu Chiến Quốc thưa nhạc phụ.
Trại Mạnh Thường trầm ngâm nói :
– Trở về nước không biết được, nhưng từ tàn Đường về đây thì thế hệ nào, họ Âu Dương cũng có chữ Tòng.
Lam Y nói :
– Còn một sự liên lạc khá dị kỳ nữa.
Âu Dương Tòng Cát hỏi :
– Điều chi vậy?
Lam Y nhìn mọi người, chậm rãi nói :
– Thanh Trảm Lư hùng kiếm trước đây đã được Nhạc Phi dùng. Hiện
nay dòng họ Nhạc còn có Nhạc Lan Anh ở Kim Lăng. Song thân Lan Anh là
Nhạc Hoành và phu nhân cũng bị tên gian vương hãm hại.
– Đến nay, Tề tiên sinh cũng có thù với Vĩnh An mà lại trao cây
Trảm Lư cho chúng tôi báo oán hộ, phải chăng việc báu kiếm xưa kia đã do cao tổ nhà họ Nhạc dùng, nay sẽ uống máu kẻ gian ác sát hại con cháu họ Nhạc, chẳng là một sự liên lạc kỳ dị hay sao.
Lam Y nói đoạn, hay tay cầm lấy cây Trảm Lư đưa đến trước mặt Âu Dương Bích Nữ :
– Ngu muội vẫn ao ước tặng tẩu tẩu một bảo vật vô giá, vậy xin
nhận lấy kiếm báu này và lãnh luôn trách nhiệm rửa hận cho Tề tiên sinh
và họ Nhạc luôn thể.
Âu Dương Bích Nữ hân hoan đỡ lấy kiếm :
– Điều này còn cần có sự ưng thuận của Tề tiên sinh.
Tề Quân Bảo đứng lên cung xá :
– Tôi vừa được nghe lệnh hôn phu Chu đại hiệp thông kim báo cổ
lai lịch Trảm Lư kiếm thì nay tiểu thư làm chủ Hùng Kiếm cũng rất xứng
đáng. Mục đích của tôi là cốt sao trả được thù nhà.
Âu Dương Bích Nữ nghiêm nghị đáp :
– Tiên sinh có thể tin được ở tôi. Tôi sẽ vì đại danh của Lam Y nữ hiệp hoàn tất vụ này.
Lão anh hùng Trại Mạnh Thường nói :
– Từ trước tới nay, chủ trương của võ Thiếu Lâm tự là công phu
căn bản chớ không có sưu tầm bảo khí. Nay tiện nữ nhận được báu kiếm quả là ngoài sự mong ước của môn đồ Thiếu Lâm. Nhân lúc này trước sự hiện
diện của Tề Quân Bảo, người con gái của dòng họ Âu Dương cũng nên thử
vài đường kiếm xem sao, trước là múa vui sau là kiểm soát lại công phu
luyện tập xem có đủ khả năng dùng thứ kỷ vật ấy không.
Âu Dương Bích Nữ mỉm cười đứng lên trước sự hoan hô của mọi người.
Lam Y mỉm cười đẩy kỷ đứng lên theo :
– Đã vậy, tôi xin cùng Âu Dương tẩu tẩu bạt kiếm mới làm nổi bật được công phu luyện tập tiềm tàng của môn phái.
Chu Đức Kiệt đưa mắt nhìn Tòng Cát, Tòng Đức mỉm cười.
Âu Dương Tòng Cát nói :
– Không ngờ lại được xem hai kỳ nữ Nam, Bắc tranh hùng, Tề tiên sinh may mắn lắm đó.
Trại Mạnh Thường nói :
– Nếu vậy ta nên ra võ sảnh rộng hơn, hợp hơn.
Lam Y nữ hiệp trở về phòng lấy Thái Dương kiếm.
Tòng Đức sai thể nữ vào báo với Âu Dương phu nhân biết cuộc giao đấu giữa Âu Dương Bích Nữ và Lam Y, và thỉnh phu nhân ra xem.
Một mặt chàng cho gia nhân báo với các thực khách trong trang biết.
Thế là chỉ trong nháy mắt toàn thể mọi người trong trang đã kéo
đến tụ tập đông đủ tại nơi võ sảnh rộng rãi, dự cuộc so kiếm hãn hữu đó.
Lão anh hùng Trại Mạnh Thường và phu nhân đứng giữa Tòng Cát,
Tòng Đức đứng bên tả, Chu Đức Kiệt và Tề Quân Bảo đứng bên hữu. Mọi
người dàn cả hai bên bao bây khắp võ sảnh.
Lam Y vận võ phục đen tuyền, lưng cài trường kiếm Thái Dương.
Âu Dương Bích Nữ vận võ phục đỏ sẫm bông trắng, gài Trảm Lư hùng kiếm.
Cả hai cùng đẹp lộng lẫy, cái đẹp của bực anh thư cân quắc, theo nhau bước vào võ sảnh giữa tràng pháo tay vang dậy.
Lam Y đứng sang hướng Bắc, Âu Dương Bích Nữ xoay lưng về hướng Nam.
Trại Mạnh Thường thấy mọi người đã sẵn sàng, liền vỗ tay ra hiệu khai đấu.
Hai hiệp nữ cùng đến trước mặt lão anh hùng cung bái, rồi trở về bộ vị cũ. Lam Y nói :
– Xin mời Âu Dương tẩu tẩu:
Cô gái Thiếu lâm hé miệng tươi như bông phù dung, lộ hàm răng ngà đều đặn :
– Kính mời hiền muội.
Cả hai cùng nhịp nhàng tiến ra giữa sảnh đảo quyền bái chào.
Cử tọa im phăng phắc theo dõi.
Chào nhau xong, hai hiệp nữ cùng đảo người đi một vòng, rút phắt cây báu kiếm, lưỡi sáng long lanh.
Lam Y đảo Bắc Cước Ngọc Hoàn Bộ chuyển sang Chảo Mã Tấn cầm ngược kiếm bái tổ.
Âu Dương Bích Nữ thoăn thoắt đưa chân theo Tung Sơn Mai Hoa cước tiến tới, hai tay cặp ngang lưỡi Trảm Lư rồi đảo sang Chảo Mã Tấn bái
tổ, chào lại.
Một người như hồng loan, một người như lam phượng, đứng im như tượng thạch, tuyệt đẹp.
Sau giây phút bái tổ theo luật lệ khởi đấu, hai hiệp nữ anh hùng cùng nhảy lùi lại ba bước. Lam Y đảo sang độc tấn, chân tả co lên, tay
hữu cầm kiếm dốc xuống, tay tả xòe ra đón lấy lưỡi kiếm theo thế Anh
Hùng Độc Lập vừa đẹp vừa dữ như mãnh sư hí cầu.
Tung hẳn cây Trảm Lư lên cao, Âu Dương Bích Nữ nhẹ nhàng bắt lấy chuôi kiếm thấp hẳn xuống tấn Mã tử, toàn thân dồn xuống chân hữu, chân tả duỗi dài, thâu tay hữu vào sườn, đưa mũi kiếm ngược lên cao, tay tả
xòe ra áp vào lưỡi kiếm. Theo thế Hoàng Long Thám Chảo uyển chuyển như
rồng vờn sóng cả.
Dù người chưa hề luyện võ, trông thấy hai danh đồ Nam Bắc khởi đấu cũng phải nhận thấy ngay là hảo thủ chân truyền.
Một bên Lam Y khởi bài Thái Dương Ngũ Môn Độc Kiếm, một bên Âu Dương Bích Nữ áp dụng bài danh kiếm Thiếu Lâm Bát Bộ Liên Hoa.
Bỗng lẹ như chớp, hai nữ danh thủ đảo bộ nhào vào tranh đấu. Hai lưỡi kiếm gạt đỡ chạm nhau bật lên những tiếng lảnh ghê rợn! Cây Thái
Dương tỏa ra làn bạch quang lấp lánh, quay tròn lấy bóng Lam Y uyển
chuyển nhịp nhàng. Thanh Trảm Lư rít lên tỏa làn điệu tử điện huyền ảo
kinh hồn, bao bọc lấy hồng y Âu Dương Bích Nữ hùng dũng vô song.
Càng đánh càng hăng, hai đấu thủ xoắn lấy nhau, biến hiện vô
cùng. Hai làn kiếm mỗi lúc một tỏa rộng, lúc rít lên như lụa xé, khi vi
vu như tiếng sáo thông reo, lãnh khí tỏa rộng khiến cử tọa đều rùng mình rợn gáy.
Cơ gặp ngang tay, tương phùng địch thủ, mỗi thế kiếm là một công phu khổ luyện, siêu đẳng của nhà nghề. Long tranh hổ đấu không mấy hai
danh thủ đã đấu dư hai trăm hiệp bất phân thắng phụ.
Trại Mạnh Thường bây giờ mới tận tình thưởng thức tài nghệ của
nữ hiệp áo lam, khen ngợi luôn miệng quả là danh bất hư truyền, trên đời ít người sánh kịp. Nhưng lão anh hùng cũng sung sướng khi thấy họ nữ Âu Dương không sút kém đám bậc danh tài, không phụ công lao tuy khổ truyền của Chiêu Đức sư trưởng Thiếu Lâm tự và cũng của chính mình. Biết bản
lãnh của ái nữ đã đạt tới bực siêu đẳng lại thêm tánh tình ương ngạnh
lão anh hùng phải phục, vẫn lo khó chọn bực giai tế xứng đáng khả dĩ cho nàng phải phục tùng thì may thay, tình Bắc duyên Nam gặp ngay đại hiệp
Chu gia.
Trại Mạnh Thường nói lớn :
– Hai con hãy ngừng kiếm, biểu diễn thế là đủ rồi.
Nghe lệnh, Lam Y và Âu Dương Bích Nữ liền hồi kiếm về bái tổ, mặt không biến sắc, hô hấp điều hòa.
Lam Y nhìn Âu Dương Bích Nữ nói trêu :
– Xin phục tẩu tẩu, Chu huynh dù khó tánh đến đâu cũng không còn điểm nào chê trách được nữa.
Cử tọa vui mừng vỗ tay khen ngợi ầm ầm.
Âu Dương Bích Nữ tra kiếm vào bao, hai má đỏ ửng kiều diễm lạ
thường, khẽ lườm cô em chồng rồi khép nép đứng vào bên mẫu thân. Lam Y
hỏi Tề Quân Bảo :
– Tiên sinh thấy thế nào.
Họ Tề hân hoan :
– Tài ấy kiếm ấy, xứng đáng quá! Tề mỗ tôi coi như mối huyết thù đã được hoàn toàn bái phục.
Mọi người tan rã đâu về đấy.
Trại Mạnh Thường và phu nhân mời Tề Quân Bảo cùng các con trở về đại sảnh dùng bữa.
Lão anh hùng hỏi họ Tề :
– Tiên sinh ở lại tệ trang cùng lão phu đàm luận, chừng nào báo phục xong sẽ về.
– Thưa, nay đã chọn được mặt gửi vàng, tiểu tử sẽ nán lại bầu
bạn lão bá vài ngày nữa rồi trở về Lư Cầu kiều. Việc nhà bộn bề không
thể đi lâu được hơn nữa.
Biết không thể giữ được, Trại Mạnh Thường cũng không nài ép.
Mấy hôm sau, họ Tề bái biệt mọi người ra đi.
Âu Dương Tòng Đức thân đánh xe tứ mã đưa họ Tề quân ra tận Tô
Châu, tìm đoàn xe chắc chắn chở hành khách lên Bắc gởi gấm cẩn thận rồi
mới trở về.
Tề Quân Bảo đi khỏi được hai hôm thì Hàn Kỳ trong Tam Môn cốc
biên thiệp mời vợ chồng Trại Mạnh Thường, ba anh em Âu Dương và Chu gia
song hiệp, vào Hàn gia trại dự tiệc. Họ Hàn mời cả cha con Địch Lân và
Lâm Diêm Bá vì sau cuộc giảng hòa ở Âu Dương trang, hai họ Địch Hàn đi
lại với nhau rất thân mật. Hàn Kỳ chịu nhún, bắt Hàn Gia Tam Mã xin lỗi
Địch Phượng Tiên về vụ giỡn Dương Hoài Ngọc.
Từ ngày biết rõ tánh tình Hoài Ngọc, Địch Phượng Tiên cũng hể hả không nóng giận như trước, vậy cũng vui lòng bỏ hết các sự xích mích đã qua.
Về phần Tam Mã cũng vậy, Hàn Kỳ đem việc gặp năm người con Trại
Mạnh Thường là nhưng nhân vật có bản lãnh siêu việt mà tánh tình thì ôn
hòa nhã nhặn ra khuyên dạy, Tam Mã lấy làm thích thú và muốn kết giao,
yêu cầu cha mời tiệc để sớm được gặp họ. Thiệt ra, ba anh em Hàn gia
cũng không đến nỗi nào.
Trước kia, hai trại còn thú ghét nhau, Tam Mã lúc nào cũng sống
tình trạng căng thẳng, nên hễ gặp dịp là tìm cách gây sự với đối phương, thành thử dưới mắt họ Địch, lẽ cố nhiên Tam Mã là những kẻ vô loại côn
đồ.
Hôm đại tiệc, Hàn Kỳ tiếp đãi quan khách rất niềm nở.
Hà thái thái ngồi riêng thồi với Âu Dương phu nhân, Lam Y, Bích Nữ và Phượng Tiên.
Tòng Cát, Tòng Đức vốn quảng giao bèn kết thân và mời Hàn Gia
Tam Mã sang chơi bên Âu Dương trang, yêu cầu ba người trổ tài kỵ mã.
Mấy hôm sau, Địch Lân cũng đãi tiệc mời bên Âu Dương và toàn thể nhân viên bên Hàn gia trại.
Bên đó, bên thồi tiệc phụ nữ có thêm Phượng Tú Kiều.
Âu Dương phu nhân thấy tư cách nhàn nhã thùy mị của cô gái họ
Phượng thì lấy làm quý mến, có định ý riêng nên dặn Bích Nữ mời Địch
Phượng Tiên bữa nào sang Âu Dương trang.
Về đến nhà, phu nhân gọi con gái vào tư phòng bảo rằng :
– Trai khôn lấy, vợ gái lớn gả chồng, nay con là người nhà họ
Chu rồi đây sẽ phải theo chồng. Hai anh em con đã lớn tuổi mà chưa có
người nào lập gia đình, mẹ áy náy không an tâm. Từ trước tới nay nhiều
nơi mối lái, hai anh con cũng không ưng thuận nơi nào cả. Mẹ muốn hỏi
Lam Y cho Tòng Cát nhưng ngặt một nỗi là phải kiêng cử việc trao đi con
gái giữa hai họ để tránh điểm bất thường. Vậy việc ấy coi tựa như không
thể thành tựu được, tuy mẹ rất tiếc Lam Y. Nay mẹ ưng ý Phượng gia nữ,
muốn hỏi nó cho Tòng Cát và con thử dò ý anh con xem sao. Riêng ý con
nghĩ thế nào?
Âu Dương Bích Nữ nói :
– Từ ngày hứa hôn với Chu lang, con cũng rất thắc mắc về việc
thân hôn định tỉnh song thân. Cha già, mẹ yếu, một mai con ra đi quả
không an lòng chút nào. Nay mẫu thân đã dạy như vậy, để con dò ý trưởng
huynh xem thế nào. Dù sao, một trong hai người, hoặc trưởng huynh, hoặc
nhị huynh an bài gia thất, con mới có thể hợp hôn với Chu lang được.
Nói đoạn, nàng mắt huyền rớm lệ.
Hôm sau, trong khi vắng vẻ, Âu Dương Bích Nữ nói chuyện riêng với Tòng Cát. Nàng hỏi :
– Hôm rồi, tại Địch gia trại, huynh trưởng có để ý tới việc gì không?
Tòng Cát mỉm cười ngạc nhiên :
– Tam muội hỏi ngu huynh như vậy là thế nào? Bên Địch gia trại cũng như Hàn gia trại có chi lạ.
– Không, ngu muội muốn nói rằng huynh trưởng có để ý tới nhân vật nào hôm dự tiệc tại Địch gia trại.
Tòng Cát suy nghĩ giây lát :
– Có mấy người thì cũng quen thuộc cả. Hiền muội thấy ai lạ? Nhân vật ấy là nam hay nữ.
Âu Dương Bích Nữ hỏm hỉnh :
– Bên thồi tiệc phụ nữ đó.
Tòng Cát ngẩn người ra, hỏi lại :
– Địch Phượng Tiên hả, ngu huynh đã gặp nàng hôm ở Hàn gia trại.
Âu Dương Bích Nữ lắc đầu :
– Ngoại trừ Phượng Tiên vì nàng đã có hôn phu rồi.
Tòng Cát gật gù :
– A! Hiền muội định nói về cô gái Phượng gia?
– Chính vậy! Người dịu dàng thinh sắc đó chớ? Lấy chồng, người ấy tất là hiền nội trợ biết phụng dưỡng… cha mẹ chồng.
Tòng Cát lưỡng lự :
– Ờ, hiền muội đoán có lẽ đúng, tiếc rằng nàng không uy võ như Chu Tú Anh.
Âu Dương Bích Nữ mỉm cười :
– Trời ơi! Trên đời này mấy người được như Lam Y nữ hiệp? Trưởng huynh không nên bì như vậy.
Tòng Cát hỏi vặn :
– Nói gì trên đời này xa xôi đâu đâu! Ngay tại đây, như hiền muội không ngang với Chu Tú Anh đó sao?
Âu Dương Bích Nữ lắc đầu :
– Hôm thử Trảm Lư trường kiếm chắc trưởng huynh không nhận xét
kỹ càng. Lam Y nữ hiệp vượt bực, nhưng nhã nhặn dấn cầm chừng để khuyến
khích tiểu muội đó. Nếu là kẻ thù, đấu tay đôi như vậy, vị tất tiểu muội chịu nổi trăm hiệp với nàng, chớ đừng nói hai trăm nữa!
– Nói bậy nào! Ngu huynh nhận xét rất rõ ràng. Thoát khỏi mắt
này sao được. Nhưng có sao đâu? Hai người tài giỏi cùng ở một nhà như
hiền muội và Lam Y là một chuyện hay. Ngu huynh mừng thay cho Chu gia… Nào, bây giờ trở lại chuyện cô gái họ Phương. Hiền muội định nói gì?
Âu Dương Bích Nữ dịu nét mặt lại :
– Tiểu muội là em út trong gia đình đâu dám phạm thượng khuyên
ngược lại trưởng huynh, Tiểu muội chỉ diễn tả lại ý mong muốn của lão
mẫu.
Chẳng nói ra trưởng huynh và ngay cả nhị huynh cũng thừa hiểu
song thân tuổi hạc đã cao, gia sản lớn có người trông nom giúp đỡ và hơn nữa, cũng mong có cháu nội để an tâm về sự nối dõi tông đường. Nay nhị
vị hiền huynh cũng tam thập cả rồi mà chưa lập gia đình. Song thân lấy
làm nghĩ ngợi tuy không nói ra miệng. Nay thấy Phượng thơ thơ tánh tình
dịu hiền, mẫu thân có ý muốn hỏi cho trưởng huynh cà có bàn định với
tiểu muội. Bởi vậy tiểu muội mới thử ý trưởng huynh xem sao. Mẫu thân
nghĩ nhiều lắm. Người lo lắng không vui.
Tòng Cát suy nghĩ hồi lâu :
– Ngu huynh nói thật cho hiền muội biết. Ta đã có ý nói với song thân hỏi Chu Tú Anh ngay từ hồi đầu mới gặp nàng tại Kim Lăng. Chẳng
ngờ Đức Võ Thượng Nhân lại tới hỏi trước với phụ thân hỏi hiền muội cho
Đức Kiệt, thành thử ngu huynh đành dẹp mối tình u uất ấy sang bên. Từng
này tuổi đầu làm gì mà ngu huynh không hiểu sự tối kỵ trong việc đổi anh em hai họ? Bởi vậy ngu huynh không muốn tiến hơn nữa, và trái lại rất
mừng cho hiền muội và Đức Kiệt quả rất xứng đôi vừa lứa.
Đức độ, tuấn kiệt, hào hùng, có chồng như vậy, hiền muội nên xử
sự sao cho khỏi phụ lòng chàng. Đó là lời khuyên duy nhất của ngu huynh.
Đã không duyên không nợ cùng Chu Tú Anh, hiền muội thử coi, thì
phu phụ vẫn không thành! Ngu huynh biết an phận thủ thường. Nàng như
cánh chim bằng hạt gió hành hiệp bốn phương, thì dù ngu huynh đây có là
chiếc lồng vàng cẩn ngọc lung linh cũng chẳng xao xuyến nổi con người
đẹp tựa tiên nga nhưng phần tình ái thì băng giá lạnh lùng!
Âu Dương Bích Nữ nhìn anh ái ngại hồi lâu mới cất tiếng hỏi :
– Còn Phương Tú Kiều, hiền huynh nghĩ thế nào?
Tựa lan can, Tòng Cát bâng khuâng sầu hận lơ đãng nhìn khóm lan
rung rinh giỡn gió bên ngọn giả sơn uốn éo, ẩn hiện mấy nhịp phi kiều
thơ mộng quanh co…
Chàng hình dung Nữ hiệp áo lam kiều diễm tuyệt vời, anh thư nhất mực, đang chống kiếm đứng trên cầu, hờ hững nhìn thấy chiếc lá bạc hững hờ trong hồ nước bát giác trong veo.
– Còn Phượng Tú Kiều, hiền huynh nghĩ thế nào?
Tòng Cát giật mình trở về thực tế, hai má đỏ bừng tưởng như cô em thân mến vừa nhìn thấu suốt được mộng lòng ảo ảnh của mình.
Chàng mỉm cười nhìn Bạch Nữ :
– Hiền muội thưa với mẫu thân rằng ngu huynh ưng thuận Tú Kiều.
Mai mối sớm ngày nào hay ngày đó, vì hiền muội còn phải sửa soạn cùng
Chu lang và Lam Y sang Hàng Châu khai Trảm Lư hùng kiếm.
Được lời như cởi tấm lòng, Âu Dương Bích Nữ sung sướng đon đả trở vào phòng thưa lại cùng phu nhân.
Nhìn theo cô em đi khuất nẻo hành lang, chàng tuấn kiệt họ Âu
Dương thơ thái trở lại với bóng hình nàng Lam Y kiều diễm trên đợt phi
kiều, lơ đãng nhìn chiếc nhạn chân trời le bóng…
Mấy hôm sau, quả nhiên Địch Phượng Tiên sang Âu Dương trang thăm hai cô bạn mới.
Nhân dịp, Âu Dương phu nhân và Bích Nữ nói riêng với Phượng Tiên nhờ nàng làm mai mối.
Phượng Tiên mừng thầm cho bạn, nhận lời ngay và cấp tốc cùng thân phụ ra Tô Châu, Phượng Tú Kiều tay bắt mặt mừng đón bạn.
Phượng Tiên ranh mãnh chào bạn :
– Ngu tỉ có lời mừng hiền muội đó…
Tú Kiều ngạc nhiên nhìn Địch Lân và bạn :
– Ủa! Có điều chi mà chúc với mừng.
Địch Lân tủm tỉm cười im lặng. Phượng Tiên nói tiếp :
– Sao lại không đáng mừng. Nhưng lát nữa sẽ hay. Gia phụ có một
chuyện tối ư cần kíp muốn thưa riêng cùng bá mẫu. Còn chị em ta vào tư
phòng cùng nói… chuyện riêng.
– Hiền tỉ ác quá, giỡn hoài.
Nói đoạn, nàng vào hậu phòng thưa với mẹ việc Địch trang chủ
muốn gặp hỏi việc chi cần kíp. Phương thái thái vội vàng khoác áo dài,
cùng con gái ra khách phòng thi lễ cùng họ Địch.
Phượng Tiên kéo Tú Kiều về tư phòng :
– Ngồi đây! Đến lượt chúng ta bàn đại sự cơ mật…
– Trời ơi! Đại sự cơ mật? Nguy cấp không?
– Cấp chớ sao lại không.
– Trời!…
– Nhưng không… nguy.
– A!… Hiền tỉ khiến tiểu muội hết hồn! Nói ngay đi nóng ruột quá chừng.
Địch Phượng Tiên bắn giọng, chậm rãi. Tú Kiều ngẩn ngơ chăm chú chờ nghe.
– Hiền muội còn nhớ hôm tiếp tân trong Địch gia trại không?
Địch Phượng Tiên nheo mắt :
– Không cấp thì ai nói làm gì! Hãy cố nhớ và trả lời những cây
hỏi đây… Hiền muội có nhìn rõ mặt Chu đại hiệp, hôn phu của Âu Dương
Bích Nữ không :
– Có, chính hiền tỉ chỉ cho tiểu muội coi mà! Còn chớ rõ mà hôm
ấy, ngu muội lầm họ Chu với vị tuấn kiệt đi bên, người vận bạch bào, y
hệt anh em ruột.
Địch Phượng Tiên gật đầu :
– Đó! Phải rồi. Họ Chu vận bào lục bông trắng. Vị tuấn kiệt đi
bên và lúc nào cũng đứng liền nhau, vận bạch bào bông lục, dáng dấp như
nhau, cao lớn bằng nhau… Nhưng thật sự, hiền muội có phân biệt được
hai người ấy không cái đã.
Ngẩn ngơ không hiểu, Tú Kiều cũng trả lời :
– Tuy hai người ấy tương tự nhau, nhưng nếu có gặp vẫn phân biệt được như thường. Có việc chi vậy?
Người vận bạch bào đó là Âu Dương Tòng Cát, trưởng nam của lão
anh hùng Trại Mạnh Thường và là cao đồ Thiếu Lâm tự, đáng mặt trang tuấn kiệt đời nay…
Tú Kiều ngắt lời :
– À, tiểu muội hiểu rồi! Chắc hai nhân vật ấy xích mích với nhau phải không?
Phượng Tiên lắc đầu mỉm cười :
– Đâu có chuyện ấy, hiền muội ngốc quá! Có vậy mà không đoán ra. Đây nhé, nghe cho rõ. Vị tuấn kiệt nhà Âu Dương để ý tới hiền muội đó.
Tú Kiều dãy nẩy :
– Ý, hiền tỉ nói bậy nào…
Phượng Tiên nguýt Tú Kiều :
– Sao lại bậy! Gái lớn lấy chồng là lẽ tất nhiên! Một trang nam
nhi tài tuấn anh hùng trưởng nam một họ lớn nhất đất Giang Nam ai ai
cũng biết tiếng, để ý thương mến hỏi hiền muội làm vợ…
Phượng Tú Kiều e thẹn vân vê tà áo im lặng.
Phượng Tiên mỉm cười nói tiếp :
– Bữa nay gia phụ và ngu tỉ ra Tô Châu là theo lời yêu cầu của
Âu Dương lão anh hùng và phu nhân để bắt nhịp cầu Ô Thước, nối liền mối
lương duyên hai họ cho hiền muội và trang tuấn kiệt bạch hào ấy đồng
nghĩa ca khúc phụng cầu hoàn… Ngu tỉ xin chúc mừng hiền muội hảo cầu.
Nói đoạn, Phượng Tiên đứng dậy vái Tú Kiều.
Phượng nữ vội vàng đỡ lấy tay bạn dìu xuống ngồi bên :
– Ngồi xuống đây nói chuyện nào, làm tiểu muội thẹn… chết đi được.
Phượng Tiên đổi nét mặt nghiêm nghị như thường :
– Thôi, không giỡn nữa. Việc họ Âu Dương hỏi để kết thân là việc hay và tối ư quan trọng. Thiết tưởng không còn nơi nào hơn nữa.
Hiền muội chẳng nên do dự coi thường. Hôn nhân là việc hệ trọng, hiền muội may mắn hơn ta nhiều. Hiền muội nghĩ sao.
Phượng Tú Kiều suy nghĩ hồi lâu, bẽn lẽn đáp :
– Một khi Địch bá phụ và hiền tỉ lo liệu cho tất không phải việc tầm thường, song lẽ còn gia mẫu, người đặt đâu, tiểu muội ngồi đấy.
– Nghĩa là riêng phần Hiền muội thì chịu rồi chứ gì.
– Dạ…
– Nếu vậy cuộc hôn nhân này có thể coi như thành tựu, chắc bá
mẫu thế nào cũng chấp nhận. Đẹp đôi lắm, anh hùng với gái thuyền quyên,
tình loan duyên phượng, ca khúc bạc đầu. Này, nhớ biếu quà mai nhân đấy
nhé.
Tú Kiều thẹn thùng im lặng.
Hai chị em thủ thỉ chuyện trò đến trưa, nữ tì vào phòng mời ra dùng bữa, ngồi cùng thồi với Phượng thái thái và Địch trại chủ.
Địch Lân bảo Phượng Tiên :
– Việc hôn nhân của Tú Kiều đã được thái thái chấp nhận sau khi
so đôi tuổi hai người. Từ lễ vấn danh đến hôn lễ chỉ trong một thời gian ngắn, con liệu thu xếp ở hẳn đây ít ngày giúp thái thái và Tú Kiều kẻo
không kịp. Lát nữa ta sẽ về thẳng Âu Dương trang báo tin mừng.
Phượng Tiên nghe thân phụ nói hân hoan vô cùng.
Chiều hôm ấy, Địch Lân về tới trang trại Âu Dương báo tin. Trại
Mạnh Thường và phu nhân mừng rỡ loan tin cho toàn thể trong trang được
biết, một mặt lão anh hùng tức tốc biên thơ sai tráng đinh thân tín đi
Phúc Kiến lên Thiếu Lâm tự báo thiệp cùng sư trưởng Chiêu Đức.
Trại Mạnh Thường nói riêng với Địch Lân :
– Lão huynh đã ra công tác thành cho Tòng Cát nay còn việc này
riêng phân tôi và tiện nội sau khi bàn định rất lấy làm thắc mắc.
– Việc chi vậy? Xin lão huynh cứ dạy.
– Phương thái thái mẹ góa con côi, lo việc một mình chắc có
nhiều điều chi bất tiện, chi bằng nhờ lão huynh thưa lại với thái thái
cho phép chúng tôi lo liệu cả cho tân giai nhân và sau cuộc hôn nhân sẽ
xin mời thái thái về ở cả bổn trại để cho vợ chồng Tòng Cát được sớm hôm thần hồn định thần tính cho phải đạo rể hiền con quý. Được vậy, chúng
tôi mới an lòng. Đó là một điều thỉnh cầu nhờ cả ở lão huynh. Phương
thái thái ưng thuận, vợ chồng chúng tôi sẽ ra Tô Châu yết kiến sau.
Chẳng hay lão huynh nghĩ sao.
Địch Lân vui mừng gật đầu :
– Đó là hảo ý mà tôi cũng nghĩ tới. Chắc Phương thái thái không
nề hà để được gần thân gia và con mến, rể hiền. Tôi sẽ dàn xếp để Phương thái thái về đây trước ngày cử hành hôn lễ cho cả hai gia đình đều được vui vẻ.
Trại Mạnh Thường cả mừng :
– Được như vậy thì còn gì bằng nữa. Trăm sự nhờ lão huynh.
Mọi việc thu xếp đều được như ý định của lão anh hùng. Âu Dương
phu nhân sai người dọn dẹp trang hoàng sẵn một căn nhà riêng cho gia
đình họ Phương ở ngay khu trung tâm trong đại trang.
Nói về Lam Y nữ hiệp khi hay tin Âu Dương Tòng Cát sánh duyên
cùng Phương Tú Kiều thì nàng rất đỗi mừng thầm. Nàng thừa hiểu mối tình
thầm kín của Tòng Cát đối với nàng ngay khi còn ở Kim Lăng, nhưng trước
thời gian đó, nàng nhận thấy mối cảm tình sâu đậm giữa anh nàng với Bích Nữ, nên gạt bỏ hết vấn đề cá nhân. Nàng cố công vun xới cho mầm tính ái giữa cô gái Thiếu Lâm và người anh hùng duy nhất đáng kính của nàng
ngày đêm thêm đâm chồi nảy lộc.
Bất hiếu kiêu tam, vô hậu vi đại! Đức Kiệt là người con độc nhất của dòng họ Chu gia cần phải có người nối dõi, trước là khỏi mang tội
bất hiếu vô hậu với tổ tiên, sau là để truyền thống danh tiếng gia
truyền về môn đơn đạo của Chu gia đất Bình Dương, Sơn Đông. Mối tình ấy
đã trở thành duyên phu phụ, chỉ chờ ngày hợp cẩn. Nhưng mối tình ấy cũng là cả một bức tường thành ngăn đôi nàng và trang tuấn kiệt Âu Dương,
danh đồ Thiếu Lâm tự. Vì tình huynh muội, Lam Y cương quyết kiềm chế
được lòng mình ngay từ lúc sơ khởi, nên nàng không thấy đau buồn như Âu
Dương Tòng Cát.
Nàng đã vậy nhưng còn chàng phong lưu mã thượng Tòng Cát thì
sao? Bởi thế, nàng đêm ngày cầu mong cho Tòng Cát an bài gia thất, khỏi
vương vấn một mối tình vô vọng.
Hôm tin vui mừng được loan ra, Lam Y nữ hiệp gặp Tòng Cát chúc mừng :
– Tiểu muội có lời mừng hiền huynh. Phương tẩu tẩu là người nết ba hiền đức tài sắc song toàn.
Âu Dương Tòng Cát nghĩ thầm:
“Chà! Người đã không thèm để ý tới ta thì thôi nay lại còn vờ
vĩnh chúc mừng cái nỗi gì! Còn ngươi nữa chừng nào mới có chồng! Chỉ e
lấy phải một tên hèn kém, thì tha hồ đóng cửa mà dạy bảo. Đáng kiếp oan
gia”.
Hờn giận thì vậy, nhưng khi thấy cặp mắt phượng long lanh chan
chứa ẩn tình nhìn mình thì cơn giận tiêu tan ngay, nhường cho một mối u
buồn, thứ buồn ngất ngây tiếc thương một sự gì nay đã hoàn toàn vô vọng.
Chàng cất tiếng nhẹ nhàng :
– Sau bao nhiêu năm tìm kiếm đợi chờ một người hoàn toàn vừa ý,
thì nay bỗng nhiên ngu huynh lấy luôn cô gái mới thoáng biết vừa mặt độc có một lần. Vô duyên đối diện bất tương phùng là thế đó. Chu hiền muội
ạ!
Lam Y tự nhiên :
– Hiền huynh chẳng nên nói như vậy tội nghiệp cho tẩu tẩu Tú
Kiều! Tình yêu sẽ tới nơi sau nếp thương sao cả. Xưa kia các bậc tiền
bối không cần phải quen biết nhau trước mà vẫn bách niên giai lão, sanh
con đẻ cái đầy đàn, dựng nên cơ nghiệp muôn đời, ức như lão bá nhà ta
đây chẳng hạn.
Tòng Cát cười nửa miệng :
– Ví như vậy biết nói sao cho hết được. Còn hiền muội, chừng nào mới cho ngu huynh say bữa rượu mừng đây! Ý trung nhân của hiền muội hẳn phải là trang tuấn kiệt đệ nhất anh hùng, mà chúng ngu huynh đây đều
thua kém. Con người ấy hiện còn ở phương trời nào.
Thản nhiên trước câu mắng nhẹ, Lam Y mỉm cười ngắt lời :
– … Hay là chưa sanh! Hoặc đã thành thân rồi thì lại không oan trái nên chẳng thành nghĩa vợ chồng!…
Dứt lời, nàng cười như nắc nẻ đon đả quay đi, vừa đi vừa hỏi :
– Hiền huynh có ra Tô Châu mua hàng không? Tiểu muội rủ người cùng đi quà mừng tân lang đây.
Tòng Cát lắc đầu thở dài :
– Từ nay ngu huynh là người có bổn phận rồi, không dám tranh đua nữa.
Chàng ngẩn ngơ lặng lẽ nhìn tấm thân đều đặn tuyệt đẹp của Hiệp nữ kỳ tài đi khuất khỏi nẻo tường hoa.
Hôm ấy, anh em Chu gia cùng Âu Dương Bích Nữ và Tòng Đức đem
theo hai giai nhân đi hai xe ngựa ra Tô Châu mua các thứ cần dùng cho
cuộc hôn lễ và lễ vật mừng Tòng Cát.
Tới trưa bốn anh em đi qua phố lớn, Tòng Đức chỉ một tửu lầu ba tầng cực rộng lớn, cực kỳ sang trọng.
– Đói bụng rồi, vào Thiên Hương lầu uống rượu đã.
Rút tiền đưa cho hai giai nhân đi theo, Tòng Đức bảo :
– Các ngươi liệu dùng bữa trưa nhé. Thay phiên nhau coi xe cho cẩn thận.
Bốn người bước vào tửu lầu. Viên quản lý thấy bọn Âu Dương tới, đon đả chạy ra chào hỏi :
– Lâu nay không thấy thiếu gia và tiểu thư qua chơi.
Tòng Đức nói :
– Chúng tôi bận chút việc nhà nên ít ra Tô Châu. Quý tiệm phát tài chớ.
Chỉ thực khách đông đảo, viên quản lý nói :
– Ơn trời, bổn tiệm vẫn thường thường như thế này. Xin mời thiếu gia lên lầu còn nhiều chỗ tốt lắm.
Tòng Đức chỉ Chu Đức Kiệt giới thiệu là hôn phu của Bích Nữ.
Viên quản lý trầm trồ cung xá :
– Nếu vậy quý trang phùng song hỷ rồi. Chúng tôi mới nhận được
thiệp báo hỷ về việc thiếu gia Tòng Cát lập gia đình, chừng nào đến lượt tiểu thư ở riêng.
Tòng Đức đáp :
– Vụ hôn nhân của gia muội chưa định ngày, nhưng chắc cũng không lâu đâu.
Nói đoạn, chàng đưa tay mời ba người lên lầu ba chọn chỗ an tĩnh ngồi. Họ Âu Dương quen thuộc khắp Tô Châu, từ nghèo đến giàu ai ai cũng cất tiếng và mong được kết nạp với đại danh gia ấy. Ngay cả đến nhưng
tửu bảo làm việc trong các đại, tiểu tửu lầu cũng thuộc mặt anh em Âu
Dương. Cho nên khi bốn người vừa tới nơi thì chúng đã ân cần dành chỗ
tốt kéo ghế mời ngồi.
Tòng Đức gọi mấy món chuyên của Thiên Hương lầu.
Tửu bảo hỏi :
– Thiếu gia vẫn dùng Hồ Đào tửu.
– Ồ, lấy hai hồ thứ rượu đó lên đây.
Bốn người đang ăn uống vui vẻ, thì chợt nghe thấy ở căn phòng trung ương có tiếng người nói bô bô giọng Hồ Bắc :
– Dọn rượu mau! Lấy năm cân Hồ Đào thượng hảo hạng và có món chi ngon thì lấy ra đây. Đói quá chừng!
Lam Y mỉm cười nhìn mọi người :
– Gớm ông khách nào mà đòi uống những năm cân hồ đào tửu như vậy? Có lẽ Thiết Xích Tử đệ nhị đây.
Nghe Lam Y nói tới Thiết Xích Tử, Âu Dương Bích Nữ phì cười :
– Ông ta uống ghê thật! Mà bản lãnh cũng hay, xứng danh quái hiệp.
Chu Đức Kiệt nói :
– Thiên hạ rộng rãi bao Lam Y, càng đi càng học hỏi thêm và gặp
lắm nhân vật kỳ tài. Chưa biết chừng ông khác năm cân rượu ngoài kia
cũng là tay đại giang hồ.
Tòng Đức đứng lên dòm qua khe tấm bình phong, thấy tổng số đông
thực khách có một người trạc ngoài ngũ tuần, vóc người loắt choắt ngồi
một mình một thồi nhỏ trên bầy năm hồ rượu lớn và la liệt những thức ăn, lại có cả chiếc vòng sắt dựng bên.
– Người đó ăn uống ngốn khỏe như vòi voi cuốn lá.
Tòng Đức vội trở lại chỗ ngồi.
Đúng như lời Lam Y muội. Ông năm hồ rượu đó là Thiết Hoàn Tử Hồng Trường Hải, người Hán Dương bên Hồ Bắc.
Chu Đức Kiệt hỏi :
– Thiết Hoàn Tử?
Tòng Đức gật đầu :
– Hồng Trường Hải cũng là tay giang hồ kỳ hiệp, có tài sử dụng
chiếc vòng sắt lớn bằng miệng thúng. Ông ta có thể bất chợt lúc nào cũng liệng chiếc vòng sắt chụp vào đầu khiến địch thủ chỉ sơ ý trong nháy
mắt là bị gãy cổ. Bởi vậy giới giang hồ mới tặng cho họ Hồng hổn danh
Thiết Hoàn Tử.
– Nhị vị có quen với Hồng Trường Hải.
– Ông ta là bạn thân của gia phụ. Chuyến này qua Tô Châu chắc thế nào cũng ghé thăm trang trại nhà.
– Nếu vậy, ta mời nhân vật qua thồi mình uống rượu.
Tòng Đức mỉm cười :
– Để Hồng thúc thúc ăn xong đã. Chúng ta dùng bữa sắp xong rồi, mà tiếp rượu nhân vật ấy chắc phải bò mới về nổi nhà.
Tòng Đức vẫy tay gọi tửu bảo :
– Ta trả tiền thế cho ông khách ngồi thồi uống năm hồ rượu bên
kia, nghe. Khi ông ta hỏi ai ngươi cứ nói là có Âu Dương trả rồi.
Tửu bảo vâng dạ lui ra. Tòng Đức nói tiếp với Đức Kiệt và Lam Y :
– Hồng thúc thúc vóc người nhỏ bé mà môn nội ngoại công phu rất
đầy đủ. Địch thủ không ngờ họ Hồng có sức, khinh thường nên dễ bị thiết
hoàn quật gãy cổ lắm.
Bích Nữ nhắc :
– Nhị huynh quên không nói rằng Hồng thúc thúc còn là một họa sĩ chuyên môn dùng thần khí họa cảnh “lão Tòng An Thái Dương”.
Tòng Đức gật đầu :
– Nghe nói nhưng chưa được coi. Chuyến này may ra gặp hôn lễ
Tòng Cát, Thiết Hoàn Tử sẽ cao hứng trổ tài riêng ấy cũng biết chừng.
Nói về Hồng Trường Hải khi ăn uống một chặp đã no nê, khiến thực khách ngồi quanh đó phải ngạc nhiên về tửu lượng, bèn vỗ bàn gọi tửu
bảo :
– Bồ Đào tửu của tiệm này tuyệt ngon! Bao nhiêu tiền tất cả?
Tửu bảo thưa :
– Dạ đã có người trả rồi.
– Ủa! Ai sẵn lòng trả thế cho ta vậy?
– Thưa đó là Âu Dương gia.
– A! Họ Âu Dương còn đây không? Ta đang muốn gặp.
– Còn ngồi sau bức bình phong kia ạ.
Hồng Trường Hải vác thiết hoàn lên vai lững thững bước sang phòng bên đi vào sau bình phong.
Bọn Tòng Đức đứng cả dậy vái chào :
– Biết thúc thúc ngồi đấy, nhưng tiểu điệt không theo được tửu
lượng thúc thúc nên bây giờ mới dám bái kiến, mong người lượng thứ cho.
Thiết Hoàn Tử cười vang hỏi Tòng Đức và Bích Nữ :
– Hiền điệt nữ đến đây hồi nào?
Tòng Đức đáp :
– Tiểu điệt ngồi đây từ trước rồi, nghe thúc thúc gọi năm hồ rượu nhìn ra mới biết là người nhà.
Nói đoạn chàng giới thiệu :
– Đây là Lam Y nữ hiệp Chu Tú Anh và Đơn Đao Chu Đức Kiệt, hôn phu của gia muội :
– A! Bấy lâu nay nghe đại danh mới được tương kiến thiệt là hữu hạnh.
Quay sang Bích Nữ, Thiết Hoàn Tử nói tiếp :
– Lão có lời mừng điệt nữ, chừng nào cho uống rượu đây.
Tòng Đức đỡ lời :
– Bẩm thúc thúc, chuyến này còn uống rượu của gia huynh trước đã, rồi mới đến lượt gia muội.
Thiết Hoàn Tử tặc lưỡi liếm môi :
– Hay quá! Tôi tới Tô Châu vừa đúng dịp. Nếu không gặp hiền điệt ở đây thì ta cũng vào Âu Dương trang thăm lão hữu Trại Mạnh Thường.
Chẳng hay người có mạnh không.
– Dạ, ơn trời, gia phụ được như thường. Thúc thúc từ đâu qua đây?
– Ta từ Yên Kinh xuống. Gặp dịp Mã nguyên soái hồi triều thành
bất ngờ được xem cuộc diễu binh lớn đặc biệt ở trước Ngọ môn. Bây giờ
quý vị hiền điệt đã định trở về chưa.
Tòng Cát đáp :
– Ngu điệt về bây giờ, mời thúc thúc cùng đi. Có xe chờ ngoài kia.
Năm người về tới Âu Dương trang, Trại Mạnh Thường thấy có cả Thiết Hoàn Tử, vui mừng quá đỗi :
– Ủa! Lão Vương tửu này ở đâu bò về đây thế này.
Thiết Hoàn Tử vuốt râu cười ha hả :
– Đang nhàn du trên đất Bắc nhưng đánh hơi thấy mùi rượu ở quý trang nên lần về đòi say đó.
Trại Mạnh Thường cười lớn, khoác tay bằng hữu vào đại sảnh :
– Tưởng đòi ăn gan rồng, chớ rượu thì lúc nào cũng có sẵn hàng lu chờ lão đệ.
Hôn lễ Tòng Cát đã sửa soạn xong. Lễ vật do các thân hữu của họ Âu Dương đem tặng đầy kho. Ngày nào cũng tiệc tùng linh đình.
Hôm đầu đãi các quan sở tại Tô Châu với sự hiện diện của Đề đốc Lương Cảnh Phiên. Đúng bảy hôm mới vãn khách và tới kỳ hôn lễ.
Đêm tân hôn, các anh em nhà và một số đông bằng hữu nam nữ của
anh em Âu Dương và Tú Kiều đua nhau náo tân phòng đến quá canh ba, Tòng
Cát mới được phép lảo đảo về tư phòng cùng giai nhân hiệp cẩn.
Phương Tú Kiều mặc áo gầm đỏ thêu kim tuyến, đầu còn phủ nguyên
khăn hương thẹn thùng ngồi nép mình bên giường thất bảo. Thị nữ dâng tấm khăn vò trầm hương nóng hổi lên Tòng Cát.
Tân lang lau mặt, thấy tỉnh tảo hơn trước, bèn vén rèm hoa ngồi
xuống bên giai nhân tuyệt sắc, Chàng nhẹ nhàng bỏ tấm lụa phủ mặt cô dâu sang bên :
– Đã là vợ chồng trăm năm đầu bạc, hiền thê sao lại thẹn thùng!
Xin lỗi hôm qua bị mọi người ép uống quá chén hơi say, nhưng cũng chẳng
bằng ly rượu đượm hương tinh hợp do bàn tay ngọc của hiền thê dâng tặng. Nào ra đây…
Tân giai nhân thẹn chín người, sắc diện hồng hào kiều diễm bội phần.
Nàng vẫn ngồi nguyên chỗ cúi đầu nhìn mũi giày, tay mân mê tà áo.
Tòng Cát đa tình khẽ cầm lấy bàn tay người ngọc dìu ra thồi tiệc hợp cẩn :
– Đêm nay, nhất khắc thiên kim… Mời hiền thê…
Tú Kiều rón rén theo tân lang, kín đáo liếc nhìn chàng tuấn kiệt nổi danh võ dũng với tước hiệu Cái Thiên Ô Vân, không ngờ chàng lại dịu dàng như một văn nhân hiếu sắc đa tình…
Nàng nhẹ tay cầm hồ ly rượu lưu ly rót đầu chén ngọc nâng mời :
– Thiếp phận gái liễu bề từ nay được núp bóng tùng quân cao cả,
chỉ e không đủ tài đức sửa túi nâng khăn giữ mãi mãi được khách anh
hùng.
Tòng Cát đỡ chén ngọc uống cạn, tự rót chén đầy, quàng vai Tú Kiều :
– Qua mời hiền thê cũng cạn ly này và nhận luôn cả mối tình say đắm…
Tú Kiều trìu mến nhìn chồng :
– Có thiệt không, thưa phu quân.
Tòng Cát mỉm cười :
– Hiền thê nghi ngờ qua sao.
Tân nương nũng nịu :
– Nhưng… không…
– Nhưng sao?…
– Hồi nãy trên thồi tiệc náo… tân lang, thiếp nhận thấy Nữ hiệp Lam Y kiều diễm bội phần và… và…
– Và thế nào?
– … Và nàng ta náo… phu quân nhiều quá nên thiếp hơi lấy làm lạ.
– Chà! Nàng là tay võ dũng xử sự quang minh như Nhựt, Nguyệt hiền thê chẳng nên bận tâm lưu ý. Uống đi cho mừng nào!
Tú Kiều đỡ lấy ly rượu men tình uống cạn, sắc diện hồng hào,
thêm trong ánh đèn huyền ảo khiến khách anh hùng ngây ngất si mê. Tòng
Cát đặt ly ngọc xuống bàn, bế bồng nàng lên tay sắt nhẹ nhàng như đóa
bông hương tỏa ngập hương yêu.
Chàng từ từ đặt nàng xuống giường…
Bọn thị nữ vội đưa mắt bảo nhau lẹ tay dẹp thồi tiệc rồi khép chặt cửa tân phòng.
Trai anh hùng kề má thuyền quyên, đêm xuân ngàn vàng khôn chuộc hương tình loan phượng ngây ngất vơi đầy…
Lễ thành hôn Tòng Cát được mươi hôm, Lam Y, Âu Dương Bích Nữ và Chu Đức Kiệt xin phép Trại Mạnh Thường sửa soạn đi Hàng Châu.
Trại Mạnh Thường căn dặn :
– Hành động chuyến này có tính cách rất quan trọng, các con có biết tại sao không?
Chu Đức Kiệt đáp :
– Thưa nhạc phụ, phải chăng vì mục tiêu là một vị Tổng đốc, hơn nữa vị quan cao cấp ấy thuộc hoàng phái.
– Chính vậy. Tội trạng của y không rõ rệt tuy có thật. Vụ y hãm
hại vợ chồng Tề Minh Châu, cũng như vụ nhà họ Nhạc là một chuyện đã trên hai mươi năm và ít nhất cũng mười tám, mười chín năm rồi. Trừ gia đình
đương sự, một bên là Tề Quân Bảo, một bên là Nhạc Lan Anh, không còn một bằng cớ nào khả dĩ đem nổi hai vụ huyết án ấy ra ánh sáng công lý. Vậy
Lam Y và Bích Nữ khi hành động nên giả trai cho khỏi lộ hình tích nữ
giới, e khi Thuận Vương hay tin em y bị ám sát đoán được kẻ chủ mưu là
Lam Y nữ hiệp, vì y sẽ căn cứ vào mấy vụ Kim Cương tụ, Xích Hoa viện, Kỵ mã trường Kim Lăng. Đó là lão phu chưa kể các vụ án khác mà Lam Y nữ
hiệp đã để lại dấu tích nàng hiện đang hành động trong vùng Giang Nam.
Chừng nào Thuận Vương chưa dấy binh làm phản, lời nói của y bên Đức Vua
vẫn còn hiệu nghiệm như thường, nghĩa là tên gian vương đó có thể xin
phép Triều đình mở cuộc truy nã toàn thể kẻ đã sát hại Chu Vĩnh An.
Đành rằng trong trường hợp ấy, chúng ta sẽ có biện pháp đối phó
lại không khó khăn gì, nhưng lão phu đang dự tính một việc khá hệ trọng
khả dĩ ngăn cản nổi Thuận Vương khỏi dấy động can qua, phương hại tới
sanh linh tánh đất Giang Nam phải lầm than vì chinh chiến.
Lão không dám cam đoan, nếu dự tính đó thành tựu thì sự kết quả
sẽ rất hữu ích, cho toàn thể dân chúng miền này. Các con khá nghe lời và thận trọng. Hành động xong trở về Tô Châu ngay.
Nghe lão anh hùng khuyên dạy, Tam hiệp nhất nhất vâng lời.
Hai hôm sau, ba người lên đường nhằm hướng Hàng Châu.
Nói về Chu Vĩnh An, em thứ hai Thuận Vương đặc nhậm chức Tổng đốc Hàng Châu.
Không được như Thuận Vương, Chu Vĩnh An rất ham mê tửu sắc ngay từ hồi còn thanh niên.
Năm ấy năm mươi ba tuổi mà chứng nào vẫn tật ấy, ham nữ sắc hầu như là một chứng bệnh nan giải của vị Vương gia đó.
Tổng đốc phu nhân là con quan Vương học sĩ, bổn tánh cực kỳ ghen tuông, thành thử Vĩnh An dù có máu Tề Tuyên cũng chỉ ngấm ngầm chớ
không dám ra mặt nạp tì thiếp, nên bệnh hiếu sắc của Tổng đốc không có
bề giải quyết công khai.
Bởi vậy Chu Vĩnh An chiêu nạp ba tay vệ sĩ Ngụy Văn Lượng biệt
hiệu Cửu Đầu Quỷ, Tào Chiếm biệt hiệu Hắc Sát Quỷ Tưởng Khắc Trạch, biệt hiệu Vô Thường Quỷ, người nào cũng có sức mạnh vô địch, võ nghệ tinh
thông, tài phi thiểm tẩu bích xuất quỷ nhập thần, chuyên hành động cho
Chu Vĩnh An.
Hành động riêng đây có nghĩa là phụng sự cả tánh hiếu sắc của
Chu Vĩnh An. Lương cao bổng hậu, ba tên Ngụy, Tào, Tưởng chỉ có mỗi
trách nhiệm độc nhất là dò la nơi nào có phụ nữ đẹp, tìm cách bắt cóc
đem về nơi lầu riêng cho Chu Vĩnh An thỏa mãn sắc dục rồi lại đem trả
hay là thả nạn ra một nơi mặc họ tự ý tìm đường về. Trong khi hành động, Tam quỷ thường dùng khăn đen bịt mặt cho khỏi bị nhận diện. Ngay Chu
Vĩnh An cũng vậy, nhưng lúc ép liễu nào hoa đều đeo mặt nạ. Chu Vĩnh An
xây dựng riêng tòa lâu đài Hải Hoa ở ngay bờ biển, trước cửa vịnh Hàng
Châu để dùng vào việc nguyệt hoa này, nên Vương phi không hề hay biết
những hành động ma quỷ của chồng.
Hải Hoa đài được xây cất hoàn toàn bằng đá, tường cao vời vợi,
có đoàn vệ sĩ đặt dưới quyền điều khiển của Tam quỷ ngày đêm canh phòng
cực kỳ nghiêm ngặt.
Trong lâu đài kiến trúc tráng lệ, phòng nọ phòng kia trần thiết huy hoàng vương giả.
Hàng Châu là một thị trấn lớn phồn thịnh, lắm tay Vương tôn công tử đàng điếm ăn chơi và cũng là một xứ mà phần đông phụ nữ có sắc kiều
diễm tự nhiên, nổi tiếng kỳ nữ thanh sắc vào bậc đệ nhất Trung Quốc.
Từ ngày Chu Vĩnh An được bổ nhiệm ở đó đến nay, gian dâm không
biết bao nhiêu đàn bà con gái mà không một ai ngờ thủ phạm các vụ tà dâm ấy lại là vị đường quan đầu tỉnh.
Khi Tam hiệp gần tới Hàng Châu thì trong thị trấn, ở Thanh Kiều
lộ có đại phú gia tục danh Trần Hữu cưới vợ cho con trai thứ là Trần
Hoàng.
Tân giai nhân họ Liễu tên Ngọc Kim, trưởng nữ của đại thương gia Liễu Thanh Giang, năm ấy tuổi vừa đôi chín, nổi tiếng hoa khôi trong
trấn. Cũng vì tiếng hoa khôi nên nàng Ngọc Kim không lọt qua mắt Vô
Thường Quỷ Tưởng Khắc Trạch.
Hôm Liễu gia nhận sính lễ thì bất chợt Tưởng Khắc Trạch đi ngang qua nhà, thấy một đoàn trên năm chục thạp đựng đầy đồ lễ vật dẫn đầu
bởi đoàn nhạc nào kèn, nào trống phách tưng bừng.
Theo sau các thạp lễ vật ấy có tới hai chục cỗ kiệu hoa sang
trọng mà các nhân vật ngồi trong kiệu trang phục rất lộng lẫy ra vẻ đại
phú gia.
Nẩy ra một ý kiến riêng, Tưởng Khắc Trạch liền ngừng bước theo
trà trộn vào đám đông người hiếu kỳ quan sát. Y nhằm cổ kiệu kết bông
lộng lẫy đứng sát bên xem. Kiệu đỗ, Trần Hoàng xúng xính trong bộ trang
phục gấm đỏ dát kim tuyến bước xuống giữa những tiếng pháo nổ rền trời
dậy đất.
Tân lang họ Trần giật mình khi thấy bộ mặt đen sì tàn ác của Vô
Thường Quỷ đang trố mắt nhìn mình. Chàng nghĩ thầm: gớm, sao lại có kẻ
diện mạo hung ác đến thế là cùng! Nghĩ vậy nhưng họ Trần cũng cho là
thường tưởng rằng đó là một kẻ hiếu kỳ thấy đám hỏi thì xô vào xem như
mọi người.
Người bạn Trần Hoàng là Kỳ Tường Bào lúc đó cũng vừa xuống kiệu thấy tân lang ngẩn người ra bèn hỏi rằng :
– Có việc chi vậy, hả hiền đệ.
Trần Hoàng ghé tai họ Kỳ :
– Đại ca coi thằng cha hiếu kỳ đứng sát bên kiệu dòm ngó kia diện mạo hung ác ghê gớm quá.
Kỳ Tường Bào kín đáo nhận diện Vô Thường Quỷ rồi cầm tay Trần Hoàng cùng đi vào nhà họ Liễu :
– Ờ, thằng cha đó giống hệt quỷ sứ ở địa ngục mới lên.
Chờ mọi người vào cả nhà gái rồi, Tưởng Khắc Trạch mới mon men làm quen với kiệu phu dò hỏi :
– Đám ăn hỏi lớn quá nhỉ? Trên hồng phướn đề hai chữ Trần, Liễu chẳng hay họ nào là nhà trại, họ nào là nhà gái vậy.
Tên kiệu phu ra vẻ thông thạo :
– Liễu gia là nhà gái, đại thương gia Liễu Thanh Giang đó! Còn
nhà trai là bên địa phú gia Trần Hữu ở Thanh Kiều lộ. Chắc đại ca không
phải người thị trấn này.
Tưởng Khắc Trạch làm ra vẻ ngớ ngẩn :
– Phải rồi, tiểu đệ ở Triều Châu mới lên, vả lại chưa bao giờ
được xem đám sính lễ lớn như vậy!… Tân lang sang trọng mà hảo nam tử
quá, chẳng hiểu tân giai nhân có được xứng đôi không?
Nguýt dài con người man dại, kiệu phu bĩu môi :
– Hỏi ngớ ngẩn quá! Tân nương là Ngọc Kim tiểu thư nổi tiếng hoa khôi sắc nước hương trời, nếu không thì Trần công tử tôi đâu có thèm
ngó tới, chứ đừng nói chuyện lấy làm vợ nữa.
Tưởng Khắc Trạch thích chí :
– Vậy ư! Tiệc tùng chắc lớn lắm nhỉ? Chừng nào bắt đầu vào tiệc, tiểu đệ phải đến Trần gia xin một bữa cho khoái khẩu mới được.
– Ăn uống linh đình trong ba ngày, kể từ hôm nay. Lúc nào cũng
có thừa tiệc đãi người ngoài. Đại ca muốn hưởng các món ăn nổi danh Hàng Châu thì cứ tới Trần gia hỏi thăm Lý mỗ này “đại kiệu phu” của gia đình ấy, mỗ sẽ dành riêng cho mình đại ca một thồi, tha hồ mà nhậu.
Tưởng Khắc Trạch sung sướng :
– Trời ơi! Thiệt vậy ư? Quý hóa quá. À, Trần gia ở… cái gì… lộ nhỉ.
Kiều phu nguýt dài thêm cái nữa :
– Thanh Kiều lộ! Trước cổng nhà có con thạch sư. Nhớ kỹ lại, kẻo hỏng ăn.
Tưởng Khắc Trạch chào kiệu phu :
– Nhớ lắm rồi… thế nào cũng… chắc ăn.
Kiệu phu vênh váo dặn thêm :
– Ngày thứ tư cưới, bận lắm. Nên đến trước nghe.
Vô Thường Quỷ đắc ý khúc khích cười quay đi.
Về tới Hoa Hải đài, Tưởng quỷ đem chuyện tân giai nhân họ Liễu kiều diễm nói lại với Ngụy Văn Lượng và Tào Chiếm.
Cửu Đầu Quỷ họ Ngụy nhe bộ rằng nhọn hoắt cười lớn :
– Chà! Chuyến này Vương gia lại được hưởng… vưu vật hiếm có
rồi. Chắc chắn sẽ được thưởng nhiều tiền, âu cũng là nhờ đại công của
tam đệ! Lâu nay không kiếm được món nào hay, Vương gia có vẻ cáu kỉnh
lắm.
Tào Chiếm hỏi :
– Nhị đại ca dự mưu thế nào.
Tưởng Khắc Trạch cả cười :
– Tiểu đệ đã tính kỹ rồi. Ta làm thế này… thế này… Được không?
Tào Chiếm vỗ tay khen :
– Thiệt là mưu thần chước quỷ! Hay lắm. Ta sẽ đi mấy người.
Ngụy Văn Lượng nói :
– Hai người thôi. Tào nhị đệ cùng đi với Tưởng tam đệ.
… Đêm tháng mười một gió bấc thổi từng cơn, tiết trời lạnh căm căm. Ngay từ chập tối, ngoài đường đã ít người qua lại, nhà nào nhà ấy
đều đóng cửa kín mít, trừ những nơi ca lâu tửu quán còn đờn hát xênh
xang, ánh đèn le lói lọt qua cửa kính ngũ sắc ra đường.
Tại Thanh Kiều lộ, nhà Trần phú gia đèn nến sáng trưng, người ra kẻ vào rầm rập lúc đó cũng đã vãn. Nhưng trong nhà thồi tiệc gia đình
và thân hữu náo tân phòng hãy còn rất sôi nổi.
Hai bóng đen to lớn thoăn thoắt qua các nẻo đường đến Thanh Kiều lộ.
Một người nói :
– Kia rồi, nhà có con thạch sư ở cổng và có nhiều ánh đèn… Cứ
trông ngót mười cỗ kiệu còn thờ ở cổng cũng đủ biết trong nhà còn khách.
Người kia nói :
– Đi vòng ra lối sau, phía tiền đông người quá.
Hai bóng đen liền quay trở lại cách nhà có con thạch sư độ ba
nhà, nhằm nơi bóng tối phi thân lên mặt tường, chuyền lên nóc lần ngược
trở lại phía sau khu hồi nãy quan sát thấy ba dãy nhà dựng theo kiểu chữ “Môn” sân lớn ở giữa, vườn cây bao bọc xung quanh.
Chắc quý bạn đọc thừa hiểu hai bóng đen đó là Hắc Sát Quỷ Tào
Chiếm và Vô Thường Quỷ Tưởng Khắc Trạch lần đến nhà họ Trần giữa đêm tân hôn để thi hành quỷ kế đó.
Tưởng Khắc Trạch kéo tay Tào Chiếm nhảy xuống vườn nhà họ Trần,
lanh lẹ tiến theo các gốc cây vào gần nhà mới phi thân lên nóc, đi sát
dọc theo sườn mái ẩn trong bóng tối lần vào khu trung tâm.
Bò gần hết dãy nhà bên tả, Tào, Tưởng chợt nghe thấy tiếng chân bước và giọng đàn bà nói léo xéo :
– Tân lang và tân nương còn đang bị “đại náo” trên khách sảnh, cả hai cùng say mèm chắc gì uống nổi rượu hợp cẩn nữa.
Người khác nói :
– Ta cứ theo lệ đem rượu vào bày biện, lo chi uống hay không
uống? Cả hai cùng chưa say lắm đâu! Giả đò đấy… chớ ai dại dột lại say sưa như vậy.
Mừng quá song quỷ bò lần theo tiếng hai thị nữ đi ở dọc hành lang, tới đầu dãy nhà giữa thì có tiếng mở cửa.
Tào Chiếm bèn khẽ kéo ngói nhìn xuống, thấy hai thị nữ đang bày
biện thồi rượu hợp cẩn trong tân phòng. Chúng vừa làm việc vừa léo xéo
nói chuyện.
Họ Tào ghé nói vào tai bạn :
– Tân phòng đây rồi. Ta chờ thế nào chúng cũng phải trở vào.
Một cơn gió lạnh thấu xương hồi qua rung xào xạc mấy khóm lá ngả bên mái ngói khiến hai người rùng mình.
Tùng! Tùng! Tùng!
Từ khu trung tâm thị trấn Hàng Châu trống lầu vừa điểm canh ba.
Lát sau quả nhiên năm sáu thị nữ cầm đèn lồng đỡ Trần Hoàng và tân giai nhân về động phòng…
Nằm trên nóc nhà, Tào Chiếm và Tưởng Khắc Trạch theo dõi mọi việc ở phía dưới…
Hơn khắc canh sau, tân giai nhân cởi áo lên giường.
Bọn thị nữ vội vàng dọn dẹp, kéo nhau ra ngoài khép cửa tân phòng lại.
Chúng khúc khích cười :
– Bây giờ chắc chắn là an thân được nghỉ hẳn hoi!… Nào đi ngủ, mệt quá!
Tưởng Khắc Trạch ngồi nhỏm dậy trong lúc Tào Chiếm ghé mắt nhìn
qua mái ngói thấy tân lang vừa bỏ áo vắt vào thành ghế, bèn ra hiệu cho
họ Tưởng biết.
Khắc Trạch liền nhảy xuống đất, lần vào hành lang đến gõ cửa tân phòng gọi khẽ :
– Trần đại ca, lẹ lên có việc cần!
Đang sắp sửa lên giường thả hòn theo mộng vu sơn, Trần Hoàng
tưởng người nhà gọi, không nghi ngại rút then mở cửa ló đầu ra nhìn
không thấy ai.
Chàng lấy làm lạ, bước hẳn ra ngoài toan hỏi lớn, nhưng như có
lính tính báo trước, chàng vội quay hẳn người lại thì vừa kịp giật nảy
mình nhận ra tên quỷ sứ đã trông thấy hôm rồi ở bên kiệu.
Tưởng Khắc Trạch lẹ như chớp đánh mạnh sườn tay vào gáy Trần Hoàng.
Như bị chiếc chày sắt đánh trúng, Trần Hoàng – thương thay, gục ngay xuống hành lang lặng thở…
Lúc đó Tào Chiếm cũng đã nhảy xuống đấy vội xông ngay vào tân phòng cùng Tưởng Khắc Trạch khép tạm cửa phòng lại.
Tân giai nhân nghe tiếng cửa khép thì tưởng là Trần Hoàng nên quay mặt vào tường.
Bất đồ một bàn tay sắt bịt chặt lấy miệng nàng rồi nhét giẻ đầy
miệng. Liễu Ngọc Kim chả kịp trông thấy hai tên mặt mũi hung ác gớm
khiếp là ngất lịm.
Tưởng Khắc Trạch mở rộng miệng túi vải lớn đem theo trong khi Tào Chiếm bế xốc tân giai nhân bỏ vào.
Hai người dùng phi hành lanh lẹ chập chờn như bóng ma ra khỏi Hàng Châu, tiến về khu bở biển về Hoa Hải đài.
Ngụy Văn Lương thức chờ, thấy Tưởng Khắc Trạch vác một bọc lớn về thì vui vẻ hỏi :
– Hoàn hảo chớ.
Họ Tưởng gật đầu :
– Đã đành! Tiên nữ giáng trần trong túi này nè.
Tam quỷ bảo nhau đem Liễu Ngọc Kim vào căn phòng cực kỳ lộng
lẫy, rút giẻ trong miệng ra rồi trao nàng cho một mụ già mập họ Chiêu
săn sóc.
Ngụy Văn Lương bảo mụ họ Chiêu :
– Săn sóc cho cẩn thận nhé! Sáng mai lúc tan hầu, Vương gia sẽ tới đây.
Mụ Chiêu toét miệng ra cười :
– Được, ba vị hiền đệ cứ an tâm, ta quen làm việc này từ ba mươi năm nay rồi, khỏi dặn đi dặn lại nhiều lời.
Tam quỷ lẳng lặng ra khỏi phòng.
Chiêu bà đặt Liễu Ngọc Kim lên giường kéo mền đắp đến tận ngực
cho nàng. Lát sau, Liễu Ngọc Kim bừng mắt dậy, ngơ ngác nhìn quanh. Đang bỡ ngỡ chưa kịp nói thì bỗng nhận ra một mụ béo mập ngồi trong góc
phòng nhìn mình mỉm cười, cái cười nhăn nhở đáng ghét vô cùng.
Mụ Chiêu mập cất tiếng tè rè như lệnh vỡ :
– Cô em đã dậy đó à! Lạ lắm hả? Có đói không? Ăn yến tần nhé!
Liễu Ngọc Kim run rẩy sợ hãi, nhớ lại những việc mới xảy ra trong tân phòng :
– Đây là đâu?
Nhưng nàng giật mình vì chợt nghe thấy tiếng sóng biển ào ào vỗ…
– Chao ôi! Đây là đâu? Ai đưa tôi tới chốn này? Trần lang đâu?
Mụ Chiêu cười hềnh hệch, toàn thân run lên như núi thịt, đi lạch bạch ngồi ghé xuống bên giường, nơi Liễu thị đang kéo mền ra ngòi nhổm
dậy :
– Cô nương có đói không? Ăn một chút yến tần nhé.
Thấy bộ mặt của Mụ Chiêu mập ú như con heo, son phấn chét đầy. Liễu thị ghét phát tởm :
– Tôi không đói! Sao lại bắt tôi đến đây? Có mục đích gì?
– Rồi sẽ biết. Nhưng phải ăn chút đỉnh cho khỏi đói lòng mới được.
Liễu Ngọc Kim ngẫm nghĩ chắc chắn có sự không hay xảy ra rồi.
Nàng nhớ việc hai tên diện mạo hung dữ lẻn vào phòng bịt miệng bắt và
nàng ngất đi cho tới vừa đây mới tỉnh. Ờ, phải ăn để lấy sức phòng bị
lúc hiểm nghèo. Cùng lắm là đến liều thác để giữ vẹn danh tiết chớ sao?
Nghĩ đoạn nàng nói :
– Ờ, cho tôi ăn ngay, đói lắm. Nhưng tên a má là gì?
Mụ Chiêu mỉm cười đắc chí :
– Chiêu má má. Cô nương biết điều như vậy là phải lắm. Những mà
bướng bỉnh chỉ thêm tội thân mà cũng chẳng được ích lợi gì. Biết…
chiều chuộng bảo sao nghe vậy, sẽ được sung sướng, muốn gì cũng có nghe
chưa? Nào! Chờ chút xíu, có ăn ngay.
Mụ Chiêu đứng lên, lạch bạch mở cửa ra khỏi căn phòng rộng rãi trần thiết lịch sự trang nhã.
Thừa dịp, Liễu thị chạy ra chỗ cửa sổ định nhìn ra ngoài, nhưng
cửa chớp, cửa kính cùng đóng chặt, ở giữa lại buông rèm kín mít. Bên
ngoài hoàn toàn yên lặng, ngoài tiếng vỗ rì rào xa xa… Thì ra trong
lúc mình ngất lịm, chúng đã đem mình đi xa, ra tới bờ biển! Lại Mụ Chiêu mới đáng ghét, đặc điểm dáng điếm về già! Theo lời mụ nói vừa rồi, tất
nơi này là chỗ giam cầm phụ nữ hoặc của bọn giặc hoặc của lũ bán phấn
buôn son. Trời ơi! Ngờ đâu cái đêm tân hôn hạnh phúc tràn ngập những
tưởng được cùng Trần Lang vui vầy duyên cá nước, đầu bạc trăm năm, lại
chuyển hướng thành bất hạnh đôi lứa đôi nơi. Không hiểu chàng có biết
mình ở nơi đây đến tiếp cứu không? Hay là chàng cũng lâm nạn nguy hiểm
tới tánh mạng rồi?… Nghĩ đến cha mẹ già yếu hay tin con gái bị mất
tích lạc loài chẳng biết người có chịu nổi đau đớn mà không bệnh hoạn!
Càng nghĩ, Liễu thị càng đau xót, căm hờn kẻ nào đang tâm phá tan hạnh
phúc của nàng.
Song thân nàng và nàng cũng vậy, tánh tình hiền lành phúc hậu
suốt đời không hề tàn ác mà sao lại gặp tai nạn sanh ly bạc phúc đến như vậy, chẳng hóa ra ông Xanh bất công lắm sao.
Liễu thị trở lại bên giường ngồi, thẩn thờ suy nghĩ. Nàng muốn
khóc cho hả lòng, nhưng Mụ Chiêu có lẽ sắp trở lại mà nàng thì không
muốn để con người khả ố ấy trông thấy phút mềm yếu của lòng. Nàng quyết
liều mạng giữ vẹn tiết trinh, thà thác vẹn danh còn hơn sống nhục.
Tiếng cửa xịch mở ra. Chiêu má má đi trước, theo sau là a hoàn
bê chiếc khay đựng mấy món ăn ngon lành nóng hổi đặt lên mặt án ở gần
giường rồi tên a hoàn lẳng lặng đi khép chặt cửa lại.
Mụ Chiêu nói :
– Cô nương ăn đi. Trước lạ sau quen, cần gì.
Lẳng lặng, Liễu Ngọc Kim tiến tới kéo ghế ngồi ăn tự nhiên. Nàng đói, đói thực sự vì suốt đêm cưới phần vì bận rộn phần vì e thẹn nàng
ăn không đủ no.
Liễu thị ăn xong, mụ Chiêu gọi a hoàn dọn dẹp lấy khăn vò nước nóng dâng lên cho nàng dùng.
Ngọc Kim nói với mụ Chiêu :
– Tôi không có áo dài vận thế này khó coi lắm.
Chiêu má má chỉ chiếc rương cần mã não trong góc phòng :
– Trong rương có đủ y phục các kiểu và các cỡ, cô nương muốn
dùng thứ nào cứ việc lấy. Toàn thứ thượng hảo hạng. Sáng mai trở dậy,
khăn nước sẵn sàng trong căn phòng nhỏ kế bên đây, sẽ có a hoàn đem nước nóng vào. Bây giờ chúc cô nương ngủ ngon, mụ phải đi nghỉ đây, thức gần suốt đêm rồi.
Mụ Chiêu cúi đầu chào ngoại giao cố ra vẻ lịch sự rồi mới lạch
bạch ra cửa. Chỉ chiếc dải nhung đỏ ở bên cửa, mụ Chiêu dặn thêm :
– Nếu cần điều chi cô nương cứ giựt chuông. A hoàn sẽ vào ngay. Ngủ lấy sức đi, mai có người tới thăm.
Nói đoạn mụ cười tít mắt quấy quả đi ra khóa trái cửa lại.
Liễu Ngọc Kim thở phào nhẹ nhõm vì đỡ phải cái tội nhìn mãi bộ mặt heo nái nhăm nhở của mụ Chiêu.
Nàng vội vàng đi quanh phòng sang phòng nhỏ kế bên, tìm kiếm xem thứ khí giới gì khả dĩ lúc lâm nguy có thể tự vệ hay tự sát được.
Nhưng nàng thất vọng, vì tuyệt nhiên không có một vật gì khả dĩ dùng làm khí giới được.
Nản quá, nàng nằm lăn ra giường úp mặt vào gối thút thít khóc
rồi ngủ lịm đi lúc nào không biết. Khi bừng tỉnh thì đã thấy Chiêu má má bắt ghế ngồi bên giường đang nhìn nàng tủm tỉm cười.
– Qua giờ Thìn rồi, bồn tắm đã sẵn sàng trong phòng bên, mời cô nương vào sửa soạn rồi dùng điểm tâm.
Như kẻ không hồn, nàng lẳng lặng vùng dậy đi sang phòng bên cài
cửa lại. Bồn nước nóng khỏi tỏa nghi ngút bốc thơm nức mùi hương trầm.
Xiêm y gấm lụa sẵn sàng, vắt trên lưng kỷ. Tắm xong, nàng mặc nguyên áo
quần cũ, bới lại làn tóc mây và vận thêm chiếc áo dài rồi mở cửa bước ra ăn điểm tâm. Mụ Chiêu chờ a hoàn dẹp mọi thứ rồi lẳng lẽ rút lui.
Liễu Ngọc Kim thẩn thờ ngồi xuống kỷ nghĩ ngợi.
Hồi lâu, bỗng cửa ra vào xịch mở, một người đàn ông y phục sang trọng vóc người tầm thước đeo mặt nạ đen bước vào.
Nàng giật mình, tim đập rộn ràng, như trống trận, đứng vội dậy
vòng ra sau kỷ như muốn nhờ tấm vách mong manh ấy che chở ngăn cách nàng và kẻ lạ nọ.
Tuy người ấy mang mặt nạ che kín hẳn từ mũi lên đến trán, nhưng nàng cũng nhận ra y trạc ngoại ngũ tuần với chòm râu lơ thơ.
Người đó từ từ bước tới rồi đứng sững lại cách họ Liễu độ hơn trượng, đưa mắt long lanh nhìn ngắm nàng, mỉm cười đắc ý :
– Chà! Tuyệt sắc giai nhân…!
Tiến thêm mấy bước nữa, người đó lại ngừng bước :
– Ái khanh có ngon giấc không? Ta bận việc tới hơi trễ, nên thể tình về sự chậm chạp đó nhé?
Liễu Ngọc Kim sợ hãi, tứ chi run lẩy bẩy, mặt biến sắc, giữ chặt lấy thành kỷ chạm.
Bây giờ thì nàng hiểu rõ rồi.
Người lạ mặt nọ là chủ nơi này và đã cho bộ hạ bắt cóc nàng đem về đây tìm cách đường ép liễu nài hoa.
Càng nghĩ càng giận, sắc mặt đỏ bừng, toàn thân nàng bốc nóng, hết run rẩy, sẵn sàng quyết tâm đối phó dù phải chết.
– Tiên sinh là ai? Sao lại bắt tôi đến đây? Không sợ phép quan luật nước sao.
Người kia cười ha hả :
– Nơi đây là sơn hà riêng biệt của ta, sợ chi phép quan luật
nước. Ta mến sắc kiều diễm của ái khanh nên mời ái khanh về đây với mục
đích gì, chắc bây giờ đã thừa hiểu.
Giận quá, Liễu Ngọc Kim căm hờn :
– Tiên sinh nên dành lời đó cho những kẻ đàng điếm. Tôi sẽ liều chết, đừng hòng áp bức.
– Sắc nước hương trời như nàng liều chết làm chi thêm uổng.
Chiều chuộng ta, ái khanh muốn gì ta cùng chiều, nghe? Thì giờ quý báu,
nhất khắc thiên kim, ái khanh đừng phí phạm…
Dứt lời, người đó cởi bỏ áo bào liệng ra góc phòng, rồi tiến đến gần nàng đưa hai tay định choàng lên vai.
Liễu Ngọc Kim lùi bước đứng giáp lưng vào tương.
Người kia từ từ tiến đến gần quờ tay ôm… hụt, vì họ Liễu đã lùi bước ven tường định chạy quanh phòng.
– Ái khanh không biết điều chút nào, ta ngưỡng mộ sắc khuynh
thành đem ái khanh về đây vui vầy cá nước, sao lại chối từ?… Chối từ
cũng không được! Mà chạy… ái khanh định chạy đi đâu?
– Đồ cẩu trệ! Ta quyết liều chết với mi.
Lẳng lặng làm thinh trước câu chửi, người đó tiến lẹ quơ tay ôm chầm lấy cô gái tiết nghĩa.
Nàng vung mạnh tay vì đồng thời giựt lùi, nhưng người kia tím
tuột vai áo kéo trễ xuống hở hẳn chiếc cổ ba ngấn tròn trĩnh trắng như
ngà.
Liễu Ngọc Kim vội vàng xốc áo lại chạy lùi ra xa…
Người lạ mặt đỏ gay gắt, thở rộn ràng, sầm sầm tiến tới như lão hổ ham mồi.
Gót sen nhỏ bé, Liễu thị chạy sao kịp nên bị kẻ lạ rượt theo ôm
chầm lấy đôi vai ấm áp mềm mại kéo ghì hẳn vào ngực, dùng sức lôi lại
bên giường.
Liễu thị ra sức cấu xé, chống cự kịch liệt. Nàng vùng vẫy tuột cả vai áo, lộ làn da mỡ đọng nõn nà…
Kẻ lạ thích chí cười ghê rợn, ghì chặt, một tay kéo tuột áo dài của thiếu nữ.
Ngọc Kim dùng toàn lực vùng vẫy và thừa dịp người lạ lỏng tay,
nàng ghé miệng cắn thiệt mạnh vào vai khiến kẻ nọ đau quá buông tay tát
bốp vào mặt nàng.
– Đồ xuẩn! Ta chiều chuộng như vậy mà người muốn bạo hành ư!
Được lắm! Ngươi sẽ phải nằm để tiếp ta đền bù lại lúc nãy, nghe chưa.
Y vừa nói vừa thoa chỗ vai bị cắn đau. Giận dữ, y trở bước lượm áo bào khoác lên vai, tiến ra cửa giựt giải nhung gọi chuông.
Mụ Chiêu má má mở cửa bước vào, sợ hãi thưa :
– Tướng công có điều truyền dạy.
Chỉ Liễu thị, người lạ nói :
– Con này quật cường, ta hẹn cho mụ ba ngày phải dậy dỗ cho nó
hiền lành ngoan ngoãn bảo sao nghe vậy. Đêm thứ tư ta sẽ trở lại, nghe
chưa.
Chiêu má má khúm núm muốn cúi thấp hơn nữa, nhưng xác thịt mập mạp quá, nên chỉ hơi khẽ cúi được cái đầu :
– Dạ, kẻ tiểu nhân này xin cố sức để tướng công được đẹp ý…
Kẻ lạ quắc mặt nhìn Liễu thị như đe dọa lần cuối cùng rồi phăng phăng bước ra khỏi phòng đóng sầm cửa lại.
Chiêu má má chép miệng, lắc đầu nhìn họ Liễu :
– Sao cô nương lại dại dột thế? Khối người muốn được… hầu hạ
chủ nhân đây mà còn không được toại nguyện, riêng phần cô nương được
người để ý thương yêu thì lại làm phách, tiết với trinh! Rõ chán quá,
chẳng tâm lý chút nào! Cứ chiều chuộng người đi, muốn cúi vàng, non bạc
cũng có, toàn gia sẽ được hưởng lây… Xuẩn ơi là xuẩn!
– Nếu trở lại tuổi đôi mươi, như cô em thì mụ sẽ hành động trái ngược lại. Uổng quá.
Nghe mấy lời hèn hạ thô bỉ của “con heo cái” nọ, Liễu thị không nén được cơn tức :
– Câm miệng đi! Mụ nói nghe tởm quá.
Chiêu má má cười hềnh hệch khiến đống thịt run lên ầm ầm :
– Đã xuẩn lại còn già họng! Cô em muốn được bạo hành chăng! Lúc đó thì đừng có trách là ta không biết khuyên dạy.
Liễu thị xốc áo ngồi xuống bên giường lặng thinh.
Chiêu má má nói tiếp, giọng đe dọa :
– Ngồi đó mà suy nghĩ hơn thiệt cho đến chiều, ta sẽ trở lại nghe.
Nghe giọng trịnh thượng đe dọa của mụ Chiêu, Liễu Ngọc Kim nổi nóng.
– Chiều mụ trở lại thì làm gì nổi ta, hỡi đồ giá áo túi cơm vô
liêm sỉ! Thằng cẩu trệ kia ta cò chẳng sợ nữa là bộ tôi đòi chúng bay.
Nếu cái nguýt dài mà làm chết được người thì Liễu Ngọc Kim đã
chết ngay khi đó, vì Chiêu má má trợn đôi mắt ti hí nhìn nàng rồi nguýt
dài trước khi lạch bạch chuyển động cây thịt ra khỏi của phòng…
Nói về nhà họ Trần ở Thạch Kiều Lộ đêm tân hôn.
Kia Vô Thường Quỷ Tưởng Khắc Trạch và Hắc Sát Quỷ Tào Chiếm bắt
cóc giai nhân đem đi được một lát thì có bọn nữ tì dọn dẹp mấy thứ lặt
vặt đi ngang qua sân ở gần tân phòng.
Chúng đang khúc khích cười bàn tán với nhau thì bỗng nhận ra cửa tân phòng mở rộng, ánh đèn le lói ra ngoài.
Một nữ tì tên Tiểu Ái nói :
– Kìa! Các chị nhìn xem, sao đêm hợp cẩn mà cửa tân phòng lại mở rộng là thế nào? Kỳ quá à!
Hai nữ tì Nhật Hoa và Tố Liên cũng ngừng bước nhìn, Nhật Hoa nói :
– Ờ nhỉ! Không lẽ Trần công tử để ngỏ cửa tân phòng, trời lạnh thế này chớ nóng nực gì cho cam! Ta lại đó xem sao.
Ba người liền vượt qua bực đá lên hành lang, tiến về phía tân phòng.
Lúc gần tới nơi, chúng nhận ra có người nằm xoài úp mặt trên mặt gạch hoa thì cả ba giật mình nhận ra là tân lang.
Sợ quá, Tiểu Ái chạy vùng ra khu đại sảnh kêu lớn :
– Chao ôi! Có biến! Có biến! Cấp cứu!…
Trong phòng khách, các thân hữu và người nhà còn đang vui vẻ yến ẩm chợt nghe tiếng kêu thất thanh, ai nấy đều vội vàng chạy ra hành
lang xem sự gì.
Tiểu Ái Nhật Hoa và Tố Liên mặt tái mét thở không ra hơi chạy tới.
Tràn phú ông vội hỏi :
– Có việc gì ghê gớm mà bây la vậy?
Tiểu Ái ríu cả lưỡi chỉ về phía tân phòng :
– Trần… Trần công tử… bị… bị chết… nằm ngoài… ngoài cửa phòng.
Trần hữu và mọi người nghe vậy đều hoảng hồn kéo ùa ra phía tân
phòng. Bạn thân của Trần Hoàng là Kỳ Tường Bảo lẹ chân chạy trước.
Tới nơi Kỳ Tường Bảo lật ngửa Trần Hoàng lại, đặt đầu lên khuỷu tay và cúi xuống nghe ngực :
– Người hãy còn nóng, tim đập tuy yếu. Vị nào giúp tôi khiêng Trần đại ca vào trong phòng và lấy dầu nóng thoa bóp nào.
Mọi người liền khiêng Trần Hoàng vào phòng đặt lên giường. Người nhà cầm đầu nóng tới, Kỳ Tường Bảo và hai anh em Trần Hoàng đích thân
thoa bóp nạn nhân.
Trần thái thái la khóc ầm ĩ, nhưng Trần Hữu khuyên giải, sai nữ
tì vực về hậu phòng, một mặt sai phu kiệu cấp tốc đi rước lang y quen
thuộc về chẩn mạch cho Trần Hoàng.
Kỳ Tường Bảo nói với Trần Hữu :
– Lạ một điều là tân giai nhân không có mặt trong phòng, lão bá
hãy kiểm soát xem có bị mất mát gì không và cho người đi tìm khắp trong
nhà ngoài vườn xem sao.
– Nơi nào thứ ấy vẫn y nguyên, lão phu xem rồi chỉ trừ có vợ Trần Hoàng là vắng mặt để lão tìm cho.
Kỳ Tường Bảo xem xét khắp người nạn nhân không hề có dấu tích chi cả, ngoại trừ nơi gáy bị tím bầm một mảng lớn.
Trần Hoàng vẫn thiêm thiếp như người ngủ say.
Danh y Trương Thạch Công nổi tiếng Biển Thước Hàng Châu và cũng
là người vẫn trông coi thuốc men cho cả hai gia đình Trần, Liễu tới nơi
tay xách túi thuốc. Mọi người giãn ra nhường chỗ cho lương y.
Trương Thạch Công ngồi xuống bên giường chẩn mạch cho Trần Hoàng hồi lâu, xem xét vết thương nói rằng :
– Vết thương phạm thần kinh lại thêm, sợ hãi quá nên ngất đi. Tuy vậy không hại tánh mạng, quý vị an tâm.
Nói đoạn, Trương Thạch Công lấy ở túi vải ra gói thuốc bột đưa cho anh của Trần Hữu.
– Hòa thuốc “Hoàn Thần” này với nước ấm cạy miệng cho đệ tam
công tử uống ngay lát sau sẽ yên tĩnh. Hai, ba người ở lại trong phòng
này được rồi, còn tất cả ra ngoài cho thoáng khí.
Lúc đó bọn gia nhân đốt đuốc chia nhau đi tìm Liễu Ngọc Kim
không thấy, bèn về báo với Trần lão ông. Trần Hữu hợp mọi người lại bàn
tán, mỗi người đoán một cách không hiểu ra sao. Rốt cuộc, lão ông đành
sai người sang bên nhà họ Liễu báo tin.
Trong tân phòng, Kỳ Tường Bảo cùng hai con trai lớn họ Trần săn
sóc cho nạn nhân. Uống thuốc được hồi lâu, tứ chi Trần Hoàng đã nóng đều và nạn nhân lờ đờ mở mắt nhưng lại nhắm nghiền.
Ba người mừng quá, Kỳ Tường Bảo cầm tay bạn khẽ gọi :
– Trần đại ca lai tỉnh! Lai tỉnh!
Lát sau Trần Hoàng mở mắt nửa mệt mỏi nhìn ba người, môi mấp máy như muốn nói gì.
Cả con họ Trần gọi :
– Tam đệ lai tỉnh, mau…
Trần Hoàng khẽ quay đầu sang bên tả, nhưng nhăn mặt, lắc đầu rên rỉ :
– Chao ôi, đau quá.
Kỳ Tường Bảo gọi :
– Đại ca tỉnh hẳn chưa? Tiểu đệ đây mà.
Trần Hoàng mệt mỏi :
– Gớm, tên hung dữ hôm nọ.
Kỳ Tường Bảo hỏi dồn :
– Tên hung dữ nào? Gặp hôm nào?
– Gặp bên kiệu… bữa nọ? Chúng nó… Ác quá… ác quá.
Kỳ Tường Bảo chợt nhớ ra bốn người diện mạo hung ác đứng ngay bên kiệu hôm rồi, bèn hỏi :
– Tên đó vào đây à? Chính nó đánh đại ca và bắt tân nương đi à.
Mệt mỏi Trần Hoàng nhắm nghiền mắt lại hồi lâu mới lim dim mở ra phều phào nói :
– Nàng bị bắt đi rồi à? Tội nghiệp! Chính nó đã vào đây, tiểu đệ nhớ rõ lắm. Chính nó…
Trương Thạch Công và mọi người nghe báo Trần Hoàng đã tỉnh lại liền kéo vào phòng. Lương y chẩn lại mạch lần nữa :
– Qua khỏi rồi, chỉ còn mệt thôi! Để tôi lấy mấy vị thuốc này
sắc ngay cho uống, sáng mai chắc chắn tính trạng sẽ khá hơn nhiều. Tam
công tử cần tĩnh dưỡng ít ngày.
Lúc đó vợ chồng họ Liễu và mấy người con đã sang tới nhà họ
Trần. Liễu bà khóc sướt mướt, mấy lần ngất đi khiến mọi người phải vực
vào nằm trong phòng Trần phu nhân.
Trần Hữu cắt người nhà ở lại phòng săn sóc Trần Hoàng, một tốp canh phòng ngay ngoài hành lang. Còn tất cả ra ngoài khách sảnh.
Kỳ Tường Bảo đem việc Trần Hoàng nói tên hung dữ gặp hôm nọ
thuật lại cho Trần Liễu hai họ nghe. Bàn đi tính lại hai họ xưa nay ăn ở hiền đức không lẽ có kẻ thù, vậy tên hung dữ nào đó tất phải là đạo
tặc. Như vậy chỉ còn có cách là đi trình quan.
Bàn sao làm vậy, Trần Hữu tức khắc thảo một lá đơn chung cho cả hai tên ký tên vào đó, sáng hôm sau trình lên Tổng đốc phủ.
Trên quan nhận đơn, bảo hai họ Trần Liễu cứ sẽ về cho nhân viên đi điều tra, chừng nào có kết quả sẽ trát đòi lên phủ đối chất.
Thiệt ra họ đâu có ngờ thủ phạm lại chính là người của quan Tổng đốc bắt người đẹp cho quan hưởng.
Kỳ Tường Bảo say khi nghe Trần Hoàng khi đã tỉnh táo kể lại việc xảy ra đêm tân hôn thì lấy làm nghĩ ngợi suốt ngày đi lang thang khắp
châu thành Hàng Châu với mục đích may ra lại gặp tên diện mạo hung dữ
hôm nọ.
Qua ngày thứ hai, Tường Bảo đang đi thủng thẳng bên bờ Tây Hồ
chợt thấy đám đông người đang đứng vòng trong vòng ngoài xem mãi võ, bèn tìm chỗ thưa người len vào coi.
Người mãi võ vóc dáng người tầm thước da ngăm đen dầy dặn dạn
phong trần, đầu chút khăn vàng, võ phục đen, tay áo sắn cao lộ bắt thịt
nở nang, chân quấn xà cạp, đi giày mỏng gót.
Một người nữa cũng cỡ ấy, tuy nét mặt non hơn, đứng khoanh tay
lên sườn bên cạnh mấy món võ khí gác vào nhau như đại đao, giáo, thiết
lãnh.
Hảo hán đứng giữa vòng lễ phép khoanh tay xá bốn phương, rao rằng :
– Anh em chúng tôi họ Cao từ Quý Châu lưu lạc giang hồ lên tới
đây, nghe tiếng thị trấn Hàng Châu đất rộng người nhiều nên đem tài mọn
hầu chư quân tử, mua vui, và mong được giúp chút ít tiền độ nhựt. Tự xét tài học không được bao nhiêu, nếu còn chỗ nào thiếu sót, mong chư vị
quân tử vui lòng chỉ bảo, chúng tôi sẵn lòng lãnh giáo và lấy làm cảm
kích vô cùng, và đây là bài Quý Châu quyền.
Nói đoạn, hảo hán đó chắp tay bái tổ rồi hoa quyền vùn vụt, đảo
bộ sầm sập dào bài quyền Quý Châu cực kỳ dũng mãnh, tài nghệ quả đã tới
mức nhập thần.
Biểu diễn một hồi, hảo hán đó hồi bộ thâu quyền về mặt không biến sắc, hơi không thở mạnh. Khán giả vỗ tay tán thưởng rầm rầm.
Vì hảo hán thứ hai liền vác cây giáo ra cúi đầu chào tứ phía :
– Thưa quý vị, tiểu tử xin trình diễn bài Mai Hoa Thương, nếu có đoạn nào sơ suất cũng xin chư quân tử miễn xá cho.
Dứt lời, y đứng chụm chân thẳng người, cầm đốc giáo hoa lên vài vòng thiệt mềm mại dẻo dai, ra tấn, bái tổ và khai diễn.
Ngọn giáo lúc lẹ lúc chậm biến ảo vô cùng đâm đông, thích tây,
dứt nam, đánh bắc, làn giáo quây tròn lấy toàn thân hảo hán vừa dẻo vừa
dữ dội.
Lát sau, đi hết bảy mươi hai đường giáo trở về bái tổ, hảo hán cắm giáo xuống chỗ cũ, nghỉ ngơi.
Trong khi đó vị hảo hán thứ nhất cầm nón đi quanh xin tiền.
– Mong chư vị quân tử vui lòng giúp cho chút ít để anh em tôi có tiền lộ phí.
Hảo hán đó đi tới chỗ Kỳ Tường Bảo đứng. Mọi người, ai nấy đều
không nhiều thì ít, liệng tiền rào rào vào chiếc nón tre đao sơn dầu. Họ Kỳ cũng móc túi liệng mấy quan tiền vào nón, nhưng chàng ngạc nhiên khi chợt thấy người nào đó ở phía sau lưng liệng cả năm lạng bạc mới nguyên giúp người mãi võ. Người này cúi đầu cảm ơn.
Tường Bảo tò mò vội quay lại nhìn xem kẻ hảo tâm ấy là ai thì
thấy một tráng sĩ trạc tam tuần, cao lớn phương phi, cùng đứng với hai
thanh niên tầm thước đẹp đẽ uy nghi, như mủ ngọc. Cả ba hao hao giống
nhau như anh em ruột, cùng vận áo bào đao đen, kiếm như bậc thế gia công tử.
Không nói tất bạn độc cũng thừa đoán ra đó là Tam hiệp từ Tô
Châu tới. Lam Y và Âu Dương Bích Nữ cải nam trang. Tam hiệp đến Hàng
Châu xế chiều hôm trước vào trọ ở Lưu gia tửu quán ngoài Nam môn thị
trấn.
Hôm sau, ba người rủ nhau đi quan sát vừa tới bờ tây Hồ thấy có
mãi võ bèn rẽ vào xem. Động lòng trắc ẩn trước cảnh sống của anh em
người giang hồ mãi võ, Tam hiệp bèn tăng tiền giúp đỡ.
Sau khi cảm tạ vị khán giả hào phóng, hảo hán mãi võ lần lượt đi vòng quanh đưa nón xin tiền, Kỳ Tường Bảo nhìn theo thì bất chợt nhận
ra sự gì…
Ở đầu phía bên kia, một người diện mạo hung dữ vừa lén vào xem.
Tường Bảo ngờ ngợ hình như đã gặp kẻ đó ở đâu rồi! Nghĩ mãi, chàng chợt
nhớ ra y chính là tên diện mạo hung dữ trông thấy đứng ở gần kiệu của
Trần Hoàng hôm nọ.
Đêm hôm cưới, họ Trần cũng nhận rõ mặt kẻ hung ác này trước khi bị đánh ngất lịm, hung thủ ngay trước mặt kia, bỏ qua sao được.
Nhưng biết làm thế nào bắt được y? Chạy đi báo quan thì sợ tên
đó đi nơi khác mất, mà tự kỷ hành động, Tường Bảo tự lượng sức mình
không làm nổi, mà chưa biết chừng còn mang hại vào thân. Tên quỷ sứ đó
đã chẳng đánh Trần Hoàng một cái vào gáy suýt chết đấy ư.
Bực quá, Kỳ Tường Bảo cuống cuồng chưa biết hành động thế nào,
cho có hiệu quả thì chợt nghĩ ra ba vị công tử hùng dũng đứng ngay phía
sau mình vừa thưởng tiền cho người mãi võ.
Họ Kỳ liền quay lại nhắm vào vị lớn tuổi hơn cả cúi đầu chào,
Chu Đức Kiệt hơi lạ vì không nhận ra quen người vừa chào mình hồi nào
thì Tường Bảo đã nói nhỏ :
– Xin lỗi, công tử thứ tôi đường đột, nhưng việc gấp quá.
Tam hiệp nhìn nhau, ngạc nhiên.
Đức Kiệt hỏi :
– Có sự gì túc hạ cứ nói, nếu giúp được tôi quyết chẳng từ nan.
– Nếu vậy xin mời công tử ra khỏi chỗ đông người này mới trình bày được.
Tam hiệp lấy làm lạ bèn cùng theo họ Kỳ ra khỏi vòng người.
Đi được chừng vài sải tay, Tường Bảo khoanh tay thi lễ xưng danh và nói rằng :
– Trong đám đông người xem mãi võ kia, tôi chợt nhận ra một tên
can phạm trong vụ bắt cóc cô dâu đêm tân hôn, tự lượng sức không bắt nổi nên đành phải quấy rầy phiền ba vị tiếp tay liệu có được không.
Lam Y hỏi :
– Tên can phạm đó đứng ở đâu?
– Ngay phía trước mặt nơi chúng ta xem vừa rồi.
Âu Dương Bích Nữ nhìn hai bạn đồng hành, khẽ gật đầu mà rằng :
– Phải chẳng tên diện mạo hung dữ như quỷ sứ mới bu vào xem.
Kỳ Tường Bảo tươi hẳn nét mặt :
– Dạ, chính tên ấy đó. Trông nó hung dữ có vẻ khỏe mạnh tinh thông võ nghệ.
Chu Đức Kiệt nói :
– Không cần phải vội vàng, đứng đây ta có thể coi chừng người ấy được. Vậy câu chuyện thế nào, Kỳ đại ca có thể nói qua cho anh em tôi
nghe được không?
Tường Bảo đáp :
– Dạ, được lắm.
Nói đoạn chàng kể rõ vụ gặp tên hung ác hôm lễ hỏi và vụ bắt cóc Liễu Ngọc Kim cho Tam hiệp nghe.
Lam Y nói :
– Chúng tôi là du khách từ xa tới vãng cảnh Hàng Châu, vậy Kỳ đại ca cứ xưng hô như bằng hữu cho tiện.
– Về vụ này ta không nên hấp tấp. Đã gặp tên gian ác đó ở đây
trong khi nó vô tình, ta nên thản nhiên theo xem nó đi về đâu. Khi ấy sẽ hành động cũng không trễ. Vậy đại ca hãy tạm nhập bọn với chúng tôi
cùng theo nó xem sao.
Tường Bảo trông thấy ba người có cốt cách anh hùng, xử sự lanh lẹ, thì lấy làm mừng và cảm thấy có thể tin cậy được.
– Dạ, ba vị tôn huynh dạy chí phải, tiểu đệ xin tuân theo.
Bốn người liền rủ nhau đứng gần vào vòng quanh để tránh sự nghi ngờ. Chu Đức Kiệt nói với Kỳ Tường Bảo :
– Ba anh em tôi họ Tề, tên Long, Hổ, Báo từ Bắc Kinh xuống đây
ngoạn cảnh Giang Nam, hiện trọ tại Trần gia tửu quán ngoài Nam Môn.
– May gặp được ba vị tôn huynh giúp đỡ, nếu không thì vị tất tiểu đệ tự kỷ làm nổi việc này.
Tam hiệp chú ý quan sát quả thấy tên diện mạo hung ác có nhiều cử chỉ bất lương thiện.
Chu Vĩnh An nổi tiếng háo sắc, biết đâu vụ Trần Hoàng này lại không có liên lạc với tên dâm vương này.
Nếu vậy thì may quá, việc nọ dẫn tới việc kia, đỡ mất thì giờ dò hỏi. Trên đời phàm sự gì cũng do định mệnh, âu là số mệnh dâm vương đến ngày tận, nên Tam hiệp khi vừa tới Hàng Châu thì gặp ngay Kỳ Tường Bảo
phát giác ra vụ Trần Hoàng theo dõi tên Vô Thường Quỷ Tưởng Khắc Trạch.
Hôm đó, Tưởng Khắc Trạch ra phố ăn sáng và mua mấy thứ lặt vặt.
Lúc điểm tâm xong ở Tây Hồ mỹ quán, Tưởng Khắc Trạch đi ngang qua đó
thấy đám mãi võ liền rẽ vào coi, chẳng ngờ phùng oan gia, bị Kỳ Tường
Bảo nhận được mặt mà y lại không nhớ ra họ Kỳ.
Hồi lâu, Kỳ Tường Bảo bỏ đám mãi võ, lang thang vào trong phố mua sắm một bọc lớn tới Ngọ mới rẽ vào bá Vương Lầu uống rượu.
Tam hiệp và Kỳ Tường Bảo cùng vào theo tìm nơi kín đáo gọi rượu uống coi chừng Tưởng Khắc Trạch.
Sang cuối giờ Ngọ, họ Tưởng mới ở tửu lầu chuệnh choạng đi ra thuê kiệu đi.
Kỳ Tường Bảo toan gọi kiệu cùng đi theo thì Chu Đức Kiệt đã gạt lại :
– Không nên! Một lúc bốn chiếc kiệu đi theo sẽ bị nó chú ý. Kiệu phu đi cũng không lẹ lắm, theo kịp mà.
Theo sự chỉ dẫn của Tưởng Khắc Trạch, kiệu phu ra khỏi thị trấn Hàng Châu rồi đi mãi ra khu vực hải biên.
Nửa chừng, y xuống kiệu trả tiền, xách gói hàng lững thững đi,
không hề để ý tới bọn bốn người theo sau phía xa xa, vì khu vực hải biên không hoàn toàn vắng vẻ, trái lại, cũng có kẻ đi người lại, lẫn vào đó
có cả dân chài lưới đi biển đánh cá.
Sóng vỗ rì rào, gió cuộn trong rừng thông vi vu thành một nhạc điệu gợi cảm.
Bỗng xa xa có một tòa lâu đài đồ sộ xây toàn bằng gạch đá xanh, lầu mái cong cong chênh vênh nổi bật trên nền trời xanh ngắt.
Tưởng Khắc Trạch đi tới cổng đứng nói chuyện, một lúc với mấy
tên gia nhân canh phòng rồi vào thẳng, đứng bộ tự nhiên tỏ ra y rất quen ra vào nơi đó.
Giả đò đứng nhìn trời mây sông nước, bên mỏm đá lớn, bốn người chú ý nhận xét.
Kỳ Tường Bảo mặt khó đăm đăm ra chiều nghĩ ngợi lung lắm.
Lam Y hỏi :
– Kỳ đại ca nghĩ gì vậy? Nhận thấy việc chi lạ phải không.
Kỳ Tường Bảo trầm ngâm khẽ gật đầu :
– Dạ, lạ thật, tiểu đệ không còn suy tính nổi nữa.
– Ủa, việc chi lạ vậy?
– Lạ lắm chứ. Nếu tôn huynh hiểu như tiểu đệ cũng sẽ ngạc nhiên.
Lam Y nghi ngờ nhìn Đức Kiệt và Âu Dương Bích Nữ rồi hỏi họ Kỳ :
– Nói cho anh em tôi biết việc lạ đó được không.
Kỳ Tường Bảo chậm rãi :
– Tiểu đệ nhờ ba vị huynh không nói thiệt sao được! Nhưng chính
tiểu đệ cũng lúng túng không biết nghĩ ra thế nào cả. Theo lời đồn, tòa
lâu đài gần cửa sông kia là của một vị đại quan, không hiểu vì lẽ gì tên cao phạm trong vụ Trần gia lại ra vào nổi nơi đó.
– Kỳ đại ca nhận lầm tên vừa rồi chăng?
– Không, tiểu đệ cả quyết chính y, chắc chắn không sai.
– Dọc theo bờ biển này có thân ổ nào nữa không?
– Đây chỉ là một cửa đại giang hay là một cửa nhỏ ăn sâu vào
trong đất liền, nên hai bên bờ có xóm chài lưới. Từ đây tới biển còn
phải đi ít ra hai ngày đường nữa.
Âu Dương Bích Nữ nói :
– Thảo nào sóng đập khá dữ!… Nhưng Kỳ đại ca có biết tên vị đại quan chủ nhân lâu đài kia không.
Kỳ Tường Bảo gật đầu :
– Nghe đồn thôi chớ không dám cả quyết. Hình như chủ lâu đài là quan Đề đốc Hàng Châu!…
– Nghĩa là Vương gia Chu Vĩnh An?
– Dạ…
Tam hiệp nhìn nhau cùng mỉm cười.
Kỳ Tường Bảo nói tiếp :
– Nếu là lâu đài của quan Đề đốc, tại sao tên can phạm hung ác
kia xuất nhập như người nhà vậy? Đó là điểm phi lý, tiểu đệ nghĩ mãi
không hiểu.
Chu Đức Kiệt ôn tồn bảo họ Kỳ :
– Đại ca nghĩ mãi không ra, chớ anh em tôi thì hiểu rõ rồi.
Thôi, ta quay về Hàng Châu, chừng nào có tin gì lạ chúng tôi sẽ báo về
nhà họ Trần cho hay.
Kỳ Tường Bảo băn khoăn :
– Thế còn tên hung ác kia, bỏ nó ở đây chừng nào mới may mắn gặp được nữa? Thà rằng bắt nó trình quan ngay từ lúc xem mãi võ cho rồi.
– Mặt trái vụ án bắt cóc Liễu Ngọc Kim này ghê gớm lắm, đại ca
không hiểu mới nói tới việc trình quan, tưởng rằng sẽ có kết quả hay.
May cho đại ca gặp được chúng tôi ngăn cản kịp, trình báo không những
chẳng ích lợi gì mà còn hại đến thân nữa đó! Hai họ Trần Liễu đã vô đơn
thưa kẻ vô danh rồi đó, có thấy động tĩnh gì không.
Kỳ Tường Bảo suy nghĩ giây lát :
– Theo như ý tôn huynh trình báo vô ích, vì kẻ hung ác can phạm can phạm kia là người nhà quan Đề đốc Hàng Châu!…
Chu Đức Kiệt phì cười :
– Còn phải suy nghĩ gì nữa? Sự thật rành rành như bạch nhật, đại ca trông thấy ngay thị tiền. Nhưng thôi, an tâm trở về Hàng Châu đi và
chịu khó giữ vụ này trong vòng bí mật. Tiết lộ ra, không được việc còn
thêm hại. Bây giờ đại ca dẫn chúng tôi về qua nhà Trần Hoàng cho biết
đường.
Kỳ Tường Bảo tin tưởng cùng Tam hiệp trở về Hàng Châu, xẩm tới mới qua Thạch Kiều Lộ, mời ba người vào chơi nhà họ Trần.
Tam hiệp từ chối. Đức Kiệt nói :
– Kỳ đại ca thể tình cho, và giữ bí mật. Đêm mai chờ anh em tôi tại đây.
Ba người về thẳng Trần Gia tửu quán ngoài Nam môn, dùng cơm tối xong lên thẳng trên lầu thay y phục dạ hành.
Chu Đức Kiệt hỏi :
– Ý nhị hiền muội về tòa lâu đài hồi chiều thế nào?
Lam Y nhìn Âu Dương Bích Nữ có ý nhường lời.
Biết ý, Âu Dương Bích Nữ đáp :
– Đường đường một vị Đề đốc Hàng Châu, Chu Vĩnh An không thể
hành động ngoài pháp luật như việc bắt phụ nữ đem về cầm hãm ngay ở
trong dinh được, nên phải có một nơi khác. Hẳn tòa lâu đài đó là việc
tàng xuân của dâm vương. Bởi vậy, tiểu muội suy nghĩ thắc mắc từ nãy
không hiểu gian vương đến đó vào những giờ giấc nào? Ngày hay đêm? Còn
tên diện mạo hung ác chắc là thủ hạ của y, coi bộ tinh thông võ nghệ và
lẽ cố nhiên biết phi thiềm tẩu bích mới có thể bắt cóc phụ nữ đem về cho Vĩnh An được. Đêm nay thám thính xem có Liễu Ngọc Kim bị giam cầm trong lâu đài không. Cứu được nàng ra thì e lộ chuyện gian vương không dám
bén mảng đến đó nữa, mà không cứu ngay cũng tội nghiệp. Nhị vị có ý kiến nào khác không?
Lam Y nói :
– Vụ này khó tính trước lắm. Làm thế nào biết được giờ giấc gian vương, đón hạ sát ngay trong lâu đài đỡ mất thì giờ nhiều. Trái lại
không gặp dịp may thì sẽ vào dinh Đề đốc chứ sao.
Chu Đức Kiệt nói :
– Khu lâu đài vắng vẻ, ta nên thám thính sớm một chút có lẽ hơn. Nào đi.
Ba người liền tức khắc đeo khí giới. Đức Kiệt đeo thêm bọc tiền bạc lên lưng, trong khi vắng mặt đạo chích lẻn vào lấy trộm.
Chàng nói giỡn :
– Không có cái món này thì không xong, mà có thì càng bận thêm
về nó, ngay cả trong khi hành hiệp! Làm thủ quỹ cho nhị vị hiệp nữ cũng
phiền toái lắm. Lúc nào cũng túi bạc kè kè!…
Lam Y và Âu Dương Bích Nữ nhìn chàng mỉm cười rồi ra thẳng cửa
sổ phi thân xuống mặt tường, ra đường. Đức Kiệt khép chặt cửa lại xuống
theo. Ba dạ hành khách chạy biến vào trong đêm tối vòng thị trấn Hàng
Châu, ra tới bờ nước thì đã vào khoảng canh hai. Ngoái lại nhìn, toàn
cõi thị trấn đã biến mất sau màn sương mờ mờ. Trời lạnh buốt.
Tòa Hoa Hải đài đồ sộ sừng sững ở phía xa, ánh lửa còn le lói tại một vài nơi, qua khuôn cửa sổ trên lầu.
Tam hiệp ngừng bước nhận xét kỹ thấy thỉnh thoảng có đốm lửa bật lòe lên ở cổng. Âu Dương Bích Nữ nói:
– Bọn canh cổng hút thuốc, còn thức, ta qua bên tả vậy.
Ba người lẳng lặng bước lẹ vòng sang bên tả, núp bên mõm đã lớn quan sát trên mặt tường.
Hoàn toàn yên lặng, ngoài tiếng gió thỉnh thoảng rít từng hồi và tiếng nước vỗ vào bờ bì bõm.
Canh phòng không nghiêm ngặt. Chúng yên trí rằng không còn ma nào tới đây nữa nên chỉ cầm chừng lấy lệ. Nào lên tường.
Ba người bèn lủi thủi tiến đến gần chân tường đá cao vời vợi. Âu Dương Bích Nữ phi thân lên trước đưa mắt nhìn quanh rồi ra hiệu cho Lam Y và Đức Kiệt nhảy lên. Cả ba cùng nằm sát xuống mặt tường rộng quan
sát bên trong.
Lâu đài sừng sững choán giữa khu vườn cây cối trồng thành hàng
ngăn nắp. Trên lầu, dưới lầu đều có hành lang chạy quanh. Trong cùng khu đất, ánh đèn còn le lói lọt qua khe cửa dãy nhà thấp xây gần tường và
ẩn dưới những chòm cây um tùm.
Âu Dương Bích Nữ chỉ nơi có ánh đèn trên lầu ra hiệu lên đó. Tam hiệp cùng nhảy xuống đất băng qua khu vườn vào sát tòa lâu đài, nhảy
qua lan can vào hành lang.
Chuyến này, Lam Y và Chu Đức Kiệt mặc Âu Dương Bích Nữ hành động nên hai người chỉ theo sau tùy cơ tiếp tay.
Biết vậy, Âu Dương Bích Nữ cũng tự ý điều khiển. Nàng đã rút
được nhiều kinh nghiệm từ ngày theo anh em Chu gia ở Kim Lăng, còn về
phần bản lãnh thì không cần phải bàn luận tới nữa. Không những nàng là
cao thủ phái Thiếu Lâm tự mà còn là ái nữ của một danh sư phái võ ấy.
Chiêu Đức thiền sư là sư trưởng hiện thời trên chùa Thiếu Lâm,
trước kia còn là sư đệ của lão anh hùng Trại Mạnh Thường. Nếu lão anh
hùng thế phát thì chính người thay thế Trí Dũng đại sư điều khiển Thiếu
Lâm tự, vì họ Âu Dương phần lớn tuổi hơn, phần nhập môn hai năm trước
Chiêu Đức thiền sư, tuy trong khi cùng học hai nhân vật ấy vẫn thường
đồng sức.
Bao nhiêu tài nghệ, ba anh em Âu Dương đều được hấp thụ ngay từ
khi còn rất ít tuổi, chuyên luyện theo phương pháp đặc biệt chân truyền.
Lão anh hùng Trại Mạnh Thường tuy luyện tập cho ba con ở trang
trại, nhưng khi Tòng Cát, Tòng Đức và Bích Nữ lớn lên đều được gởi lên
chùa tiếp tục học theo luật lệ nhà chùa, dưới quyền điều khiển rất gắt
gao của sư thúc Chiêu Đức. Tới lúc sư trưởng Thiếu Lâm thấy quả ba danh
đồ ấy đã thành tài, có thể trả về Âu Dương trang được mà vẫn kiểm điểm
lại sức học của ba người bằng cách bắt họ thoát khỏi khu “Mộc Nhân Mộc
Mã” và luân phiên giao đấu cùng chính mình mới cho hạ sơn.
Xét như vậy đủ hiểu Âu Dương Bích Nữ đã có một căn bản rất vững
chắc về võ nghệ tinh hoa, và công phu khổ luyện nhiều năm quả đã đạt mức cao siêu ít người sánh kịp.
Biết vậy, nên sau nhiều lần thử, anh em Chu gia xét thấy chỉ
phải dìu dắt cho nàng thêm kinh nghiệm là trở thành nữ hiệp khách lỗi
lạc hoàn toàn.
Đáng lẽ phi thân lên lầu tìm ngay nơi có ánh sáng, nhưng Âu
Dương Bích Nữ tò mò thấy hành lang rộng rãi nên đi vòng sang phía bên
kia xem có gì lạ không, Lam Y và Đức Kiệt đi theo. Ba người thoăn thoắt
như bóng ma nhẹ nhàng không một tiếng động nhỏ.
Ở ngay gần cuối dãy hành lang, bên kia có thang lầu ngoài rộng
rãi lát gạch bông, Tam hiệp liền theo lối đó đi lên. Bích Nữ tìm nơi cửa sổ có ánh đèn mờ mờ ghé mắt nhìn vào, nhưng giữa cửa sổ rèm buông tỏa
kín nên không thấy gì. Cánh cửa rất kiên cố nếu cạy thì không tránh được việc gây ra tiếng động.
Ghé tai Lam Y nàng nói khẽ :
– Cửa chắc lắm, ta lên mái thôi.
Lam Y đồng ý.
Tam hiệp liền bước mặt lan can nhảy ra mái ngoài, rồi mới từ đó phi thân lên mái nhà, nhằm nơi đúng căn phòng có ánh sáng.
Âu Dương Bích Nữ nhẹ tay kéo viên ngói nhìn xuống.
Phòng rộng mênh mông bày biện sơ sài. Kéo rộng kẽ ngói hơn chút
nữa, nàng thấy một phụ nữ đầu tóc lòa xòa nằm úp trên gối, và một mụ nữa có tuổi mập mạp ngồi trên kỷ bên giường đang xỉa xói nói:
Âu Dương Bích Nữ ghé tai nghe :
– … Ba ngày hết hạn rồi… cứng đầu cứng cổ, mai chủ nhân tới… người không thoát khỏi cưỡng bức.
Người trên giường vẫn nằm im mặc cho mụ mập béo léo xéo nói.
Âu Dương Bích Nữ nhường chỗ cho Lam Y nghe. Lát sau chồi dậy bảo :
– Mụ mập ra khỏi phòng rồi, ta giở ngói xuống. Chu huynh đứng trên mái coi chừng nhé!
Dứt lời, nàng gỡ nhẹ mấy viên ngói thành một lỗ hổng lớn, chống
tay vào hai bên rồi buông chân xuống cây xà ngang lớn trên góc căn
phòng.
Âu Dương Bích Nữ cũng theo cách ấy xuống theo.
Người đàn bàn trên giường vẫn nằm úp mặt như trước nên không trông thấy.
Lam Y và Âu Dương Bích Nữ nhảy xuống mặt gạch nhè nhẹ như hai chiếc én rồi tiến ngay đến bên giường.
Bích Nữ mặc Lam Y, tiến sang phòng bên ghé đầu dòm vào thấy đó
là căn phòng tắm. Bỏ đó, nàng tiến ra lối cửa lớn, đứng chặn phòng, khi
có người vào.
Lam Y nhận ra người nằm, trên giường là một thiếu nữ xinh đẹp, có lẽ vì mệt mỏi nên đã ngủ thiếp đi hơi thở đều đều.
Nàng bèn đưa tay đập nhẹ lên vai đánh thức.
Thiếu nữ hoảng hốt quay phắt người lại kinh ngạc hé miệng, toan la nhưng Lam Y đã kịp bịt chặt lấy miệng, người ấy mà rằng :
– Đừng có la. Nàng là Liễu Ngọc Kim phải không? Tôi đến cứu đây.
Lúc đó, Liễu Ngọc Kim mới nhận ra người vừa gọi đúng mình tên
mình là một thanh niên tráng sĩ xinh đẹp vận võ phục màu lam sẫm, lưng
đeo bảo kiếm.
Yên trí hơn, nàng gật đầu. Lam Y buông tay ra :
– Dạ, tôi là Liễu Ngọc Kim. Tráng sĩ vào lối nào.
– Nàng đừng hỏi, trả lời thôi vì thì giờ gấp rút. Bị bắt được mấy hôm rồi.
Liễu Ngọc Kim đáp :
– Hôm nay nữa là ba ngày.
– Biết chủ nhân nhà này là ai không? Đã bị cưỡng bức chưa?
– Chưa, nhưng chúng hẹn mai sẽ trở lại, chắc không còn lối thoát nữa. Hình như chủ nhân là một người có thế lực.
– Tôi gặp Kỳ Tường Bảo nên mới biết chuyện dò la cứu nàng. Mặc áo vào, ta đi thôi, lẹ lên!
Không hiểu hay dở thế nào, nhưng cứ được ra khỏi căn phòng giam
hãm này là may rồi, vả lại trong trường hợp này nàng không có quyền lựa
chọn.
Mừng quá, Liễu Ngọc Kim vội bước xuống giường với chiếc khăn bịt qua loa mớ tóc xòa lại cho gọn và vận áo dài. Lúc đó, nàng mới nhận ra
còn một thanh niên mỹ mạo đang đứng chắn ở gần cửa ra vào, bèn hỏi Lam Y :
– Ta ra lối cửa? Cửa đó khóa ngoài rồi.
Lam Y lặng lẽ chỉ tay lên nóc nhà.
Liễu Ngọc Kim nhìn theo thấy một lỗ mái ngói đủ một người chui lọt.
Thấy Ngọc Kim đã sửa soạn xong, Lam Y nói :
– Nàng nhắm mắt lại mặc tôi, đừng sợ nhé.
Dứt lời, Lam Y bế nhẹ Ngọc Kim lên tay phi thân lên cây xà ngang.
Âu Dương Bích Nữ chờ Lam Y nâng cao Ngọc Kim cho Đức Kiệt ở trên mái đỡ nàng qua lỗ hổng, mới phi thân lên theo, đu tay lên hai bên rồi
chui hẳn lên mái ngói.
Nàng xếp ngói lại y nguyên như cũ rồi cùng Đức Kiệt nhảy xuống hoa viên.
Lam Y cõng Ngọc Kim, e nàng sợ nên chuyền xuống mái nhà dưới rồi mới nhảy xuống hoa viên. Ba người lặng lẽ băng qua vườn, vượt tường ra
ngoài, dùng thuật phi hành về thẳng Hàng Châu.
Liễu Ngọc Kim úp mặt vào vai Lam Y nhắm nghiền mắt lại chỉ thấy
gió lạnh quật vù vù bên tai. Nàng có cảm tưởng như đang bay, lúc vượt
lên cao lúc nhào xuống thấp. Hồi lâu bỗng người cõng nàng ngừng hẳn lại
đi thong thả :
– Liễu cô nương mở mắt ra được rồi và nhìn xem đây là đâu.
Ngọc Kim mở bừng mắt ngơ ngác đầu nhìn quanh, lát sau mới nhận
ra đang đứng trước cổng nhà họ Trần có con làm bằng đá ở Thanh Kiều Lộ.
Nàng mừng rỡ nói khẽ :
– Thanh Kiều Lộ, đây là cổng nhà chồng tôi.
Lúc đó đã quá canh tư, bốn bề im lặng. Tam hiệp thấy cổng nhà họ Trần khóa chặt, bèn vượt tường vào trong đi thong thả qua sân rộng. Mấy con chó nằm trên hành lang thấy bóng người cùng xô ra sủa inh ỏi.
Hai tên gia nhân mở cửa cầm gậy chạy ra, theo sau là năm sáu người cùng võ trang quát hỏi :
– Ba tên nào kia, biết điều đứng lại.
Tam hiệp vẫn lặng lẽ tiến tới, nhưng Liễu Ngọc Kim lên tiếng :
– Tôi đây mà, Trần lang có nhà không.
Gia nhân giơ đèn lên soi. Hai người anh Trần Hoàng là Trần
Phương và Trần Tống nhận ra cô em dâu thì vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ,
bảo gia nhân đuổi mấy con chó đi nơi khác cho khỏi sủa inh ỏi, và mời
mọi người vào nhà.
Lúc đó Trần ông cũng đã cùng mấy người nhà thấy động khoác áo chạy tới.
Tam hiệp theo anh em họ Trần vào nhà, đặt Liễu Ngọc Kim xuống. Nàng run rẩy ứa lệ chỉ Tam hiệp mà rằng :
– Đây là ba vị ân nhân đã cứu tôi về. Chuyện dài lắm.
Cha con Trần gia vội thi lễ cùng Tam hiệp, mời vào hậu đường.
Trần Hữu sai nữ tì vực Liễu Ngọc Kim vào phòng Trần lão bà, nhưng nàng đã nói :
– Thưa phụ thân, con vui mừng được thoát nạn nên thành ra run
rẩy vì cảm động thôi. Trước hết xin sai người báo cho song thân con được biết rằng con đã về để người đỡ đau buồn. Sau nữa, phụ thân cho con
biết tin Trần lang.
Nàng chưa dứt lời thì Trần Hoàng đã tới nơi.
Liễu Ngọc Kim mừng quá khóc òa lên bước tới gục đầu vào vai
chồng. Nàng đinh ninh rằng Trần Hoàng bị hai tên hung dữ đem đi rồi.
Họ Trần rưng rưng hạt lệ dìu vợ ngồi xuống kỷ :
– Câu chuyện xảy ra như thế nào, hiền thê khá kể rõ ràng cho cả nhà nghe.
Liễu Ngọc Kim lau nước mắt kể rành mạch mọi sự từ lúc bị bắt ngất đi cho đến lúc Tam hiệp cứu về.
Cha con họ Trần thấy ba vị hiệp khách uy dũng, đẹp như người
trong tranh, lấy làm kính phục, bèn bước tới chỗ ba người đang ngồi quỳ
xuống lạy tạ ơn, nhưng Tam hiệp vội đỡ cả đứng dậy.
Chu Đức Kiệt nói :
– Cứu người trong khi nguy hiểm là bổn phận của anh em chúng tôi. Quý vị bất tất phải hành lễ như vậy.
Trần Hữu hỏi :
– Quý vị hiệp khách làm thế nào biết được vụ này mà đến lâu đài cứu con dâu tôi ra.
Chu Đức Kiệt kể lại việc gặp Kỳ Tường Bảo nhận được mặt tên hung ác và nói tiếp rằng :
– Đáng lẽ đêm mai anh em tôi mới đi do thám, nhưng sau lại nghĩ
rằng có lẽ tân giai nhân bị bắt giam trong lâu đài nên phải đi thám
thính cứu ngay. Bởi vậy, chúng tôi chỉ hẹn Kỳ Tường Bảo đêm mai mới chờ ở đây.
– Việc này chưa xong đâu. Bị mất mồi ngon đã đành, nhưng chúng e sự bí mật của lâu đài bị tiết lộ nên thế nào cũng trở lại đây thám
thính xem Liễu cô nương có về nhà không? Vậy tôi yêu cầu lão tiên sinh
hạ lệnh cho người nhà giữ bí mật hoàn toàn vụ này trong ít ngày, chừng
nào tôi bảo hết nguy hiểm thì sẽ sống bình thường.
Trần Hữu nói :
– Dạ, vạn sự trông mong cả ở hiệp khách, xin cứ ra lệnh sẽ tuân
theo. Cốt sao cho hết nguy hiểm. Hoặc giả nếu cần phải dời cả gia đình
đi nơi khác trong ít lâu tạm lánh cũng được.
Chu Đức Kiệt đáp :
– Không cần đến thế. Chỉ cốt giữ bí mật không được để lộ chuyện
Liễu Ngọc Kim cô nương đã về đây. Nếu không giữ gìn kín đáo vụ này không những Liễu cô nương bị hại mà toàn thể gia đình này sẽ mắc họa lây.
Chúng tôi yêu cầu đừng báo cho Liễu gia biết việc Liễu Ngọc Kim cô nương đã được cứu về nhà vội, vài ngày nữa sẽ hay.
Ngay bây giờ dọn phòng khách cách xa tân phòng cho vợ chồng lệnh lang Trần Hoàng tạm ở, nhường căn phòng lại cho chúng tôi trong vài
ngày.
Trần Hữu nghe nói ba vị hiệp khách chịu ở lại bảo vệ cho mình thì lấy làm mừng rỡ :
– Những điều đại hiệp vừa dạy, chúng tôi xin triệt để tuân theo. Các gia bộc đều là những người thân tín lâu năm.
Tam hiệp cùng đứng cả dậy. Đức Kiệt nói :
– Bây giờ chúng tôi về quán trọ chiều này sẽ trở lại.
Trần Hữu và mấy người quanh đấy có vẻ lo sợ.
Đức Kiệt nói :
– Để Ngọc Kim cô nương trong phòng kín thì không có sự gì đáng ngại trong ngày đầu. Rán nghe lời, chiều chúng tôi sẽ trở lại.
Nói đoạn, Tam hiệp từ giã họ Trần đi thẳng ra sân.
Mọi người đi ra nhìn theo thì đã không thấy đâu nữa rồi.
Về đến quán trọ, trong quán đã có người dậy sớm, Tam hiệp lặng lẽ phi thân vào phòng thay dạ hành đi ngủ lấy sức.
Nói về trong Hoa Hải đài, sáng hôm sau Chiêu má má trở dậy sai thị nữ :
– Sửa soạn cho con bé ăn điểm tâm đi. Để giờ Thìn cho nó tắm, lấy xiêm y mới cho hoàn bị để nó hầu tiếp lão gia trưa nay.
Nói đoạn, mụ đi rửa mặt chải đầu, thoa son phấn.
Lát sau, thị nữ đến nói với mụ :
– Điểm tâm sửa soạn xong rồi.
Chiêu má má liền lạch bạch cầm chìa khóa và mở cửa căn phòng rộng lớn, nơi đã giam giữ Liễu Ngọc Kim mấy ngày.
Trên giường trống rỗng. Chiêu má má ngạc nhiên, tưởng Liễu Ngọc Kim ở trong phòng bên bèn gọi lớn :
– Cô nương! Cô nương!
Tiếng vang trong phòng dội lại như nhái mụ Chiêu.
Gọi thêm mấy tiếng nữa, không thấy trả lời. Chiêu má má vội vàng chạy tới cửa căn phòng tắm ló đầu nhìn vào. Phòng trống rỗng.
Mụ ngẩn người ra nói một mình :
– Ủa, con bé này biến đâu thế này? Làm sao ra khỏi phòng này.
Mụ bảo thị nữ để khay điểm tâm xuống ván, giúp mụ chui xuống gầm giường xem “Cô nương” có núp dưới đó hay không, bụng mụ lớn quá cúi
không nổi.
Thị nữ tuân lời, chui vào gầm giường tìm :
– Không có ai trong này cả.
Bấy giờ Chiêu má má mới thật hoảng hốt :
– Xem các cửa có đóng chặt không.
Tuy sai thị nữ như vậy, nhưng Chiêu má má cũng đích thân kiểm soát lại các cửa như thường.
– Cửa nào cũng đóng chặt, y nguyên lớp trong lớp ngoài.
Mụ đứng ở giữa phòng chống tay lên sườn :
– Quái! Con bé này chuồn đi đâu. Có cánh cũng chẳng ra khỏi phòng này.
Không biết làm thế nào hơn nữa, Chiêu má má bảo thị nữ xuống lầu gọi Tam quỷ.
Lát sau, Ngụy Văn Lương, Tào Chiếm và Tưởng Khắc Trạch cùng rầm rập chạy tới.
Ngụy Văn Lương hỏi :
– Việc chi vậy hả má má.
Mụ Chiêu phùng má trợn mắt la :
– Còn việc gì nữa à? Con bé biến đâu mất rồi.
– Cửa mở hay đóng?
– Các cửa ngách đều y nguyên, tôi và thị nữ vừa kiểm soát xong.
Tam quỷ cau mày dữ tợn nhìn nhau.
Tưởng Khắc Trạch lẩm bẩm :
– Lẽ nào lại thế được? Dù cửa có mở con bé xinh đẹp ấy cũng không ra thoát khỏi lâu đài tường cao vời vợi, cổng có canh phòng.
Tào Chiếm nói :
– Ta vào phòng xem sao đã.
Chiêu má má liền lạch bạch đi trước. Tam quỷ theo sau.
Tam quỷ kiểm soát thật kỹ càng, nhìn trên mái nhà không có gì lạ.
Ngụy Văn Lương bèn phi thân lên các xà ngang nhìn gần lớp mái ngói, Tào Chiếm và Tưởng Khắc Trạch cũng hành động theo như vậy.
Kiểm soát hồi lâu, không thấy gì khác, chúng nhảy xuống.
Sở dĩ Tam quỷ không nhận ra vết chân trên mặt xà ngang là vì
trong phòng cửa đóng kín mít, ánh đèn le lói từ dưới lên càng thêm khó
nhìn hơn nữa.
Chúng sơ suất không cầm đuốc soi kỹ vì không tin có người xuống qua mái ngói dày dặn cứu nổi họ Liễu.
Chiêu má má lo lắng :
– Làm thế nào bây giờ? Lát nữa lão gia tới biết nói sao.
Ngụy Văn Lương trừng mắt :
– Chắc má má quên không khóa cửa ra vào nên con bé đi thoát chớ gì.
Mụ Chiêu giãy nảy lên như đỉa phải vôi :
– Ngụy đại ca nói thế không lo khi chết phải kềm cặp lưỡi sao.
Tưởng Khắc Trạch nói :
– Dù con bé đó có ra khỏi phòng cũng không thể nào ra khỏi lâu đài được.
Tào Chiếm gật đầu :
– Trừ phi nó biết thăng thiên hay độn thổ. Từ trước tới nay chưa bao giờ xảy ra một vụ vô lý thế này.
Ngụy Văn Lương nói :
– Ta xuống lầu chia nhau rà lục soát các nơi xem sao, trong khi
Chiêu má má và thị nữ tìm kiếm ở trên này xem có phòng nào ngỏ cửa
không.
Bọn giao ngoan chia nhau đi các ngả huy động tất cả nhân viên
canh phòng lâu đài tìm kiếm hồi lâu không thấy gì trở lại tụ họp cả dưới lầu.
Tam quỷ vò đầu vò tai lo ngại, Chiêu má má cũng nhăn nhó.
Ngụy Văn Lương đập hai tay vào nhau cằn nhằn :
– Mất con bé đó không cần, chẳng có nó sẽ có đứa khác, nhưng sự
bí mật của lâu đài là cái khó trả lời chủ nhân. Nói thế nào bây giờ! Con bé họ Liễu ra khỏi nơi đây tất phải có lý do chớ. Nó tàng hình sao?
Tào, Tưởng nhị vị hiền đệ lên cả trên mái xem có vết tích gì
không. Chắc có người tới cứu và người đó đã xuống phòng trên lầu bằng
lối mái ngói.
Tào Chiếm và Tưởng Khắc Trạch đồng ý chạy phi thân lên mái.
Ngụy Văn Lương chỉ mụ Chiêu gắt :
– Một phần lớn tại má má! Nếu cứ ngủ cùng với con bé ấy như mọi
khi thì nó biến đâu cho thoát? Tại sao chuyến này lại ngủ riêng.
Chiêu má má há hốc miệng :
– Con bé ấy kỳ cục lắm, nó đe dọa nếu nằm cùng giường với nó sẽ
bị nó đạp nên mụ tưởng nằm riêng cũng không sao, các cửa đều khóa chặt
ngoài lại canh phòng cẩn mật.
Tức mình Ngụy Văn Lương bỏ ra hoa viên đi quanh lâu đài xem xét các vết chân.
Từ trên nóc đài, Tào Chiếm gọi lớn :
– Ngụy đại ca, lên đây! Có sự lạ.
Ngụy Văn Lương tức thì phi thân lên mái thứ nhất, rồi từ đó mới lên nóc nhà trên cùng nơi Tào, Tưởng hai người đang đứng.
Tưởng Khắc Trạch chỉ tay vào tấm ngói có vết dở ra còn mới nguyên :
– Đại ca coi vết tích dở ngói kia kìa. Chỗ đó xuống đúng phòng giam con bé họ Liễu. Ngoài ra không có dấu chân nào khác.
Ngụy Văn Lương xem xét hồi lâu :
– Đích vậy rồi. Chúng vào ra lối này không nghi ngờ gì nữa. Tên
nào vào tới đây cứu Liễu thị tất bản lãnh phi thường. Mái ngói rêu phủ
nhẹ mà không để lại dấu chân.
Tào Chiếm gật đầu :
– Ờ, lúc vào đã vậy chớ khi ra cõng nặng Liễu thị trên lưng mà
một chút vết mờ cũng không có, đủ hiểu thuật Đề và Án khí của y quả đã
vượt bậc cao siêu, nhẹ hơn Chim hồng, chim Hộc, khi nặng tất chẳng kém
Thái Sơn.
Tưởng Khắc Trạch hỏi :
– Lát nữa Vương gia tới sẽ trả lời thế nào đây.
Ngụy Văn Lương cười gằn :
– Các hiền đệ còn viện lẽ gì nữa? Với một bản lãnh vượt bậc như
dạ hành khách đêm qua dù có đóng cả quân ở đây cũng vô ích. Chỉ phiền
một nỗi là sự bí mật của lâu đài Hoa Hải được giữ kín từ bao lâu nay đã
bị lộ liễu bởi dạ hành khách và Liễu thị. Vương gia tất sẽ trao cho anh
em ta trách nhiệm giải quyết vụ này… Thôi, đi xuống.
Tam quỷ chuyền hai lần mái mới xuống tới đất, phương pháp phi thân cũng đã vào bậc đáng kể.
Trưa hôm ấy, Chu Vĩnh An vận thường phục đi kiệu tới. Gian vương hí hửng, yên trí sẽ được hường những phúc khoái lạc thần tiên bên người đẹp. Y còn có một cảm khoái man dã hơn nữa là được hưởng tân nương cướp tận tay đêm tân hợp.
Hai cánh cổng Hoa Hải đài mở lớn, nhường cho chiếc kiệu bề ngoài rất thường như các cỗ kiệu khác trong trấn Hàng Châu, do hai kiệu phu
thân tín đắc lực khiêng vào. Theo sau là hai vệ sĩ thường trực trong
dinh Đề đốc. Cả hai cùng vận thường phục, giắt ngầm khí giới. Cánh cổng
đồ sộ nặng nề, do hai người đẩy lại từ từ khép chặt. Kiệu đỗ trước thêm
hoa. Vĩnh An khẽ gật đầu trước lời chào kính cẩn của các nhân viên trong Hoa Hải đài rồi đi thẳng vào thư phòng.
Bọn Tam quỷ Ngụy, Tào, Tưởng và Chiêu má má cùng nhón nhén theo vào.
A hoàn dâng trà đặt lên án thư rồi lặng lẽ ra khỏi căn phòng.
Vừa thổi vừa uống cạn ly trà nóng ngạt ngào hương thơm, Vĩnh An
đưa mắt nhìn mấy người vừa vào! Nhìn từ người nọ đến người kia hồi lâu,
Vĩnh An chợt hỏi :
– Có sự gì không hay vậy? Trông sắc diện các ngươi, ta hiểu rồi.
Ngụy Văn Lương quỳ xuống chắp tay định nói nhưng Vĩnh An đã lên tiếng trước :
– Ta cho phép các ngươi ngồi cả xuống đôn, các người run rẩy khó coi lắm.
Bốn người khép nép ngòi xuống cẩm đôn. Ngụy Văn Lương thưa :
– Tâu Vương gia, Liễu thị không còn trong Hoa Hải đài nữa…
Vĩnh An tái sắc :
– Tưởng việc gì chớ việc Liễu thị ư? Làm sao nói mau.
Bốn người tái mặt. Họ Ngụy cố trấn tĩnh :
– Liễu thị đã thoát khỏi lâu đài từ đêm qua.
Vĩnh An gắt :
– Thoát bằng cách nào? Thăng thiên hay độn thổ? Hừ gớm thật.
– Tâu Vương gia, có thể gọi là thăng thiên vì nàng ta được một nhân vật nào đó cứu thoát qua lỗ mái bị dở.
Vĩnh An gắt gao :
– Trời lạnh, các ngươi và những tên có phận sự canh phòng ngủ quên đi mất phải không.
– Thưa không, việc canh phòng vẫn như bình thường vì đêm qua
chính kẻ hạ nô này ngồi ở phòng canh ngoài cổng đài. Người cứu Liễu thị
quả có bản lãnh phi thường…
– Lẽ cố nhiên! Có phi thường mới xảy ra cơ sự này! Nói ta nghe.
Ngụy Văn Lương kể lại vụ mất tích Liễu thị và nhấn mạnh về việc
dạ hành khách không để lại dấu chân trên hoa viên cũng như trên rêu
ngói.
Tự rót trà uống, Chu Vĩnh An lặng lẽ hồi lâu mới thủng thẳng lên tiếng.
– Sá cho con Liễu thị, nhưng vì nó mà sự bí mật của Hoa Hải đài bị phát giác mới là điều đáng quan tâm. Bây giờ tính sao.
Tam quỷ đưa mắt nhìn nhau, Vĩnh An nói tiếp :
– Các ngươi phải tức khắc thám thính nhà Liễu thị… khép miệng nó lại, hiểu ý ta muốn nói gì không?
– Dạ.
– Còn dạ hành khách kia thì sẽ tùy cơ ứng biến sau nghe! Chưa
thanh toán xong vụ này, không được hành động ngoài sự chỉ định của ta.
– Dạ.
Chu Vĩnh An bực tức rủ áo đứng lên ra kiệu về thẳng Hàng Châu.
Đêm hôm ấy vào khoảng canh ba, dân chúng thị trấn Hàng Châu đang mơ màng ngon giấc điệp thì từ một quán trọ nọ bỗng có ba bóng đen xuất
hiện chuyền trên các nóc nhà nhấp nhô nếp cao, nếp thấp, nhằm hướng
Thành Kiều Lộ. Ba dạ hành khách đó không phải ai xa lạ mà chính là bọn
Tam quỷ, Ngụy, Tào, Tưởng vào quán trọ từ ban chiều chờ đến khuya hành
động. Tưởng Khắc Trạch và Tào Chiếm dẫn đường. Ngụy Văn Lương đoạn hậu.
Tam quỷ nằm xoài trên mặt tường hoa nhà họ Trần nghe ngóng hồi lâu.
Bốn bề yên tĩnh, Tào Chiếm vẫy tay ra hiệu. Cả ba cùng nhảy
xuống khu vườn sau lẫn qua bóng tối rồi phi thân lên nóc dãy nhà ngang,
lanh lẹ chạy tới chỗ tân phòng mà chúng đã biết từ trước.
Tam quỷ nằm sát xuống mái ngói nghe ngóng. Tức thì, họ Ngụy bò
ngược xuống rìa mái nhìn thấy phía dưới có ánh đèn lờ mờ chiếu sáng qua
khe cửa. Y bèn vẫy tay ra hiệu cho Tào Tưởng rồi nhảy vụt xuống sân
chuyền thẳng vào hành lang. Tào Chiếm xuống theo. Tưởng Khắc Trạch nằm
trên nóc coi chừng.
Bốn bề im lặng như tờ. Trần gia có lẽ ngủ say. Ngụy Văn Lương
hơi lạ ở chỗ một khu nhà rộng như vậy có sân lớn, vườn tược hẳn hoi mà
không lẽ không nuôi chó đề phòng đêm hôm trộm đạo.
Tuy nghi ngờ, nhưng nóng hành động để chuộc tội với chủ nhân, vả lại đang ngon trớn, Ngụy Văn Lương áo tay vào khe cửa sổ nghe, mường
tượng như có tiếng người ngủ say thở nhẹ đều đều trong phòng.
Y mỉm cười nham hiểm, nghĩ bụng đêm nay cặp tân lang và tân
nương mới được động phòng nên ngủ say sau cuộc phượng đảo loan điên…
Dịp may hiếm có, chẳng thẳng tay hành động còn chờ lúc nào hơn nữa! Hai
tiếng “khép miệng” Liễu thị do chủ nhân dạy hồi sang còn để bên tai y.
Nhưng khép miệng Liễu thị thì dễ, chớ làm thế nào khép miệng toàn gia họ Trần? Suốt ngày hôm nay chẳng lẽ Liễu thị và dạ hành khách ân nhân của
thị không kể lại chuyện xảy ra ở lâu đài cho mọi người nghe sao? Việc
tới đây hay tới đó! Hạ Liễu thị đã! Nếu cần thì… luôn cả Trần Hoàng.
Nhà họ Trần biết điều, sợ mất mạng… tất sẽ im miệng!
Suy tính mau lẹ, Ngụy Văn Lương đưa tay khẽ ấn thử cánh cửa sổ!
Ồ, may quá! Cánh cửa không cài then bên trong, khẽ hở ra. Họ Ngụy khép
sang bên khuôn cửa nhìn vào.
Trong góc phòng, màn loan buông phủ kín, ở chân giường lộ ra hai cặp hài lớn, nhỏ… Đúng rồi, vợ chồng Trần Hoàng đang tay ấp má kề say sưa giấc điệp.
Không do dự nữa, Ngụy Văn Lương ra hiệu bảo Tào Chiếm đứng chờ
rồi nhẹ tay nâng cánh cửa sổ cho khỏi kêu, mở rộng. Y vắt chân lên thành cửa, nhẹ nhàng nhảy vụt giữa phòng… Tào Chiếm lăm lăm cầm đao đưa mắt nhìn ba phía, coi chừng. Tưởng Khắc Trạch nằm dọc xuôi theo chiều mái
ló đầu ngó xuống phía dưới xem đồng bọn hành động… Bỗng từ phía sau
mái, một bóng đen nhấc bổng tới bên họ Tưởng êm ru lẹ đưa bàn tay thép
bóp chặt lấy gáy Tưởng Khắc Trạch, khiến tên này chỉ kịp hộc khẽ lên một tiếng rồi toàn thân bị xách cổng lên khỏi mái ngói.
Cùng lúc tiếng hộc do Tưởng Khắc Trạch phát ra ấy, Ngụy Văn Lương vừa nhảy vào phòng.
Tào Chiếm giật mình, nắm chặt cán dao trừng mắt nhìn quanh, nhảy lên lan can ra sân xem có sự gì trên mái nhà thì ở trong phòng dội lên
tiếng “hự”.
Họ Tào hoảng hốt quay phắt người lại nhìn thẳng vào trong phòng, có chân định phóng người qua hành lang lên thành cửa sổ cuốn thì một
bóng đen khác đã luôn ở mé ngoài lan can lúc nào không rõ, đưa tay nắm
cứng chắc lấy cổ chân Tào Chiếm lôi tuột ra sân. Trong khi tên gian đạo
còn đang chơi vơi, bóng đen bí mật nọ đã quật luôn tay xuống gáy y nặng
nề như chày sắt. Tào Chiếm không kịp kêu, đau quá ngất lịm, thanh đoản
đao rời khỏi tay rơi xuống sân đá xoảng một tiếng ghê rợn vang dội trong đêm tối.
Nói về Ngụy Văn Lương khi nhảy vào giữa căn phòng, ngó quanh rồi tiến thẳng đến bên giường, gạt rèm mừng sang bên nhất quyết hạ sát Liễu thị và Trần Hoàng.
Chẳng ngờ, khi vừa gạt được cửa mùng thì y bị luôn một cái đạp
như trời giáng trúng ngực tim gan bể nát, chết không kịp la, cây thịt đổ huỵch xuống đất.
Âu Dương Bích Nữ vì chính nàng nằm chờ sẵn trên giường thay vì
vợ chồng Trần Hoàng, vén rèm bước ra nắm đai lưng Ngụy Văn Lương xách ra sân, đặt xác chết Tào Chiếm.
Nàng hỏi Lam Y đứng gần đó :
– Tên kia cũng hết thở rồi chớ?
– Chắc vậy vì trúng huyệt gáy.
Giữa lúc ấy thì có tiếng Chu Đức Kiệt ở trên mái nhà hỏi :
– Dưới ấy xong việc rồi chớ.
Lam Y đáp :
– Hiền huynh xuống đi. Xong cả rồi.
Đức Kiệt xách Tưởng Khắc Trạch nhảy xuống sân đặt nằm cạnh hai tên Tào, Ngụy. Chàng nói :
– Nhị vị hiền muội nhìn xem có nhớ ra đã gặp tên này ở đâu không.
Lam Y và Âu Dương Bích Nữ nhìn qua nhận ra ngay :
– Tên diện mạo hung ác gặp ở chỗ mãi võ bên Tây Hồ.
Chu Đức Kiệt vỗ tay mấy cái ra hiệu. Bốn cha con Trần gia vội thắp đèn lồng chạy ra sân.
Trần Hoàng chỉ xác Tưởng Khắc Trạch :
– Chính tên này đã vào đây đánh tôi chết ngất đêm tân hôn.
Trần lão ông run rẩy chỉ bọn Tam quỷ nằm sõng sượt trên sân :
– Ba tên này tử thương cả rồi sao, Chu đại hiệp.
Đức Kiệt phì cười :
– Dạ chẳng lẽ để chúng tiếp tục hại người lương thiện.
Lam Y biết ý nói ngay :
– Trần tiên sinh chớ lo, anh em tôi đem chúng đi ngay bây giờ.
Âu Dương Bích Nữ góp ý :
– Trả những của này về lâu đài có lẽ đắc sách hơn cả.
Đức Kiệt gật đầu :
– Phải rồi, cảnh cáo chúng luôn thể.
Tam hiệp bèn hỏi Trần Hoàng lấy ba chiếc bao gạo lớn, bỏ xác Tam quỷ vào rồi mỗi người vác một bao lên vai ra Hàng Châu tiến tới lâu đài Hải Hoa.
Ba người theo lối cũ vượt tường phi thân lên thẳng trên lầy đi
vòng hành lang đến một căn phòng có ánh sáng đoán là phòng của Chiêu má
má, lẳng lặng dốc xác chết trong bao ra đặt ngồi dựa vào lan can trước
cửa phòng.
Xong xuôi, Lam Y gõ cửa rồi cùng Đức Kiệt và Âu Dương Bích Nữ nhảy lên mái trên nằm dốc xuống ghé mắt nhìn.
Quả nhiên, trong phòng có tiếng mở khóa, cánh cửa từ từ hé mở, a hoàn ló đầu ra nhìn mờ mờ thấy Tam quỷ ngồi dựa vào lan can, liền quay
lại nói vọng vào phòng :
– Má má à, ba ông quỷ sứ say rượu mò lên đây rồi ngủ lăn ra kia rồi.
Mụ Chiêu lóe xóe :
– Được rồi, để ta ra coi. Đêm hôm thế này thì quá lắm.
Lát sau mụ Chiêu lạch bạch mắt nhắm mắt mở ngái ngủ mở rộng cửa bước ra hành lang.
Mụ khệ nệ cúi xuống lắc vai Ngụy Văn Lương :
– Nè đồ nỡm! Say như chết mò lên đây làm gì…
Vừa dứt lời, thì xác tên Cửu Đầu Quỷ đổ lăn đè lên chân mụ
Chiêu, mắt mở trừng trừng dưới ánh đèn do a hoàn vừa cầm ra soi. Mụ
Chiêu hoảng hồn hét lên cất tiếng toan chạy, chẳng dè vướng phải tay tử
thi nên cây thịt bị té lăn ra hành lang, kêu như heo bị chọc tiết.
Tam hiệp không cần xem tiếp hơn nữa, ra khỏi Hoa Hải đài phi hành về quán trọ nghỉ ngơi.
Hôm sau, vào khoảng giờ Tỵ, ba người ngủ dậy rửa mặt chải đầu xong, thì Tiểu nhị lên phòng báo :
– Thưa khách quan, có người hỏi xin yết kiến.
Lam Y hỏi :
– Ai vậy, có danh thiếp không :
– Thưa không, đó là một thanh niên, hiện đang ngồi ở nhà dưới.
Chu Đức Kiệt liền xuống lầu nhận ra Kỳ Tường Bảo.
Thi lễ xong, họ Kỳ nói :
– Trần tiên sinh nhờ tiểu đệ tới đây mời quý vị đến xơi rượu. Đi ngay thì vừa, tiểu đệ chờ.
Đức Kiệt lên lầu nói cho Lam Y và Âu Dương Bích Nữ hay. Tam hiệp thay y phục chỉnh tề đeo kiếm xuống lầu, trao khóa phòng nhờ chủ quán
giữ hộ rồi cùng Kỳ Tường Bảo lên bốn cỗ kiệu đã chờ sẵn đó. Khi sắp tới
Thanh Kiều lộ, Đức Kiệt bảo mọi người xuống kiệu trả tiền, đi bộ đến nhà Trần gia.
Kỳ Tường Bảo ngạc nhiên :
– Sao ba vị không cho phu kiệu đến thẳng Trần gia có hơn không.
Lam Y đáp :
– Chúng tôi cẩn thận đề phòng cho Trần gia đó.
Lát sau trong khi thù tạc, Tam hiệp kể chuyện trả tử thi ba tên gian đạo về lâu đài cho mọi người nghe.
Trần Hữu nói :
– Tôi rất thắc mắc không hiểu chủ nhân lâu đài ấy là ai mà ác cảm với họ Trần chúng tôi như vậy.
Lam Y đáp :
– Họ không ác cảm. Tên diện mạo hung ác bất chợt biết Liễu thơ
thơ là người có sắc diễm kiều nên bắt cóc về dâng cho chủ nhân của y.
Tới lúc thơ thơ được cứu thoát khỏi tay vuốt hùm, chúng e bị lộ hành
tích nên mới kéo đồng bọn tới định thủ tiêu chẳng dè mắc mưu chúng tôi.
Cũng vì chưa biết đích xác chủ lâu đài là ai nên hãy tạm giữ kín việc
Liễu hiện có mặt trong nhà này ít ngày. Chừng nào tới lúc thuận tiện,
anh em tôi sẽ cho hay.
Cha con họ Trần nghe vậy mới an tâm.
Kỳ Tường Bảo hỏi :
– Từ hôm đến Hàng Châu có lẽ ba vị đại ca du ngoạn Tây Hồ chưa nhỉ.
Đức Kiệt lắc đầu :
– Gặp vụ vừa rồi nên chưa có dịp nhàn du.
– Nếu vậy sáng mai tiểu đệ sẽ xin hướng dẫn các vị du ngoạn Tây Hồ, lễ miếu Nhạc Trung Võ luôn thể :
– Thế thì còn chi bằng! Sáng mai đầu giờ Tỵ anh em tôi chờ đại ca ở Trần Gia tửu quán nhé.
Sở dĩ họ Chu có ý du Tây Hồ là để nhân dịp nghỉ ngơi giữ sức sau khi thức đêm luôn mấy bữa.
Nói về Đề đốc Chu Vĩnh An, khi hay tin ba vệ sĩ thân tín chuyên
phụ trách việc Hoa Hải đài bị hạ sát, thì rất lo ngại, phiền muộn.
Vĩnh An chỉ định mấy vệ sĩ khác ra trông coi lâu đài thay thế Tam quỷ, nhưng tuyệt nhiên không đến đó nữa.
Ngoài ra, gian vương còn một dự tính điều tra vụ dạ hành khách
đã cứu thoát Liễu thị. Nhưng điều tra bằng cách nào? Bản lãnh của nhân
vật đó cao siêu, đi không ai biết về không ai hay, dùng mưu kế gì để
truy nã? Ai dám đảm nhiệm cuộc truy tìm? Hoàn toàn khó khăn!
Cũng đã có lúc gian vương nghĩ tới việc bắt giam họ Trần thì sẽ
biết hành tung của dạ hành khách bí mật kia. Nhưng dứt dây động rừng,
tất người bí mật võ dũng ấy sẽ ra tay binh vực Trần gia. Như vậy có khác chi mua lấy cái khó vào người ngày đêm phải phòng bị mà vị tất đã phòng bị nổi, dù rằng dinh Đề đốc nhiều người và được canh phòng nghiêm cẩn.
Suy đi tính lại, Chu Vĩnh An kết luận cuộc điều tra tới khi khác thuận tiện hơn. Cũng bởi gian vương nghĩ như vậy nên họ Trần mới được
sống yên ổn sau khi Tam quỷ bị táng mạng và Chu Tam hiệp cũng kịp thời
trừ mối họa lớn cho dân Hàng Châu.
Sau mấy hôm thăm thú đó đây dưới sự hướng dẫn của Kỳ Tường Bảo, Tam hiệp nhận xét kỹ lưỡng dinh Đề đốc để hành động.
Vào trong dinh không khó nhưng biết Vĩnh An ngủ ở phòng nào
trong một khu rộng lớn, lâu đài chi chít như bát úp. Sẽ tùy cơ ứng biến
như vậy chớ biết làm sao? Vì thế nhằm đêm tối, Tam hiệp nhất quyết hành
động để kịp giờ trở về Hàng Châu trước Tết Nguyên Đán.
Đai nịt gọn ghẽ, Tam hiệp chờ đúng canh ba, mới lặng lẽ rời quán trọ vượt thành vào đại trấn, trên mái nhà đến khu dinh Đề đốc.
Nhằm nơi tối nhất phía sau dinh, ba người vượt qua tường cao
chuyền vào trong phi hành vùn vụt qua căn mái nhà thấp tiến thẳng vào
khu trung ương, chợt trông thấy ánh đèn le lói ở đầu một dãy nhà thấp,
Âu Dương Bích Nữ dằn đầu hướng về phía ấy.
Tới nơi, Tam hiệp nhảy xuống đất thoăn thoắt lẻn tới đầu nhà. Âu Dương Bích Nữ ghé mắt dòm qua khe cửa sổ thấy bốn tên quân đang mải
miết đánh bạc trong căn phòng nhỏ. Âu Dương Bích Nữ chỉ tay vào phòng có ý bảo Đức Kiệt và Lam Y cùng vào căn phòng ấy uy hiếp mấy tên quân đánh bạc hỏi đường.
Nhưng cũng lúc ấy thì một tên đẩy ghế đứng lên :
– Đen quá! Thua mãi.
Tên khác hỏi :
– Đại ca thôi à.
– Thôi sao được? Còn phải đánh gỡ chứ! Ra đi tiểu giải đen đã! Cứ chia bài đi.
– Bọn này chờ đại ca trở về mới chia kẻo lại bảo ăn gian.
– Đâu có! Đen mà thua chớ tôi có nói gì đâu. Chờ đó, tôi trở vào ngay.
Nói đoạn y mở cửa bước ra ngoài, loạng choạng đi vì trời tối, chưa quen mắt.
Bỗng y giật mình, cổ bị một vật gì áp vào lạnh toát như giá băng khiến toàn thân y nổi gai ốc.
Một giọng nói khẽ kề bên tai :
– Biết điều im miệng kẻo mất đầu!
Y há hốc miệng không dám kêu và cùng lúc ấy mới nhận ra lưỡi kiếm sáng loáng kề bên cổ.
Đứng sau lưng y mấy người không rõ, nhưng chỉ biết là một cánh tay cứng ngắc đang giữ chặt lấy eo lưng y.
Run lật bật, y bỗng thấy người bị nhấc lên khỏi mặt đất “bay”
bụt lên nóc nhà và cứ từ nóc nọ sang nóc kia “bay” mãi. Y rợn người nhắm nghiền mắt lại, hai bên tai gió thổi vù vù.
Lát sau cánh tay sắt đó buông y ra nhưng lưỡi kiếm lạnh băng vẫn áp vào gáy y :
– Mở mắt ra nhận xem đây là đâu?
– Đưa tay lên dụi mắt nhìn quanh thấy ba người trong bộ y phục đen huyền đứng bên y giữa một hoa viên cây cối um tùm.
Người cầm kiếm dí vào cổ y.
– Nói mau.
– Dạ, đây là…
– … Nằm ở lầu nào.
– … Chẳng biết rõ.
Ba người lẳng lặng lấy dây đem theo trói ghì y lại, cắt vạt áo
nhét đầy miệng, đoạn treo y lên cành cây khuất sau khóm lá um tùm.
Xong xuôi, Âu Dương Bích Nữ cùng Lam Y, Đức Kiệt ra khỏi hoa
viên băng qua tường lẫn trong bóng tối tiến tới căn điện lớn ba từng
lầu. Bỗng có đoàn người cầm đèn lồng từ xa đi tới. Tam hiệp nhảy lên nóc nhà gần đấy nắm ép xuống mái. Đoàn sáu tên quân đi tuần qua phía dưới
chân bước sầm sập. Ba người nhận rõ chiếc lầu lớn ở giữa khu hoa viên và quanh hoa viên còn có một lần tường thấp nữa.
Phía ngoài tường, mỗi góc đều có đặt chòi canh nghiêm ngặt. Lặng lẽ nhảy xuống đất, ba người lần đến gần tường phóng mình vào phía trong lẹ làng như ba chiếc én. Lần qua bóng tối, Tam hiệp vào đến tận chân
phi thân lên mái rồi chuyền vào lầu nhì.
Nguyên lầu này ước lượng cũng có tới tám căn phòng lớn rồi, biết tìm Chu Vĩnh An phòng nào.
Âu Dương Bích Nữ chỉ tay ra hiệu hai đồng hành đi vòng quanh
hành lang xem sao? Đi tới góc tường bên kia, chợt thấy một căn phòng
sáng đèn, cửa ra vào hé mở. Đầu hành lang bên kia có thang lầu xuống nhà dưới.
Chợt có tiếng chân lên thang lầu và nói xì xào, Tam hiệp vội nhảy lên mấy chiếc xà ngang lớn nằm dọc theo mái ngói.
Hai thị nữ một cầm đèn, một bưng chiếc khay đựng mộ tô lớn đậy kín. Thị nữ áo xanh nói :
– Đêm nào vương gia cũng dùng yến thế này mà không bị mất giấc nhỉ.
Thị nữ áo đỏ nói :
– Quen rồi, vả lại vương gia đi ngủ sớm giờ này, tỉnh dậy đói là phải.
– Chỉ khổ chị em ta vào giờ này lạnh quá! Chừng nào xây được căn bếp ở lầu nhì mới đỡ khổ…
Hai thị nữ vừa đi vừa xì xào nói chuyện tiến tới căn phòng để ngủ.
Không để lỡ dịp may, Tam hiệp nhảy xuống phía sau hai thị nữ.
Âu Dương Bích Nữ vòng tay bịt miệng tên áo xanh, đồng thời tay kia đỡ luôn chiếc khay, e thị nữ hoảng sợ đánh rơi.
Cũng vậy, Lam Y bịt miệng thị nữ áo đỏ, và đỡ chiếc đèn lồng tắt phụt đi.
Đồng thời, Đức Kiệt giơ ngang Thất Tinh đao hăm :
– Muốn toàn mạng thì câm miệng. Trong phòng này có ai không?
Lam Y nới tay cho tên thị nữ bị nàng giữ nói :
– Không, phòng đó của hai chúng tôi.
Tức thì Lam Y và Âu Dương Bích Nữ đẩy thị nữ vào phòng. Đức Kiệt đỡ lấy khay yếm cầm vào theo sau, khép cửa lại.
Hai thị nữ tái mặt run rẩy, thấy ba người bịt mặt thì tưởng ngay là đạo chích cả gan dám vào tận dinh Đề đốc. Thị nữ áo đỏ nói :
– Có tiền để trong rương kia, ba đại vương tha cho chúng tôi…
Âu Dương Bích Nữ hỏi :
– Chu Vĩnh An ngủ ở đâu.
Thị nữ ngạc nhiên không kịp đáp thì mũi kiếm đã đi ngay vào cổ y :
– Có nói không hay muốn chết.
Phát hoảng, Thị nữ áo đỏ run lập cập :
– Dạ có, Vương gia nằm trong phòng lớn ở giữa lầu.
– Có ai trong đó không?
– Dạ không. Vương gia nằm một mình. Người nhà ở cả ba lầu.
– Biết điều thì đưa chúng ta vào ngay.
Hai thị nữ sợ hãi nhìn nhau. Người áo xanh nói :
– Thế này thì Vương gia giết chúng tôi mất.
Âu Dương Bích Nữ nói :
– Không sợ, ta không làm chi đâu mà lo! Đi!
Hai thị nữ cực chẳng đã phải bê khay yến đi trước, Tam hiệp cầm khí giới đi sát phía sau lưng. Âu Dương Bích Nữ nói :
– Nếu các ngươi trở giáo, sẽ mất đầu ngay.
Năm người qua cửa trong, vào một căn thư phòng trang hoàng sơ
sài nhưng rất gọn mắt. Góc phòng đặt ngọn đèn lồng, khêu nhỏ đủ soi lối
đi.
Qua thêm hai phòng nữa, thị nữ áo đỏ mới chỉ tay vào khuôn cửa phía trong cùng, nói khẽ :
– Qua cửa kia là tới phòng Vương gia. Giờ này chắc người đang thức.
Âu Dương Bích Nữ nói :
– Được các ngươi cứ vào như thường mặc ta.
Hai thị nữ tiến tới gõ nhẹ vào cửa rồi mở cửa bước vào.
Tam hiệp đi hàng một theo sau không một tiếng động.
Trên chiếc giường cẩn ngọc giáp giữa bức tường trong cuối phòng, Chu Vĩnh An còn nằm phủ mền, quay mặt vào tường.
Thị nữ áo đỏ đặt khay yến xuống, chiếc án nhỏ kê bên đầu giường :
– Tâu Vương gia, yến đã sẵn sàng rồi.
Đức Kiệt đứng chắn ở cửa. Lam Y đứng gần chân giường còn Âu Dương Bích Nữ đứng ngay sát gần đầu giường.
Tuy vậy, gian vương cố trấn tĩnh quắc mắt nhìn hai thị nữ :
– Sao lại thế này? Ba người nào kia? Ai cho phép vào đây?
Thị nữ sợ hãi xám cả mặt, len lét đứng sang bên cúi đầu im lặng.
Âu Dương Bích Nữ chỉ mặt Vĩnh An :
– Chúng ta tới đây để hỏi ngươi mấy điều về dĩ vãng. Ngươi có
biết người nào là Kiều thị vợ của Tề Minh Châu cư ngụ tại Lư Cầu kiều
không? Ngươi có nhớ cách đây ngót hai chục năm, ai đã làm hại gia đình
Nhạc Hoành ở Thái Bình huyện vùng Vũ Hồ không?
– Ngoài ra còn rất nhiều vụ án khác không cần nói tới, nhưng ngươi hãy trả lời hai vụ nói trên đã.
Sắc mặt Vĩnh An chuyển từ tái mét sang tím ngắt, y run lẩy bẩy :
– Nói bậy! Các ngươi vu khống, thời kỳ ấy có lẽ các ngươi còn chưa ra đời hãy còn nhỏ dại.
Âu Dương Bích Nữ cười khẩy :
– Chính thế, nhưng chúng ta biết vì lẽ rất giản dị, là con của những người bị ngươi hãm hại.
– Các ngươi không có quyền vu cáo ta như vậy. Bằng chứng đâu?
– Dấu thẹo ở trên vai ngươi khi bị ngọn giáo của Nhạc Hoành lao trúng là bằng chứng hiển nhiên, ngươi có định gian ngoa gì nữa.
– Một vụ nữa gần đây hơn, chắc ngươi đã quên hết rồi? Đó là việc giam giữ Liễu thị trong lâu đài!… Hừ! Còn chối nữa hay thôi?
gian vương không ngờ dạ hành khách đến cứu Liễu thị lại chính là ba người này, và họ biết rõ cả tung tích hành động của mình mấy chục
năm về trước, bởi vậy nên run sợ, mặt cắt không còn hột máu. Y mon men
đưa tay lên đầu giường định giật giải lụa đỏ rung chuông báo động, nhưng lẹ hơn Âu Dương Bích Nữ nắm chặt lấy cổ tay y kéo tuột xuống giường :
– gian vương! Tội ngươi đã đầy rẫy, lưới trời khó thoát, đêm nay ta quyết mở đường cho ngươi về âm phủ đối chất cùng những oan hồn đó.
Trông lưỡi kiếm long lanh sắc như nước, gian vương run rẩy lồm ngồm lùi lạc mấy bước, líu lưỡi :
– … Tôi còn vợ dại con thơ… từ nay xin hối cải.
Thấy gian vương hèn hạ quá, Âu Dương Bích Nữ nổi nóng :
– Ngươi ngần ấy tuổi đầu mà còn lấy vợ dại con thơ ra làm lá
chắn, vậy khi làm tan nát bao nhiêu gia đình để thỏa mãn sắc dục, ngươi
có nghĩ tới những nạn nhân của ngươi không?
– Lưỡi kiếm này trước của Nhạc Trung Võ, sau thuộc họ Tề nay ta
dùng nó để trả hận cho những oan hồn đó nghe chưa? Ngươi đáng tội tam
phân.
Dứt lời, nàng hoa nhẹ lưỡi kiếm đưa một lát vào cổ Vĩnh An. Gian vương không kịp chớp mắt thì thủ cấp đã rơi lăn lốc xuống sân gạch hoa, thây đổ sang một bên, huyết phun ra như vòi nước.
Hai tên thị tì sợ hãi rú lên rồi té lăn ra mặt đất.
Muốn tránh cho chúng khỏi bị nghi ngờ trong vụ hạ sát gian
vương, Lam Y và Chu Đức Kiệt liền trói hai đứa lại bỏ sang phòng bên.
Âu Dương Bích Nữ toan ra theo nhưng hai người đã trở vào.
Lam Y lấy trong túi rút ra một gói thuốc bột màu lá cây rắc một ít lên cổ và thủ cấp gian vương.
Âu Dương Bích Nữ hỏi :
– “Mãng xà diệp” phải không?
Lam Y gật đầu bỏ gói thuốc vào túi :
– Xong việc rồi, đi.
Tam hiệp ra tới hành lang thì vừa vặn có tiếng đồng la khua báo
động ở phía hoa viên, nơi tên quân đánh bạc bị treo lên cành cây hồi
nãy.
Đức Kiệt nói :
– Bọn tuần phòng đi tìm thấy người của chúng trong hoa viên rồi. Ra phía này!
Ba người chuyền xuống các mái nhà khác thấp thoáng như các bóng ma, ra khỏi dinh Đề đốc, phi hành về quán trọ…
Đến lúc gần sáng, trong tư dinh Đề đốc phát giác ra vụ ám sát
đại quan thì xác gian vương Vĩnh An chỉ còn là một bộ xương và một đống
thây nước vàng lênh láng trong căn phòng bài trí sa hoa. Tại sao vậy? Đó là tại thứ bột “Mãng xà diệp” của Lam Y.