Tuần thứ hai của tháng Chín, Sebastian lên chuyến bay quốc tế đến Calcutta, Ấn Độ. Hơn bảy ngàn dặm và hai mươi bốn giờ sau, anh đáp chuyến bay nhỏ hơn đến vùng đồng bằng Bihar, Ấn Độ, nơi sự sống và cái chết phụ thuộc vào sự đỏng đảnh của gió mùa hàng năm và khả năng kiếm được một vài trăm đô la để chiến đấu với kala azar – dịch bệnh Leishmania.
Anh đáp xuống Muzaffarpur và thêm bốn tiếng đi xe mới tới được làng Rajwara cùng với một bác sĩ địa phương và một nhiếp ảnh gia. Nhìn từ xa ngôi làng trông mộc mạc và chưa bị nền văn minh hiện đại tác động đến. Những người đàn ông trong trang phục trắng truyền thống dhoti kurta cày cấy ruộng bằng xe kéo gỗ và trâu, nhưng giống như tất cả các vùng chưa phát triển của trái đất mà anh đã viết bài trong quá khứ, Sebastian biết rằng cảnh thanh bình này chỉ là ảo giác.
Khi anh và hai người đàn ông bước đi trong vùng đất đầy bụi của Rajwara, những đám trẻ con đầy kích động vây quanh họ, đá tung bụi mù khắp cả con đường. Chiếc mũ bóng của thủy quân lục chiến Seattle che khuôn mặt anh khỏi ánh nắng mặt trời, và anh lấp đầy túi của chiếc quần hộp pin dự trữ cho máy ghi âm của mình. Vị bác sĩ là người được mọi người trong làng biết đến, và những phụ nữ trong những bộ sari màu sáng tỏa ra từ các túp lều có mái tranh từng người một, nói nhanh bằng tiếng Hindi. Sebastian không cần bác sĩ đó dịch để biết họ đang nói gì. Âm thanh của những người nghèo cầu xin sự giúp đỡ thường là ngôn ngữ thế giới.
Trải qua nhiều năm, Sebastian đã học được cách tạo một vách chắn chuyên nghiệp giữa chính anh với những gì diễn ra quanh anh. Để viết về nó mà không bị lún sâu vào bóng đêm hoang mang của nỗi buồn vô vọng. Nhưng những hình ảnh như thế này vẫn gây cho anh khó khăn khi gặp phải.
Anh ở lại vùng đồng bằng Bihar trong ba ngày để phỏng vấn những người cứu trợ của tổ chức One World Health và Bác sĩ Không Biên giới. Anh đi đến thăm các bệnh viện. Anh đã nói chuyện với một nhà dược học ở Mỹ, người đã phát triển một loại thuốc kháng sinh có sức đề kháng mạnh hơn, nhưng giống như quá trình phát triển của các loại thuốc, tiền là chìa khóa cho sự thành công của nó. Anh đến thăm một bệnh viện mới nhất và đi giữa các dãy giường chật ních người trước khi quay trở lại Calcutta.
Anh có chuyến bay sớm vào sáng mai và sẵn sàng cho việc thư giãn trong phòng khách của khách sạn, tránh xa sự đông đúc của thành phố, không khí tràn ngập đầy các mùi khác nhau, và tiếng ồn ào không dứt. Ấn Độ sở hữu một vài cảnh đẹp khiến mọi người sửng sốt trên trái đất và một vài sự nghèo đói kinh khủng nhất. Ở một vài nơi, hai điều đó tồn tại cạnh nhau, và bằng chứng rõ hơn cho điều đó không có chỗ nào khác chính là Calcutta.
Đã từng có thời gian anh xem thường những nhà báo mà anh cho là yếu mềm – những gã “già khú” luôn quay lại trú ngụ trong những quán bar ấm cúng và gọi các món ăn có trong khách sạn. Là một nhà báo trẻ, anh cảm thấy rằng những câu chuyện tốt nhất thường xảy ra ngoài kia trên các đường phố, trong các đường hầm quân sự và chiến trường, trong những khách sạn nhếch nhác và những khu ổ chuột, đang chờ để được kể cho mọi người. Anh đã đúng, nhưng chúng không phải là những chuyện giá trị duy nhất hoặc luôn là những chuyện quan trọng nhất. Anh thường tin mình cần cảm giác được những viên đạn đang bay vèo qua đầu mình, nhưng anh nhận ra rằng tường thuật những gì có trị số ốc-tan cao có thể khiến cho một nhà báo mất đi tiền đồ. Sự nôn nóng để viết bài có thể dẫn đến việc mất đi tính khách quan. Một vài bài báo tốt nhất xuất phát từ cái nhìn thấu đáo và không thiên vị. Qua nhiều năm, anh đã hoàn thiện những mánh khóe đôi khi khó khăn của trạng thái cân bằng trong nghề báo.
Vào tuổi ba mươi lăm, Sebastian đã trải qua một vài việc như bệnh lỵ, bị cướp, bước đi trong dòng chảy chất thải thô, và nhìn đủ cái chết cho suốt phần đời còn lại. Anh đã có mặt và viết về những điều đó, và đạt được một ít thành công. Anh đã không còn phải đấu tranh cho dòng ghi tên tác giả nữa. Sau nhiều năm chạy hết tốc lực, dốc sức cố gắng, chạy theo các câu chuyện và đề mục, anh có được một vài khoảng thời gian sống trong khách sạn có máy điều hòa nhiệt độ.
Anh gọi một chai bia Corba và món gà tiềm trong khi kiểm tra email. Một đồng nghiệp cũ tiếp cận anh khi anh thưởng thức được một nửa bữa ăn.
“Sebastian Vaughan.”
Sebastian nhìn lên và cười toe toét khi anh nhận ra người đang đi về phía mình. Ben Landis thấp hơn Sebastian, có mái tóc đen dày và một khuôn mặt thân thiện, cởi mở. Lần cuối cùng Sabastian nhìn thấy anh ta, Ben là phóng viên của tờ USA Today, và họ đã ở cùng trong một khách sạn ở Kuwaiti, chờ đợi việc xâm chiếm Iraq. “Nhiệm vụ lần này của cậu là gì?”
Ben ngồi đối diện với anh và ra hiệu gọi bia. “Tớ đang viết một bài về Hội dòng Thừa sai Bác ái mười năm sau cái chết của Mẹ Teresa.”
Sebastian đã viết một bài về Hội dòng Thừa sai Bác ái vào năm 1997, một vài ngày sau cái chết của vị nữ tu đạo Thiên chúa. Đó cũng là lần cuối cùng anh ở Calcutta. Thành phố có một ít thay đổi, nhưng không gây cho anh nhiều ngạc nhiên. Việc thay đổi diễn ra chậm ở Ấn Độ. Anh đưa chai bia lên miệng và uống một ngụm sau đó hỏi, “Mọi việc như thế nào?”
“À, cậu biết cách mọi việc diễn ra ở đây mà. Trừ việc cậu ở trong taxi, còn lại mọi việc dường như đứng yên.”
Sebastian đặt chai bia xuống bàn và cả hai trao đổi các câu chuyện chiến tranh và kêu chai bia thứ hai. Họ nhớ lại về những gì khó chịu đã xảy ra khi leo vào bộ áo quần bảo vệ hóa chất nóng nực, đầy mồ hôi mỗi lần có lời đe dọa tấn công bằng hóa chất trong cuộc tấn công vào Iraq. Họ cười ngất ngưởng về FUBAR của Thủy quân lục chiến, với bộ đồ màu xanh lục của rừng được gửi đến cho quân đội chứ không phải là màu be của bão cát, mặc dầu lúc đó việc này không phải là một vấn đề đáng buồn cười. Họ nhớ lại những câu chuyện về việc đi bộ vào mỗi sáng trong các lỗ nông với bụi cát mịn che phủ khắp khuôn mặt họ, và cười khi nhớ về những cuộc ẩu đả, lôi kéo giữa nhà hoạt động hòa bình với người Canada, người đã gọi Rumsfeld là kẻ hiếu chiến, và một phóng viên của hãng thông tấn (sử dụng máy chữ điện báo) người Mỹ, người đã phản đối lại câu nói đó. Cuộc chiến diễn ra khá công bằng cho đến khi hai người phụ nữ từ Reuters nhảy vào cuộc xung đột và phá vỡ nó đi.
Còn nhớ cô phóng viên người Ý không?” Ben hỏi với nụ cười trên môi. “Cái cô có cặp môi đỏ mọng và…” Anh ta giữ tay phía trước ngực mình như thể đang giữ hai quả dưa vậy. “Tên cô ta là gì nhỉ?”
“Natala Rossi.” Sebastian đưa chai bia lên miệng và uống một ngụm.
“Ừ. Đúng cô ta.”
Natala đã từng là phóng viên của tờ Il Messaggero, và bộ ngực thách thức trọng lực của cô ta đã từng là nguồn tưởng tượng và nghiên cứu không dứt đối với các đồng nghiệp nam.
“Những cái đó chắc là đồ giả.” Ben nói khi anh ta nốc một hơi dài bia của mình. “Chắc chắn là thế.”
Sebastian có thể làm rõ mọi chuyện với anh ta. Anh đã trải qua một đêm dài với Natala bên trong một khách sạn ở Jordani và được tận mắt chứng kiến nó – ấy là nói như vậy – rằng cặp ngực dễ thương của cô là đồ thật. Anh chỉ hiểu được một ít tiếng Ý. Cô ta có vốn tiếng Anh nghèo nàn; nhưng việc chuyện trò không phải là mục tiêu chính.
“Có tin đồn rằng, cô ta đưa cậu lên phòng khách sạn của cô ta.”
“Thú vị.” Anh không phải là mẫu người đàn ông chuyên tiết lộ những chuyện cá nhân. Ngay cả khi việc kể lại đó thực sự là điều thú vị. “Thế tin đồn có nhắc đến việc tôi đã có cả buổi tối tuyệt vời thế nào không?” Khi nghĩ về tối hôm đó, anh không thể nhớ được khuôn mặt và những tiếng kêu khóc đầy say đắm của Natala. Vì một vài lý do anh không thể tìm hiểu, hình ảnh một người phụ nữ với mái tóc nâu đã xuất hiện và cản trở não bộ trung tâm của anh.
“Ồ, vậy tin đồn không đúng sao?”
“Không đúng.” anh nói dối, còn hơn phải miêu tả chi tiết – ấy là nói như vậy – về cái đêm anh ở cùng với cô phóng viên người Ý đó. Trong khi ký ức về Natala tan biến đi, thì ký ức về một Clare trong chiếc quần lọt khe màu hồng và nụ hôn họ trao nhau dường như ngày càng phát triển sống động hơn ngày qua ngày. Anh có thể nhớ lại một cách hoàn hảo những đường cong mềm mại của cơ thể cô khi cô áp sát vào người anh, đôi môi căng đầy mềm mại ở bên dưới môi anh, cái miệng mượt mà ấm áp của cô. Anh từng hôn rất nhiều phụ nữ trong đời anh, tuyệt có, tệ có và nóng bỏng cũng có. Nhưng không một người phụ nữ nào hôn anh như Clare. Cô như muốn sử dụng miệng mình để hút hết linh hồn anh. Và điều khó hiểu là anh muốn cô làm thế. Khi cô nói anh hôn cặp môi bé nhỏ xinh đẹp của cô, anh biết đó là điểm mà anh muốn hôn nhất.
“Nghe nói anh vừa kết hôn.” anh nói trong nỗ lực thay đổi chủ đề và muốn đưa Clare, cặp mông mịn màng và đôi môi mềm mại của cô ra khỏi tâm trí mình. “Chúc mừng nhé.”
“Ừm. Giờ vợ tớ đang chuẩn bị sinh đứa con đầu lòng vào bất cứ ngày nào.”
“Thế mà cậu ở đây, đứng ngồi không yên để được nói chuyện với các nữ tu sao?”
“Tớ phải làm để kiếm sống.” Người phục vụ đặt chai bia thứ ba của Ben lên bàn và biến mất. “Cậu biết việc đó diễn ra như thế nào mà.”
Thì anh biết. Bạn phải làm việc chăm chỉ và có nhiều may mắn mới sống được trong nghề báo. Nhất là đối với những nhà báo tự do.
“Cậu chưa nói với tớ cậu đang làm gì ở Calcutta.” Ben nói, và đưa tay lấy chai bia của mình.
Sebastian nói cho Ben về những gì anh đang tìm hiểu ở vùng đồng bằng Bihar và sự bộc phát mới nhất của dịch bệnh Leishmania. Hai người đàn ông ngồi nói chuyện phiếm thêm một giờ nữa, sau đó Sebastian chào tạm biệt Ben và đi nghỉ.
Trên chuyến bay về nhà vào sáng hôm sau, anh lắng nghe những bài phỏng vấn anh đã thu âm và viết nghuệch ngoạc những ghi chú. Khi viết bài phác thảo, anh nhớ lại sự tuyệt vọng khốn khổ mà anh nhìn thấy trên khuôn mặt của những người nông dân. Anh biết mình không thể làm gì ngoài việc kể lại câu chuyện của họ và chiếu một vài ánh sáng vào dịch bệnh đã lây lan toàn khu vực. Chỉ có điều anh biết rằng sẽ có một vùng dịch mới và một dịch bệnh mới để viết bài vào tháng sau. Cúm gia cầm, bệnh sốt rét, HIV/AIDS, bệnh tả, hạn hán, bão nhiệt đới, sóng thần, chết đói. Hãy lựa chọn. Chiến tranh và các thảm họa là một chu kỳ không bao giờ kết thúc và là một người chủ bất biến. Trong bất kỳ một ngày nhất định nào đó, sẽ có một sự gia tăng dịch bệnh với, hoặc nếu không, một vài kẻ độc tài, trùm khủng bố, hay Hội Hướng đạo trở nên xấu đi, sẽ xuất hiện ở một nơi chết tiệt nào đó trên hành tinh này.
Trong suốt hai giờ nghỉ đợi chuyến bay đến Chicago, anh ăn nhanh trong một quán sports và lấy máy tính xách tay ra. Như anh đã từng làm hàng trăm lần trong quá khứ, anh vừa viết phần mở đầu vừa nhấm nháp món sandwich thịt bò hun khói. Anh hơi cố gắng, nhưng không có gì có thể so sánh với những gì anh đã trải qua với bài báo mà anh đã viết về khủng bố địa phương.
Trên chuyến bay cất cánh từ O’Hare, anh đã bắt mình chìm vào giấc ngủ, tỉnh lại vừa lúc chiếc Boeing 787 hạ cánh xuống sân bay Sea-Tac. Mưa rơi như trút xuống đường băng và chảy dọc theo hai bên cánh máy bay. Giờ là mười giờ sáng, theo giờ Thái Bình Dương khi anh hạ cánh, và anh sải bước nhẹ nhàng ra khỏi sân bay về hướng chiếc Land Cruiser đậu trong bãi đỗ xe dài ngày. Anh đã từng bay rất nhiều, khó đếm xuể nhưng lần này có cái gì đó thật khác biệt. Vì một vài lý do anh không thể giải thích được, anh biết đây sẽ là chuyến bay quốc tế cuối cùng của mình. Bay qua nửa địa cầu để viết một bài báo không còn là niềm thích thú đối với anh như trước đây, và giờ anh đang nghĩ về Ben Landis và người vợ đang mang thai của anh ta.
Khi anh lái đến đường Xuyên bang số 5, một cảm giác cô đơn khó chịu làm tình làm tội anh. Trước khi mẹ anh chết, anh không bao giờ cảm thấy cô đơn. Anh có những người bạn trai. Và cả phụ nữ nữa, một số trong họ anh có thể gọi điện, gặp nhau, hay làm bất cứ điều gì khác mà anh muốn.
Mẹ anh mất đi, nhưng cuộc sống của anh vẫn ổn, theo cách anh yêu thích, theo cách anh đã luôn hình dung. Nhưng với mỗi lần cần gạt kính chắn gió xe hơi nhẹ nhàng hoạt động, cảm giác cô đơn lại khứa sâu thêm trong anh. Anh đoán là do sự mệt mỏi sau chuyến bay dài và một khi anh về đến căn hộ của mình và nghỉ ngơi, cảm giác này sẽ biến mất.
Anh đã mua căn hộ cao cấp đó cách đây hai năm sau khi cuốn sách của anh đạt vị trí số một trong danh sách bán chạy của tờ New York Times và USA Today. Cuốn sách nằm trong danh sách bán chạy đó trong mười bốn tháng, mang về cho anh nhiều tiền hơn những gì anh đã từng làm hay hy vọng có được từ nghề báo. Anh đã đầu tư số tiền đó vào bất động sản, các tài sản xa hoa và một vài cổ phiếu của những hãng chuyên về kỹ thuật mạo hiểm mang lại cho anh một số tiền lại quả kha khá. Sau đó anh chuyển nhà, từ một căn hộ nhỏ trên đường Jeffersons ở khu Kent đến căn hộ sang trọng ở quận Queen Anne ở Seattle. Anh có căn hộ trị giá một triệu đôla nhìn ra vịnh, núi và Puget Sound. Căn hộ rộng bảy trăm sáu mươi hai mét vuông có hai phòng ngủ với bồn tắm đứng và bồn tắm thủy lực trong mỗi phòng. Mọi thứ từ ngói ceramic và sàn nhà bằng gỗ cứng đến thảm trải sàn bằng nhung lông và đồ nội thất bằng da đều có tông màu đất trầm. Những đồ mạ bạc sáng bóng và gương chiếu sáng mới toanh, một biểu tượng cho sự thành công của anh.
Sebastian lái chiếc SUV vào chỗ đỗ xe, sau đó đi đến thang máy. Một người phụ nữ trong bộ đồ vét và một cậu bé mang một chiếc áo phông có hình con thằn lằn đã đợi ở cửa và bước vào thang máy cùng với anh. “Chị đến lầu nào?” anh hỏi khi cửa thang máy đóng lại.
“Lầu sáu, cám ơn.”
Anh nhấn nút lầu sáu và tám, sau đó tựa lưng vào vách thang máy.
“Con ốm.” cậu bé nói nhỏ với anh.
Sebastian nhìn xuống khuôn mặt xanh mướt của cậu bé.
“Thủy đậu.” người phụ nữ nói. “Tôi hy vọng anh cũng đã mắc bệnh này.”
“Tôi đã mắc bệnh khi tôi lên mười.” Mẹ anh đã biến anh thành màu hồng với kem chống ngứa.
Thang máy ngừng lại và người phụ nữ nhẹ nhàng đặt tay lên phía sau đầu con trai cô ấy và họ bước ra hành lang. “Mẹ sẽ nấu súp và đặt gối trước tivi cho con nhé. Con có thể nằm nghỉ với chú chó và xem phim hoạt hình cả ngày.” cô ấy nói khi cánh cửa dần đóng lại.
Sebastian đi thêm hai tầng nữa, anh bước ra ngoài và mở cửa căn hộ ở phía tay trái. Anh thả vali xuống trên lối vào, âm thanh vang dội trên nền đá lát. Không có gì ngoài âm thanh phá vỡ sự yên lặng đó chào đón anh. Ngay cả một chú chó cũng không. Anh chưa bao giờ có một chú chó, ngay cả khi còn nhỏ. Anh tự hỏi liệu anh có nên mua một con không. Có thể là một con boxer lực lưỡng.
Ánh nắng tràn qua các cửa sổ lớn khi anh bước vào và đặt máy laptop lên mặt kệ bếp được lát đá hoa cương. Anh bắt đầu pha café và cố giải thích cho sự quan tâm đột ngột của anh về một chú chó. Anh đang mệt mỏi. Đó là lý do cho những sai lầm của anh. Điều cuối cùng anh cần là một chú chó. Anh không ở nhà đủ lâu để chăm sóc cho cây cối, chứ đừng nói đến một loại động vật nào đó. Chẳng có gì mất mát trong cuộc đời anh và anh không cô đơn.
Anh di chuyển từ nhà bếp đến phòng ngủ và nghĩ có thể là do chính cái căn hộ sang trọng này. Có thể nó cần một cái gì đó… có không khí gia đình hơn. Không phải là một chú chó, mà là một cái gì đó. Có thể anh nên chuyển nhà. Có thể anh giống mẹ hơn là anh tưởng và phải thử sống ở nhiều nhà trước khi tìm thấy cái phù hợp với anh nhất.
Sebastian ngồi ở rìa chiếc giường và cởi đôi giày ống ra. Bụi từ các đường phố ở Rajwara vẫn còn bám trên giây buộc giày. Anh tháo tất và cởi đồng hồ trên đường đi đến phòng tắm.
Một vài năm trước, anh đã cố nói với mẹ về việc nghỉ ngơi và chuyển đến sống ở một ngôi nhà đẹp hơn. Anh đề nghị mua cho bà một ngôi nhà mới hơn và đẹp hơn nhưng bà đã hết sức từ chối. Bà thích ngôi nhà của bà. “Phải mất hai mươi năm mẹ mới tìm thấy được nơi cho mẹ cảm giác là nhà.” bà đã nói với anh. “Mẹ không chuyển đi đâu.”
Sebastian trần truồng và đưa tay vào trong bồn tắm đứng. Vòi nước bằng đồng mát lạnh khi chạm vào khi anh mở vòi và bước vào trong các vách tường kính đóng kín. Nếu mẹ anh phải mất hai mươi năm để tìm ta một nơi ở thoải mái, anh đoán chắc mình phải mất thêm nhiều hơn để thực hiện việc đó. Dòng nước ấm chảy xuống đầu và bao phủ lên khắp mặt anh. Anh nhắm mắt lại và cảm nhận sự căng thẳng tan biến đi. Có quá nhiều điều gây cho anh căng thẳng. Vào lúc này, nơi anh sống không phải là một trong những điều đó.
Anh phải bán đi ngôi nhà của mẹ. Nhanh thôi. Người bạn và đối tác tốt nhất của mẹ anh, Myrna, đã chuyển tất cả các dụng cụ làm đẹp và các loại cây cối ra khỏi salon. Bà đã tặng các loại thức ăn đóng hộp và đồ khô cho ngân hàng thực phẩm (1) địa phương. Phần còn lại anh phải làm là tính toán cần phải làm gì đối với tất cả đồ vật còn lại của mẹ. Một khi anh cất gánh nặng đó khỏi vai anh, cuộc sống của anh sẽ trở lại bình thường.
(1) Ngân hàng thực phẩm: Là nơi cung cấp miễn phí thực phẩm cho những gia đình nghèo ở Mỹ
Anh với tay lấy xà phòng, xoa vào tay và rửa mặt. Anh đang nghĩ về cha và tự hỏi giờ ông đang làm gì. Chắc ông đang cắt tỉa các luống hoa hồng, anh nghĩ. Và anh nghĩ về Clare. Một cách cụ thể hơn, về cái đêm anh hôn cô. Những gì anh nói với cô đêm đó đều là sự thật. Anh sẽ làm bất cứ điều gì để cô ngừng khóc. Nước mắt của một người phụ nữ là thứ duy nhất trên thế giới này khiến anh cảm thấy bất lực. Và, anh suy luận rằng, việc hôn Clare dường như là một ý kiến tuyệt vời hơn so với việc đánh cô hay ném bọ vào tóc cô, như anh đã làm khi còn bé.
Anh nâng mặt mình lên và rửa trôi đi xà phòng. Anh đã nói dối cô. Khi anh xin lỗi vì đã hôn cô, anh không thấy hối hận về điều đó. Sự thật anh hoàn toàn không thấy hối hận. Một trong những điều khó khăn nhất anh đã từng làm là quay đi và để cô đứng trong bóng tối. Một trong những điều khó khăn nhất – nhưng sáng suốt nhất. Trong tất cả những người phụ nữ độc thân anh biết, Clare Wingate là người không thể hôn, chạm vào và trần truồng lăn qua lăn lại. Không phải dành cho anh.
Nhưng điều đó không thể ngăn anh khỏi việc nghĩ về cô. Về vòng ngực đầy đặn và đầu ngực hồng đậm. Sự ham muốn khuấy động ở bên dưới bụng anh khi anh nhắm mắt lại và nghĩ về việc làm cho đầu ngực cô căng cứng khi những ngón tay anh miết dọc theo sợi dây màu hồng của chiếc quần lọt khe vắt ngang hông cho đến miếng vải hình tam giác che phủ phần thầm kín của cô.
Phần dưới của anh đau tức và cứng như đá. Anh nghĩ về hình ảnh cô sử dụng chiếc miệng xinh đẹp vì anh, và như cầu tình dục đập mạnh trong các tĩnh mạch, nhưng chẳng có ai lẻn vào phòng tắm và giải quyết việc đó cho anh. Anh cho rằng mình có thể gọi một ai đó đến. Nhưng anh không thấy đúng đắn khi để cho một người phụ nữ kết thúc những gì mà một người phụ nữ khác bắt đầu. Với ý nghĩ về Clare trong đầu, anh đã tự mình giải quyết.
Sau khi tắm xong, Sebastian quấn khăn tắm quanh eo và tiến về nhà bếp. Anh cảm thấy hơi buồn cười vì vừa mới tưởng tượng về Clare. Không những vì cô là một cô bé gái kỳ lạ khi anh còn niên thiếu, mà còn vì cô thậm chí không thích anh. Thường anh chỉ tưởng tượng về những người phụ nữ không gọi anh là đầu bư.
Anh rót một tách café và vươn tay lấy điện thoại đặt ở góc bếp. Anh bấm số và đợi máy.
“Xin chào.” Leo trả lời sau tiếng kêu thứ năm.
“Con đã về.” anh nói, đẩy những suy nghĩ về Clare ra khỏi đầu. Ngay cả sau khoảng thời gian họ ở cùng nhau gần đây, anh vẫn thấy hơi là lẫm khi gọi điện cho cha mình.
“Chuyến đi của con thế nào?”
Sebastian đưa tách café lên. “Tuyệt ạ.”
Họ nói về thời tiết, sau đó Leo hỏi. “Khi nào thì con tính ghé qua đây?”
“Con không biết. Con phải thu dọn đồ ở nhà mẹ và chuẩn bị sẵn sàng cho việc bán nó.” Ngay khi anh nói điều đó, một phần trong anh chùn lại khi nghĩ về việc thu dọn cuộc sống của mẹ vào trong những chiếc hộp. “Con đang trì hoãn nó.”
“Việc đó sẽ rất khó khăn.”
Đó là một cách nói nhẹ đi, và Sebastian mỉm cười một cách buồn bã. “Vâng ạ.”
“Con muốn cha giúp không?”
Anh mở miệng để đưa ra lời từ chối vô thức. Anh có thể gió ghém một vài thùng. Không có vấn đề gì. “Cha đang đề nghị sao?”
“Nếu con cần ta.”
Đó chỉ là những món đồ vặt vãnh. Những món đồ của mẹ anh. Chắc chắn bà sẽ không muốn Leo bước chân vào nhà bà, nhưng mẹ đã mất và cha đang đề nghị giúp đỡ anh. “Con lấy làm cảm kích vì điều đó.”
“Cha sẽ nói với Joyce cha sẽ đi xa một vài ngày.”
Việc gói ghém đồ trong nhà bếp dễ dàng hơn những gì Sebastian đoán trước. Anh có thể giải thoát chính mình khi anh và Leo làm việc bên nhau. Mẹ chưa bao giờ yêu thích đồ sứ hay đồ pha lê. Mẹ sử dụng đồ Corelle, màu trắng thuần, vì nếu bà làm vỡ một chiếc đĩa bà có thể dễ dàng thay thế nó. Bà mua ly tách từ Wal-Mart, vì nếu bà có đánh rơi, nó cũng không là vấn đề gì lớn. Ấm và xoong chảo của bà cũ và vẫn còn khá tốt vì bà hiếm khi nấu, đặt biệt sau khi Sebastian rời nhà.
Nhưng vì mẹ anh không phải là người quá thiên về vật chất, không có nghĩa bà không quá kỹ càng về vẻ bề ngoài của bà cho đến ngày mất. Bà luôn cầu kỳ về kiểu tóc, màu son, và liệu màu giày có hợp với ví của bà hay không. Bà thích hát những bài hát cũ của Judy Garland, và khi bà muồn tiêu xài phung phí, bà mua những quả cầu tuyết. Bà có rất nhiều, vì thế bà đã biến một căn phòng ngủ thành nơi trưng bày bộ sưu tập của bà. Bà xếp dọc các bức tường các giá được đo đóng, và Sebastian luôn nghĩ rằng bà làm thế để anh không thể quay về nhà.
Sau khi Leo và Sebastian thu dọn xong nhà bếp, họ cầm một ít báo và thùng carton đi đến phòng ngủ cũ của Sebastian. Sàn gỗ kêu kẽo kẹt dưới chân họ. Qua những chiếc màn trắng trong suốt, ánh nắng tràn khắp căn phòng và chiếu qua những dãy quả cầu. Anh nửa muốn thấy được bà, cầm chổi quét bụi màu hồng trong tay, quét bụi cho các dãy kệ.
Sebastian đặt hai thùng lên chiếc bàn vuông và một chồng báo lên chiếc ghế gấp mà anh đã đặt ở đây trước đó. Anh thong thả đẩy những kỷ niệm về mẹ và chiếc chổi quét bụi bằng lông chim của bà ra khỏi đầu mình. Anh với tay lấy quả cầu anh đã mua từ Nga và lắc nó. Tuyết trăng bay nhẹ nhàng trên Thánh đường Saint Basil (2) ở Quảng trường Đỏ.
(2) Thánh đường St.Basil’s là kiến trúc nổi tiếng nhất nước Nga. Đây không chỉ là biểu tượng cho thành phố Matxcova mà còn là biểu tượng cho nước Nga trên thế giới. Tên đầy đủ của thánh đường được mọi người biết đến nhiều nhất là “Thánh đường được sự bảo vệ của mẹ Thiên Chúa”. Một đặc điểm của thánh đường này so với các kiến trúc cùng loại trên thế giới là đây là một Thánh đường đa vòm. ĐƯợc đặt trên quảng trường đỏ của Thủ đô Matxcơva của Nga. Thánh đường được xây dựng theo yêu cầu của Ivan đệ tứ hay còn gọi là Ivan Khủng kiếp – Hoàng tử của Matxcơva từ năm 1553, nhân sự kiện bắt giữ vua của Hãn quốc Kazan, Thánh đường được xây từ năm 1555 đến 1561 thì hoàn thành
“Ừm, cha sẽ…Ai mà nghĩ được Carol lại giữ cái này trong nhiều năm qua.”
Sebastian nhìn qua Leo khi ông với tay lấy một quả cầu cũ về Cannon Beach (3) , Oregon. Một cô người cá đang ngồi chải mái tóc vàng trên một tảng đá trong khi một vài con sò lấp lánh nổi lềnh bềnh xung quanh cô.
(3) Cannon Beach là một thành phố trong Quận Clatsop, Oregon, Hoa Kỳ. Đây là nơi đến nghỉ ngơi vui chơi phong phú của du khách. Theo sách Các địa danh Oregon, Cannon Beach ban đầu được gọi tên Ecolathe, là tên của con lạch đổ vào Thái Bình Dương ở phía bắc thành phố. Năm 1992, nó được đổi tên thành Cannon Beach (theo tên của bãi biển kéo dài về phía nam lạch Ecola khoảng 8 dặm Anh và kết thúc tại Mũi Arch) theo ý của Bưu điện Hoa Kỳ vì cái tên cũ thường hay bị nhầm lẫn với Eola
“Cha đã mua cái này cho mẹ con trong tuần trăng mật của chúng ta.”
Sebastian lấy một mảnh báo và quấn quanh quả cầu nước Nga. “Đó là một trong những quả cầu cũ nhất của bà ấy. Con không biết là cha đã mua nó cho mẹ.”
“Ừ. Lúc đó, cha đã nghĩ cô người cá này giống hệt mẹ con.” Cha ngước nhìn lên. Những đường nhăn ở khóe mắt ông càng đậm hơn và một nụ cười e thẹn xuất hiện trên miệng ông. “Ngoại trừ việc mẹ con đang mang thai con được bảy tháng.”
“Giờ thì con đã biết.” Anh đặt quả cầu vào thùng.
“Bà ấy rất đẹp và đầy sức sống. Một người đầy kỳ lạ.” Leo cúi xuống lấy một mảnh báo. “Bà ấy thích những thứ gì đó mạnh mẽ, như trò tàu lượn, và cha…” Ông ngừng lại và lắc đầu. “Cha thích êm đềm.” Ông gói quả cầu lại. Ông nói qua tiếng sột soạt của giấy. Giờ cha vẫn thế. Cong giống mẹ con hơn là cha. Con thích theo đuổi những gì sôi động.”
Không còn nhiều nữa. Ít nhất không còn nhiều như những gì anh muốn cách đây một vài tháng. “Có lẽ con đang muốn chậm lại.”
Leo ngước nhìn anh.
“Sau chuyến đi vừa rồi, con đang nghiêm túc nghĩ về việc trì hoãn hộ chiếu của con. Con có một vài nhiệm vụ, và lúc đó con nghĩ con sẽ trở thành một nhà báo tự do. Có thể con sẽ nghỉ làm trong một thời gian.”
“Con sẽ làm gì?”
“Con cũng không chắc. Con chỉ biết con không muốn nhận các nhiệm vụ ở nước ngoài nữa. Ít nhất là trong khoảng thời gian này.”
“Con có thể làm điều đó không?”
“Chắc mà.” Nói về công việc khiến anh quên đi việc anh đang làm. Anh với tay lấy quả cầu về Reno (4), Nevada và gói nó lại. “Chiếc Lincoln mới của cha thế nào?”
(4) Reno là thành phố ở phía Tây của tiểu bang Nevada (Hoa Kỳ), là thủ phủ của Quận Washoe. Thành phố tọa lạc bên sông Truckee, gần khu vực nghỉ mát hồ Tahoe bên dãy núi Slerra, Nevada. Reno là một thành phố nghỉ dưỡng với nhiều sòng bạc lớn. Thành phố được khách du lịch ưa thích vì nằm gần một khu vực có cảnh quan thiên nhiên đẹp và có các khu giải trí ngoài trời
“Chạy êm như nhung.”
“Joyce thế nào?” anh hỏi, không phải anh quan tâm gì đến bà, nhưng nghĩ về Joyce còn tốt hơn là nghĩ về những gì anh đang làm.
“Đang lên danh sách việc cần làm cho buổi tiệc Giáng sinh. Việc đó luôn làm bà ấy vui.”
“Giờ chưa đến tháng Mười.”
“Joyce thích lên kế hoạch trước.”
Sebastian đặt quả cầu đã gói vào thùng giấy. “Còn Clare? Cô ấy đã vượt qua được việc chia tay với gã đồng tính đó chưa ạ?” anh hỏi, với mục đích duy trì cuộc nói chuyện với cha.
“Cha cũng không rõ. Gần đây cha không hay nhìn thấy con bé, nhưng cha không chắc về điều đó. Con bé là một cô gái rất nhạy cảm.”
Đó có phải là một lý do nữa cho việc tránh xa cô ấy. Những cô gái nhạy cảm thường thích những lời hứa hẹn lâu dài. Và anh chưa bao giờ là mẫu người hứa hẹn bất cứ điều gì lâu dài. Anh với tay lấy quả cầu Phù thủy xứ Oz với Dorothy và Toto đang đi trên con đường lát gạch vàng. Ngay cả khi điều đó không bao giờ xảy ra, anh để trí óc mình tưởng tượng về khả năng trải qua một hay hai đêm với Clare. Anh không ngại lột trần cô ra, và anh chắc chắn cô sẽ có lợi từ một vài lần quan hệ. Nó sẽ làm cho cô thư giãn và giúp cô bớt đi ưu phiền. Nó sẽ giúp cô tươi cười trong nhiều tuần liền.
Trong tay anh, những nốt nhạc của bài “Somewhere Over the Rainbow” bắt đầu vang lên từ hộp nhạc ở đáy quả cầu. Bản nhạc cổ điển của Judy Garland mà mẹ anh yêu thích, và mọi thứ bên trong Sebastian ngừng lại. Hàng ngàn cảm giác nhói đau chạy nhanh lên xương sống và bám chặt vào da đầu của anh. Quả cầu từ trên tay anh rơi xuống và tan thành từng mảnh trên sàn nhà. Sebastian nhìn nước văng tung tóe lên giày anh, và Dorothy, Toto và một chục con khỉ bay nhỏ trôi ra khắp sàn nhà. Tấm bình phong vô tư mà anh giữ bên trong tâm hồn anh vỡ vụn như từng mảnh gương dưới chân anh. Nơi nương tựa vững chắc duy nhất trong cuộc đời anh đã không còn. Bà đã mất, và không bao giờ quay trở lại. Bà sẽ không bao giờ phủi bụi những quả cầu tuyết và làm ầm lên vì đôi giày không hợp nữa. Anh sẽ không còn được nghe bà hát bằng giọng nữ cao không hoàn hảo hay cằn nhằn anh về việc cắt tóc.
“Chết tiệt.” Anh ngồi xuống ghế. “Con không thể làm việc này.” Anh bị tê liệt và bị tấn công cùng một lúc, như anh cắm chìa khóa vào ổ cắm điện. “Con nghĩ mình có thể làm, nhưng con không thể gói ghém đồ đạc của mẹ như thể mẹ không bao giờ quay trở lại.” Đôi mắt anh cay xè và anh nuốt một cách khó khăn. Anh đặt khuỷu tay lên đầu gối và dùng tay che mặt lại. Một âm thanh như tiếng tầu hàng đang chạy trong tai anh, và anh biết nó xuất hiện từ áp lực níu giữ lại mọi thứ. Anh sẽ không khóc như một người phụ nữ kích động. Đặc biệt là trước mặt cha anh. Nếu anh có thể kìm nén mọi thứ trong một vài giây nữa, mọi áp lực sẽ biến mất và anh sẽ trở lại bình thường.
“Không có gì xấu hổ khi yêu quý mẹ mình,” anh nghe tiếng cha nói trong sự tàn phá trong đầu anh. “Sự thật, nó là biểu hiện của một người con trai tốt.” Anh cảm nhận tay của cha anh ở phía sau đầu, sức nặng, thân thuộc và đầy an ủi. “Mẹ con và ta không hòa thuận với nhau như ta biết bà ấy yêu con rất nhiều. Bà ấy cứ xù lông nhím đối với những việc liên quan đến con. Và bà ấy sẽ không bao giờ thừa nhận rằng con trai bà không bao giờ làm gì sai trái.”
Điều đó đúng thật.
“Bà ấy đã làm một việc tuyệt vời là tự nuôi dạy con, và cha luôn biết ơn bà ấy vì điều đó. Chúa lòng lành biết được cha đã không ở bên cạnh con nhiều như cha nên làm.”
Sebastian ấn mạnh lòng bàn tay vào hai mắt mình, sau đó thả lỏng tay xuống giữa hai đầu gối. Anh ngẩng đầu nhìn cha đang đứng kế bên. Anh hít sâu và cơn nhức nhối đằng sau mắt anh tan dần đi. “Mẹ đã không làm việc đó dễ dàng đi.”
“Đừng bào chứa cho cha. Cha có thể đấu tranh hơn, có thể quay lại tòa án.” Bàn tay ông chuyển đến vai Sebastian và ông nhẹ nhàng bóp vào vai anh. “Cha có thể làm nhiệu việc. Cha nên làm một vài điều, nhưng cha… cha nghĩ rằng việc khiêu chiến là không tốt và sẽ có nhiều thời gian hơn khi con lớn lên. Cha đã sai, và cha hối tiếc về điều đó.”
“Tất cả chúng ta đều hối tiếc.” Sebastian có hàng tá hối tiếc, nhưng sức nặng của bàn tay cha như một chiếc neo trong một thế giới đột nhiên chuyển động. “Có thể chúng ta sẽ không đào sâu thêm chuyện đó. Chúng ta cứ tiếp tục bước tiếp.”
Leo gật đầu và vỗ vào lưng anh như khi anh còn bé. “Sao con không lấy cho mình một ly Slurpee. Nó sẽ làm con thấy tốt hơn, và cha sẽ hoàn tất việc ở đây.”
Anh mỉm cười với câu nói đó. “Con đã ba mươi lăm rồi cha ạ. Con không còn uống Slurpee nữa.”
“Ồ, vậy thì con nghỉ ngơi một lát và cha sẽ hoàn tất việc ở đây.”
Sebastian đứng dậy và lau tay vào phía trước chiếc quần jeans. “Không. Con sẽ đi kiếm chổi và sọt rác,” anh nói, biết ơn vì sự hiện diện của cha trong ngôi nhà này.