Mọi người nơm nớp lo sợ im phắc! Không ai dám rỉ răng nói một câu nào.
Tiếng muỗi bay cũng nghe thấy, cô nhỏ Câu Hồn vẫn tiếp tục nói mê, giọng nói có vẻ hối hả, thúc giục :
– Cung Đình ơi! Không giỡn với bồ đâu! Trụ Ma xuất toàn lực âm binh tấn
công đêm nay! Thây ma đội mồ chui lên… ghê sợ lắm! Hôi thúi lắm! Đừng
ngửi hơi thúi đó! Chết! Chết! Chạy trước đi mau! Cõng thằng Bỉnh Nhi đi
cùng cho vui. Thằng nhỏ đó ngộ lắm, Bụng dạ nó tốt lắm! Đừng để nó chết
uổng…
Phong Vân và nàng Thiết Như Hoa nghe Câu Hồn nói vậy, hai người hình như hoảng ngộ một điều gì. Cả hai mặt tái xanh, cắt không còn được hạt máu.
Phong Vân quận chúa tâu với Đông Cung thái tử rằng :
– Câu Hồn nói đúng vì Kim Điện sứ giả Trương Tuấn Phong này cũng mang
tin lại rất đúng. Trụ Ma Thiên Vương xuất âm binh đánh trận này là trận
quyết liệt. Nó sẽ khiển từ các bãi tha ma, thây chết sình thúi đứng dậy
về tấn công chúng ta. Nó sẽ tung làn mây độc khí, không một sinh vật nào sống sót chống nổi khí độc đó. Kẻ bị mê man còn bị thây ma trét bùn dơ, máu huyết vô miệng mũi cho chết ngộp. Kẻ khác bị “cấy” trùng cùi vô óc
làm điên hoảng chạy như lũ quỷ sứ âm ty lên trần gian! Qua một đêm khủng khiếp, sáng mặt trời mọc chỉ còn một vùng hoang địa điêu tàn không bóng một sinh vật sống. Đây là sở trường của Trụ Ma Thiên Vương, chúng ta
nên nghe lời Câu Hồn tạm lánh đi mau, nếu không thì nguy hiểm lắm.
Lời trình tấu của Phong Vân quận chúa rất minh bạch. Thái tử buồn bã hỏi :
– Sự nguy hiểm tới, ta chỉ biết lo thân ta chạy trốn, còn bách tính là
dân thì sao? Bỏ mặc họ trong cơn chết chóc phũ phàng sao đành?
Bình Giang vương phu nhân khuyên giải :
– Điện hạ có lòng nhân đức, trời phật cảm thông. Trụ Ma xuất âm binh chỉ nhằm tung độc khí đánh phá bản doanh này, dân chúng Nhữ Nam ở xa nơi
đây ít lo quân Hắc Y áp bức, khí độc không lan tràn tới nơi đó được. Cấm quân đều là thiết kỵ, di chuyển mau chóng, chưa dễ gì Trụ Ma bắt kịp.
Vậy Điện hạ không nên vì tiểu tiết mà quên đại sự. Tôi xin lĩnh mệnh
Điện hạ cắt đặt công cuộc phò giá.
Tiếng cô nhỏ Câu Hồn lại ọ ẹ vang lên hối hả :
– Mau lên! Mau lên! Chạy về phía Đông Bắc rẽ ngang hướng gió. Mau lên
mới kịp. Đoàn ma thi của Trụ Ma chạy mau lắm, cứ mỗi quân ma kéo cả chục thây ma đi theo. Qua mồ mả nào thì xác chết đội mồ chui lên nhập bọn,
tử khí kéo thành luống gió lốc… mau lên! Cung Đình cõng tớ đi, mùi
tanh hôi hết chịu nổi rồi!
Cao Kỳ Nhất Phong vội hộ vệ Thái tử, cả hai leo lên ngựa Bạch Tuyết Long Câu. Văn Tú Tài cưỡi Thanh Phong Mã chạy kế bên.
Còn những người khác lục tục lên xe, lên ngựa chạy theo tốp thứ hai. Nàng Chi Mai tay xách chiếu ná bảo Đan Tâm rằng :
– Giặc đến ta đánh! Anh đánh kiếm, em bắn tên, thế nào cũng giết được một số rồi phá vòng vây sợ gì?
Đan Tâm bảo :
– Không được đâu, đầu sọ thây ma, em có bắn trúng tên cắm như lông nhím, nó vẫn chạy tới bắt em đem đi. Chừng đó anh có chém đứt đầu nó thì nỏ
cũng cõng em chạy đi xa mất rồi. Thôi, ba mươi sáu kế, chúng ta lên ngựa chạy theo Thái tử là thượng sách. Trông xem Cung Đình đã cõng Câu Hồn,
Bỉnh Nhi cõng lão Tam chạy như bay kia kìa. Võ công họ gấp mười mình mà
còn tẩu nhanh như gió, chúng mình dại gì mà ở lại chớ?
Nàng Chi mai đưa mắt nhìn xuống một vườn rau bên lộ, nàng xuống ngựa nói rằng :
– Em sống quen trong rừng rú, tà ma quỷ quái có nhiều loại, nào ma cà
rồng hai mũi đỏ đêm đi hút máu dơ, nào ma trành, ma lọ ma xó, ma thây bó chiếu góc nhà, ông sọ, ma ngải… em đâu có sợ? Ma nào cũng sợ “tỏi”,
sợ “hành”. Sẵn đây có nhiều cây hành cây tỏi, em hái một mớ thí nghiệm
anh coi!
Đan Tâm không biết làm thế nào cũng đành theo nàng Chi Mai lần xuống ruộng bới hành tỏi bỏ bọc một mớ lớn.
Song Trâm nữ hiệp là người lắm cơ mưu. Bà tin vào tài nghệ nên rất bình
tĩnh bảo lão Nhiếp Thủ đương vác bình rượu trên vai chưa muốn rời doanh
trại mà rằng :
– Ô hay! Ông là Điện Tiền hộ vệ sứ mà lại bỏ mặc Đông Cung, ở đây với
bình rượu, không coi trách nhiệm của mình ra sao ư? Tôi nói thiệt Thái
tử mà gặp sự nguy hiểm thì tôi “mượn” ông cái đầu chứ tôi không mượn hai bàn tay đâu.
Lão Nhiếp Thủ bỏ chiếc bình sứ xuống đất nham nhở nói :
– Nữ hiệp muốn phi kiếm mượn thủ cấp lão phu thì còn miệng đâu để uống
rượu. Chơi trò gì thì được, chứ cái trò ấy lão phu không hài lòng chút
nào cả.
Thiết Như Hoa hộ vệ hai nàng Thái Cơ và Bảo Liên, dừng ngựa lại nói :
– Bảo vệ Đông Cung tánh khỏi nguy khốn rồi uống cả hồ ngự tửu cũng có.
Tại sao lão bối lại tham bình rượu trước mắt mà bỏ ao rượu sau lưng! Bỏ
quên trách nhiệm là điều xấu lắm!
– Ừ nhỉ! Tắm dưới ao rượu! Ý kiến hay, ta chưa được tận hưởng thú đó. Được rồi, chờ ta đi theo hộ vệ Thái tử với.
Thiết Như Hoa đeo chiếc mặt nạ bạc lóng lánh trên mặt, cài bảo kiếm sau
lưng trông uy nghi dưới ánh đuốc, Kim Diện sứ giả cũng đi theo với nhóm
đó.
Phong Vân quận chúa, lúc này đã bận võ phục búi tóc chặt, đầu đội hà tử
quan, thân chỉ huy đoàn thiết kỵ, cờ nào đội đó từ từ ngựa tháo nhạc,
người ngậm tăm, chia thành chín toán, như chín con rồng đen dài rút lui
khỏi bản doanh.
Trước khi rút lui, Song Trâm nữ hiệp đã sai người chất hỏa pháo và cỏ
khô, hỏa liệu quanh doanh. Trước khi quân giặc tràn vào làm đổ ngọn đèn
lưu ly phát sinh hỏa hoạn mau chóng. Như vậy cũng phá một phần nào kế
hoạch tập kích ban đêm của đối phương. Đồng thời cũng phái người di tản
dân chúng ra xa khỏi vùng hàng chục dặm để tránh độc khí.
Bà thấy hai người Đan Tâm và nàng Chi Mai cứ lúi húi mãi nơi vườn rau mới hỏi :
– Hai người làm gì đấy? Tại sao không lên ngựa còn chần chờ, làn gió độc đến làm sao chạy kịp?
Nàng Chi Mai giơ nắm hành tỏi xông hơi cay xè nói rằng :
– Ma quỷ độc đến đâu cũng kiêng nể giống thảo mộc này. Tiếc thay không
có chỉ ngũ sắc! Tôi định dùng những nhánh hành tỏi thí nghiệm xem sao?
Nếu hơi độc bay đến, chúng tôi sẽ leo lên mình ngựa chạy ngay.
Đan Tâm hỏi :
– Tại sao chỉ ngũ sắc tà ma lại sợ?
– Anh hỏi các hồn ma thì biết. Em còn sống phây phây trả lời sao được.
Ma quỷ chỉ tụ họp trong tăm tối, khí âm lạnh lẽo không có hình bóng, ngũ sắc lòe loẹt ngăn cản sự tụ hội của khí ấm. Mùi tanh, tỏi cũng khiến
khí âm khó tụ kết nên âm binh phải xa lánh. Đúng vậy chăng?
Đan Tâm còn nô đùa, giỡn cợt :
– Loại ma sợ chỉ ngũ sắc của em là loại ma ngày xưa lén lút trên rừng
thiêng âm u không ánh sáng. Anh sợ loại ma của bọn Hắc Y. Nó là loại ma
sống, mà chạy chân nghe rầm rập. Nó khát máu thực sự! Nó thích giết
người thực sự! Nó thối tha không một mùi vị thảo mộc nào có thể làm át
được mùi thối tha của chúng! Nó tệ hại hơn trùng độc rắn rết, bọ cạp, nó sống với xác chết nữa.
Đương nói, Đan Tâm ngửng đầu nhìn về phía Tây nam có đám khói đen dầy
đặc cuồn cuộn bay tới. Gió mới đầu còn làm lay động cành lá, sau rít lên như sắp nổi cuồng phong bão tố. Bốn bề mây ám mù mịt tối đen, văng vẳng nghe tiếng vong hồn than khóc như có nhiều đám tang ở bốn bề, rên rỉ.
Bầu không khí thoang thoảng có mùi máu tanh lợm giọng. Hai con ngựa ô
truy cứ lồng lộng hí vang muốn rứt cương chạy đi. Cực chẳng đã, Đan Tâm
đành phải hối Chi Mai leo lên mình ngựa rời khỏi khu vực nguy hiểm.
Chắc chắn là tên cầm đầu đám ma thi quỷ dữ là Trụ Ma Thiên Vương, một
trong bốn thủ lãnh lợi hại nhất của tổ chức áo đen. Hắn đinh ninh là
Thái tử, cùng đám cấm binh phen này sẽ chết trong trận tà ma quỷ quái
của hắn.
Khi còn cách mục tiêu độ nửa dặm đường, tên Trụ Ma cầm cây gậy đen trỏ
thẳng lên trời, gió mạnh thổi sát mặt đất khiến đá cũng phải bay. Vùng
độc khí đen ngòm như một bàn tay khổng lồ chụp xuống khu doanh trại.
Song Trâm nữ hiệp là người duy nhất ở lại để quan sát trận thế ma yêu
biến chuyển ra sao. Bà đã vận cương khí bao bọc cùng mình để khỏi bị khí độc lạnh buốt xâm chiếm châu thân. Đã nhiều phen bà định phóng phi kiếm và phi trâm tấn công vùng hắc khí, nhưng không nhận rõ vị trí tên đầu
yêu đứng chỗ nào thì khó đả thương trúng nó đặng.
Chừng tới khi vùng khí độc áp tới gần, bà lờ mờ trông thấy Trụ Ma bận
bào đen, cưỡi con trâu nước đen xì, bao quanh hắn một số đông bóng đen
nhảy nhót.
Những thây ma lạnh ngắt này, đứa thì khiên hòm móc ở mả các bãi tha ma
mộ địa lên. Thây ma kéo thây ma, những bộ xương rã rời thịt nát, ruột
gan lòng thòng vịn nhau mà đi. Lại thêm giống súc vật như heo chó bò
chết lâu ngày cũng lủi lủi cắn nhầu những bộ lòng dài lòng thòng đó, lốc nhốc chạy theo.
Sự thực đoàn ma thi không đi, mà trái lại hình như bị gió mạnh cuốn trôi đi. Xúm xít với nhau.
Một tiềm năng kỳ lạ quyện lấy nhau, như sức mạnh vô hình của cả ngàn
vong hồn lôi cuốn khối vật chất thối tha đó đi theo ý muốn của tên đầu
yêu.
Trông xa thì hỗn độn, nhưng thiệt tình, lũ ma diễn thế trận Thiên Ma Lãnh Khí ở trang chót cuốn Lạc Hồn thủ pháp kỳ thư.
Để thêm vào cơn lốc vũ bão của đám hắc vân, tên Trụ Ma miệng lâm râm đọc bài chú, chốc chốc lại thò tay vào túi vải vung ra một loại bột màu
vàng. Tức thời gió lại rít lên từng cơn rất mạnh, làm bụi vàng bay tới
đâu, chạm vào cỏ thì úa rụng liền, không một sinh vật nào chạm vào mà
còn sinh khí.
Trâu, bò, heo, chó ngã lăn ra. Xác chết đông lạnh. Vùng tử khí khi lại
lớn lên thành gió, thành bão cuốn tất cả những vật đã chết đi theo. Thực là địa ngục A Tỳ đã hiện lên nhân gian. Sự kinh khủng không sao tả
siết, thật là ghê sợ!
Chi Mai thấy ngựa lồng dữ quá liền lấy khóm hành, khóm tỏi buộc quanh cổ con ô truy để nó không bị độc khí làm choáng váng. Đúng như nàng dự
đoán, hơi thảo mộc này đánh át một phần lãnh khí, nhờ vậy, Chi Mai nhìn
rõ những vật xung quanh và không bị khí độc chờm sát tới cận.
Nàng bảo Đan Tâm rằng :
– Tôi rất lấy làm lo sợ cho bà Song Trâm. Một mình bà ta làm sao chống
cự lại được độc khí, độc phong? Chúng mình bỏ đi tất cả để bà đơn phương độc mã ở lại đoạn hậu, nếu xảy ra chuyện gì ân hận lắm! Bà đã đối xử
với chúng ta rất tốt, chúng ta ám trợ cho bà, chừng nào thực nguy cấp ra roi chạy dài còn kịp chán!
Nói chưa dứt lời, hai người ngoảnh đầu lại trông rõ nữ hiệp xòe tay đánh một chưởng làm đổ ngọn đèn lưu ly đặt trên đống hỏa liệu, ngọn lửa cháy bùng lên.
Trong chớp mắt, gió to, lửa bốc mạnh khiến vòng rào quanh doanh trại
cháy lan nhanh như một vòng đai lửa lớn. Lũ “lãnh ma” bị ánh sáng soi rõ đôi mắt chỉ là hai hốc sâu hoắm đen ngòm trên bộ mặt trắng bệch, nên
chúng kêu ré lùi lại…
Tuy lửa sáng chói như vậy mà cũng khó nhận ra chân hình người bóng vật.
Bà Song Trâm, cùng một lúc, tận lực bình sinh phóng một lúc cả trâm vàng lẫn kiếm bạc về phía tên đầu yêu đang quát tháo.
Phi trâm và phi kiếm rít xé không khí soèn soẹt, đâm thẳng vào giữa vùng khí đen, hào quang vàng trắng lấp lánh rất đẹp mắt. Trụ Ma Thiên Vương
dù tài giỏi nghiêng trời lệch đất cũng khó đỡ nổi một lúc lưỡng kiếm
thêm một ngọn trâm vàng lợi hại.
Hắn múa cây gậy đen lên gạt làn kiếm quang, nhưng mũi trâm đã găm trúng
bả vai hắn khiến hắn té nhào từ trên con trâu nước xuống. Bầy quỷ nhảy
ào ào như đàn châu chấu tràn ngập các doanh trại.
Loạt đầu tiên bị chặt cụt đầu. Những tên ma cụt đầu đó cúi xuống lấy tay nhặt đầu, nhặt sọ chúng và ném về phía bà Song Trâm. Thực là quái đản
khủng khiếp. Nhiều đầu lâu, thây ma nằm vắt ngang hàng rào, bị lửa nướng cháy nổ kêu lép bép.
Bà Song Trâm lùi vào giữa doanh trại, phần vì độc khí và các hòm thây
ma, đầu lâu xương người, thịt người cứ ném ào ào về phía bà, mùi hôi
tanh nồng nặc không sao chịu nổi. Hắc khí trùm lên làm lửa tắt ngấm. Tên Trụ Ma đã rút cây trâm ra khỏi vai, hình như hắn lúc đó không biết sự
đau đớn của xác thịt. Cánh tay hắn bị chém đứt gần rời lủng lẳng mà
không thấy chảy máu. hắn ném cây gậy đen và túi vải đựng bột màu vàng về phía nữ hiệp.
Gậy đen múa tít giao chiến cùng kiếm bạc trên không trung. Lưỡi kiếm
chém trúng túi bột độc. Động tác này thực không có lợi cho bà Song Trâm
vì bột đó làm tắt hết lửa. Gió thổi ào ào thêm mạnh. Vùng khói đen càng
dày đặc thêm lên. Khí lạnh tỏa ra nhanh chóng. Làn kiếm quang yếu lực
dần dần.
May thay mấy quả pháo bén ngòi nổ tưng bừng sáng. Tiếng nổ vang động làm lũ ma thi rùng rùng lùi lại phía sau. Chính trong lúc này nàng Chi Mai
đã lắp tên dùng ná bắn trúng sọ mấy tên lãnh ma. Nhưng chẳng ăn nhằm gì
cả chúng vẫn trơ trơ nhào tới. Đan Tâm muốn cùng Chi Mai quay ngựa trở
lại tiếp cứu bà Song Trâm, nhưng thấy tụi thây mà cứ nhăn nhở tung hoành nên không dám. Nhà cửa cháy dở dang bị chúng đạp phá đổ vỡ rầm rầm.
Chúng phát tiếng kêu làm sởn gai ốc!
Chi Mai lấy nhanh tỏi cắm vào đầu mũi tên nhắm một bóng ma, phóng một
mũi tên xem sao? Mũi tên găm trúng thân hình gầy chỉ còn da bọc xương
của tên lãnh ma cao nghêu, xông xáo gần nàng nhất.
Tức thời thây ma lạnh té gục xuống, từ vết thương trúng tên một làn khói đen nghi ngút bốc lên thay vì là máu chảy ra, thân hình giãy giụa, co
quắp rồi lụi tàn dần thành nắm bụi đất gió cuốn bay đi. Tử khí kết hợp
thành “chủng ma”. Nhưng thể khí này vốn dĩ tanh tưởi, không kết tụ được
với mùi hôi hành tỏi thường có tình chất tỏa rộng và làm át hơi khí khác vì đặc tính phát sanh vụ trụ tuyến của nó.
Thấy linh nghiệm, Chi Mai cứ tiếp tục làm như vậy, bắn trúng thêm năm
bảy tên quỷ hú ré lớn nhất, thân hình kinh tởm lần lượt tan rã biến mất
giữa vùng hắc khí đen ngòm.
Ở phía trong, bà Song Trâm lui vào tòa đại sảnh xây bằng đá xanh. Bà dẫn dụ được một đám đông thây ma chạy theo vô căn nhà lớn đó.
Chừng tới khi bà nhảy trổ lên nóc và bay vụt về phía Đan Tâm và Chi Mai
đương ngồi trên mình ngựa lắp tên giương nỏ bắn ngã những tên lãnh ma
cuồng tín ở chung quanh ngôi nhà.
Chân bà vừa chấm đất thì tòa đại sảnh phát nổ. Hỏa pháo chất trong tòa
nhà bén ngòi cùng phát cháy một lúc nên đã gây tiếng nổ dữ dội như vậy.
Nhiều thây ma bị hơi nổ xé tan thành mảnh vụn hoặc bị kẹt dưới mái tường bị sụp đổ xuống.
Từ lâu bà Song Trâm nín thở như người ngụp lặn dưới đáy nước sâu. Thấy
không khí nơi hai người đứng tương đối quang đãng, bà mới thở phào một
hơi và hít dài :
– Nếu không có hai em còn chờ ta ở đây thì phen này ta nguy mất! Coi chừng “hắc bổng” của giống tà ma đánh hơi tới nơi.
Đứng gần những khóm hành, tỏi lủng lẳng quanh cổ ngựa, nữ hiệp chỉ cho
Đan Tâm trông thấy cây gậy đen quay tít từ trong vùng hắc khí vọt nhằm
ba người đánh xuống.
Đan Tâm rút nhanh mộc kiếm đối địch. Chiếc gậy ba lần đánh bổ xuống đều
bị Đan Tâm gạt văng xa tít. Chi Mai cầm búi hành ném trúng mắc vào một
đầu gậy. Các nhánh hành tỏi bị dập nát càng xông mùi hăng hắc trong vầng khí tanh tưởi dễ khiến nôn ọe.
Nếu nhóm ba người sợ ngửi phải mùi tanh như thế nào thì bọn ma thi cũng
sợ hít phải mùi hành, tỏi như vậy. Chúng nhốn nháo rút lui, làn khói đen không sao chồm đụng tới chỗ ba người. Cây gậy đen cũng bị rớt nằm tòn
ten trên mặt tường xiêu.
Thừa dịp này, ba người chạy nhanh về phía Đông bắc. Bà Song Trâm phi
thân như đạo cầu vồng vụt sáng. Đan Tâm và Chi Mai phóng ngựa chạy nước
đại, nhắm theo sau ánh trăng nhấp nhoáng.
Càng ra xa khu vực doanh trại, không khí an lành hơn. Hai người thở mạnh thấy trong người thư thái dễ chịu. Ống đựng tên đeo sau lưng Chi Mai
không còn một mũi nào hết.
Đan Tâm hằn học có vẻ tiếc :
– Nếu biết nghe em, chúng ta triệt để dùng hai loại gia vị hành tỏi này
mà trừ yêu thì hôm nay có lẽ phá xong được trận Thiên Ma Lãnh Khí của
Trụ Ma Vương rồi. Ai ngờ vật tầm thường như nhánh hành, nhánh tỏi đặt
đúng chỗ lại đắc dụng đến thế.
Chi Mai cười đáp :
– Song lẽ, nếu chúng ta vô ý đụng nhằm phải một hạt cát vàng của Trụ Ma
thì chúng ta cũng biến thành Ma thi theo chúng về mộ địa! Đây chỉ là
trường hợp bất ngờ chúng ta thấy có hiệu quả, có lẽ những mùi hành tỏi
lạ hoắc đối với ma thi. Nhưng nếu đem sử dụng quy mô Trụ Ma biết được,
nó thay đổi phương sách thì tụi mình chẳng thành công dễ dàng được. May
mắn hai ta ở lại trợ giúp bà Song Trâm thoát nguy. Đó là điều đắc ý
nhất.
Đan Tâm khen phải :
– Thiệt tình lúc đó ta cũng hoảng vía, mất trí vì ghê sợ lũ yêu ma đó,
thế mà em vẫn bình tĩnh bắn chúng ngã, đáng phục quá chừng!
Chi Mai xì một tiếng :
– “Chào mào khen khỉ đỏ đít”. Đó chỉ là sống ở rừng núi người sơn cước
chúng em quen chống chọi với lam sơn chướng khí ma thiêng nước độc có
chút kinh nghiệm, nên vững chí mà thôi.
Ngoảnh nhìn lại phía sau, vùng khí đen đã thu nhỏ dần. Trời quang mây
tạnh, tiếng ma kêu quỷ hú cũng không còn nghe thấy lao xao nữa.
Hai người vẫn thúc ngựa chạy nhanh để cố bắt kịp các toán người tháo lui từ trước.
Tới quá nửa đêm thấy xa xa phía trước mặt đoàn cẩm binh thiết kỳ đã rong đuốc hộ vệ Đông Cung thái tử tiến nhanh.
Chín toán kỵ mà đi hàng một kéo dài, trông xa như chín con rắn lửa ngoằn ngoèo qua đồi vượt núi. Bà Song Trâm đã bắt gặp Phong Vân nói cho nàng
hay bà đã chặn đánh là Trụ Ma bị thương. Nguy hiểm đã qua bây giờ có thể an nhiên rong đèn, đốt đuốc trong đêm tối, tránh mọi phục quân cản trở.
Khi thấy Đan Tâm và Chi Mai phi ngựa chạy tới, mọi người hoan hô khích
lệ, Thái tử mừng quá cởi ngay hoàng bào ban cho Chi Mai khoác lên thân
mình đỡ lạnh dưới sương đêm.
Thái tử hoan hỉ nói :
– Ta có những trang hiệp khách can đảm tài giỏi nhường này bọn Hắc Y chẳng thể thủ thắng tung hoành được.
Nghe bà Song Trâm kể cho biết những thây mà miệng thở khói đen hôi tanh
nồng nặc, vác hòm đựng xác sình thúi, nhặt đầu lâu và ném vô trong doanh trại, các nàng Bảo Liên và Thái Cơ lấy hai tay bịt tai, bịt mắt, run
rẩy không dám nghe nữa.
Trương Bỉnh Nhi đương ngồi bên cạnh Lão Tam cũng mặt mày tái xanh, chui
tọt vào trong. Câu Hồn vẫn ngủ im hơi, Cung Đình đương ăn nốt con gà
luộc to tướng đương xé thịt dở dang.
Thiết Như Hoa và Kim Diện sứ giả tiên phong do thám mở đường.
Văn Tú Tài tay phẩy quạt khiến con thanh phong mã đi song hành với ngựa Cao Tú Sĩ, hai người chuyện trò thân mật lắm.
Khi mọi người nghe tới câu chuyện Chi Mai bắn ngã thây ma bằng củ hành,
củ tỏi, ai cũng lộ vẻ mặt ngạc nhiên, duy chỉ có Cung Đình thò cổ ra
khỏi mui xe la lối :
– Chị Chi Mai còn hai món đó không, cho tôi mỗi thức một vài nhánh ăn
chơi với thịt thăn gà xé phay cho đúng vị của nó. “Ăn chó không giếng,
ăn gà không hành” nó làm sao ấy!
Đan Tâm lắc đầu bảo :
– Xông pha từ tối, món đó rơi lả tả hết rồi! Chỉ còn mùi nó dính khắp
thân mình ngựa mà thôi, rất tiếc, không còn sót lại cọng nào hết.
– Hoài của! Nếu vậy thì thôi, nhắc đến chỉ thêm thèm. Cho ngựa đi lại
bên xe, tôi hít vài hương tưởng tượng như có mùi vị đó, gặm nốt cánh gà
này cũng được.
Mọi người thấy Cung Đình tham ăn, cõng Câu Hồn chạy nhanh thế mà vẫn còn thủ được con gà luộc lớn đem theo thì chịu y hết sức.
Cung Đình gọi bà Song Trâm nói rằng :
– Nè bà chị! Cho em xin lại hai cây ngân kiếm, nếu phải tay em phi kiếm đêm nay thì Trụ Ma có ba đầu cũng rụng nhào hết mà…
Bà Song Trâm gật đầu nói :
– Để ta trả lại cho sư đệ đôi ngân kiếm. Ta sử dụng không đắc lực cho lắm. Có lẽ ta dùng kim trâm quen tay hơn.
Cung Đình giơ tay ra tiếp lấy đôi kiếm bạc nhỏ xíu đưa lên mũi ngửi. Bỗng hắn nhăn nhó nôn ọe la trời như bọng :
– Ối a! Tanh quá mẹ ôi! Phi kiếm chém rụng nhiều đầu thây ma quá nên sặc sụa mùi tanh kinh tởm. Em hết ăn được thịt gà nữa rồi… Ối chao, phải
nhai cả thúng hành tỏi gừng tiêu ớt mấy ngày mới khỏi mùi lợm giọng buồn nôn. Chém làm chi vật thối tha như vậy? Sư tỷ ơi!
Mọi người nghe Cung Đình la lối phải bật cười.
Lão Nhiếp Thủ lấy bầu rượu trong bọc đưa cho Cung Đình bảo rằng :
– Lấy chút rượu trong bầu này mà tẩy uế… cho hết mùi xú khí.
Cung Đình đổ rượu lau rửa lưỡi kiếm và tiện tay tu vài ngụm rượu khoái
trá. Đoàn quân trảy tới sáng, dừng lại thổi cơm ăn trước bình minh.
Khi ánh mặt trời le lói chiếu xuống đồng ruộng, mọi người không còn kinh sợ phải đương đầu với các thây ma nữa! Nhưng bỗng nhiên Thiết Như Hoa
chạy về báo tin có hai cánh quân lạ xuất hiện. Mỗi toán đông một ngàn
người.
Bà Song Trâm liền chia quân thành hai toán. Một toán do bà thống lĩnh,
một toán do Phong Vân quận chúa chỉ huy kéo ra nghênh chiến.
Đây có lẽ là cánh quân thuộc quyền Ngũ Đạo tướng quân với mục đích vây
bọc đoàn binh Thái tử bắt buộc về kinh để cho đoàn âm binh tiến lên tiêu diệt không còn một người sống sót.
Cánh phía tả do một viên tướng mặt đen xử thanh đại đao dài như Yểm Nguyệt Long Đao của Quan Vũ nhà Hậu Hán.
Hắn quát lớn nạt nộ rằng :
– Lũ chuột định chạy trốn đi đâu cho thoát khỏi ta? Bản chức vâng lệnh
quan Ngũ Đạo tướng quân bắt lũ bay nhốt vào tù xa đem đi trảm.
Bên này chia đàn ngựa thành hàng ngang, cánh quân phía hữu đã nổi trống
trận ầm ầm kéo đến. Giữa đám kiêu binh xông ra một viên tướng cưỡi ngựa
lông vàng, mặt to bạnh như cái thúng, đầu tóc lơ thơ vài sợi tóc loe
hoe, miệng rộng môi dầy thâm như hai miếng thịt trâu ôi, hò hét :
– Lũ bọ xít kia! Mau xuống ngựa chịu trói bằng không ta sẽ đập nhát tụi bay cho vào hũ mắm.
Viên tướng mặt vàng như nghệ đó cầm một cây trùy đồng có gai cán dài, nom điệu bộ cũng oai phong lẫm liệt lắm.
Bà Song Trâm quay lại hỏi Thủy Liên Đài rằng :
– Thủy cô nương ắt hẳn nhận biết hai thằng cha này là hạng người nào?
– Đó là danh tướng xứ Hồ Bắc, một người cầm đại đao là Quách Vô Nghi
lãnh chức Kỵ Đô Úy và người cầm trùy là Tưởng Bất Túc lãnh chức Cấm
thành Phó đốc quân, không hiểu hai tên này mang binh bản bộ đến đây chặn đường chúng ta là nghĩa lý gì? Hoàng thành có biến rồi chăng?
Bà Song Trâm cho ngựa kiệu bước một ra trước hàng trận, cầm roi ngựa trỏ mặt hai viên hổ tướng đương diễu võ dương oai nói rằng :
– Ta là Bình Giang Nữ Vương, phụng chỉ Đông Cung thái tử hồi triều, hai
ông là tướng của triều đình sao không xuống ngựa cung bái Điện hạ mà lại có cử chỉ mạn thượng như vậy?
Quách Bất Nghi cắp dao vô nách, vuốt râu ha hả cười vang :
– Mụ là ai lại dám tự xưng vương? Vương bá gì mà ăn mặc lôi thôi lếch
thếch, chức tước đâu mà “lạm phát” quá như vậy? Bình Giang hầu thì có
chứ làm gì có chức vị nào là Bình Giang vương trong danh bộ triều đình?
Thủy Liên Đài tức giận phóng ngựa xông ra cả mắng :
– Quách Bất Nghi! Tiểu tốt vô danh đừng hỗn láo. Cả tên mặt mẹt Tưởng
Bất Túc kia nữa, Điện hạ và Thiên tuế uy nghi ngự nơi kia, hai bay ăn
lộc triều đình mà lại dám phản vua, phản chúa phải không? Không sợ “ba
họ” tru di hay sao?
Tưởng Bất Túc bị gọi tên trước ba quân, tức khí chửi lại :
– Ta là danh tướng triều đình đâu thèm nói chuyện với lũ “bọ gậy”. Thái
tử mi nói là Thái tử nào? Thiên tuế mi nói là Thiên tuế nào? Chính hai
ta phụng mạng Thái tử và Thiên tuế lại đây để bắt giết bọn phản thần hại nước đem về đâm cổ cắt tiết! Mi lại dám mở miệng đem danh hiệu Thái tử
và Thiên tuế ra dọa nạt ta sao đặng?
Thủy Liên Đài và bọn người nữ hiệp ngỡ ngàng như trên cung trăng rớt
xuống. Không hiểu tại sao ở trước mắt quân ngu như heo này lại có đến
hai Thái tử, hai Thiên tuế? Bên nào thực, bên nào giả? Bọn Quách Bất
Nghi và Tưởng Bất Túc này bị lầm lộn rồi?
Thái tử muốn minh bạch mọi sự liền sóng cương cùng Phong Vân tiến lên phía trước, gọi hai tướng bảo rằng :
– Hai tướng quân không nhận biết ta sao?
Cả hai viên tướng họ Quách và Tưởng đều lắc đầu đáp lại :
– Không! Ta không biết bọn ngươi là ai dám giả mạo xưng danh con vua.
Hiện triều đình có đủ cả Vua Tống, Thái tử, Thân vương, Thiên tuế thiết
đại lễ cho văn võ bá quan triều kiến Thánh chỉ tuyên bố rõ ràng là có
một bọn mưu đồ soán nghịch ban chiếu giả tái lập Lý Lăng vương, giải
chức Thân vương gây náo loạn trong nước. Đức vua đã khỏi bệnh cùng Thái
tử phân giải rõ ràng về việc phản loạn đó. Hai ta được Ngũ Đạo tướng
quân ra lệnh dẹp dư đảng của bọn giặc Lý Lăng còn sót lại. Muốn tránh
mọi sự đổ máu vô ích, bọn phản loạn nên xuống ngựa quy hàng cho ta bắt
trói đem về dâng nộp Hoàng đế để Ngài cùng Thân vương xét xử. May ra
tránh được tội trảm, giảm xuống còn tội lưu cũng là sinh phúc cho tụi
bay lắm. Còn nếu cứ nhiều lời cãi chày cãi cối kháng cự triều đình, ta
xua binh loạn đả thì tất cả chúng bay sẽ thịt nát xương tan, dù có hối
tiếc cũng muộn.
Cậy đông quân sĩ dưới quyền hai tướng múa may hò reo vang trời dậy đất, khí thế hăng hái bội phần.
Trái lại bên này, quân thiết kỵ vẫn trầm tĩnh, binh khí tuốt trần, đứng yên không nhúc nhích rất nghiêm chỉnh.
Thái tử không nỡ để đôi bên lâm vào vòng chiến mái đổ thịt rơi vì ngộ
nhận, bèn giật cương con ngựa đen bốn vó trắng “Tứ Túc Mai Hoa” trở về
phía sau cùng các anh hùng liệt nữ thương nghị.
Quách Bất Nghi gia hạn cho một khắc, không quyết định đầu hàng thì cho quân xáp chiến.
Cao Tú Sĩ bực mình hậm hực :
– Binh với tướng chó gì mà lại hồ đồ, có mắt như đui, giặc không đón
đánh mà lại nhè quân tướng nhà mà đón đánh. Để tôi và Đan Tâm ra cho mỗi thằng nếm vài đường gươm cho chúng nó mở to mắt ra.
Bà Song Trâm lắc đầu can ngăn :
– Đoàn quân này tin theo chủ tướng nó lắm. Giao tranh là quân nó xung
trận liền. Cuộc chém giết trở nên khốc hại. Nhất định là phần thua về
bên chúng, nhưng chém giặc thì ta không tiếc tay, đằng này chém quân nhà đương bị lầm lẫn u mê thì ta không nỡ. Thái tử cũng không muốn cốt nhục tương tàn như vậy. Tiến cũng khó mà lui cũng khó!
Thủy Liên Đài bóp tay than thở :
– Mới nhiếp chính, ba quân biết mặt Thái tử thì ít, biết mặt Thiên tuế
thì nhiều, Ngặt vì nỗi Thiên tuế hôm nay lại cải thành nữ nhân mất rồi,
khó biện minh quá. Nói rồi đưa mắt nhìn Cao Tú Sĩ có vẻ trách móc. Cao
Tú Sĩ hiểu ý là từ này chẳng còn Thiên tuế tức Ngũ Độc Thiên Nhân nữa,
chỉ còn Phong Vân quận chúa. Nhưng Hắc Y lợi dụng sơ hở, cải dạng thành
Thiên tuế và chiếm lãnh quyền uy đó liền.
Đến lúc nãy mọi người mới nhận thấy Hắc Y Đạo có những ngón đòn cực kỳ
hiểm độc. Chưa biết hắn đã sai phái ai cải dạng thành Thái tử và ai cải
dạng làm Ngũ Độc Thiên Nhân? Rất có thể chính hắn đã hóa trang, cải hình biến dạng thành một trong hai người.
Phe bên này chưa kịp về kinh, hắn đã phò giúp Thân vương Tạ Bưu về
trước, thế cờ chỉ chậm một nước mà biến cục hoàn toàn. Nếu thực Hắc Y
Đạo đã thân hành ra mặt điều hành vụ dịch giả thành chân, mập mờ đánh
lận con đen này thì thực là Thái tử ở vào thế kẹt.
Cao Tú Sĩ và Đan Tâm đều chủ trương đánh rốc ngay vào hai cánh quân giết chết hai tướng rồi hỏa tốc chạy về kinh tìm vào phủ Thân vương, mang Tạ Bưu ra vấn tội.
Nhưng bà Song Trâm lo răng, sau trận đánh giết này, đoàn ma binh từ phía sau kéo đuổi theo kịp, Ngũ Đạo dẫn thêm binh tiếp ứng, vây bọc cấm quân và Thái tử và giữa hai gọng kìm. Đánh nhau, chạy trốn cả đêm qua bây
giờ lại đánh nhau rồi lại phải tiếp chiến nữa. Chừng còn lực lượng mà về tới kinh, nếu chẳng may đụng đầu với chính Hắc Y đạo trưởng thì lấy hơi sức đâu mà thủ thắng.
Đấy là chưa kể nhóm anh hùng liệt nữ tuy đông, nhưng còn phải lo bảo vệ
Thái tử, Thái Cơ, Bảo Liên và một số người không biết chiến đấu giả tỷ
như Câu Hồn và Cung Đình ban ngày công lực phân tán thì làm thế nào?
Vạn nhất tất cả mọi người binh sĩ cũng như nhân dân, triều đình đều nhầm lẫn không biết là Hắc Y đã đánh lộn sòng, cứ tưởng bọn mình là quân
phản loạn, thì lấy ai là người trợ giúp tiếp cứu khi lâm nguy.
Dù có giải thích cho hắc bạch phân minh thì lực lượng hiện tại của mình
mười phần đã hư tám chín. Đấy là chưa kể trong lúc xông pha mũi tên hòn
đạn, Thái tử không được bảo vệ chu toàn thì trách nhiệm sẽ trút vào ai?
Tình thế thực là tế nhị khó khăn! Thời giờ lại gấp rút!
Văn Tú Tài cưỡi con Thanh Phong mã tiến lại phía hai tướng đương đứng chờ ở cửa trận, vòng tay thi lễ.
– Kính chào nhị vị đại tướng quân. Kẻ hạ tiện là Văn Tú Tài có lời kính thưa cùng hai vị.
– Bằng lòng đầu hàng hả? Hay là muốn dùng thuyết khách làm kế hoãn binh?
– Không có ai là Tô Tần, Trương Nghi trong hoàn cảnh này. Đây chỉ là một sự thực xin thưa để hai tướng quân định đoạt. Trong đám chúng tôi có
nhiều kẻ muốn đánh hơn là muốn hàng. Hai vị tướng quân lĩnh mệnh chủ
soái Ngũ Đạo tướng quân đến bắt chúng tôi, vậy lệnh trên có nói cho biết là có bà Ngũ Đạo tướng quân cùng lệnh ái chủ soái ở trong đám chúng tôi không? Nếu hai quân giao chiến, bà lớn và cô chủ chết đi, hai tướng
quân trở về được thưởng hay bị trừng phạt?
– Nhà ngươi nói sao? Có bà Ngũ Đạo tướng quân và cô nương ở trong đám quân bên đó sao? Lấy gì làm bằng chứng?
– Tôi nói dối hai vị thì được ích gì? Ai cũng biết chỉ có Ngũ Đạo tướng
quân và cô nhà mới hay dùng ngọc Quỷ đầu trùy bốn cạnh bằng thiết cang
màu xanh biếc. Tôi đưa cho hai bị làm bằng sai người cầm về phi báo cho
chủ tướng biết, xem có đúng hay không? Chủ soái lệnh hai ông đi bắt giặc và giết giặc chứ có lệnh đi giết vợ con của chính chủ soái đâu? Hai
tướng quân nghĩ lại mà coi.
Nói rồi đưa mũi trủy cho Quách Bất Nghi.
Hai tướng cứng lưỡi không biết nói sao. Tưởng Bất Túc đành phái thám mã cưỡi ngựa lưu tinh chạy về đại bản doanh cấp báo.
Văn Tú Tài hiến kế :
– Trong khi chờ đợi chẳng nên giao binh. Mỗi bên lui quân về một đỗi tên.
Hai tướng ưng thuận, dàn quân thực rộng để đối phương không thể lọt vòng rào chạy trốn.
Thái tử và Song Trâm thấy Văn Tú Tài mới uốn ba tấc lưỡi đã hoãn được
tình thế căng thẳng, khen ngợi chàng thư sinh trẻ tuổi, Văn Tú Tài cười
nói :
– Bây giờ dùng kế tỉa dần đi thôi.
Nói rồi ghé tai Cao Tú Sĩ nói nhỏ.
Cấm quân liền xuống ngựa nghỉ ngơi. Hai bên chờ lệnh Ngũ Đạo tướng quân
quyết định. Hai tướng bỗng thấy tự hàng trận cấm quân, có một anh chàng
không biết tìm đâu được một thanh đại đao, ngồi trên ngựa trắng quờ
quạng tập múa trông rất buồn cười.
Quách Vô Nghi bảo Tưởng Bất Túc rằng :
– Đại huynh trông xem thằng kia nó múa bài đao gì mà tôi trông ngứa mắt
quá. Tôi chỉ muốn thúc ngựa ra tặng cho nó một đao như Quan Hầu Tru Nhạn Lương trảm Văn Xú cho đỡ bực mình.
Viên tướng mặt vàng trả lời :
– Phải đấy! Tôi trông cũng ngứa mắt lắm. Huynh ra cho nó một bài học,
trong khi chờ đợi, ta cứ thủng thẳng tỉa vài thằng cho bên nó khiếp đảm.
Quách Vô Nghi cắp đao cho ngựa chạy lại gần anh chàng ngông dại nói rằng :
– Ta thấy ngươi múa đao mà tủi cho thanh đao. Mi múa dở quá, tồi tệ quá!
Thiếu niên nọ cười đáp :
– Ta múa đao dở ẹc, nhưng ai mà nhảy vô đấu chọt là hết về với vợ con
đấy! Đứng xem nói phách lối thì dễ, nhập cuộc, có khi không còn cái mồm
phê bình nữa.
Quách Văn Nghi nổi đóa hét lớn :
– Ta thấy mày kém muốn chỉ bảo cho biết chỗ dốt kém của mày. Lại dám mở
miệng đòi đấu chọi. Được rồi, chọi thì chọi cho bay về với tiên tổ.
– Đấu tay đôi không được ai giúp nhé!
– Nhất định là như vậy rồi! Ra giữa quãng trống kia nhất định không ai
được can thiệp. Hai người tiến ngựa ra giữa khoảng đất rộng. Quân đôi
bên thấy có cuộc đấu đao thảy đều nhổm dậy đứng ra coi xem vồ tay reo hò ầm ầm!
Lẽ tất nhiên tài đánh đao của chiến tướng Quách Vô Nghi phải là tuyệt kỹ rồi. Long đao bay nhấp nhoáng vun vút sức mạnh phi thường. Còn chàng
trẻ tuổi thì lúng túng y như thợ rụng mất kim, cầm đao sái phép, bổ củi
không ra bổ củi, đập chó không ra đập chó, chọc ngang chọc dọc, múa loạn xà ngầu trông rất tức cười.
Có lần bổ mạnh quá, thành quá trớn chém hụt không khí tí nữa té lộn đầu
xuống đất. Lưỡi đao sáng nhoáng của Quách Vô Nghi nhiều lần tạt ngang
qua, chỉ một ly “ông cụ” là đầu Cao Tú Sĩ bị rơi xuống mặt cỏ.
Người đứng xem vừa lấy làm thích thú, vừa kinh hãi thay cho anh chàng
trẻ tuổi trong vòng đấu. Họ chỉ cho là anh ta may mắn mà tránh né khỏi
lưỡi hái tử thần, thực ra trước sau rồi cũng chết bởi tay Quách tướng
quân đao pháp đã vững vàng, sức mạnh không kém thần Kim Cương tái thế.
Quả nhiên hai ngựa quân quần vài chục hợp, một tiếng “choang” rùng rợn
nổi lên, thanh đao của thanh niên đã bị văng lên trời quay tít nhiều
vòng, Cao Tú Sĩ chỉ còn trơ đôi bàn tay không luống cuống ôm đầu cho
ngựa chạy vòng tròn để lẩn trốn lưỡi đao oan nghiệt…
Quách Vô Nghi nắm chắc phần thắng trong tay, vừa biểu diễn những đường
đao cực kỳ đẹp mắt như “Sát thủ đao”, “Hồi mã quái đao” và sau cùng là
miếng “Đà đao” tuyệt luân, lưỡi đao sát yên ngựa để chặt Cao Tú Sĩ đứt
làm hai khúc.
“Soẹt”! Lưỡi đao lướt nhanh hơn ánh chớp. Mọi người đều kêu rú lên vì không thấy chàng thanh niên trên mình ngựa nữa.
Văn Tú Tài cố như bị nghẹn họng không thở được, thiếu chút ngất lịm.
– Úi chao! Bị chém trúng “chết” mất rồi! Đâu rồi, ngã ngựa rồi chăng?
Nhưng không phải vậy, anh chàng đã lanh lẹ tụt nấp dưới bụng ngựa. Và
rồi lại lấy đà, tót phốc lên yên nhưng thay vì ngồi đàng hoàng ngay
ngắn, lần này ngồi quay trở mặt lại phía sau, coi khá ngộ nghĩnh.
Hắn xoa đầu, sờ cổ xem còn nguyên vẹn thân mình không?
Cuộc giao đấu biến thành cuộc trình diễn, một bên như mèo muốn vò, một bên như chuột chạy, xem rất hứng thú.
Người chậm hiểu đến đâu cũng nhìn nhận là Quách Vô Nghi đã dụng tình
muốn giết thực sự. Nhưng đối phương quá ư nhanh nhẹn nên tránh né rất
tài tình. Lưỡi đao tuy ác liệt, tác oai tác quái, nhưng con ngựa Bạch
Tuyết Long Câu hình như cũng rất khôn ngoan, biết né tránh cho chủ nó
khỏi bị vong mạng trong đường tơ kẽ tóc.
Quách Vô Nghi trổ tuyệt kỹ. Trước còn hạ tay đao sát cận thấy không ăn
thua gì, hắn vờ thúc ngựa lảng ra xa, nhưng bất thình lình đổi tay trái
sang tay mặt, chỉ cầm đao ở cuối cán vung mạnh một cái. Lưỡi đao vung
theo đường cầu trong như một đạo cầu vồng vẹt tới cổ Cao Tú Sĩ.
Với miếng Nhật Nguyệt Quái Đao này, hắn đã hạ sát không biết bao nhiêu đối thủ tài danh.
Nhưng sau lưng chàng thanh niên như có mắt, lưỡi đao vừa sẹt tới gáy thì người chàng ta cũng như một con lật, theo hướng lưỡi đao lộn đi một
vòng và rơi bịch xuống đất.
Người tinh mắt đến đâu cũng không thể phân biệt rằng kẻ bị đao chém
trúng hay chưa bị chém trúng. Bên quân Quách Vô Nghi vỗ tay reo vang vì
cho là Cao Tú Sĩ bị mất mạng nên nhào rồi.
Văn Tú Tài cuống cuồng, lấy tay nắm lấy Đan Tâm la hoảng :
– Quách Vô Nghi lợi hại có tiếng! Anh để bạn anh chết uổng hay sao?
Đan Tâm nhoẻn miệng cười :
– Anh Cao Kỳ có lâm nguy thì Thiếu Cơ lo! Anh làm gì mà rối rít lên thế? Giá anh là phụ nữ, không sợ nàng Thiếu Cơ ghen hay sao? Coi bộ thằng
cha cầm đại đao nặng tổ bố này có chém trúng được anh ấy, còn khuya.
Kiếm gỗ của tôi chém nhanh hơn đao của thằng này gấp mười lần mà xét ra
cũng chẳng làm rụng được lông chân anh ấy. Vậy việc gì mà sợ xanh cả
mặt?
Mọi người ngó lại thì quả nhiên Cao Tú Sĩ lấy tay nắm đuôi ngựa đương
kéo anh ta lết trên mặt đất sềnh sệch. Rồi hắn nhỏm dậy được, chạy sau
ngựa Bạch Tuyết. Con ngựa chạy mỗi lúc một nhanh làm chân Cao Tú Sĩ
không chấm đất phất phơ lộn phèo như diều giấy bay đến nực cười.
Thấy nhiều người cười ồ như vậy thì Quách Vô Nghi lại lầm tưởng là chế
nhạo y chém hụt. Lòng tự ái nổi lên làm hoa mắt. Hắn trợn mắt, vểnh râu
thúc ngựa, giơ thẳng long đao quyết tâm chém nát địch nhân làm trăm
nghìn mảnh mới nguôi cơn tức.
Hắn tế ngựa đuổi theo ngựa kia một quãng khá xa. Ai cũng đoán chắc là
nếu bắt kịp, hắn hạ tay đao là kết thúc tính mạng Cao Tú Sĩ. Mọi người
dõi theo thấy bỗng nhiên chàng thanh niên buông tay không nắm đuôi ngựa
nữa, nằm cong queo trên mặt cỏ. Đúng là con cá nằm sẵn trên thớt để chờ
lưỡi đao chặt xuống phân thây.
Quách Vô Nghi phấn khởi, mừng thầm trong bụng hai tay giơ long đao kìm
ngựa đứng lại, nhằm giữa cổ Cao Tú Sĩ chém một nhát cực mạnh nhất định
không thể sai trệch được.
Lần này mày khó thoát khỏi đầu lìa thân xác!
Cao Tú Sĩ năm thẳng cẳng dưới đất mặt ngửa lên trên không nhúc nhích,
chàng nhìn lưỡi đao phản chiếu tia mặt trời sáng như gương lấp lánh…
Văn Tú Tài run bắn người lên, nằn nì bà Song Trâm.
– Phu nhân phi kiếm cứu… cứu…
Nói rồi líu lưỡi không thốt nên lời.
Bà Song Trâm thực tình cũng hơi bối rối. Không hiểu Cao Tú Sĩ định giở trò gì? Thái tử cũng luýnh quýnh!
– Mạng Cao Tú Sĩ nguy mất! Ai cứu hắn hộ ta!
Nói thì chậm. Lưỡi đao đã hạ xuống mất rồi. Nhiều người bưng mắt kêu rú
lên vì không muốn mục kích thảm cảnh máu chảy đầu rơi. Quách Vô Nghi
sung sướng cười ngất. Quân sĩ bên phía hắn vỗ tay reo hò khen ngợi.
Nhưng đến khi hắn nhấc thanh đao lên thấy cán đao nhẹ bỗng, thay vì hắn
cầm thanh Yểm Nguyệt Long Đao, hắn chỉ còn cây bằng sắt trong tay dài
ngoằng như thiết côn. Đao và lưỡi đao bị tiền rời khỏi cán đao mất
rồi…
Thế là nghĩa lý gì? Chàng thanh niên có pháp thuật chăng?
Thì ra Cao Kỳ Nhất Phương đã dùng lưỡi Song Nhạn Thiên Linh chặt cụt đao của hắn trước khi lưỡi đao phạm nhằm nơi cổ.
Quách Vô Nghi quá chủ quan khinh thường đối thủ. Hắn không biết Cao Tú
Sĩ là một kiếm khách “Chưởng môn nhân” Nga Mi. Nếu biết trước như vậy
thì đã chẳng dám giao đấu để đối phương chém cụt đao mà vẫn lớ ngớ như
người trong mộng.
Chưa biết phải làm thế nào thì con ngựa hắn đương cưỡi bị khụy hai vó
trước, hất Quách Vô Nghi té xuống đất. Hắn biết là gặp phải thú dữ chặt
đứt cẳng ngựa rồi, tung người đứng dậy, cầm ngang cây côn sắt thủ thế.
Nhưng cây sắt dài lại bị lưỡi Song Linh chém gãy thành hai đoản côn.
Viên tướng vũ dũng hai tay cầm cây gậy ngắn coi đến nực cười.
Quân sĩ bên Quách Vô Nghi không cười được! Anh nào cũng đứng ngây người
như phỗng đá. Quách Vô Nghi chưa kịp giơ hai cây gậy ngắn múa may thì
lại thấy gươm báu chém chụt thêm hai nhát nữa chỉ còn là hai thỏi sắt vô dụng trong lòng bàn tay.
Cao Tú Sĩ ra tay như điện. Thiên Linh kiếm của chàng thật phi thường,
lưỡi sắc bén và lướt nhanh quá gần như là vô hình kiếm. Đến khi chàng
tra gươm vào vỏ nghe đến cách một tiếng, Quách Vô Nghi vẫn không rõ
chàng đã ra chiêu thế gì chém cụt cán đao của hắn cả thảy là mấy lần?
Tưởng Bất Túc thấy Quách Vô Nghi chỉ trong nháy mắt đã ngã ngựa, hai tay không còn binh khi biết là nguy cấp. Hắn không nghĩ ngợi gì hết múa cây đồng trùy cán dài như vũ bão xông vào đánh Cao Tú Sĩ để cứu gỡ cho bạn.
Nhưng Đan Tâm lanh lẹ hơn hắn nhiều. Chàng phi ngựa ra chặn lại hét lớn :
– Hai người giao đấu, hẹn không kẻ ngoài can thiệp. Thằng mặt vàng như nghệ này định đánh trộm ai vậy?
Tưởng Bất Túc ngoác cái mồm loe ống nhổ mắng lại :
– Tránh xa ra! Thằng trọc đầu rùa! Ông đập chết cha mày bây giờ!
Đan Tâm vốn nóng tánh, bị lăng nhục tức thời vung thanh mộc kiếm, chỉ
thấy chàng khoa tay đến véo, những ngón tay bám chặt cán trùy đồng bị
đứt rớt văng tung tóe, đầu trùy đập một cái vào đầu con ngựa vàng nhôm
kêu đến bốp một cái.
Thế là tướng quân biến thành người tàn phế cụt tám ngọn phục vị xuống đất. Cao Tú Sĩ ung dung bảo Quách Vô Nghi :
– Túc hạ không phải là đối thủ của bọn ta đâu. Sở dĩ chúng ta không ra
tay vì không muốn sát hại nhiều nhân mạng. Mau bảo thuộc hạ tránh cho
chúng ta đi, chúng ta không đòi hỏi điều gì hết.
Bọn tì tướng định xổ ra cứu chủ tướng, nhưng Cao Tú Sĩ đã khẽ động tay, mũi nhọn lạnh ngắt đã dí sát yết hầu Quách Vô Nghi.
– Bảo chúng không được động thủ nếu không mi ắt chết trước.
Đan Tâm cũng đã nắm tóc Tưởng Bất Túc lôi đứng dậy, kề gươm vô cổ nạt :
– Súc sanh! Mi mắng ai là trọc đầu rùa? Ông phải cắt hết tóc của mày đi xem trọc đầu bò của mày ra sao?
Cả hai tướng nếu bướng bỉnh thì toi mạng nên đành vâng theo ý muốn của hai tráng sĩ.
Hai tướng ra lệnh cho quân binh dưới quyền rút lui để đoàn cầm quân tiếp tục tiến hành không bị cản trở.
Đám quân sĩ thuộc quyền hai tướng thấy chủ tướng đã bị hại và bị uy hiếp hên hết dám ho he, biết rằng nếu cưỡng lời giao chiến thì cũng sẽ như
trứng chọi đã, bị tiêu diệt uổng mạng mà thôi.
Hai tướng bị trói ngồi trên mình ngựa, đầu cúi gục xuống không dám liếc nhìn những người chung quanh.
Bà Song Trâm muốn trổ thần oai áp đảo chúng phải hoàn toàn quy phục,
tung phi trâm chém gãy lá cờ chỉ huy của hai cánh quân nọ. Đạo hào quang xẹt ra như tên bắn, lượn quanh lá cờ đại bái một vòng, tên quân cao lớn chỉ còn cầm trong tay cái cán cụt ngủn.
Cờ gãy, tướng bị bắt thật là điềm xui “rắn mất đầu” không còn một chút tinh thần chiến đấu như trước nữa.
Phong Vân vẫy tay ra hiệu, đoàn kỵ mã hộ vệ Thái tử phóng nước đại, hàng ngũ chỉnh tề, trong chớp mắt đã vượt nhiều dặm đường.
Khi Ngũ Đạo tướng quân thân hành kéo đại đội binh mã đến tiếp ứng hai
tướng thì đoàn người ngựa Thái tử đã biệt tăm vô tín không biết đi về
hướng nào mất rồi?
Nếu đôi bên cứ giao tranh thì quân Ngũ Đạo tướng quân ập đến cứu viện
kịp, đoàn cấm quân rất có thể bị nguy vì quả bất địch chúng.
Khoảng giữa trưa, Thái tử họp chư liệt vị anh hùng lại thương nghị, dò
xét biết địch tập trung nhiều cánh quân rất lớn đóng dọc đường về kinh,
mục đích dồn ép Thái tử vào thế cô lập.
Trong không có lực lượng cứu ứng, ngoài không có lực lượng dựa mạnh nên
bà Song Trâm khuyên mọi người nên tạm lui về núi Bạch Khô Lâu sào huyệt
cũ của đảng cướp Mỏ Diều làm điểm tựa. Nơi đây có nhiều rừng rậm, có núi đá toàn hang hốc hiểm trở ba bề lại có trường giang bao quanh, thành
bãi lau sậy gần như vùng Lương Sơn Bạc của một trăm lẻ tám thủ lãnh thảo khấu chống Tống tiền triều.
Cung Đình bảo Trương Bỉnh Nhi đưa trình Thái tử bản đồ cất giấu kho tàng của đảng cướp lớn này. Nếu tìm ra đặng kho tàng do nhóm người Thái tử
sẽ có nhiều vàng bạc mua sắm quân lương để kéo dài những ngày tạm lánh
sức mạnh đối phương.
Để cho Ngũ Đạo tướng quân không thể tìm ra dấu vết, mọi người cho ngựa đi theo dòng nước tiến sâu vào núi.
Bà Song Trâm và Thiết Như Hoa khá thông thuộc đường lối địa thế khu vực
này nên cuộc lẩn tránh khỏi tai mắt quân áo đen không chút khó khăn.
Dân chúng khắp vùng, từ lâu không mến phục Thân vương nên không hợp tác
với bọn quân binh dưới quyền Ngũ Đạo tướng quân, bọn chúng không biết cư xử lấy lòng dân, chỉ hay dùng sức mạnh bóc lột và khủng bố. Vì vậy toán quân của Thái tử càng thêm yên ổn.
Sau hai ngày đường xuyên sơn, đoàn thiết kỵ thấy hiện ra trước mặt một
dãy núi rất hiểm trở. Đặc việt có mộ ngọn núi trọc đá vôi, có nhiều hang hố trông xa như cái xương sọ đầu lâu có hai lỗ mắt và hốc mũi đỏ ngòm.
Mọi người xuống ngựa nghỉ ngơi và phái một toán binh chia các ngả dò xét địa hình.
Lão Tam vốn tính tham lam, nghe thấy nói là đi tìm kho tàng nhiều ngọc
vàng châu báu nên hăm hở muốn theo toán thám binh tiên phong sục sạo
Bạch Khô Lâu.
Câu Hồn không muốn Trương Bỉnh Nhi đi theo Lão Tam lên tiếng ngăn cản :
– Muốn chết hay sao mà xông vào nơi tử địa? Chúng ta cùng bọn với mấy
tên đầu lĩnh người Tây Liêu và Ngõa Nặc Ô Đồ và Vô Sĩ mà còn chẳng dám
xông pha nơi sào huyệt đầy hầm bẫy chết chóc này, các ngươi dại dột lớ
dớ đi lăng quăng thì dễ bỏ mạng lắm!
Mọi người nghe cô nhỏ mũi gồ nói vậy kinh sợ hỏi duyên cớ. Bà Song Trâm
bảo Cung Đình dỗ dành cô bạn mãi mới biết rằng bọn giặc Mỏ Diều đã luyện chất kịch độc với nham thạch tán vụn đắp lên khu vực dãy núi đá vôi này thành những hòn đá sắc cạnh. Người ngựa len lỏi bị cạnh đá hoặc mũi đã
làm xây xước da thịt sẽ chết liền, chung quanh Bạch Khô Lâu xương trắng
người và thú vật rải rác khắp hẻm ngõ ngách.
Vì vậy nên mới có tên là rặng núi đầu lâu tuyệt đối không nên khinh
thường xông xáo. Chỉ còn một đường lối duy nhất là tìm những ám hiệu chỉ dẫn những lối an toàn mới có thể đột nhập nơi trung tâm khu vực. Tốt
hơn nên xuống ngựa để một mình Câu Hồn đi trước dẫn đường. Tuyệt đối
không được dùng tay sờ mó vào các vách đá hai bên lối mòn.
Cẩn thận tránh những hòn đá sắc xám hoặc sắc nâu nằm vương vãi trên lộ
trình, ngựa nên bọc vó, người đi thêm “hài sào” hoặc lấy vải bố bó cẳng
chặt chẽ, đi lần từng bước.
Nghe Câu Hồn giải thích người nào cũng lắc đầu lè lưỡi. Hèn chi mà bao
năm binh sĩ triều đình không cách nào tiễu trừ được đảng cướp dữ tợn đó.
Thái tử truyền lệnh cho mọi người làm theo như Câu Hồn căn dặn. Quả
nhiên trên đường đi đến núi sọ đầu lâu, mọi người thấy nhiều chỗ ngổn
ngang các đống xương người, dãi dầu mưa nắng, đã trở nên một màu trắng
bệch. Trông xa cứ ngỡ là đá vôi.
Người ngựa nối đuôi nhau đi hàng một, tới gần chiều mới lên tới cửa hang đầu lâu.
Hai hốc lỗ mắt là hai vọng canh, nhưng quân canh đã bỏ chạy đâu mất. Cửa hang rộng như cái miệng há rộng, nhũ đá lớn trừ trên buông xuống và mũi nhọn đá mài từ dưới chỉa lên trông không khác chi hai hàm răng năng
nhọn hoắt. Người yếu bóng vía trông vào trong hang tối om, các tiền cũng chẳng dám bước vô! Thực là một sào huyệt được lựa chọn và thích hợp
nhất cho những tay tổ lục lâm giang hồ đại đạo.
Câu Hồ chỉ ba kẽ hở nói rằng :
– Có ba lỗi vô động đá. Đi vào lỗi chính giữa thì bị tụt hầm, rớt xuống
khe sâu có đá độc tất chết. Đi phía bên phải thì sẽ sa vào mê lộ, quẩn
quanh rồi cũng sa vào đá nhọn chết. Chỉ đi theo cửa vô bên hữu là vào
được sào huyệt, ăn thông ra nhiều thung lũng ở giữa đằng sau quả núi.
Mọi người đốt đuốc, mạo hiểm theo Câu Hồn vào thạch động. Đèn đuốc vừa
đốt lên, ánh sáng chiếu sáng bên trong, mọi người rợn tóc gáy.
Nhiều đống sọ người trắng hếu chất cao ngất như đống bình vôi có thứ tự, dọc hai bên vách đá.
Không biết lũ cướp hung tợn đã thâu nhặt gom góp tự bao giờ nhiều sọ người chết vô định thành những đống “bảo vật” trấn sơn.
Qua khỏi Khô Lâu lộ, mọi người tiến sâu vào đường đèo phía sau núi khúc
khuỷu quanh co, nhưng lối đi tương đối rộng dần và dễ đi hơn.
Bạch Khô Lâu sơn quả là hiểm địa, một người tử thủ có thể chống cự trăm người, chẳng thể vượt qua được.
Ra khỏi quả núi ánh sáng bỗng chan hòa làm mọi người mở bừng mắt trông
thấy một vùng bằng phẳng mênh mông. Có ruộng vườn phì nhiêu đầy ngũ cốc, nhiều khu vực nhà cửa tươm tất tường xây mái ngói khang trang.
Cung Đình phải thốt lên lời như sau :
– Hai thằng học trò của tôi, không ngờ nó đã học được đúng phép khai
khẩu nơi hoang dã thành nơi ăn chốn ở khá chu đáo. Chỉ vì hai đứa thị
tài vô kỷ luật nên tôi mới khu trục nó ra khỏi Châu Hòa Trần. Nếu chúng
học võ thành tài thì riêng một giang sơn này tha hồ dọc ngang chọc trời
khuấy nước, ai hồ dễ làm gì nơi chúng nó. Tiếc thay!
Câu Hồn chỉ cho mọi người lục soát những kho đụn thấy còn rất nhiều
lương thực ngũ cốc tích trữ ở trong tầu ngựa nào cũng đầy ắp. Các giếng
nước trong lành hầu như vẫn đầy.
Phong Vân liền cắt đặt cấm binh mỗi người một việc, đóng trại nghỉ quân.
Bộ hạ tìm lôi ra được mấy tên đầu mục và lâu la giữa sào huyệt nằm say
khướt cò bợ. Cũng có đứa hút nhiều mê túy thảo nên ngủ lịm bên một số
phụ nữ bị chúng bắt cóc vô sơn trại hầu hạ phục dịch chúng. Đa số đều có nhan sắc nhưng vì lo sợ bị bọn chúng đánh đập hành hạ nên người nào
cũng có vẻ ốm o gầy mòn.
Tại một khu vực trong tận cùng sơn cốc. Câu Hồn chỉ cho thấy những cây
mê túy thảo, hút vào thì say sưa, nhai nuốt thì thần kinh bị kích thích
tột độ, ham thích chém giết không biết sợ hãi gì cả.
Việc đầu tiên là lấy hai mảnh bản đồ ghép lại, truy lục nghiên cứu chỗ
giấu kho tàng. Hầu hết các liệt vị anh hùng đều chú ý xem xét, định
hướng và tìm hiểu đồ hình.
Nhưng chỉ thấy một vài nét gạch nguệch ngoạc, vài mỏm đá vài hình ngôi
sao, rất là khó đoán, không biết kẻ vẽ đồ hình muốn mô tả cái gì?
Người nọ truyền tay cho kẻ kia, rốt cuộc chẳng một ai tìm ra một manh mối nào hết về kho tàng của bọn cướp Mỏ Diều cả.
Việc đầu tiên Thái tử đề nghị mọi người cần phải làm gấp là phân công kẻ bảng chỉ dẫn rõ ràng những nơi nào có cạm bẫy và có “độc thạch” nguy
hiểm chết người để mọi người tránh xa đừng bước tới.
Việc thứ hai là chia quân cung thủ canh gác những nơi hiểm yếu và báo động khi có biến.
Ngoài việc thủ hiểm, cần phải tìm đường rút lui ra bên ngoài khi đại
binh địch vây bọc tận diệt. Nói vậy, dù huy động hàng vạn tinh binh đến
nơi này, cứ trông thấy núi đá trùng trùng điệp điệp lại thêm trăm ngàn
ngõ ngách thì cũng chỉ là tìm kiếm cây kim trong đám cỏ rậm.
Đồng thời cũng lựa chỗ giam nhốt hai tướng Quách Vô Nghi và Tướng Bất Túc để chờ khi dùng đến.
Tòa đại sảnh nơi đây cũng rất rộng lớn. Thái tử giữ bên mình bà Song
Trâm, Phong Vân quận chúa và lão Nhiếp Thủ để bàn định quân cơ. Nhưng
muốn lưu giữ lão “trường thủ” này phải có rượu ngon và đồ nhắm tốt. Đó
là một việc chưa thể giải quyết ngay được nên lão hậm hực càu nhàu luôn
miệng.
Lão rày la Văn Tú Tài :
– Ta chẳng tiếc chi, chỉ tiếc có bình ngự tửu. Nghe lời xúi dại của bây, bỏ lại tưởng được “tắm trong ao rượu”, ai ngờ đến đây để chết khát
không có rượu ngon uống, đồ nhắm tốt trong cái núi đá vôi đầy đầu lâu,
sọ người và xương sườn, xương ống chân khô, mốc thếch này.
Văn Tú Tài vội vàng an ủi :
– Cụ đừng có nóng! Bất kỳ ở đâu cũng có kỳ trân mỹ vị tại nơi đó. Tôi sẽ bảo anh em đi kiếm rượu cụ xơi. Nếu không có rượu thì cất lấy mà uống.
Cùng quá thì sai người đi mua. Biết đâu quanh đây lại không tìm ra giống ếch bụng vàng để làm món nhậu, cụ “khai khẩu” tùy thích.
Lão Tam bàn góp :
– Ở đây có kho tàng. Chúng ta ráng tìm kiếm cho ra, thiếu gì tiền mua
rượu tốt. Nhược bằng, cụ thèm uống quá, tôi đi kiếm lúa mạch nấu tạm cho cụ một vò rượu tăm sủi bọt vậy.
Lão Nhiếp Thủ buồn rầu lắc đầu đáp :
– Toàn những lời hứa hão huyền, lão thích cái gì “thực tế” chứ không ưa
nghe những lời hứa suông nhạt nhẽo. Lũ cướp quỷ ở đây toàn là những
thằng ưa hút sách, lão đã cho “đôi tay” đi mò mẫm lục soát rồi, không
còn một giọt “đế” nào hết. Có bao nhiêu, mấy thằng đầu mục “sâu rượu”
khốn nạn kia nó đã uống hết trơn ráo trọi và đập vỡ bừa bãi. Nên mang
mấy thằng tửu quỷ ấy ra khai đao cho lão đỡ bực… cái bao tử, lão sâu
rượu muốn đòi mạng mấy thằng khốn đó!
Mọi người đều lo sắp đặt chốn nghỉ ngơi. Cung Đình bảo ông bạn già rằng :
– Thôi bỏ qua đi lão bối! Việc tìm rượu nhậu để “qua” sẽ nghĩ tới sau.
Đêm hôm đó, đền bù với sự mệt nhọc chạy trốn bữa trước mọi người an giấc ngon lành. Buổi sáng hôm sau, Thái tử truyền đem mấy tên đầu mục và lâu la già giữ trại ra tra hỏi để biết tập tục sinh hoạt nơi đây ra sao?
Chúng trình bày tính tình của các tên tướng cướp đã chết rồi, chỉ cho
biết chỗ nào là khu vực săn cầm thú và lưới được thủy sản trong vùng.
Cung Đình ngồi nghe gật gù cái đầu to lớn :
– Đúng mà! Đúng mà thằn lằn vô số! Cắc kè cả đám, đêm qua ta nghe thấy
nó tặc lưỡi kêu điếc tai… vậy thì lão Nhiếp Thủ sẽ có duyên uống rượu
cắc kè nhậu với thịt thằn lằn. Bằng lòng không?
Lão Nhiếp Thủ nghe nói vậy nhăn mặt tỏ vẻ bất ưng. Cung Đình quay lại hỏi tên đầu mục già :
– Lũ bay nhậu nhẹt say mèm, vậy đã lấy rượu ở đâu ra uống?
– Dạ chúng con tự cất lấy! “Đế” ở đây cất với men nấm thêm lá rừng ngũ
vị hương thơm ngon uống chết được. Ngặt vì nhiều tên lâu la uống rượu
say lại còn hút thuốc mê túy nhiều nên không nhận biết bạn bè, ẩu đả
lung tung đến lưu huyết chí mạng nên thủ lĩnh cấm say sưa bằng rượu. Khi nào được mùa hái lá thuốc tốt, phơi khô sấy, cắt, cuộn hút hoặc nhai
đều nhằm đúng kỳ hạn xuất quân đi đánh phá các nơi. Nhờ có mê túy thảo
nên quân lính nào mà vô kỷ luật thì bị phạt không được phì phà hít khói, cơn thuốc nó “hành” đến khổ, tệ hại không kém gì a phiến. Nhưng hút đủ
cỡ thuốc rồi trong người khỏe khoắn tha hồ vượt rừng leo núi không biết
mệt nhọc, làm việc và xông pha trận mạc hăng hái lắm, nhưng xong trận
đánh giết là phải trở về trại để “hút” cho đã và “say” lơ mơ mấy hôm mới tỉnh.
Cung Đình vặn hỏi :
– Ta biết các anh là dân nghiền thuốc rồi. Nhưng ta muốn hỏi các anh có thể nấu rượu cho chúng ta uống ngay được không?
Lão Nhiếp Thủ vỗ tay tán thưởng :
– Cung lão đệ hỏi câu này “đáng tiền” nhất! Có rượu nếm chơi không?
– Dạ! Lệnh trên cấm thì cấm nhưng dân nghiền rượu vẫn cất trộm để có
rượu uống. Chúng con “hạ thổ” được năm vò, hương vị khá lắm!
Lão Nhiếp Thủ hối thúc :
– Thế thì “khai thổ” lấy lên ngay cho ta, còn chờ gì nữa!
Cung Đình nói tiếp :
– Thế chưa đủ! Trong rừng hay nói có nhiều tổ ong. Vậy lo tìm kiếm cho ta loại mật ong chúa thực trong, thực ngọt, thực bổ.
Lão Nhiếp Thủ hỏi :
– Để làm gì?
– Ta sẽ lấy mật ong để làm rượu “cắc kè” uống chơi. Bắt cho ta những con cắc kè đuôi mập bự. Chỉ lấy cái đuôi thôi, mỏ banh ra, bôi mật ong đem
sấy khô, ngâm vào vò rượu hạ thổ độ một tuần đem ra uống… trời ơi,
ngon ơi là ngon, tráng dương bổ chân huyết “số zách”!
– Thiệt hả! Nhưng phải chờ một tuần lễ, lâu quá, không chịu đặng.
– Không chịu thì phải ráng mà chịu chớ sao! Hũ rượu chôn sâu dưới đất
mới thoát cãi mũi của lão bối, phải không? Trời! Rượu cắc kè nhậu với
thịt thằn lằn núi thiệt thần sầu.
Lão Nhiếp Thủ lắc đầu hét lớn phản đối :
– Eo ôi! Nghe đủ làm tên kỳ trân mỹ vị này mình kinh tởm. Ai mà ăn thịt của “nợ” ấy được?
Cung Đình giao hẹn :
– Không ăn thì thôi, cấm không được đòi nhé!
– Ai thèm đòi mà phải giao hẹn. Để anh ăn cho anh chóng biến thành con thằn lằn cụt đuôi.
Cung Đình nháy mắt hỏi bà Song Trâm rằng :
– Sư tỷ ơi! Có phải thằn lằn cụt đuôi rồi nó lại tự “mọc” đuôi phải không?
Bà Song Trâm nhoẻn miệng cười gật đầu xác nhận :
– Đúng vậy!
Lão Nhiếp Thủ tròn xoe đôi mắt hỏi dồn dập :
– Thiệt hả! Như vậy ăn thịt thằn lằn, các ngón tay có “mọc” ra được không?
Cung Đình lắc vai Câu Hồn như giục trả lời hộ đi :
– Ờ… thì… nó mọc dài ra! Nhưng tay ông dài rồi còn muốn mọc dài tới đâu nữa?
– Tôi muốn mọc “bàn tay” chứ đâu có muốn mọc dài cánh tay? Các người đã
làm cụt bàn tay tôi, không thường lại cho tôi đôi bàn tay khác sao? Giúp cho tôi có được đôi bàn tay như trước bắt tôi ăn gì tôi cũng ăn! Nuốt
sống thằn lằn cũng được. Nè, Câu Hồn! Ta đã thấy có lần Câu Hồn chặt đầu người chắp đầu chó vào còn liền lại được tại sao không thể giúp ta toại ý muốn đặng?
Câu Hồn lặng yên không trả lời. Cao Tú Sĩ nói :
– Có đi phải có lại. Câu Hồn là “đệ nhất nữ kỳ nhân” hiện nay. Lão bối
đã yêu cầu giúp đỡ thì phải hứa hẹn cho nàng điều gì xứng đáng sau khi
nàng “ráp” tay được toại nguyện chứ?
Câu Hồn nghe nịnh được gọi là đệ nhất nữ kỳ nhân thì “híp” cả hai mắt lại, đưa tay lên gãi mũi “khoằm” khoái trá.
– Có thật ta là “đệ nhất kỳ nhân” trong thiên hạ không? Cung Đình, bồ chịu đứng dưới tớ chứ?
Thiết Như Hoa cũng vội vàng tâng nịnh :
– Chẳng những là đệ nhất đời nay mà lại còn “vạn tuế” đệ nhất nữ kỳ nhân thiên hạ, muôn đời về sau nữa!
Bảo Liên, Thái Cơ cũng đua nhau tìm lời tán tụng. Câu Hồn được mọi người tự dưng xúm lại khen nịnh như các người hầu bóng chiều chuộng lúc bóng
cô nhập cốt, nghẹo đầu nghẹo cổ giải thích cho biết :
– Không phải là ta chặt đầu người chắp đầu thú vào đâu? Chặt đứt rời đầu thì chết mẹ, còn sống sao được? Số là ở bên Tây Liêu có giống chó ma,
nó cắn ai thì truyền độc vô người đó. Sau hai tuần, tới kỳ trăng mọc,
nọc độc khiến nạn nhân tru lên giống tiếng chó, mặt mọc lông lá xù xì
trông chẳng khác chó ma và giữ tợn, hung hãn khác thường. Ta mới rút lấy máu người bị chó cắn, chích vào một số võ lâm cao thủ lựa chọn, những
người có võ công và nội lực cực kỳ thâm hậu. Nọc độc phát tác biến mặt
mũi họ thành mặt chó chứ có phải là ta đã chắp đầu chó vào thân người họ thành Cẩu đầu quái đâu? Nhưng Hắc Y tâng bốc ta mới cho loan truyền tin là ta có phép chặt đầu súc vật chắp vào thân người. Duy có điều giống
chó thính giác rất tinh tế, nhận biết tiếng động âm thanh nhỏ. Ta dùng
kiềng bạc truyền vào thính giác nên dễ sai khiến, mách ngầm cho những
miếng võ để hạ thủ địch nhân được mau chóng.
Văn Tú Tài hỏi :
– Nếu chúng ta lập đoàn Cẩu đầu quái để ứng chiến với bầy ma thi của Trụ Ma, liệu có thể thủ thắng được không?
Câu Hồn lắc đầu :
– Nọc đó mạnh lắm trích vào người thường lên cơn chỉ vài hôm chết lăn
queo? Trong số cao thủ tại đây không biết có ai chịu nổi không?
Văn Tú Tài bàn rằng :
– Theo ngu ý, tiền của không phải là mục tiêu chính của bọn ta. Việc chủ yếu là làm căn cứ địa, đánh bại Hắc Y để khôi phục triều cương.
Bà Song Trâm nói :
– Đúng vậy! Ta phải phân công việc nào quan trọng cần phải làm trước,
việc nào thứ yếu cần phải làm sau, nếu cứ loay hoay tìm vàng mất thì
giờ, lòng quân trễ nải, việc lớn sẽ thất bại.
Văn Tú Tài đề nghị :
– Tiểu thần xét địa thế nơi đây tuy hiểm trở, quân ngoài không dễ đánh
vô, chúng ta binh ít thủ hiểm được lâu ngày nhưng biệt lập với dân
chúng. Làm việc lớn không có nhân dân ủng hộ giúp đỡ thì không bao giờ
thu hoạch được kết quả mong muốn. Nên phái người gấp rút liên lạc với
Thanh Diện Thần Quân ở Diên Bình phủ, loan truyền tội lỗi của Thân vương Tạ Bưu và thâu nạp thêm vây cánh như đám võ sĩ của Thần Đao đại hiệp
khi trước, ước hẹn tương trợ cùng nhau diệt giặc.
Cao Tú Sĩ hăng hái đứng dậy đáp :
– Tiểu đệ biết Tiểu Bạch cô nương là người có nghĩa khí lớn sau này sẽ
kết nạp tất cả cao đồ Côn Lôn phái về một mối. Nếu được Tiểu Bạch đến
giúp, chúng ta dư sức bí mật trở về hoàng thành dò thám xem sao?
Đan Tâm cũng nói :
– Giặc đã kéo về Kinh, Bạch Hoa cương thế nào cũng phòng bị sơ hở. Làm
cách nào báo tin cho Lý công tử biết, hợp sức cùng chúng ta đánh phá sào huyệt chúng một trận tan hoang Bạch Hoa cương, đã vỡ thì Hắc Y tiêu tan mộng lớn.
Thiết Như Hoa đặt câu hỏi :
– Nhưng chúng ta phải tự hỏi, trong lúc này Hắc Y đạo trưởng mưu tính sự gì mới được chứ
Thái tử hoan hỉ.
– Ta rất sung sướng vì nghe quý vị thảo luận, nêu ra toàn những ý kiến
vô cùng xác đáng. Có được các vị giúp đỡ, việc lớn trừ gian đảng và hưng thịnh quốc gia, lo gì chẳng hoàn thành chu tất.
Chi Mai cũng không chịu ngồi yên.
– Tôi nghe nói Trung Nguyên có phái võ Thiếu Lâm do các nhà sư khởi
xướng, uy thế cũng mạnh mẽ lừng lẫy lắm. Tại sao Thái tử không tuyên
chiến khiến phái võ Thiếu Lâm tới giúp mình giết giặc?
Đan Tâm đưa tay lên sờ đầu trọc suy nghĩ :
– Có một thời, tôi còn lạc lối, tôi đã sát hại không biết bao nhân vật
Thiếu Lâm tự. Sự nứt rạn giữa Thiếu Lâm và Hắc Y rất sâu đậm, bây giờ
gặp được Phương trượng Thiếu Lâm, tôi cứ nói toạc móng heo ra là Hắc Y
sai tôi giết Thiếu Lâm tức thời hai phe đánh nhau to ngay.
Cao Tú Sĩ nói :
– Việc ly gián hai phe. Lý công tử đã nghĩ tới từ trước khi tôi đến đây. Việc này đã giao cho Thần Ma Mật Tăng và nhà sư Nhất Tiếu thu nạp Ngũ
Đài sơn giao kết với Thiếu Lâm xây dựng thế lực rồi.
Bà Song Trâm đập bà nhấn mạnh :
– Thôi thế thì trong giờ phút này, Hắc Y đạo trưởng đương toan tính lo
đối phó mặt ấy. Chúng ta có một nhược điểm là thiếu phương cách thông
đạt nhanh chóng cho nhau biết những tin tức như vầy.
Hắc Y “giao liên” mau lẹ hơn chúng ta vì bất cứ xó xỉnh nào cũng có người của bọn chúng!
Tổ chức Thiếu Lâm cũng khá chặt chẽ và rộng rãi trong dân chúng nhưng vì thường tự ví mình “siêu việt tuyệt luân” đứng trên nhân thế nên người
dân kính trọng nể sợ quá mức. Mà đã tôn kính thì thành “viễn chi” nên
chẳng hữu hiệu như màng lưới của đảng Hắc Y.
Lão Nhiếp Thủ lim dim đôi mắt hỏi :
– Tại sao lại quên tổ chức Cái Bang? Tụi ăn mày chúng nó “thông tin” cho nhau nhanh chóng phi thường. Nhờ chúng nó cũng được việc suôn sẻ lắm
chứ?
Thái tử hỏi :
– Trong nước có nhiều ăn mày lắm à?
Phong Vân trả lời :
– Đã bao nhiêu năm nay, lúc nào chẳng có người nghèo đói phải đi ăn xin. Những võ phái muốn lưu thông dễ dàng trong xứ thường giả dạng nhập vào
cái bang để tránh mắt người ngoài dòm ngó. Thiếu gì nhà sư “Khất cái”
lang thang đó đây, nhưng không phải gian tế. Người Kim, người Liêu cũng
thường giả dạng như vậy. Vì vậy hàng ngũ Cái Bang lung tung mất hiệu lực hơn trước nhiều.
Lão Nhiếp Thủ dùng dao cắt thịt dê và đưa một miếng lớn vào miệng nhai nhồm nhoàm nói tiếp :
– Thời buổi này làm ăn mày đi ngửa tay xin ăn cũng khó khăn lắm! Vì vậy
nên giặc cướp nổi lên tứ tung. Nếu chúng ta cứ ở mãi nơi đây, có ngày
hết đồ nhắm chúng ta cũng sẽ đóng vai bọn cướp “Mỏ Diều ngậm đầu lâu” đi cướp của mới có ăn để sống chứ?
Cung Đình đã no bụng cười khà khà :
– Chán cho lão cụt quá! Ai lại xúi Thái tử Điện hạ con vua đi làm đồ ăn
cướp? Thế ra ở đời này chỉ vì miếng ăn rồi làm liều, được làm vua thua
làm giặc cả sao? Không có cái gì hay ho hơn ư?
Bảo Liên Phượng nữ phe phẩy chiếc quạt nan ngà.
– Chúng ta đã thua đâu? Đánh cờ có lúc được thì tung hoành có lúc kém
nước phải rút thế thủ, chưa tan cục biết ai được ai thua? Chưa thua mà
đã nghĩ tới chuyện đi ăn cướp là bậy lắm?
Nhiếp Thu gân cổ cãi :
– “Trung ngôn nghịch nhĩ”, lời nói thực hay mất lòng. Vậy lão hỏi mọi
người từ bữa qua được tấm bản đồ cứ rúc mũi vào tìm kho tàng của bọn
cướp, thế không phải là bàn nhau ăn cướp ư?
Thái tử nhìn Câu Hồn ngủ ngáy ngon lành, nghĩ bụng may con nhỏ này đã ngủ rồi nếu không thì lại một trận cãi vã ỏm tỏi xảy ra.
Giữa lúc đó, thấy bên ngoài có tiếng xôn xao, quân canh hốt hoảng la lối :
– Trong núi có ma! Có ma!
Thôi chết rồi! Đoàn âm binh của Trụ Ma Thiên Vương đã tới tấn công rồi
chăng? Người nào cũng vội tuốt trần binh khí để lo phòng vệ.
– Ma ở đâu? Ma nào? Bọn “ma thi” đã do lối nào đột nhập?
Tiếng chân người chạy náo động một vùng. Đèn đuốc chuyền tay nhau nổi lửa đốt sáng cháy phừng lên.
Phong Vân cầm thanh Hoàng Kim Kiếm trong tay thét lớn :
– Chiếm lĩnh vị trí chiến đấu! Cấm quân đứng đó! Làm huyên nào gây xáo trộn hàng ta chém đầu tức khắc!
Sự thực không có ma binh nào tấn kích, chỉ mấy tên đầu mục già bị nhốt trong hang giam tù nhân, bị dẫn đến tra khảo.
– Việc kêu có ma là do tại mấy tên xướng xuất. Chúng đương ở trong nhà
giam bỗng bảo nhau kêu ầm ĩ là có ma, có ma! Tên quân canh ngoài hoảng
sợ cũng kêu lên “có ma”, thế là làm kinh động toàn trại.
Mấy tên đầu mục run như cầy sấy quỳ xuống đập đầu như bổ củi và thưa trình.
– Đúng là có “ma” thiệt, chúng con không dám nói sai! Ở phía sau nhà
giam trước đây có cái giếng khô. Chủ tướng Mỏ Diều có sai quăng một vị
hòa thượng Thiếu Lâm xuống đáy giếng rồi lấy đá lấp đầu miệng giếng,
chúng con đã khuân nhiều đá lớn đắp thành mồ. Tối nay tự nhiên trong mồ
có tiếng lục đục có tiếng người kêu gào la hét, đúng là xác chết sắp đội mồ chui lên. Chúng con mới đầu tưởng đã bị say thuốc nên lãng tai mất
trí. Nhưng về sau càng ngày càng nghe rõ hơn. Hòn đá trên mồ cũng xê
dịch, đụng đậy, đúng là con ma sắp sống lại, chúng con sợ quá mới la
hoảng lên. Anh quân canh trước còn rầy mắng, sau mở cửa vào xem cũng
thấy đúng như vậy. Chính anh ta cũng la lớn như chúng con. Sự việc quả
là như thế, nếu bịa đặt chúng con xin chịu tội chết.
Phong Vân hỏi :
– Nhà sư Thiếu Lâm bị ném xuống giếng chôn tên họ là gì? Tại sao tới đây?
Một tên đầu mục già nhất bọn thưa bẩm :
– “Dạ! Chúng con nghe nói là vị đó võ công cao cường lắm. Đến đây muốn
tìm lấy vàng. Tên vị hòa thượng đó là Lạp Quý Hoàn. Đầu có thóp hói cao, tai vành như tai tượng, lại thêm hai chùm lông tự ở tai mọc dài ra,
hình dung cổ quái trông như mặt dơi không ra mặt dơi, khỉ không ra khỉ,
người cũng chẳng ra người. Ông tự xưng là nhà khảo cổ đi tìm kiếm long
mạch để khai thác vàng bạc trong mộ cựu hoàng và các bậc vương giả giúp
cho chùa Thiếu Lâm đúc tượng.
Hòa thượng móc trong bọc lấy ra một sợi dây buộc vào chiếc đũa đen xì
cáu ghét rồi cầm tay như ta thả dây rọi. Chiếc đũa quay tít. Thế rồi hòa thượng kêu lớn là Khô Lâu Sơn đúng là nơi chôn Tần Thủy Hoàng đế? Rồi
hòa thượng lại đoán chắc nếu không phải là mộ huyệt chôn Tần Thủy Hoàng
đế thì cũng là mả của ông vua này hay là mả của ông chúa kia, không ăn
nhằm gì, vì mục đích của hòa thượng là đi tìm vàng.
Chủ tướng chúng tôi muốn hòa thượng “Quy Hoàn” chết nghẻo nên mới dẫn
đến chỗ độc thạch để sờ đụng phải chất độc sẽ làm hòa thượng chết lăn
queo. Ông ta lấy tay cào, bới, móc từng tảng thạch độc ra bóp nát cho
tan thành bột và vui mừng la lối rằng.
“Đúng rồi! Đúng rồi! Hai vị vua này nham hiểm lắm, lấy đá trộn với chất độc để giết những kẻ mả huyệt hại vua”.
Hai bàn tay hòa thượng như hai cái xẻng cứ đào bới sâu vào vách đá làm
chủ tướng tôi khiếp hãi toát mồ hôi lạnh. Nếu vào trường hợp người khác
chỉ khẽ đụng tay vào đá độc da hơi rướm máu là sinh mạng đi tong. Thế mà nhà sư này bóp nát từng tảng đá độc thạch như ta bóp cục phấn vôi không hề chi cả. Mặc cho hòa thượng bới tìm tòi một hồi, chủ tướng chúng tôi
bàn với vị phó tướng mưu kế ám toán hòa thượng.
Hai người liền mời hòa thượng ăn uống và hút “mê túy thảo”. Vị hòa
thượng chưa biết công dụng của loại thuốc, thấy hút ngon cứ phì phà hút
mãi, hút lấy hút để say lả gục xuống bàn tiệc giống như cô nhỏ kia. Hòa
thượng ngáy khò khò giống y hệt cô nhỏ kia.
Chúng tôi được lệnh khiêng hòa thượng quăng xuống giếng khô và lấy đá
lấp lại. Giếng sâu trăm trượng chứ không ít. Đấy chuyện chôn hòa thượng
Lạp Quý Hoàn là thế. Nhưng tối nay, không khéo Lạp Quý Hoàn sống lại,
đội mồ chui lên, chúng tôi sợ “quỷ nhập tràng” bắt mang đi nên cúi đầu
xin Điện hạ và các vị anh hùng cho đem giam chúng tôi chỗ khác, đừng
giam cầm chúng tôi nơi đó nữa!”
Thái tử nghe chuyện xong, truyền cho chúng lui và cùng mọi người chong đèn đuốc tới nơi miệng giếng xem hư thực ra sao?
Nhà giam là một thạch động. Phía trong quả có đá tảng xếp cao thành đống lớn hình cái mộ. Tự trong có tiếng người lanh lảnh phát ra.
– Đồ chó chết!… Chúng mi tưởng giết được ta sao? Ta nói đúng mà bọn mi không tin. Nếu chẳng phải chân huyệt của Tần Thủy Hoàng thì cũng là
thực mộ của Tào Mạnh Đức. Giết được tao khó lắm các con ơi!… Ông mà
lần lên được thì các con hết ngáp!…
Rồi tiếp theo nhiều tiếng chửi rủa tục tằn thậm tệ!
Tiếng nói im bẵng đi một lát, rồi lại văng vẳng tự đáy lòng đất thoát ra ngoài nghe rất ghê rợn. Thỉnh thoảng, đất đá lại rung chuyển y như sắp
sửa có người từ phía dưới chui lên.
Thực là khó hiểu? Là người còn sống? Hay là ma thiêng muốn đội mồ lên
dương thế? Bọn Thái tử đứng trên mặt đất phân vân ngẫm nghĩ không biết
nên tin giả thuyết nào?
– Dù là ma chết hay người còn sống, đã nói lên tiếng chúng ta nghe. Vậy chúng ta cứ hỏi xem tiếng nói đó đáp lại thế nào thì rõ!
– Tiếng vọng từ dưới đưa lên dễ nhận. Chúng ta đứng trên mặt đất, tiếng loãng người dưới khó nghe.
Cung Đình bảo :
– Tôi có cách nói rồi, cậu nhỏ xòe tả chưởng vận nội lực đẩy khẽ một
cái, tức thời cả đống đá lớn tự chuyển sang bên để lộ miệng giếng tròn.
Cung Đình bảo lão Nhiếp Thủ :
– Lúc này đôi cánh tay dài của lão bối có ích lắm.
Lão Nhiếp Thủ hỏi :
– Mi muốn bảo ta thọc tay xuống đáy giếng quờ quạng xem thấy cái gì ở
dưới phải không? Ta chịu thôi thò tay dài xuống, ma nó chộp lấy “cắn”
đau chết cha ai mà chịu đặng.
Cung Đình nổi quạu.
– Tay có sẵn dao và móc câu sợ gì, mà nó cắn thì đâm nó một nhát vào
miệng nó phải nhả ra. Lão đừng làm khó, giúp chúng ta đào một lỗ sâu,
thông xuống đáy giếng để ta lớn tiếng hỏi ma xem nó muốn gì?
– Ta đương để cái lẩu dê hầm ăn sướng miệng, mi bắt đem ra đào mả chôn
xác chết. Mi chỉ biết lợi ích cho mi mà chẳng nghĩ đến sự hại cho ta.
– Lão bối ngu như con “bò” hai chân! Tôi đã bảo ăn thịt thạch sùng, thằn lằn núi, ngón tay mọc dài ra lại có bàn tay như cũ. Có bàn tay rồi thì
vứt mẹ con dao và móc câu đi. Nhưng muốn bắt được thạch sùng, thằn lằn
núi thì trong giếng này là tổ của những con vật đó, nó đầy nhóc trong
khe đá. Vậy đào lỗ thông xuống đáy giếng không lợi ích cho lão bối hay
sao.
Lão Nhiếp Thủ vỗ trán đến đốp một cái, kêu lớn :
– Trời ơi! Uống nhiều rượu “tiết dê” nên quên phắt đi mất. Lúc Cung lão
đệ dụng “khí chưởng” vô đống đá sang bên, ta trông thấy mấy con thằn lằn chui xuống khe giếng. Đúng rồi! Hay quá! Phải bắt mấy con đem nướng
nhậu xem sao? Nếu bàn tay ta không mọc thành ngón thì ta sẽ…
– Sẽ làm gì?
– Ta sẽ rình cắt mũi lão đệ. Chừng khi nào lão đệ chế đặng thuốc cho mọc thịt mũi thì ta cũng được dùng thuốc mọc thịt bàn tay.
– Nếu vậy thì lão bối nên cắt bớt sống mũi con nhỏ Câu Hồn trước.
Vừa đối đáp, lão Nhiếp Thủ thò đầu tay gắn dao ngoáy xuống giếng, sắc
mặt đầy vẻ hớn hở vui mừng như trẻ nít đương đào lỗ bắt dế.
– Úi chao! Nhiều quá, cha mẹ ơi! Chúng nó lẩn nhanh ghê. Nếu ta còn bàn tay đủ năm ngón, ta đã bắt được cả bầy cả đống rồi.
– Được! Để ông đâm… xiên chộp lấy một chú. Ố trượt rồi! Nó lại chui rúc xuống kẽ sâu hơn…
Mọi người chẳng thể biết Nhiếp Thủ luồn tay sâu đến mức nào, bao nhiêu
sải? Trông bộ dạng lão ta đến tức cười lúc thì khoái chí toe toét, lúc
lại cau có nhăn nhó vì không mò mẫm “xiên” trúng con vật nhanh nhẹn.
Cung Đình luôn miệng khuyến khích.
– Ráng bắt lấy một con, ta chỉ cho thấy chỗ nó cụt đuôi rồi lại mọc thêm đuôi dài ra. Cái ngấn đó xem rõ lắm.
Đánh vào trí tò mò của ông bạn già. Cung Đình chờ một lúc lâu biết là
lão Nhiếp Thủ đã móc tay sâu lắm rồi, từ phía dưới tiếng nói lanh lảnh
lại đưa lên :
– Ái chà! Ngõa Nặc Ô Đồ, bọn ngươi to gan thực, ta định lên gặp mi. Mi
lại đào giếng xuống gặp ta. Hay lắm. Xuống đây thì ông chặt cụt…
Lão Nhiếp Thủ kêu “ối” vội rút cánh tay lên! Lão cẩn thận đập phủi bụi đất nói :
– Thôi! Lão chẳng chơi dại, “nó” chờ dưới đó không cắn lại chặt một nhát thành tay dài, tay ngắn thì ngán bỏ bà! Tay mọc bàn mọc ngón chẳng thấy đâu lại bị đứt cụt thêm một đoạn nữa!
Cung Đình chạy lại áp tai vào lỗ khe đá, lão Nhiếp Thủ vừa rút tay lên
nghe tiếng nói rõ mồn một. Hắn liền vận nội lực truyền âm vào lỗ đó :
– Ai ở dưới đó? Người hay ma? Có phải là hòa thượng Thiếu Lâm tên Lạp Quý Hoàn phải không?
Hỏi rồi áp tai nghe thấy có tiếng trả lời oang oang.
– Ma làm sao nói nheo nhéo tiếng người được? Gọi tên cúng cơm thằng bố
nhà ngươi nghe có rõ không? Ông đương sống nhăn răng lại kêu ông là “ma” chết rồi. Làm gì có hòa thượng Thiếu Lâm, làm gì có tên Lạp Quý Hoàn?
Ông tổ nội chúng bay…
Cung Đình nhìn mọi người nói :
– Đúng là tiếng người rồi, bảo nó là ma, nó đang chửi thề cho nghe đấy!
Lão Tam rối rít :
– Nếu là người sống thì phải đào cứu người ta lên, để lâu họ chết ngạt mất?
– Ngộp, ngạt thì nó đã chết từ khuya. Nó còn sống, moi lên không biết tính nết nó ra sao? Thằng cha này cù lần lắm.
Giọng nói từ đáy giếng đưa lên nặng chình chịch, nghe nặng cả lỗ nhĩ!
– Hỏi hắn xem tên là gì đã?
Cung Đình vận khí truyền âm cho người ở dưới biết rằng Ngõa Nặc đã bị giết chết rồi, trên này có Thái tử Tống triều.
Ở dưới cũng vang lên tiếng quát tháo :
– Ta đây là Đại Đế Âm Cung Triều bạn với Tần Đế và Ngụy Đế. Làm cái thớ
đếch gì mà mở miệng ra là đem chức tước Thái tử hăm dọa, nạt nộ nhau để
khiến rét run. Ông tên là Lạc Trí Toàn, ông có sợ là sợ chết đói, chết
khát, bị bỏ rét, thiếu không khí, thiếu ánh sáng chứ ông đâu có sợ ông
hoàng, bà chúa trời đánh nào?
Cung Đình ghé tai đáp lại :
– Lạc tôn ông nói đúng lắm. Ta là Giang Nam Hiệp Khách đương vận khí
truyền thanh nói chuyện với tôn ông đấy. Có Thái tử Tống triều ở đây
thực sự, không lòe bịp tôn ông đâu.
– Thái tử Tống triều và Giang Nam Hiệp Khách chui vào cái tổ cướp khốn
nạn này làm gì? Khoái “hút” hả? Ông đương căm thằng Ngõa Nặc chỉ muốn
“nhai sống nuốt tươi” nó để trả thù thì tụi bay lại giết mất nó rồi.
Chúng bây làm ông buồn hết sức!
Bà Song Trâm vội tới trước khe, dụng khí truyền âm an ủi :
– Lạc tôn ông! Tôi nhớ ra rồi. Tôn ông là người học vấn uyên bác, trực
tính khảng khái nhất trên đời ở Sơn Đông. Tôi là Song Trâm nữ hiệp đây.
Tôn ông là người đã vẽ tặng chồng tôi bức họa đứng chung với Lý Lăng
vương khi xưa, còn nhớ không. Làm sao mà lại bị mắc kẹt dưới đó? Chúng
tôi tiễu trừ đảng giặc Mỏ Diều nên mới vô Bạch Khô Lâu. Có Thái tử trên
này đương chờ tôn ông đấy. Chúng tôi đào xuống đáy giếng nhé, gặp nhau
sẽ nói chuyện nhiều.
Thế là các người ở trên mặt đất ào ào khiêng đá, xúc đất để khơi miệng giếng rộng dần ra.
Đuốc rong suốt đêm tới sáng, qua hết ngày hôm sau, người trên mặt đất
xuống được tới sâu gần mười trượng. Nghe vách giếng cũng có tiếng đục đá ầm ầm.
Các anh hùng liệt nữ, người nào cũng có bảo kiếm “chém đá như chém bùn”
nên công việc mới tiến hành nhanh như thế. Lúc Lạc Trí Toàn ra khỏi
huyệt thì trời bên ngoài cũng đã tối sẫm nên đôi mắt lão kỳ nhân không
bị chói lòa. Tuy nhiên ánh sáng đuốc cũng làm lão choáng váng trong giây lát râu tóc mọc dài, trông người như hình nộm kết bằng nhiều sợi rơm rạ tua tủa.
Hắn cũng biết phép vái chào Thái tử rồi cùng mọi người tới tụ tập tại ngôi nhà chính trong sơn trại.
Câu hỏi đầu tiên phá bầu không khí tĩnh mịch là lão Nhiếp Thủ sốt ruột vì không bắt được con thằn lằn núi nào?
– Dưới hang có nhiều thằn lằn núi không? Tôi lấy tay đuổi chúng nó chạy vô lỗ hốc “đằng ấy” chui rúc trong đó?
Lạc Trí Toàn thản nhiên đáp :
– Ta “nuôi” được vô số. Trứng thằn lằn ăn ngon và bổ. Đấy là món “khai vị” hằng ngày của ta?
Lão Nhiếp Thủ tròn xoe đôi mắt hỏi tiếp :
– Ông nuôi thằn lằn! Và ông xơi trứng thằn lằn… nên râu tóc mọc dài,
mọc cả từ lỗ tai mọc ra? Thịt đầu cũng mọc thành thóp cao như cái tháp
thế này?
Bị hỏi những câu móc họng, Lạc Trí Toàn nổi đóa :
– Trước đây, ta gặp thằng Ngõa Nặc và Đồ Vô Sĩ, chúng nó còn học biết
phép “giao tế nhân sự” khá hơn thằng cụt tay này nhiều. Hỏi kiểu chi mà
làm người ta ngứa sắp rụng lông tai mất?
Lão Nhiếp Thủ cũng gắt lên ngậu xị :
– Tao mất công “móc” mày từ lỗ mả sâu hoắm lôi ra, mày chẳng cảm ơn thì
chớ lại còn định vô lễ với tao phải không? Mày nuôi thằn lằn không vô
tìm bắt cho ông thì ông lại xách cổ mày vứt vào mả cũ.
Lạc Trí Toàn nhanh như cắt liền vung chưởng đánh lão Nhiếp Thủ và quát lớn :
– Thằng già này tối ư vô lễ! Không cho mi một bài học thì không thể sửa trị được.
Mọi người đều biết lão Nhiếp Thủ có đôi trường thủ, muốn đánh đâu trúng
đấy, dù địch nhân đứng gần hay đứng xa, bất kỳ ở tư thế nào ông ta cũng
khiến hai cánh tay vươn dài đánh tới nơi.
Lạc Trí Toàn làm sao cự địch được với mũi nhộn thiết càng và móc câu vàng gắn nơi đầu tay?
Nhưng Lạc Trí Toàn xuất đòn khủng khiếp lắm. Hai cánh tay tuy ngắn nhưng nội lực đập vách đá cũng bể tan như chơi. Hai quái kiệt giao đấu né
tránh lanh vô kể.
Nhưng lạ thay, lưỡi dao và móc câu của lão Nhiếp Thủ cứ dính chặt vô gan bàn tay Lạc Trí Toàn, muốn giật lại mà không thể được. Nếu giật mạnh
quá thì tiếc công gắn hai vũ khí vào đầu xương mất công phu đau đớn.
Lạc Trí Toàn ha hả cười lớn, rung chuyển cả mái ngói, xét ra phép vận
khí truyền thanh của tất cả mọi người có mặt tại đấy còn thua sút lão kỳ nhân này xa.
– Hết phép chưa hở con ông cụ? Mày cậy đôi tay dài, gặp ta hút dính như thế này kể là kẻ cắp gặp bà già, phải không?
Nói rồi, lão rùng mình một cái y như muốn tiết từ trong người ra một
luồng khí lực gì kỳ lạ vậy, làm lão Nhiếp Thủ mặt tái xám, cũng run rẩy
cả chân tay mình mẩy như bị điện giật.
Lão kêu la inh ỏi :
– Biết phép rồi! Đừng truyền điện nữa. Chịu, chịu rồi!
Lạc Trí Toàn tiếp tục rùng mình vài cái nữa làm Nhiếp Thủ co rúm cả chân tay, mắt trợn ngược, lưỡi cứng đơ như sắp về chầu tiên tổ.
“Bình!”. Khi hai bàn tay Lạc Trí Toàn hất mạnh ra, một sức mạnh vô hình
xô lão Nhiếp Thủ té chổng bốn vó, văng ra cả trượng ê ẩm cả mình mẩy,
mãi mới lồm cồm bò dậy được.
Lão suýt xoa đứng dậy, co đầu rụt cổ, lè lưỡi nói!
– Cha chả! Thằng già này lợi hại thiệt. Trong người mày có điện nam
châm, ông dại ông gắn dao và móc câu vào tay nên mới bị thua mày.
Thái tử thấy Lạc Trí Toàn đả bại lão trường thủ, kính phục vô tả, khen ngợi mà rằng :
– Lạc tôn ông ở trong huyệt núi luyện được phép thuật xuyên sơn giáp ất chi mà thần diệu vậy. Xin an tọa kể lại cho tôi hay.
Lạc Trí Toàn cùng mọi người phân ngôi vị ngồi xuống, thong thả kể chuyện cho mọi người nghe.
– “Tôi có chuyên học võ nghệ gì đâu mà giỏi võ công! Vốn ngày đêm chỉ
thích tham khảo sách vở nghiên cứu sự lạ trên đời. Tôi ham thích nghề
họa, nếu thích thú cái gì thì cố vẽ cái nấy. Vì vậy nên mới vẽ tấm tranh tặng bà Song Trâm.
Một ngày nọ có tạt chơi Thiếu Lâm tự, Phương trượng có nhờ tôi vẽ bức
họa Phật nhập đạo tôi có nói với vị chủ trì là đời nay, thiên hạ lòng
tuy chiêm bái hình ảnh Phật nhưng “óc lại nghĩ đến vàng”. Vì vậy vẽ
tranh để thiện nam tín nữ quan chiêm làm gì cho mất công. Họ thích vàng
thì nên tạc một pho tượng không lồ lớn bằng quả núi tuyền vàng khối cho
hợp với điều họ ham muốn trong óc họ.
Chí Thạnh Thiền Sư mỉm cười vỗ vai tôi bảo rằng :
– Cư sĩ có trí lực kỳ cục, đi tu nghèo chết lấy đâu ra vàng đúc tượng to bằng trái núi? Của thập phương bây giờ cũng khó xơi lắm, không quên
đặng dồi dào như thuở nọ, chẳng lẽ lại đi ăn cướp kho đụn của nhà vua
sao? Đục núi làm tượng còn chẳng có công phu, huống hồ đúc kim thân Phật bằng vàng thiệt.
Từ nay cho tới ngày bần tăng và cư sĩ du ngoạn Tây phương chỉ tạc nên
vài pho tượng gỗ hoặc Bụt đắp bằng đất là may mắn lắm rồi! Cư sĩ có muốn vẽ tranh lớn thì để bần tăng chuẩn bị mặt vách tường xây lớn để làm
“bích họa” vậy.
Tôi tức mình đáp :
– Nếu tôi cung ứng cho Phương trượng đủ số “vàng” đúc tượng thì sao?
– Thì vĩnh viễn, từ ngày đó cư sĩ chỉ cần giơ một ngón tay nhỏ, toàn thể tăng đồ Thiếu Lâm thuộc quyền sở hữu, theo lệnh người. Nhưng xin nhớ
cho điều này, đừng lấy vàng “phạm pháp” nhà chùa không nhận đâu?
Từ đấy, tôi chuyên nghiên cứu nghề tìm mỏ vàng và kho tàng. Xét trong sử sách để lại, chỉ trong các huyệt mả đế vương xưa là có lắm vàng chôn
bạc đấu. Nhưng lũ vua ấy khôn ngoan lắm, khó mà biết nơi nào là chân
huyệt thật nơi nào là chân huyệt giả. Thằng cha Tào Tháo nó tinh ma đến
độ làm tới chín mươi chín cái mả giả bố ai biết đâu mà tìm?
Vì vậy tôi mới tử công phu học tập nghề “địa lý” và đi tìm các vật kim
khí chôn giấu dưới lòng đất. Thoạt tiên có nhiều sự tấn tới nhỏ nhỏ tỷ
dụ như đi tìm một vài mạch nước chảy ngầm dưới đất. Sau tìm được vài đồ
vật bằng kim khí chôn vùi dưới cát bụi…”
Cao Tú Sĩ hỏi :
– Như vậy lão trượng đã lần nào thành công lớn tìm được mỏ vàng, mỏ bạc trong nước chưa?
– “Tôi có lần tìm được một hồ “thủy ngân” Tần Thủy Hoàng yển bên tả mộ
để ứng vào Bạch Hổ. Nhưng xét ra vẫn là giả huyệt nó chỉ chôn có cái
răng sún cái mả của nó thôi. Không phải là huyệt chôn xương cốt nó! Có
lần tìm ra nơi có kim quặng, nhưng ở rừng sâu thẳm núi cao vót không thể tuyển mộ nhân công khai thác. Hình như có thằng cầm đầu Hắc Y nó chụp
được bản đồ của tôi nên đã khai thác nơi đó rồi thì phải.
Tôi định trở lại vùng mỏ đó mấy lần. Chí Thạnh thiền sư có khuyên nên
học võ cho giỏi hãy xông pha tới nơi đó, vì sợ quân hung dữ bắt giết đi. Thiền sư mới đem võ công đặc biệt của phái võ Thiếu Lâm truyền dạy cho
tôi, bắt tôi róc tóc thề nguyện không được dạy lại cho ai và khuyến
khích tôi trong việc đi tìm vàng.
Được vài miếng nội công Thiếu Lâm cũng giúp cho tôi đào đất sâu hơn,
chịu được lam sơn chướng khí, leo núi vượt suối dễ dàng đi tìm chất kim
loại mà mọi người khao khát thụ đắc.
Tôi đã từng gặp nhiều gian truân, tỷ dụ như kẹt trong hang hốc, lạc dưới tuyệt địa có khi hàng mấy năm trời.
Vì vậy nên trong mình lúc nào cũng dự trữ nào hỏa thạch, du liệu, các
thức ăn thảo mộc hiếm có trên đời để tự túc mưu sinh trong hoàn cảnh
cùng bí như trên”.
Thái tử lạ lùng hỏi :
– Như vậy quý tôn ông đã từng dùng những thảo mộc gì làm lương thực để sống dưới hầm đá?
Lạc Kỳ nhân lấy bao đẫy thắt trong người ra đặt lên bàn nói :
– “Đây này nhiều món ăn rất tốt, bổ, vô tận. Những hạt mầm này chỉ cần
chút hơi ấm sẽ làm nẩy nở một loại nấm béo, bùi thơm ăn mãi lại sinh
mầm, chẳng bao giờ hết. Hạt nhân này nếu có chút cát và nước là mọc rễ
sinh ra một giống dưa leo, bất kỳ trong tối hay ngoài sáng chỉ trong vài ngày có một dàn dưa xum xuê, bột mè, hạt rẻ này cũng tốt lắm, mỗi ngày
nhai nuốt một hạt bằng hạt bắp, vô bụng nó nở ra không biết đói.
Lại còn những hạt lúa này nữa, nếu trồng đúng cách, một tháng có bông
lúa đầy hạt, nhai lâu tinh bột ngọt lừ, giúp mình nhấm mỗi ngày vài chục hạt, làm phép “tịch cốc” hàng tháng, hàng năm như những nhà tu du già
bên Thiên Trúc.
Lại còn trứng dế trũi, sâu trùng để dùng chúng đục lỗ thông hơi. Lấy
giống bọ này để nhử bọ kia, giúp mình bắt chuột, bắt rắn bắt thằn lằn,
cóc nhái để ăn thịt. Món ăn, trứng trong tổ kiến ăn ngon thấy mồ!
Lại còn những hạt giống, hạt cỏ này còn có nhiều ích lợi khác tỷ dụ như
cỏ sinh khí, cỏ sinh năng lượng, cỏ khô làm nệm ngủ, tóm lại, tiểu thần
có thể sống vài chục năm bất kỳ nơi đâu khó khăn cho sự sinh sống, không dễ chết được!”
Mọi người nghe Lạc Trì Toàn phân trình các loại thực vật thảy đều há hốc miệng, trố mắt cho là ký quái chưa hề nghe thấy!
Văn Tú Tài và mấy tiểu thư được Lạc Trí Toàn tặng cho nấm tươi để nếm ăn thử xem mùi vị? Mấy người này ngần ngại vì sợ độc. Lão Nhiếp Thủ háo ăn xin được nếm thay, ăn liền nhai ngấu nghiến ngon lành khen tụng nức nở
và đòi được ăn nữa.
– Ngon hơn nấm hương, nấm tai bò, nấm rạ nhiều. Lão đệ trồng dưới huyệt
giếng được nhiều. Cho ta vô ăn nhậu nấm này một phen cho đã được không?
Thảo nào lão đệ cứ ở lỳ dưới đó, mấy tháng trời không muốn bò ra là
phải.
Mọi người thấy Nhiếp Thủ ăn rồi, sống nhăn và nói nheo nhéo, mỗi người bắt chước nhấp nháp đôi chút thấy vị nấm thơm ngon kỳ lạ.
Văn Tú Tài liền hỏi :
– Lão bối có vật thực ăn uống có sức khỏe. Tại sao không tìm lối lên khỏi miệng giếng ở dưới đó lâu vậy?
– “Tôi đâu có ở dưới giếng! Số là “hút” mê túy thảo thấy lạ ngon nên say mềm bị chúng ném xuống đáy giếng khô. Nhưng chúng không biết là bị đau, ta tỉnh dậy biết là thằng Ngõa Nặc đã trở mặt rồi. Ta vội nép vào một
góc thì thấy có hốc sâu. Chắc là lối thoát nước trong đá vôi. Ta liền
nhoài thân người dùng phép súc cốt lách mình theo khe lủng. Quả nhiên đá đất từ trên miệng giếng cao như thác nước ào ào đổ xuống rất là nguy
hiểm.
Vốn đã có kinh nghiệm tìm hầm mỏ, ta ngửi không khí thấy mùi mốc ẩm liền lấy tay cào rộng và trườn người vô sâu. Thò cổ nhìn vào trong thì là
huyệt rỗng lớn do nước lâu ngày ăn lủng vào đá tạo nên. Có chỗ cao đụng
đầu người, ngách này ăn thông qua ngõ khác lỗ chỗ ngang dọc chằng chịt
như tổ ong.
Nhờ có đá lửa và bùi nhùi hỏa du mang theo, vừa nhận định được vị trí áp tai xuống mặt đá ta thấy có tiếng nước róc rách không xa, ta mừng quá
vì “nước là nguồn sống”, có nước là ta không tuyệt đường sinh sống ngay
được.
Có nước là sẽ có lương thực, có nấm tươi, hạt mầm, cỏ búp và nhiều thức
khác khả dĩ giúp ta thám hiểm nơi hang động này trong nhiều ngày”.
Văn Tú Tài hỏi tiếp :
– Lão bối “thám hiểm” động đá có thấy gì không? Có khám phá được kho
tàng châu báu nào không? Chúng tôi có chiếm được một bức bản đồ chỉ dẫn
nơi để vàng của bọn cướp Mỏ Diều, nhưng chưa tìm thấy “chìa khóa” nên
chưa biết kho tàng chúng cất giấu nơi nào?
Nói rồi liền trải tấm bản đồ vẽ trên miếng da mỏng, đã được ráp nối cho hai mảnh liền lại.
Lạc Kỳ nhân ngắm xem các nét vẽ nguệch ngoạc bỗng day tay nắm miệng nói lớn :
– Thôi thế là hỏng bét! Ta đã lầm lẫn rồi!
Mọi người xúm lại hỏi :
– Việc chi vậy?
– “Trời ơi cái đũa của ta cứ quay tít. Đúng là có vàng cất giấu trong Bạch Khô Lâu.
Dòng suối nước trong động đá lấm tấm những bụi vàng cốm. Ta cứ yên trí
là do tự mạch vàng lớn phát xuất, ai ngờ chỉ là nơi cất của bọn cướp rớt vãi sinh ra. Đũa ơi là đũa! Ta cứ tưởng mày là một linh vật, ai ngờ mày cũng không hơn gì cái đũa dùng để gắp cá kho trong niêu xó bếp!
Ta có hoài bão ít ra cũng phải tìm một huyệt “đế vương” hầu moi ra ít
nhất vài mươi vạn đỉnh vàng ròng, dăm trăm chum vàng cốm, hơn nữa phải
là một mỏ lớn như mỏ ta tìm ra ở vùng núi đá trắng thì mới bõ công chịu
đựng ăn thịt thằn lằn nướng, nấm rêu, cỏ lá trong nơi ẩm ướt dưới đáy
giếng kia.
Nếu biết chỉ là một kho vàng muỗi tép có vài trăm lạng, vài vò vàng vụn
thì ta đã tìm cách bò ra khỏi nơi đây từ vài tháng trước rồi, đâu còn
chờ tới ngày nay!”
Lão Nhiếp Thủ nheo mắt hỏi kháy :
– Đi tìm mả vua Thủy Hoàng sao lại mò đến núi cướp chồng chất đầu lâu
trắng? Anh rõ là một tên quê nghề tìm vàng mà, xoay sang nghề trồng nấm
may ra phát tài to và lại đỡ có ngày bị kẹt cứng dưới khe đá!
Lạc Trí Toàn cãi lại :
– Này anh cụt, câm cái miệng lại đừng thở hơi thúi hoắc! Tôi đã hứa với
Phương trượng Thiếu Lâm tự một lời như đinh đóng cột, như gươm chém đá
tôi không bao giờ bỏ chí hướng đi tìm vàng. Nếu không đúc được tượng kim thân đức Phật bằng quả núi lớn thì ta còn đi mãi… đi mãi!
Lão Nhiếp Thủ hỏi :
– Như vậy tức là “hành cước đầu đà” đã tìm thấy chỗ để vàng của thằng
cha Ngõa Nặc Ô Đồ. Tôi tưởng tụi cướp này làm ăn dành dụm khá lắm chớ dè đâu chỉ được vài trăm lượng và vài vò vàng cốm thôi ư?
– “Ta nhờ có chiếc đũa chỉ hướng nên mất công đào lấy hơn một tháng trời mới ngoi lên được phía có vàng. Nghề đào đá chui xuống thì dễ, trái lại đào ngược từ dưới chui lên thì khó khăn lắm! Ta đành dùng thực phẩm để
nhử bắt những chú thằn lằn để nướng ăn cho có sức. Ta đã phải trù hoạch
nuôi chúng đẻ trứng để đối phó những chuỗi ngày dài bị giam hãm.
Nhờ dòng nước có bụi vàng trôi ra, ta tiến lại ngày mỗi gần nơi để của.
Một khi đã có hang hốc và lỗ thông tới nơi đó, ta dùng phép “hấp kim” để thu dần những thỏi hoàng kim quý giá vào tay.
Lấy được chừng ấy vàng thì chiếc đũa thần của ta hết quay tít ta biết ta lầm lớn. Nhưng lúc này ta đã trồi lên phía mặt đất nhiều trượng rồi,
văng vẳng nghe tiếng chân người đi lại.
Ta tưởng bọn giặc còn sống ở trên nên mới cất tiếng chửi rủa và tiếp tục đào xới để trồi hẳn lên mặt đất. Cũng bắt đầu từ lúc đó bọn các người
bắt đầu đào giếng để tìm lối xuống. Nói rõ ra thì bị quẳng xuống một
giếng khô sâu hơn và vàng bạch của bọn cướp thì chôn ở trong một giếng
có nước nông hơn”.
– Thế những vàng bạc quý hữu thâu được hiện để ở đâu?
– Ta lại mang xuống ở dưới giếng sâu hơn gần nơi suối nước trồng nấm và
cỏ. Bây giờ chúng ta cùng ra bên ngoài may ra ta hy vọng chỉ cho mọi
người trông thấy mỏm núi trông thẳng xuống giếng chôn của.
Đêm hôm ấy vòm trời đầy sao, mọi người theo Lạc Trí Toàn leo lên mũi đá
cao đối diện với tòa nhà đã giam tù nhân, sau khi đối chiếu với bản đồ,
mọi người trông thấy rõ hình mấy đỉnh nhọn nhô lên đúng với các mỏm núi
trong hình vẽ. Đặc biệt là những vị tinh tú ở giữa các khe đỉnh cũng phù hợp với số hình ngôi sao ghi trong đồ hình.
Vị trí chiếu thẳng xuống giếng chôn của là nơi cắm ngọn cờ hiệu của đảng Mỏ Diều thêu chim diều ngậm đầu lâu trắng.
Mọi người theo Lạc Trí Toàn leo trèo tới chỗ cắm cờ trên đỉnh cao quả
nhiên thấy có một khe giếng có dòng nước róc rách chảy xuống, Lạc Trí
Toàn chỉ nơi đó và nói :
– Bọn cướp đã ròng dây leo xuống khe này và cất giấu số vàng ăn cướp
được trong đó. Nhưng thay vì lấy lên, tôi đã từ dưới lòng đá tìm mọi
cách khó khăn thu vào hấp lực nơi gan bàn tay và đem xuống sâu hơn nữa.
Thực tình bây giờ thấy rõ chuyện lấy vàng dễ ợt không làm, đằng này lại
khổ công moi móc lấy từng chút một và đem xuống sâu hơn thực là đã làm
một công việc vô cùng trái khoáy và mệt sức.
Hiểu rõ câu chuyện mọi người phì cười. Ở đời thường vô tình việc nhẹ
không làm, ưa làm việc nặng quá trời, kết cục cũng chẳng đi tới đâu hết!
Nhưng cũng chỉ vì làm những việc trái cựa như vậy nên Lạc Trí Toàn đã
tinh luyện một công phu “hấp kim” rất mạnh, bất kỳ là kim khí gì, ông ta muốn thu bằng sức hút của hai bàn tay mạnh hơn điện nam châm, không một ai cưỡng nổi.
Lão Nhiếp Thủ phải phê bình :
– Hồi nãy tôi khuyên quý hữu nên xoay nghề trồng nấm, nhưng bây giờ tôi
khuyên “óc bùn đạo nhân” nên làm nghề đào cống, ăn trộm và nuôi thạch
thùng có lẽ khấm khá lắm…
Lạc Trí Toàn giơ tay toan đánh lão Nhiếp Thủ. Thần Hành Nụy Cước đã xách một bao bố lớn nặng trĩu trên vai chạy vô, nói lớn :
– Công phu chỉ dẫn của Lạc Trí Toàn không đến nỗi hoài phí, trong hang
tàng trữ của cái của Ngõa Nặc quả còn nhiều châu báu rất quý giá. Nói
rồi hắn đổ đầy mặt bàn những đá quý, bảo thạch, trân châu, mã não, hổ
phách hào quang sáng rực căn phòng.
Thì ra Thần Hành Nụy Cước vốn người lùn nhỏ, công phu “súc cốt” len lách qua các khe đá còn tài giỏi hơn Lạc Trí Toàn nhiều nên đã thâu được một số bảo vật khác trong kho động.
Lão Nhiếp Thủ chọn lấy một viên ngọc dạ quang to bằng quả trứng ngỗng đưa cho Lạc Trí Toàn nói rằng :
– Anh ham đi tìm vàng trong núi mà trong bọc không trữ sẵn lấy loại ngọc này để soi sáng bóng tối thì chẳng phải đầu óc anh còn vẩn bùn phải
không? Thôi cầm lấy và nhớ rằng vàng là quý nhưng ngọc, kim cương còn
mắc giá hơn.
Lạc Trí Toàn hớn hở nhận lấy viên dạ minh châu chói lòa :
– Tôi ước ao được đủ đôi để gắn làm mắt Phật chiếu sáng thì pho tượng sẽ đẹp lắm.
Thần Hành Nụy Cước lại xách bao bố đi tìm thêm vàng bạc và châu báu đem
về cho mọi người thưởng ngoạn. Vật kỳ lạ nhất là pho tượng đúc Phật Bà
Quan Âm bằng hồng thạch có gân máu đỏ.
Cung Đình cầm lấy pho tượng nhỏ ngắm nghía và nói rằng :
– Tất cả bảo vật trên thế gian chẳng có gì quý giá bằng pho tượng ngọc nhỏ bé này.
Lạc Trí Toàn hỏi :
– Sao vậy? Tượng lớn mới đồ sộ, uy nghi khiến mọi người trông xa từ
nhiều dặm cũng thấy sự vĩ đại, mới biểu dương được đạo pháp Hoằng đại vô biên không gì sánh kịp. Pho tượng nhỏ bày bàn mua đâu chẳng có?
– Vật lớn đến đâu như núi cũng có ngày đất trồi núi lở, vàng chảy đá
mòn. Nhưng loại hồng thạch này không kém kim cương, dù lửa nóng đến đâu
cũng chẳng thể hủy diệt, không sức mạnh nào làm tan vỡ được! Tuy chẳng
bền bỉ bằng “linh đài nhất thốn tâm”, nhưng cũng biểu dương được sự bền
bỉ của chất ngọc.
Đặc biệt là có năng lực giải độc, hào quang của hồng thạch phát ra ngăn
cản khí độc không thể thâm nhiễm, sự hôi thối phải xa lánh, khí độc dù
dày đặc đến mấy cũng phải tan hoang. Đó là đặc tính của pho tượng vô giá này. Biết bao nhiêu võ lâm kỳ hiệp tán mạng vì tranh nhau vật quý này,
không hiểu từ đâu lại lọt vào tay bọn thảo khấu?
Ngày nay ma khí đương lan tràn xuống nhân gian, thây ma kéo xác chết đội mồ đứng dậy, pho tượng Quan Thế Âm ra đời chắc là linh vật sẽ phá tan
độc khí để cứu muôn dân.
Bà Song Trâm hỏi :
– Hình như Cung sư đệ am hiểu lai lịch pho tượng ngọc Phật Bà Quan Âm
phải không? Nếu quả pho tượng có đầy đủ tính chất như sư đệ nói thì ta
rất tiếc không có bảo vật này lúc xung trận Thiên Ma của Trụ Độc Quỷ
Vương. Nếu có đặng ta đã chém đứt đầu tên ma đầu đó rồi! Tiếc thay!
Văn Tú Tài nói :
– Chúng tôi yêu cầu Cung Đình tiểu tôn sư thuật lại cho chúng tôi biết ít nhiều về pho tượng quý giá hiếm có đó!
Trong lúc này Câu Hồn vẫn thiêm thiếp giấc nồng, thả hồn trong giấc mộng vì men rượu say sưa…