Mọi người đều đứng dậy, mang theo đèn chạy ra cổng lớn xem sự việc gì xảy ra.
Trời lúc đó đã tối thui, Nhất Tiếu đã mở toang hai cánh cổng, một tay
cắp cây Đại Hoàn kim đao, một tay chống cạnh sườn, đứng phưỡn ngực nhìn
hai người cãi lẫy, lời qua tiếng lại om sòm.
Có lẽ là đôi “vợ chồng” đã cao niên, bộ dạng kỳ quái. Người đàn ông thấp mập không tới bốn thước, nhưng hai vai gù, trông như lưng gấu rộng tới
ba thước, đầu to như đầu ông Địa, hai má bạnh to như mặt Phật Di Lặc méo mó nom đến tức cười.
Đầu chỉ lơ thơ vài sợi tóc, mặt tròn đỏ như móng heo quay, hai bàn tay đỏ tía như đã luyện Chu Sa thần chưởng đến bậc cao siêu.
Người đàn bà trái lại gầy, cao, khô khẳng y như que củi. Mặt mũi và môi
“thâm sì” trông như quỷ cái tái sinh, đầu tóc bù sù như tổ quạ. Đặc biệt hai bàn tay đen bóng như đã luyện Hàn Băng âm chưởng tới bậc thượng
thừa.
Người đàn ông chỉ cổng trang nói :
– Đây đúng là Vạn Diệu sơn trang. Mụ bảo ta lầm thực là mụ đui không có mắt.
Mụ đàn bà mắng lại :
– Đây là nhà cửa mới dựng lại. Tân gia mới hoàn thành vài bữa mà lão già lẩm cẩm cứ bảo là Vạn Diệu sơn trang. Hai mươi lăm năm về trước ta còn
nhớ từ cái kẹt cửa nhớ đi, mà lão cứ cãi… cãi chầy cãi cối.
– Chúng ta vô đi.
– Ta không vô. Ngươi muốn vô thì vô một mình để ta đi chỗ khác.
– Thì cứ vô gặp Lão Thần Y sẽ biết ai nói đúng?
– Làm gì có Lão Thần Y ở chỗ này.
Lão ông vỗ ngực, ngẩng mặt lên trời, kêu lớn :
– Lão Thần Y. Hãy cứu tôi với.
Nói rồi, lão lùn mập quỳ gối xuống đất, hướng vào cổng trang dập đầu lạy như chầy máy.
Nhất Tiếu chẳng hiểu câu chuyện đầu đuôi ra sao liền hỏi :
– Tại sao lão lại kêu gọi Lão Thần Y và xin cứu vớt? Lão có bệnh chi, xin kể ra để tôi vào tôi vào trình bạch.
Lão lùn mập rên rỉ, mặt mũi nhăn nhó, mồ hôi nhễ nhại thấm cả ra áo ngoài. Lão kể lể :
– Tôi tập Chu Sa thần chưởng bị tẩu hỏa nhập ma bệnh sắp phát tác, làm
dữ đến nơi rồi. Tất cả chỉ tại cái con mụ vợ khốn nạn kia đã phá hoại
công phu khổ luyện của tôi trong hai chục năm trời.
Hắn ngước mắt nhìn lên nói tiếp :
– Đúng thiệt đây là sơn trang của Lão Thần Y. Hai mươi lăm năm về trước, tôi chém lộn với con mụ vợ “mắc dịch” kia, tôi chém nó mười nhát dao,
nó đâm tôi mười mũi kiếm, thập tử nhất sinh, Lão Thẩn Y cho thuốc mới
sống. Tôi muốn “ly dị” nó từ ngày đó.
Lão bà nghe thấy hai tiếng ly dị sì một tiếng rồi hét lớn :
– Tức cha chả là tức. Lão muốn ly dị ta ngày ấy. Lão tưởng ta muốn “dính” với lão lắm sao? Thúi hoắc. Thúi hoắc.
Lão ông tiếp tục :
– Nhưng sau khi cứu chữa Lão Thần Y khuyên hai đứa nên hòa thuận “sống
chung” với nhau. Tôi cố sống với nó cho đến ngày nay. Thực là khổ dịch
đồ hình chung thân. Tôi ghét những cái nó thích. Nó ghét những cái tôi
thích. Tôi thích ăn đồ nhiệt cay và ngọt. Nó thích món ăn hàn và chua.
Tôi thích tập Chu Sa thần chưởng. Nó ưa tập Hàn Băng âm công.
Nhất Tiếu nói :
– Như vậy có hại gì đâu?
Lão bà chua ngoa :
– Hại lắm chớ. Giả thử lão già cứ cút đi xa chẳng ở gần ta thì đâu đến
nỗi. Gần lão ta bị hơi nóng của hắn quá nóng nên ta phát tăng khí hàn,
kết cục, thành quả chẳng thấy đâu, ta bị ?Hàn khí nhập lý?. Ngày nay,
khí lạnh phát tác ta lâm nguy đến nơi cũng vì lão ôn dịch đó.
Lão mập lùn nghe vậy tức quá quát thực to :
– Mụ chết đi. Mụ chết cóng chết lạnh, ta cũng cóc cần. Chỉ tiếc công phu khổ luyện của ta bị trôi sông hết. Lại thêm “thân tàn ma dại”… bao
nhiêu võ công nội lực bị tiêu tan… uổng phí thực! Uổng phí thực.
Mã phu nhân nhẹ nhàng nói :
– Một người “hỏa đa túc” một người “thủy quá dư”. Tại sao không điều hòa cho đỡ khổ?
Lão mập lùn nhổ toẹt xuống đất, mặt đã đỏ gay lại càng thêm sắc tía, nói rằng :
– Hòa thuận với con mụ vợ “trời đánh” ấy làm sao được? Mỗi lần tôi
nhượng bộ nó, chịu hòa thuận với nó thì nó lại làm tàng khiến nội lực
trong người tôi bị tiết giảm. Nếu hòa thuận với nó mãi thì còn gì là
công hiệu chưởng lực của tôi nữa?
Mụ kia than van :
– Hàn băng công lực của ta tu luyện đâu có phải dễ dàng. Hòa hợp với
thằng cha mặt heo quay, tính nóng như lửa, mấy lúc mà võ công của ta…
ta ra mây khói. Với lão đối xử nhẹ nhàng không được. Cứ phải thượng
quyền hạ cước, đánh cho một trận mê tơi thì “võ công” của ta lại tăng
tiến nhanh chóng bội phần.
Lão mập lùn mỉa mai :
– Ấy thế, chỉ vì hai đứa cùng ganh đua, đã nóng thì làm nóng thêm, đã
buốt thì ráng buốt nữa, nên bây giờ cả hai mới… sắp chết. Vì vậy mà
chỉ còn nhờ Lão Thần Y có phương cách gì cho linh đan giải cứu?
Mã phu nhân nói :
– Lúc cấp bách hai lão tiền bối, người nọ nhường nhịn cứu chữa cho người kia một chút? Chồng thiệt thì lợi cho vợ. Vợ thiệt thì lợi cho chồng,
suy đi tính lại, cả hai cùng được lợi chứ có thiệt hại gì đâu?
Lão già lắc đầu trả lời :
– Không thể được. Không thể được. Lão Thần Y không cứu chữa thì tôi cam
chịu vậy, chứ mất nội lực để giúp mụ ta thì ta thà chết chứ chẳng
chịu…
Lão bà cũng xua tay lắc đầu nguây nguẩy :
– Ta đã thề không giúp lão một mảy may. Lão tham lam lắm. Giúp lão, lão
tiện cơ hội hóa giải hết nội lực công phu của ta. Trên giang hồ, còn ai
sợ Hắc Hồ Quái nữa? Ta thà chết chứ không thể giúp lão được.
Nói dứt lời, hai môi lão bà xám ngoét, da đã tái lại càng tái xanh thêm, bộ tóc như điểm tuyết bốc ra một làn hơi lạnh, khí lạnh buốt như băng
làm toàn thân mụ ta run lên bần bật khiến người đứng xa cảm thấy hàn khí xâm nhập, cũng bị… rùng mình…
Thân thể mụ ta co rúm lại, ngã lăn ta trên mặt đất như người bị rớt xuống hồ băng tuyết bị rét lạnh sắp bất tỉnh nhân sự.
Lão mập lùn cũng lăn lộn trên mặt đất như người rơi vào vạc nước sôi,
người bốc hơi nóng. Hai bàn tay đỏ như than hồng của lão ta với nắm lấy
cột gỗ lớn cổng trang, tức thời cây gỗ bị nám thành vệt đen bốc khói…
Nếu cứ bỏ mặc hai người thì có lẽ không bao lâu, lửa nóng đốt ruột, khí
hàn nhập tim sẽ làm hai người tiêu hao nội lực và… hết sống.
Lý Thanh Hoa động lòng bất nhẫn gõ chiếc kẻng bạc gọi hai con cẩu đầu
quái tạm bỏ đùi heo nướng đương gặm dở dang chạy ra nghe lệnh.
Thiếu hiệp truyền hai quái cẩu khiêng hai quái nhân vào trong tịnh xá để tìm cách cứu chữa.
Hai quái cẩu vốn da có mọn vẩy tê tê khả dĩ nằm vào lửa không sợ bỏng,
thọc tay vào băng tuyết không sợ lạnh buốt nên lần lượt khiêng hai vợ
chồng già tính tình xung khắc sắp tuyệt mạng vào trong trang.
Đặt hai người nằm song song trên giường, Mã phu nhân bảo hai quái đặt
tay người nọ úp vào lòng bàn tay người kia, như vậy hàn băng của người
vợ sẽ làm bớt nhiệt băng của người chồng và trái lại.
Quả nhiên tay nọ nắm tay kia trong chốc lát thì mặt lão lùn mập đã bớt đỏ, mặt mụ già gầy đã bớt thâm nhợt.
Mọi người khấp khởi mừng hỏi nhau: việc chữa trị dễ dàng như vậy sao đôi vợ chồng quái hiệp không biết thỏa thuận với nhau mà giúp đỡ nhau cho
khỏi bệnh.
Nhưng khi hai môi họ động đậy, hai mắt họ mấp máy mở ra, họ nhìn nhau,
hốt hoảng cùng hét to và rụt tay lại không nắm tay nhau nữa.
Nhanh hơn, lão ông tống cho lão bà một chưởng vào ngực và thuận chân,
lão bà cũng tặng lại cho lão ông một cái đạp cực mạnh. Hai người ngã bắn ra khỏi giường đến “bình” một cái và văng xuống đất.
Lão ông kêu :
– Mi hại ta. Định rút hết nội lực của ta hả? Con mụ mặt chuột.
Lão bà cũng kêu :
– Mi làm ta mất hai thành công lực rồi. Thằng già mặt heo quay kia.
Bị trúng chưởng vô ngực, mụ ta ứa máu miệng. Bị cái đạp vào sườn, lão mập lùn cũng bị vẹo hai rẽ xương sườn.
Xem ra chẳng thể để hai người gần nhau được vì họ không giúp nhau khỏi
bệnh mà lại còn gây thương thế cho nhau nên phải đặt hai người nằm dưỡng bệnh ở hai phòng khác nhau. Một phòng đương mát mẻ trở nên nóng bức.
Một phòng trở nên giá lạnh. Mà để rời họ ra thì tẩu hỏa nhập ma và hàn
băng nhập lý cũng sẽ làm nguy đến tính mạng họ. Thực là nan giải.
Mã phu nhân không tìm được cách nào khác hơn là cho họ uống linh đan
tiếp sức và thuốc an thần Y Mê Độc Đan cho họ ngủ để hòa hoãn cuộc tìm
đúng bệnh lý và linh dược để trị liệu.
Thế là Vạn Diệu sơn trang đã có ba con bệnh, nhưng cả ba đều mắc loại
bệnh kỳ quái chỉ có những kỳ nhân dị hiệp giang hồ… mới có. Mã phu
nhân cùng mọi người tự hỏi: nếu ngày nào cũng phải tiếp đón vài con bệnh như vậy, một tháng độ một trăm người thì Vạn Diệu sơn trang sẽ thành
một… nhà chứa bệnh “điên” mất.
Và có lẽ toán người Mã phu nhân và ba ta cũng phải đến giải nghệ thầy thuốc và đi nơi khác không cần ai phải đuổi.
… Sáng sớm hôm sau, mọi người lo đi tìm hốc đá tại chân núi, gần tảng đá mà trước đây lão dị nhân giấu lẵng dược liệu.
Nhưng trong khu vực có nhiều hang hốc, lỗ lớn lỗ nhỏ. Không biết lão dị
nhân đã bỏ phong thư vào hốc đá nào? Hốc đá đó còn không hay lâu ngày đã bị bùn đất lấp đi mất?
Người thì bàn lấy rơm đốt lửa hun một vài hốc khả nghi xem có đường ăn
thông sang hốc khác không? Và làm như vậy nếu trúng hang cầy cáo thì sẽ
bắt được con cầy, con cáo chạy ra. Giống cầy hương biết làm thịt ăn thơm ngon lắm.
Có người còn bàn đem đổ nước, nếu đất lún thì tìm được hốc đá? nhưng đổ
nước vô, nước gặp giấy làm hư phong thư không thể đọc được chữ nữa.
Lý Thanh Hoa nghe mọi người cãi nhau như hai vợ chồng lão quái nọ thì
mỉm cười không nói gì. Chàng lại chỗ tảng đá vỡ lấy chỗ đó làm chuẩn và
trông ngắm chung quanh để tìm hướng nhận xét xem có gì ký lạ không?
Sau một hồi quan sát kỹ lưỡng, chàng nhận thấy tảng đá này đối chiếu với tòa giả sơn và thẳng góc với chính giữa nền đá tòa đại sảnh trước.
Chàng nhìn thấy hòn đá lớn chênh vênh nằm trên một mỏm đá, Lý Thanh Hoa
nhận biết ngay đó là cửa hốc đá, người không tinh ý ngắm hướng thì không thể nhận ra được. Vậy thì chỉ cần đẩy hòn đá nặng sang một bên thì sẽ
thấy miệng hốc đá lộ ra.
Nhảy lên mỏm đá cao, chàng vận sức hai tay nhấc hòn đá lớn đặt sang một
bên, quả nhiên thấy lộ ra một lỗ hổng lớn, sâu thăm thẳm người không
chui lọt, có luồng gió thốc từ phía dưới thổi lên, mùi hôi tanh nồng
nặc. Có lẽ có nhiều rắn độc hay mãng xà sống ở dưới. Vô phúc cho kẻ nào
thò bàn tay vô, định tìm kiếm hay lấy vật gì ở trong hang đá ra.
Đứng trên cao nhìn xuống chỉ thấy tối om không nhìn thấy rõ gì ở trong hết.
Mọi người không biết tính sao?
Lý Thanh Hoa tay cầm cuộn dây “bạch ti”. Chàng thả đầu dây vô lỗ hổng,
truyền nội lực làm sợi dây chuyển động như một con rắn trắng nhỏ buông
sâu xuống tận đáy hốc đá.
Vẻ mặt Lý Thanh Hoa lúc bấy giờ rất nghiêm nghị, mục quang chiếu thẳng
xuống hố thẳm, tỏ ra chàng đương tập trung ý lực điều khiển sợi “tơ
trắng” dài hàng mấy chục trượng. Mấy người “chân sào” vừa được hưởng thụ món lươn tối qua, liên tưởng tới một anh chàng “câu lươn” đương giòng
sợi dây nhử mồi câu, bắt những con lươn khổng lồ từ trong hang hốc lôi
ra.
– Cứ cái điệu này thì lôi lươn chẳng thấy đâu lại kéo ra con rắn mang hoa dài chục thước… thì ôi chao! Xả xui.
Riêng Nhất Tiếu đã mục kích lão ăn mày Nhiếp Thủ có đôi tay dài cả
trượng thì biết rằng sợi bạch ti của “người anh cả” giòng xuống hố để
thăm dò, còn công hiệu và dài hơn tay vượn, tay người nhiều. Lý Thanh
Hoa đã thả xuống hết cả cuộn bạch ti xem chừng chàng chưa được đắc ý…
Nét mặt của chàng càng tỏ sự kinh ngạc hình như đã khám phá ra nhiều sự
kỳ lạ trong lỗ hang ăn ngầm sâu vào lòng đá và đất.
Mã Hóa Long có vẻ sốt ruột hơn hết. Ông hỏi dồn dập :
– Lý nhi. Con có thấy gì lạ không? Sâu lắm hả?
Lý Thanh Hoa gật đầu đáp :
– Đây chỉ là một lỗ thông hơi của một địa huyệt. Địa huyệt rộng lớn ăn
ngầm vào giữa núi, có đường trông về phía tòa giả sơn và phía trước tòa
đại sảnh.
Dưới Vạn Diệu sơn trang có hầm bí mật. Có nhiều sinh vật động đậy, không biết là giống vật chi?
Mọi người sửng sốt. Trí tò mò được kích thích. Mọi người bàn đi tìm
thuổng cuốc đào xới khơi rộng hốc đá cho người chui vô dò thám.
Lý Thanh Hoa gạt đi và nói :
– Không được đâu, hốc đá sâu và hẹp. Đục đá mất nhiều công phu lắm. Ta
nên dò tìm cửa vô địa huyệt. Tiếc rằng sợi bạch ti dài không hơn chục
trượng. Để tôi suy nghĩ xem sao?
Nói rồi chàng thu sợi dây, cuộn tròn lại. Nhưng lúc rút dây ra khỏi
miệng hốc đá thì mọi người kinh hãi nhảy lùi cả lại phía sau… Đầu sợi
đã quấn lấy cổ một con rắn độc thân vằn khoanh đỏ, đầu mọc sừng nhỏ
đương quằn quại mong gỡ thoát khỏi tròng nhợ.
– Rắn độc… Rắn độc…
Thì ra sinh vật lúc nhúc dưới địa huyệt là những con rắn có nọc độc rất mạnh.
Lẹ tay Nhất Tiếu đã nhặt hòn đá ném dập đầu rắn. Thực không ai ngờ đã
nửa tuần nay mọi người sống trên địa huyệt đầy rắn độc mà không biết.
Sự tìm ra cửa vô địa huyệt cũng mất một thời gian khá lâu. Nhóm người
được chia thành hai toán. Một toán đi tìm dấu vết khả nghi tại hòn giả
sơn, một toán đi tìm các kẽ nứt trên mặt các phiến đá ghép tại tòa đại
sảnh.
Theo sự chỉ dẫn của Lý Thanh Hoa, mọi người tập trung sự tìm kiếm quanh
một bệ đá tại hậu đường gian chính giữa tòa nhà lớn mới được dựng lên
vài cột gỗ và lợp mái sơ sài. Chỉ thấy các mạch đá khít liền không có
chỗ lách mũi dao. Làn siêu nhãn của Lý Thanh Hoa tinh tường hơn soi tỏ
rõ một chỗ đá trơn mòn, vì mỗi lần bước vô địa huyệt, người ta có thói
quen vịn tay vô một chỗ, trước khi xuống các bậc thang đá.
Vết trơn mòn đó chỉ rõ cửa địa huyệt. Nhất Tiếu bàn nên dùng sức đập vỡ
bệ đá. Lý Thanh Hoa kiên nhẫn hơn, dẫn mọi người vòng ra tòa giả sơn xem xét kỹ càng lại một lần nữa.
Tại hòn đá lớn lởm chởm này, người ta gắn những tượng nhỏ, cái thì trình bày cảnh thập bát điện Diêm Vương, cái thì là cảnh Thái Thượng Lão Quân cưỡi trâu, Bát Tiên quá hải… Đặc biệt pho tượng Lý Thiết Quải đang ăn chuối thì lại đứng lui lại sau bảy vị tiên khác.
Phải người biết sự tích “Bát Tiên” thì mới thấy sự sắp đặt dị biệt của
các pho tượng, Lý Thanh Hoa lấy tay xê dịch các pho tượng thì thấy bảy
vị tiên gắn liền chân vào đá tảng, chỉ có pho tượng Lý Thiết Quải có thể xê dịch được.
Đẩy ngang, đẩy dọc thấy phía dưới chuyển động, chàng thiếu hiệp lấy tay
cầm pho tượng vặn xoay đi một vòng thì thấy có tiếng cơ quan chạy “kịch
kịch” nhưng có lẽ vì quá lâu ngày nên lại im ngay, vì bị rỉ sét.
Có tiếng người reo ở tòa đại sảnh :
– Cửa hầm mở rồi.
Mọi người chạy lại thì quả nhiên thấy phiến đá cửa địa huyệt để hở một
kẽ lớn, bé con chui lọt rất dễ dàng. Nhất Tiếu dùng sức hai tay đẩy mạnh sang bên, làm cửa hầm lại mở rộng thêm vài tấc nữa.
Chàng ta thích chí, hối người châm bó đuốc lớn, tay cầm Kim đao, tay cầm đuốc sáng xăm xăm bước xuống địa huyệt.
Mã phu nhân giơ tay cản lại và nói rằng :
– Không nên hành động hấp tấp như vậy.
Lý Thanh Hoa cũng nói tiếp với giọng diễu cợt :
– Để nhị đệ vô bắt “rắn” làm một bữa thịt xà nhậu chơi. Có nhiều rắn lắm. Thịt mãng xà còn đại bổ hơn thịt lươn.
Nhất Tiếu cả kinh nhảy lùi lại, và không tiến vô nữa. Mùi hôi tanh xông
ra nhức óc. Nhờ có ánh đuốc lập lòe soi sáng, mọi người ghé mắt nom rõ
trong bóng tối địa huyệt không biết có bao nhiêu muôn ngàn tổ rắn: rắn
mẹ, rắn con, rắn đen, rắn đỏ, rắn lớn, rắn nhỏ, vẩy chúng lấp lánh, đa
số thấy động phùng phì phì, hai mắt chiếu ra phía cửa hầm… thành nhiều đốm sáng li ti… Có người quá sợ hãi kêu lớn :
– Úi trời ơi. Nhiều độc xà quá. Chúng nó bò ra thì tràn ngập sơn trang.
– Đóng cửa hầm lại.
– Làm thế nào mà đậy được phiến đá này như cũ?
Nhất Tiếu hoa Kim đao hô to :
– Lấy gươm đao ra đây.
– Con nào ra chặt chết con đó. Mau mau lên không chúng nó ùa ra thì… chết cả lũ bây giờ.
Mọi người nhốn nháo mất bình tĩnh.
Lý Thanh Hoa thấy chiếc hộp giắt bên mình “cục cựa” rất mạnh, hai con
tiểu xà muốn ra khỏi hộp. Lý Thanh Hoa không biết cách nào hơn là mở nắp hộp hướng hai con rắn nhỏ về phía cửa hầm xem chúng phản ứng ra sao?
Hai con rắn nhỏ xíu như hai vệt chỉ, một sáng như bạc, một đỏ như máu,
bay xẹt vô trong hầm tựa như… linh vật tìm trở về chốn sinh ra chúng,
nhập bọn làm quen với sinh vật cùng nòi giống với nhau.
Thoạt tiên, Lý Thanh Hoa và Mã phu nhân có ý nghĩ e sợ là đàn rắn trong
địa huyệt sẽ cắn chết hai con rắn nhỏ xíu như đầu đũa… Hai người lắng
tai nghe thì thấy hai tiểu xà phát ra tiếng kêu rít như tiếng sáo, ngân
dài và trong hang tối các tiếng rắn bò sột soạt im lặng lần.
Hai con Ngân xà và Hồng xà tuy nhỏ, nhưng là vua các loài rắn độc. Sự
xuất hiện của đôi rắn thần tí hon này đã khiến cho đàn rắn độc “hạ cấp”
phải giải tán và rút lui… có trật tự.
Trong khoảnh khắc, địa huyệt trở lên quang đãng, soi ánh đuốc vào không
thấy những con vật dài lúc nhúc quấn quít lấy nhau như rừng cây leo biết động đậy nữa. Lý Thanh Hoa cùng mọi người bước xuống các bậc đá, Mã phu nhân đã hối người mang đến một gói lớn chất “hùng hoàng” khi cần rắc
vãi ra để tránh sự tấn công của rắn độc cắn vào tay chân.
Bước những bước rất cẩn thận, mọi người tiến sâu vào địa huyệt. Soi đuốc nhìn quanh thấy những căn hầm rất rộng này ngổn ngang những hũ và bình
chứa đựng dược phẩm. Nhiều bình bị vỡ nên rắn độc rút vô làm ô sinh
sống. Có nhiều hành lang nhỏ hẹp ăn thông sang những căn dài và rộng
hơn.
Mọi người bỗng dừng chân để chứng kiến một cảnh tượng giao đấu giữa rắn và rắn.
Số là hai con Tiểu Trúc Ngân Xà và Tiểu Trúc Hồng Xà sau khi khu trục
những đàn rắn “hạ cấp” chiếm đoạt lại khu vực chứa thuốc của Lão Thần Y, hai tiểu vương xà bò vào khu vực chứa đựng linh đan đã được chế luyện.
Có lẽ hai con rắn vua này đã quen thuộc vì nuôi ở đây nên nó sục tìm các lọ sứ nhỏ xếp thành hàng dài trên những giá gỗ gắn liền vô vách đá.
Nhưng ở trong căn phòng chứa đựng linh đan này, hai tiểu xà đã “đụng độ” với con “bạch mãng xà” khổng lồ đã chiếm đoạt căn phòng đó và không
chịu bỏ chạy đi nơi khác như đàn rắn nọ. Con rắn trắng này dài tới năm
trượng, thân tròn bằng thân cây nhỏ, đúng là loại “chằn tinh”.
Nó đã khôn ngoan rút về thủ, nằm cuộn tròn như đống trảo lớn, chỉ thò
cái đầu to như cái đấu, ngoác cái miệng đỏ lòm có hai nanh nhọn. Hai mắt nó phát tia điện quang không rời hai con rắn nhỏ từ hai phía bên xáp
lại gần.
Đúng ra con rắn trắng lớn chỉ cần mổ và táp một cái là nuốt chửng hai
con rắn nhỏ xíu. Nhưng đằng này nghe tiếng rít lên còi siêu thanh, bạch
xà đâm ra sợ hãi càng cuộn tròn thu hình cố thủ. Một sự lạ là là hai con rắn nhỏ như hai mũi kim châm cắm đầu xiên vào túi đựng mật của con rắn
lớn, chui tọt vào trong thân thể con rắn lớn, rút lấy mật và đục khoét
lên óc hút lấy túi chất độc. Con hồng xà từ miệng con rắn chết bò ra,
còn con ngân xà thì lại bò ra ở phía dưới bụng. Bạch xà to lớn cứ chịu
nằm yên thụ hình.
Sau khi giết xong con bạch xà khổng lồ rất êm đẹp và ăn no đầy, hai con
rắn nhỏ chui vào trong chiếc hộp xinh xắn của Lý Thanh Hoa nằm nghỉ ngơi sau khi làm tròn công tác giúp ích cho mọi người.
Lý Thanh Hoa giắt chiếc hộp vô trong mình tiếp tục dẫn đầu mọi người thám hiểm địa huyệt.
Mục đích chính là tìm phong thư của Lão Dị Nhân. Chàng tiến về chỗ ống
thông hơi từ mỏm đá trên luồng luôn xuống phía dưới. Chàng thấy một khám thờ đục vào vách đá rất vuông vắn.
Trên lư đá còn thò ra một góc giấy gấp tư, màu giấy đã vàng sẫm vì thời
gian. Chàng cầm lấy thì đúng là một phong bao dán kín chưa ai mở ra. Lão Dị Nhân viết thư cho Lão Thần Y đã mấy năm trời mà phong thư chưa tới
tay người nhận. Trong khám thờ ở góc bên trái, chàng thấy một chiếc hộp
bằng gỗ phủ đầy bụi đất “chiếc hộp bí mật đựng ước vọng cải tử hoàn sanh và trường sinh bất tử của con người”.
Dưới ánh đuốc chàng và Mã phu nhân hồi hộp mở phong thư và đọc dòng chữ ở trong :
“Tìm gặp cố nhân, không ngờ vân vũ phong ba, nên không được gặp. Trần
thế đầy vạn nạn, bách chứng nan y. Kỳ hoa dị thảo mang đến đây là chuyến chót, tự tinh cầu sắp đến ngày hủy diệt. Đời không ít kẻ tài giỏi, trời phật dành cơ phúc riêng cho người thiện tâm. Kỳ hoa dị thảo có khả năng làm kẻ mất trí hồi phục não tụy, kẻ cụt tay chân lại đủ tứ chi đi lại
như thường. Riêng đã điếc nên điếc, đã câm nên câm vì nghe nhiều nói lắm là mầm diệt họa. Cầu mong dược liệu cứu được lịnh nữ và các hạ cũng nên thôi bỏ nghề thuốc và sớm quy y để gọt bỏ mọi oan nghiệt khiến túc
duyên mau thành đạo quả”.
Còn trong hộp thì đựng “thanh nang” có kê khai tên và tính chất dược liệu cùng kỳ pháp trị liệu.
Mã phu nhân được thanh nang mừng rỡ vô cùng coi như quý vật chí bảo.
Bà chắp tay hướng về khám thờ, làm lễ bái nhận và ôm quyển thanh nang vô ngực nói với Lý Thanh Hoa rằng :
– “Từ đời Hậu Hán, cuốn này do danh y Hoa Đà biên khảo đã bị vô ý đốt
đi, chỉ còn sót lại có mấy phương pháp thiến gà, hoạn lợn. Bây giờ gần
như nguyên cả bản lại lọt vào tay ta. Chắc nghề thuốc của ta sẽ cứu giúp được nhiều người thay thế cho Lão Thần Y đã bị tuyệt tích.
Trong sách này có ghi chép cách thức tổ chức địa huyệt thành phòng chế
thuốc. Ta cứ theo ghi chú, xếp đặt lại mọi đúng như cũ. Chỗ khánh thờ là Cửu Cung, ở chính giữa, còn tám căn phòng ở chung quanh thì cứ đúng tám cung bát quái đồ: Hưu, Sanh, Thương, Đổ, Cảnh, Tử, Kinh, Khai đi vô các ngõ nghách hành lang sẽ tìm thấy vị trí.
Cửa hầm chúng ta bước vô do cửa sinh nên tới ngay được phòng chứa linh
đan, linh dược. Đàn rắn nuôi ở hồ nước có suối nước tự các kẽ đá chảy
vô, thoát ra là ở y dược phòng thuộc về chữ kinh. Rắn này nuôi dùng để
lấy nọc, nọc độc dùng chữa bệnh. Bệnh phong cùi chậm phát tác nhờ nọc
rắn. Nhưng đàn rắn lâu ngày không ai coi sóc nên xâm phạm sang nơi chứa
linh đan.
Con cẩn thận đừng để cho ai tới căn phòng phía tây nam cửa tử trong đó
chứa nhiều dược liệu có tính chất làm thuốc độc chết người. Muốn tìm
thuốc nhiệt thì vô phòng ở cung chữ Ly. Tìm thuốc trị thương nối liền
chân tay bị ngoại thương ở căn phòng cung chữ Thương. Cung Khảm phần
nhiều để thuốc nước tương dịch. Thuốc trị bệnh thần kinh, tiếp gân, an
thần, trị não sẽ tìm thấy ở căn phòng chữ Hưu.
Vô cung chữ Cảnh thế nào cũng tìm được khe hang hoặc kẽ đá ăn thông ra
đằng phía sau rặng Thất Chỉ Sơn, nơi đó có khu vực gieo hạt trồng cây
thuốc. Muốn tìm hiểu những bí mật của y học cao siêu phải vào phòng đó
mới thông thuộc được bảy mươi hai đường kinh mạch trong thân thể con
người”.
Mọi người châm thêm đuốc, theo Mã phu nhân đi tìm cung chữ Cảnh, qua
nhiều hành lang ngoắt ngoéo dẫn đến một thạch động rộng lớn vô cùng.
Trên vách đá có khắc những đồ hình lục phủ ngũ tạng, bộ vị thần kinh
tuần hoàn, huyệt đạo, hạch và niêm dịch tuyến, người không học chữ trông thấy nhằng nhịt chẳng hiểu mô tê gì cả.
Trong Cảnh cung có một kho sách có trên ngàn cuốn xếp vào các ngăn cẩm
thạch, chia thành một loại, thứ tự và ngàn năm không bị hư hoại vì giấy
viết đã ngâm phèn.
Tương đối với các kho động khác thì nơi này sạch sẽ thoáng khí mát mẻ và sáng sủa nhờ có ánh sáng chiếu vào các tấm gương tỏa xuống. Lối đi ra
ngoài trời cũng tìm được dễ dàng vì có gió mát lọt vô.
Ngược theo gió lộng hướng lên, mọi người ra khỏi cửa hang hẹp thấy một
khoảng đất bằng, rộng của một thung lũng lớn có núi bao quanh tạo nên
một thiên nhiên tuyệt cốc kín đáo, cảnh trí hùng vĩ vô cùng.
Mã phu nhân đứng trước khoang “quý địa” phần lớn hoang phế vì không
người săn sóc những bãi trồng cây thuốc để lau tách mọc tràn đầy khắp
cả, tuy nhiên bà ta cũng phải nói :
– Trước đây trong lúc ta mang Lý nhi đi trốn tránh quan quân ta đã sống ở nhiều thâm sơn cùng cốc, ta chưa từng thấy cảnh trí nơi nào hợp với ý
ta như ở đây. Lão Dị Nhân và Lão Thần Y, hai vị tiền bối chắc chắn đã
mất nhiều công phu mới gây dựng được tuyệt cốc. Hai vị chẳng được hưởng
thụ, té ra là chúng ta đến cư trú. Thế mới biết “nhất điền thiên vạn
chủ” thực.
Mọi người đều công nhận phong cảnh bên trong tuyệt cốc còn rộng rãi kỳ thú hơn phong cảnh Vạn Diệu sơn trang mé tiền diện nhiều.
Lý Thanh Hoa nói :
– Tuyệt cốc sắp đặt để cho mọi người ẩn cư, xa lánh tiếp xúc với cõi đời bên ngoài. Phải chăng là Lão Thần Y thu xếp địa huyệt và tuyệt cốc để
dành riêng cho cho gái ông ta bị mắc một trong tứ chứng nan y, phong lao cỗ lại? Vì muốn cứu con gái khỏi bệnh nên Lão Thần Y mới hao tổn công
phu một đời người để xây dựng nên Vạn Diệu sơn trang. Mục đích tuy là
cứu nhân độ thế nhưng cũng là nghiên cứu thêm y học để cứu chữa con
mình.
Mọi người thấy ý kiến Lý Thanh Hoa giải nghĩa thêm rõ ràng phần viết
trong thư, Lão Dị Nhân kiếm thuốc lạ để cung cấp cho Lão Thần Y điều chế linh dược chữa bệnh cùi cho con gái nhưng mọi người muốn biết con gái
Lão Thần Y là ai?
Nhất Tiếu mở to đôi mắt, há hốc mồm la lớn :
– Không lẽ con gái Lão Thần Y là U Linh nữ chủ, con mẹ điên phong cùi
luôn luôn che mặt bị ung thối bằng một chiếc mặt nạ bằng bạc? … Bây
giờ bất thình lình con mẹ điên cùi U Linh nữ chủ, kẻ đã thắng Tử Ngang
đạo trưởng tái xuất nơi địa huyệt và tuyệt cốc này thì… Nhất Tiếu tôi
nhất định bỏ đây đi luôn.
– Sao vậy?
– Nghĩ đến bộ mặt nó, tôi kinh tởm vô cùng. Nhìn mặt nó, cả tuần thôi uống rượu luôn.
Khi bước ra khỏi cửa hầm nơi bệ đá, Nhất Tiếu thở đến phào một cái như trút hết gánh nặng.