Kẻ Nhắc Tuồng

Chương 29



Mặt trời rón rén mọc lên trên những cánh đồng.

Ánh sáng chỉ vừa đủ để làm hiện lên đường nét của nhiều quả đồi tiếp nối nhau như những con sóng đất khổng lồ. Màu xanh ngắt của thảm cỏ lộ ra dưới lớp tuyết nổi trên nền trời xám. Một dải đường nhựa len lỏi qua các thung lũng, vặn mình theo những chuyển động của quang cảnh.

Tì trán vào kính cửa sau xe hơi, Mila bình tĩnh lạ lùng, có lẽ là do mệt mỏi, hay cũng có thể là do cam chịu. Bất luận chuyện gì được cô khám phá ở cuối chuyến đi ngắn này cũng sẽ không làm cô ngạc nhiên nữa. Roche đã không tiết lộ gì nhiều. Sau khi lệnh cho cô và Goran giữ bí mật, ông ta đã giam mình trong văn phòng cùng với nhà tội phạm học để nói chuyện tay đôi với nhau.

Cô ở lại ngoài hành lang, trong khi Boris giải thích những lý do khiến ngài chánh thanh tra không tin tưởng họ.

– Ông ấy là dân thường, còn cô… Cô đến đây như một người cố vấn, nên…

Không có gì nhiều để nói thêm. Dù cho bí mật mà Roche muốn giấu kín có là gì thì tình hình vẫn phải nằm trong kiểm soát. Như vậy mấu chốt là phải tránh mọi sự rò rỉ. Biện pháp duy nhất là tiết lộ nó cho những người trực tiếp bị ông ta quản lý và do vậy có thể bị dọa dẫm.

Ngoài chuyện đó ra, Mila không biết gì hơn. Mà cô cũng không đặt câu hỏi nào.

Hai giờ sau, cánh cửa văn phòng của Roche bật mở. Ngài chánh thanh tra lệnh cho Boris, Stern và Rosa đưa giáo sư Gavila đến hiện trường thứ ba. Dù không nhắc đến tên Mila, nhưng ông ta vẫn chấp thuận để cô đi cùng.

Họ đã rời khỏi tòa nhà và đến một nhà để xe cách đó không xa. Mọi người lấy hai chiếc xe hòm bình thường để tránh bị theo dõi bởi đám nhà báo đang túc trực trước trụ sở.

Mila lên một chiếc xe cùng với Stern và Gavila, cố tình không đi chung xe với Sarah Rosa. Sau khi cô ta rắp tâm phá hỏng mối quan hệ của cô với Goran, Mila cảm thấy mình không thể chịu nổi người đàn bà này và sợ rằng sớm muộn gì cô cũng sẽ tính sổ với cô ta.

Họ đã chạy xe được một lúc và Mila đã cố ngủ chút ít. Khi cô thức dậy thì họ sắp sửa đến đích.

Con đường khá vắng vẻ. Mila trông thấy ba chiếc xe hơi sẫm màu đậu bên vệ đường, trên mỗi chiếc xe có hai người ngồi.

Lính canh, cô nghĩ thầm, để ngăn chặn những kẻ tọc mạch nếu có.

Họ đi dọc theo một bờ tường cao bằng gạch đỏ khoảng một cây số nữa và đến một cánh cổng sắt.

Con đường chấm dứt ở đó.

Không có chuông, cũng chẳng có điện thoại nội bộ. Trên một cây cột có một camera an ninh đang chiếu con mắt điện tử của nó vào họ khi hai chiếc xe dừng lại. Một phút sau, cánh cổng tự động mở ra. Con đường tiếp tục rồi biến mất sau một mô đất. Không thể thấy gì phía sau giới hạn đó ngoài một thảm cỏ trải dài.

Mười phút trôi qua trước khi họ trông thấy một tòa nhà cổ kính. Nó xuất hiện trước mắt họ như thể vừa từ dưới đất chui lên. Ngôi nhà rất đồ sộ và có kiến trúc khô khan. Kiểu dáng của nó giống như những tòa dinh thự đầu thế kỷ XX, vốn được xây dựng bởi những tay trùm sắt thép hay dầu mỏ để khoe của.

Mila nhận ra tấm gia huy bằng đá trấn ngay mặt tiền. Một chữ R to tướng được khắc trên đó.

Đây là nơi ở của Joseph B. Rockford, ngài chủ tịch của quỹ cùng tên, nguồn gốc của giải thưởng mười triệu cho bất cứ ai tìm ra bé gái số sáu.

Họ vượt qua ngôi nhà và dừng xe gần mấy chuồng ngựa. Để đến được hiện trường thứ ba, nằm ở ranh giới phía tây của khuôn viên rộng nhiều mẫu đất, nhóm điều tra phải sử dụng những chiếc xe hơi chạy điện tương tự như xe cho người chơi golf.

Mila trèo vào chiếc xe do Stern lái. Anh bắt đầu tóm lược cho cô nghe về Joseph B. Rockford, xuất thân và khối tài sản khổng lồ của ông ta.

Gia tộc được hình thành từ một thế kỷ trước cùng với Joseph B. Rockford đệ nhất, người ông nội. Theo như lời kể, ông ta là con trai độc nhất của một thợ cắt tóc nhập cư. Không quan tâm đến cây kéo và con dao cạo, ông ta đã bán cửa tiệm của bố mình để làm ăn. Trong khi mọi người thời đó đều đầu tư vào ngành công nghiệp khai thác dầu mỏ non trẻ thì Rockford đệ nhất đã may mắn sử dụng khoản tiền tiết kiệm của mình để lập nên một doanh nghiệp đào giếng. Xuất phát từ ý tưởng cho rằng dầu mỏ thường nằm ở những mảnh đất cằn cỗi, Rockford đi đến kết luận là những kẻ dành cả đời để làm giàu từ lòng đất sẽ nhanh chóng thiếu thốn một khoản thiết yếu: nước. Khai thác từ những chiếc giếng khoan cạnh những mỏ dầu khổng lồ, thứ nước quý giá ấy được bán với giá cao gấp đôi giá dầu.

Joseph B. Rockford đệ nhất trở thành tỉ phú trước khi chết. Ông qua đời trước khi tròn năm mươi tuổi do căn bệnh ung thư dạ dày dạng bộc phát hiếm gặp.

Joseph B. Rockford đệ nhị đã thừa hưởng từ bố mình một di sản khổng lồ. Ông này đã nhân đôi nó bằng cách đầu cơ vào tất cả những gì trong tầm tay: từ cây gai dầu cho đến bất động sản, từ việc nuôi bò cho đến ngành công nghiệp điện. Để tưởng thưởng cho sự giàu lên của mình, ông này đã cưới một cô hoa hậu nhí và cô vợ này đã sinh cho ông ta hai đứa con. Tuy nhiên, ít lâu trước khi vượt qua ngưỡng năm mươi tuổi, ông có những dấu hiệu đầu tiên của bệnh ung thư dạ dày và mất không đầy hai tháng sau đó.

Người con trai cả của ông, Joseph B. Rockford đệ tam, đã nối bước cha mình lên nắm quyền một đế chế khổng lồ ở độ tuổi rất trẻ. Mệnh lệnh đầu tiên và cũng là duy nhất của anh ta là cắt bỏ con số thứ tự đầy phiền toái khỏi tên mình. Không có bất kỳ tham vọng kinh tế nào, và có thể sẵn sàng vung tay quá trán, Joseph B. Rockford sống một cuộc đời không mục đích.

Quỹ gia tộc trùng tên là ý tưởng của người em gái, Lara. Nó cung cấp thức ăn, mái nhà, sự chăm sóc y tế và giáo dục cho các trẻ em không được may mắn như hai anh em nhà họ. Lara đã hiến luôn một nửa di sản gia đình cho quỹ này. Mặc cho sự hào phóng đó, theo tính toán của các nhà tư vấn, gia đình Rockford vẫn còn có thể sống thoải mái trong ít nhất một thế kỷ nữa.

Lara Rockford đã ba mươi bảy tuổi, năm năm về trước chị ta đã sống sót một cách thần kỳ sau một tai nạn xe hơi. Joseph năm nay bốn mươi chín. Căn bệnh ung thư dạ dày di truyền vốn đã cướp đi sinh mạng của ông nội và bố anh ta vừa mới xuất hiện trên cơ thể anh ta mười một tháng trước.

Từ ba mươi tư ngày nay, Joseph B. Rockford rơi vào hôn mê và ở trong ranh giới mong manh giữa sự sống và cái chết.

Mila chăm chú lắng nghe lời kể của Stern trong khi chiếc xe hơi chạy điện nhấp nhổm trên những mô đất gồ ghề. Họ đang đi trên một lối mòn đã được thành hình một cách tự phát trong vòng hai ngày vừa qua, sau những chuyến đi tới lui của nhiều phương tiện đi lại giống như thứ họ đang sử dụng.

Khoảng nửa tiếng sau, họ đã đến rìa của hiện trường thứ ba. Từ xa, Mila đã trông thấy những bộ áo liền quần màu trắng thường thấy ở mọi hiện trường vụ án. Ngay cả trước khi tận mắt chứng kiến cảnh tượng mà Albert đã bày sẵn cho họ, Mila đã thấy chấn động vì hình ảnh trước mắt.

Số lượng của các kỹ thuật viên đang làm việc lên đến hơn một trăm.

Cơn mưa tỉ tê rơi không ngừng. Trong lúc tìm đường len qua những công nhân đang xúc nhiều khối đất lớn, Mila cảm thấy nôn nao khó chịu. Khi chỗ xương lần lượt được phát hiện, có người đã phân loại và bỏ chúng vào trong những cái túi nhựa trong có dán nhãn, trước khi xếp vào những chiếc hộp chuyên dụng.

Trong một chiếc hộp, Mila đếm được ít nhất ba chục cái xương đùi. Còn trong một hộp khác, cô nhìn thấy toàn xương chậu.

Stern quay sang nói với Goran:

– Cô bé đã được tìm thấy ở khu này đây…

Anh chỉ một khu vực được căng các tấm ni lông che mưa gió. Trên mặt đất, đường nét của một thi thể được vẽ lại bằng latex. Cánh tay trái bị thiếu.

Sabine.

– Nạn nhân nằm trên cỏ, trong tình trạng phân hủy nặng. Cô bé đã nằm đó quá lâu, bọn thú hoang đã đánh hơi thấy thi thể.

– Ai đã tìm ra cái xác?

– Một trong những người gác rừng của khu vực này.

– Các anh đã lập tức cho đào bới à?

– Đầu tiên chúng tôi đưa chó nghiệp vụ đến, nhưng chúng không đánh hơi được gì. Sau đó chúng tôi quan sát bằng trực thăng để xem liệu mặt đất có những chỗ gồ ghề bất thường không. Chúng tôi đã nhận thấy là xung quanh chỗ tìm thấy thi thể, hệ thực vật có vẻ khác biệt. Chúng tôi liền đưa các tấm ảnh chụp cho một nhà thực vật học kiểm tra, và ông ta khẳng định sự biến đổi đó có thể là do thứ gì đấy được chôn bên dưới.

Mila từng nghe nói đến điều này: các kỹ thuật tương tự đã được sử dụng ở Bosnia để tìm ra các hố chôn tập thể sau thảm kịch diệt chủng. Các thi thể nằm trong đất gây ra nhiều tác động lên hệ thực vật bên trên, do đất được tiếp nhận nhiều dưỡng chất từ quá trình phân hủy xác. Goran nhìn quanh.

– Có cả thảy bao nhiêu?

– Ba mươi, bốn mươi, chúng tôi chưa thể khẳng định được…

– Họ đã ở đó được bao lâu?

– Chúng tôi đã tìm được những cái xương rất cũ, những cái khác có vẻ mới hơn.

– Chúng là của ai?

– Đàn ông. Đa phần còn trẻ, tuổi từ mười sáu đến hai mươi hai, hai mươi ba. Phân tích cung hàm đã khẳng định điều đó, trong đa số trường hợp.

– Chuyện này khiến những thứ khác hoàn toàn bị lu mờ. – Nhà tội phạm học nói, ông đang nghĩ đến những hậu quả khi vụ việc được công khai hóa. – Dù vậy Roche không định ém nhẹm vụ này chứ? Với chừng ấy con người ở đây thì…

– Không, ngài chánh thanh tra chỉ tìm cách trì hoãn việc công bố nó, chờ cho mọi thứ được làm sáng tỏ.

– Bởi vì không ai có thể hiểu được tại sao lại có một cái hố chôn tập thể nằm trong khuôn viên dinh thự nhà Rockford. – Goran nói với một chút giận dữ mà ai cũng thấy được. – Ngược lại, tôi lại nghĩ là ngài chánh thanh tra của chúng ta đang có một ý đồ riêng… đúng không nhỉ?

Stern không biết phải trả lời thế nào. Boris và Mila cũng thế.

– Stern này, tôi tò mò một chút nhé… Người ta đã tìm thấy cái xác trước hay sau khi công bố khoản tiền thưởng?

– Trước đó. – Stern lí nhí thừa nhận.

– Biết ngay mà.

Khi họ quay trở lại chuồng ngựa, Roche đang đợi mọi người cạnh chiếc xe công vụ đã đưa ông đến nơi. Goran bước ra khỏi xe đánh golf và đi đến gặp ông thanh tra, vẻ quả quyết.

– Này, tôi có còn phải phụ trách vụ này không đây?

– Tất nhiên là có rồi! Chứ ông tưởng tôi dễ dàng đẩy ông đi lắm sao?

– Dễ dàng thì không, căn cứ vào việc tôi vừa mới khám phá được. Nhưng cũng tiện thể thật đấy nhỉ.

– Ông nói vậy là sao? – Viên thanh tra bắt đầu bực mình.

– Nghĩa là tôi đã xác định được danh tính thủ phạm.

– Sao ông có thể chắc chắn đến thế?

– Bởi vì nếu cả anh cũng không nghĩ là Rockford đứng sau tất cả chuyện này, thì anh đã chẳng nhọc sức ém nhẹm vụ việc.

Roche nắm lấy một tay nhà tội phạm học.

– Ông nghe này, Goran, ông cứ nghĩ tôi là người duy nhất có quyền quyết định. Nhưng không phải vậy đâu, tin tôi đi. Ông không biết tôi phải chịu áp lực từ bên trên như thế nào đâu.

– Anh đang tìm cách bao che cho ai? Có bao nhiêu người liên đới trong vụ này?

Roche quay lại ra hiệu bảo người tài xế đi chỗ khác. Sau đó, ông nói với toàn êkíp:

– Trước hết, xin nói rõ một lần cho dứt điểm với mọi người… Tôi ngấy đến tận cổ chuyện này rồi. Thậm chí tôi chẳng cần đe dọa để mọi người giữ bí mật, bởi vì nếu mọi người hé răng dù chỉ một lời, tất cả sẽ sụp đổ ngay tức khắc. Sự nghiệp, chế độ hưu trí. Và tôi cũng chìm luôn cùng mọi người.

– Chúng tôi đã hiểu rồi… Giờ thì, hắn là ai? – Goran thúc ép.

– Từ khi chào đời, Joseph B. Rockford chưa bao giờ rời khỏi nơi này.

– Sao có thể thế được? – Boris thắc mắc. – Không bao giờ á?

– Không bao giờ. – Roche xác nhận. – Lúc đầu, có vẻ như đó là ý tưởng ngông cuồng của bà mẹ, cựu nữ hoàng sắc đẹp nhí. Bà ta yêu con một cách bệnh hoạn, ngăn cản nó sống một thời thơ ấu và niên thiếu bình thường.

– Nhưng, khi bà ta qua đời… – Sarah Rosa phản đối.

– Khi bà ta qua đời thì đã quá muộn: cậu ấm không thể xây dựng nổi một mối quan hệ cá nhân nào. Cho đến lúc đó, anh ta được cung phụng bởi đám người phục vụ trong nhà. Thêm vào đó, treo lơ lửng trên đầu anh ta là lời nguyền của gia tộc Rockford, theo đó tất cả những người thừa kế đều phải chết lúc năm mươi tuổi vì ung thư dạ dày.

– Có lẽ mẹ anh ta đã tìm cách cứu con mình khỏi định mệnh đó, một cách vô thức. – Goran phỏng đoán.

– Còn em gái anh ta? – Mila hỏi.

– Một kẻ nổi loạn. – Roche nói. – Nhỏ tuổi hơn anh trai, cô ta đã thoát được xiềng xích của bà mẹ vừa đúng lúc. Sau đó cô ta đã sống một cuộc đời như mình muốn: đi du lịch, phung phí tài sản, buông thả trong các mối quan hệ điên rồ và thử tất cả các loại ma túy cũng như những trò khác. Bất cứ thứ gì, để trở nên khác biệt so với ông anh, người đã trở thành tù nhân tại nơi này… Cho đến khi vụ tai nạn xe hơi cách đây năm năm buộc cô ta phải sống trong một nhà cùng với anh trai.

– Joseph B. Rockford là người đồng tính. – Goran nói.

– Phải. – Roche xác nhận. – Và những thi thể tìm thấy trong hố chôn tập thể đã không phủ nhận điều đó. Toàn là các nam thanh niên.

– Vậy tại sao lại giết họ? – Sarah Rosa hỏi.

Goran là người trả lời:

– Ngài chánh thanh tra sẽ chỉnh lại nếu tôi nói sai, nhưng tôi tin là Rockford không chấp nhận được bản thân. Hoặc cũng có thể là hồi còn trẻ, ai đó đã phát hiện ra khuynh hướng tình dục của hắn, và hắn không bao giờ tha thứ cho người đó.

Mọi người đều nghĩ đến bà mẹ, dù không ai nói ra.

– Sau mỗi lần vui thú hắn lại cảm thấy có tội. Nhưng thay vì tự trừng phạt, hắn ta trừng trị những nhân tình của mình… bằng cách giết họ. – Mila kết luận.

– Những xác chết bị chôn ở đây, trong khi hắn chưa bao giờ rời khỏi nhà. – Goran nói. – Như vậy hắn đã giết họ tại đây. Liệu có thể nào không ai hay biết chuyện gì, từ đám gia nhân, làm vườn đến người gác rừng?

Roche biết câu trả lời, nhưng ông ta để cho họ tự mình đoán ra.

– Tôi thật không thể nào tin nổi. – Boris lên tiếng. – Hắn đã dùng tiền để bịt miệng tất cả.

– Hắn đã mua sự im lặng của họ trong suốt nhiều năm trời. – Stern thêm vào với vẻ mặt kinh tởm.

Linh hồn một con người đáng giá bao nhiêu? Mila tự hỏi. Bởi chung quy mọi chuyện nằm ở đó. Đôi khi một con người khám phá ra bản chất ác độc của mình, hắn chỉ tìm được khoái lạc trong việc giết những người khác, Với hắn, ta gọi là kẻ sát nhân, hay tên giết người hàng loạt. Nhưng những người khác, những kẻ ở bên cạnh hắn mà lại không hề ngăn chặn tất cả chuyện này, thậm chí còn kiếm lợi từ nó, phải gọi bọn họ bằng cái tên nào đây?

– Hắn kiếm trai bằng cách nào? – Goran hỏi.

– Chúng tôi vẫn chưa biết. Chúng tôi đã tiến hành truy nã thư ký riêng của hắn, kẻ đã biến mất từ khi xác của bé gái thứ ba được tìm thấy.

– Vậy còn những gia nhân khác, ông xử lý họ thế nào?

– Tôi đang đợi, chừng nào chúng ta còn chưa xác định được liệu họ có nhận tiền hay không, cũng như họ đã biết cụ thể những gì.

– Rockford không chỉ mua chuộc những người thân cận của hắn, phải không?

Goran đã đọc được suy nghĩ của thanh tra Roche. Ông ta thú nhận:

– Cách đây vài năm, một cảnh sát đã có ý nghi ngờ: anh ta điều tra vụ mất tích của một thiếu niên bỏ nhà đi bụi và ăn cướp một cửa hàng tạp hóa. Dấu vết dẫn anh ta đến đây. Rockford đã nhờ đến những người quen ở bên trên, và tay cảnh sát đã phải câm miệng… Lần khác, một cặp đôi đang đi dạo trên con đường dọc theo tường rào thì thấy một người trèo ra: đó là một cậu trai trong tình trạng gần như khỏa thân, bị thương ở chân và đang sốc nặng. Họ đã cho cậu ta lên xe hơi và đưa đến bệnh viện. Cậu ta chỉ ở lại đó có vài tiếng đồng hồ: một người đã đến đó tìm cậu ta, tự xưng là cảnh sát. Kể từ đó, không ai nghe thấy gì về cậu ta nữa. Các bác sĩ và y tá đã được cho tiền để câm họng. Cặp nam nữ là một đôi quan hệ bất chính, nên chỉ việc dọa tiết lộ chuyện đó cho người bạn đời của họ là xong.

– Thật kinh khủng. – Mila nói.

– Tôi biết.

– Vậy còn em gái hắn, ta có thể nói thế nào về cô ta?

– Tôi tin là Lara Rockford không bình thường. Vụ tai nạn xe hơi đã để lại những di chứng trên cô ta. Nó xảy ra cách đây không lâu. Cô ta đã tự lao xe khỏi đường và đâm vào một cây sồi.

– Dù sao vẫn phải nói chuyện với cô ta. Và với cả Rockford nữa. – Goran quả quyết. – Con người này có thể biết Albert là ai.

– Ông định nói chuyện với hắn thế nào đây? Hắn đã rơi vào hôn mê không phục hồi kia mà!

– Hắn đã thắng chúng ta, cùng với cái món ung thư của hắn! – Boris tức tối thốt lên. – Không những hắn không giúp ích gì cho ta, mà hắn còn không phải ngồi tù một ngày nào cho những việc hắn đã làm!

– Không đâu, cậu nhầm rồi. – Thanh tra Roche nói. – Nếu địa ngục tồn tại, thì họ sẽ đợi hắn dưới đó. Nhưng hắn sẽ xuống đó một cách chậm rãi và đau đớn. Gã con hoang ấy bị dị ứng với morphin, nên không có cách gì giảm đau cho hắn được cả.

– Vậy tại sao lại duy trì sự sống của hắn?

Roche nở một nụ cười mỉa mai và nhướng mày:

– Em gái hắn muốn như thế.

Nội thất trong dinh thự Rockford khiến người ta nghĩ ngay đến một cung điện. Sàn và tường được ốp đá cẩm thạch đen, các vân đá đã hấp thu toàn bộ ánh sáng. Các cửa sổ được che phủ bằng rèm nhung dày màu tối. Đa phần các bức tranh và thảm tường tái hiện các quang cảnh điền viên hoặc những cuộc săn bắn. Một chùm đèn pha lê treo lủng lẳng trên trần nhà.

Ngay khi vừa bước qua ngưỡng cửa, Mila đã cảm thấy cái lạnh chộp lấy mình. Mặc dù được chiếu sáng, ngôi nhà vẫn mang một không khí điêu tàn. Nếu chú ý, người ta có thể nghe thấy âm hưởng của sự im lặng trôi qua, lắng đọng qua thời gian cho đến khi tạo nên sự trầm mặc đầy dọa dẫm này.

Lara Rockford đã “chấp thuận tiếp họ”. Cô ta thừa biết mình không có lựa chọn, nhưng những từ ngữ được gia nhân chuyển đến ấy giúp nhóm điều tra ý thức được về loại người mà họ sắp đối diện.

Nữ tỉ phú đợi họ trong thư viện. Mila, Goran và Boris là những người sẽ hỏi chuyện cô ta.

Mila trông thấy khuôn mặt nhìn nghiêng của Lara. Cô ta ngồi trên chiếc ghế trường kỷ bọc da, cánh tay tạo thành một đường cong thanh nhã trong khi đưa một điếu thuốc lá lên môi. Cô ta rất đẹp. Từ xa, họ đã bị hớp hồn vì đường cong lượn từ trán xuống chiếc mũi thanh tú cho đến đôi môi mọng. Đôi mắt của Lara có màu xanh lá cây thăm thẳm, viền quanh bằng hai hàng lông mi rất dài.

Nhưng khi ngồi trực diện với Lara, họ bị sốc khi nhìn thấy nửa kia của khuôn mặt. Nó bị biến dạng bởi một vết sẹo to tướng từ chân tóc cày qua trán, chui vào hốc mắt trống hoác rồi kéo dài như một vệt nước mắt xuống dưới cằm.

Mila nhận thấy cái chân cứng nhắc mà Lara không thể che giấu dù đã vắt chân kia lên. Một quyển sách đang được đặt cạnh cô ta. Bìa sách úp xuống nên họ không thể đọc được tựa đề cũng như tên tác giả.

– Xin chào. – Cô ta chào họ. – Điều gì đã khiến tôi được các người viếng thăm vậy?

Lara chẳng buồn mời họ ngồi xuống. Họ đứng trên tấm thảm vĩ đại che một nửa diện tích sàn.

– Chúng tôi rất muốn đặt vài câu hỏi với cô. – Goran nói. – Nếu được, tất nhiên rồi…

– Mời ông, tôi nghe đây.

Lara Rockford dụi phần còn lại của điếu thuốc vào chiếc gạt tàn bằng bạch ngọc, rồi lấy một điếu khác từ trong chiếc bao da đặt trên đầu gối, cùng một chiếc bật lửa bằng vàng. Khi châm lửa, những ngón tay của cô ta hơi run nhẹ.

– Cô chính là người đã treo giải thưởng mười triệu để tìm ra cô bé số sáu. – Goran nói.

– Đó là việc nhỏ nhặt nhất mà tôi có thể làm.

Lara đang thách thức họ dựa trên sự thật. Có lẽ cô ta muốn gây sốc, hoặc cũng có thể đó chỉ là do sự phá bỏ lề thói khác thường, trái hẳn với sự hà khắc của ngôi nhà mà cô ta đang náu mình.

Goran quyết định chấp nhận lời thách thức.

– Cô biết chuyện anh trai cô chứ?

– Mọi người đều biết. Nhưng không ai lên tiếng.

– Tại sao lần này lại khác?

– Ý ông là sao?

– Tay gác rừng đã tìm thấy thi thể của bé gái ấy. Tôi thiển nghĩ, chắc ông ta cũng đã bị mua chuộc…

Mila nghĩ Goran đã đoán ra và biết Lara có thể dễ dàng cho mọi chuyện chìm xuồng, nhưng lại không muốn như thế.

– Ông tin vào sự tồn tại của linh hồn chứ?

Vừa hỏi câu ấy, Lara vừa vuốt ve bìa sau của cuốn sách đặt trên ghế.

– Còn cô?

– Tôi đã nghĩ đến chuyện đó…

– Chính vì thế mà cô đã không cho phép các bác sĩ ngắt những thiết bị đang duy trì sự sống cho anh trai cô phải không?

Nữ tỉ phú không đáp ngay. Cô ta ngước mắt nhìn lên trần. Joseph B. Rockford đang nằm ở tầng trên, trong chiếc giường hắn thường nằm từ thuở ấu thơ. Phòng ngủ của hắn đã được biến thành một phòng chăm sóc đặc biệt xứng tầm với một bệnh viện hiện đại. Hắn được gắn với những thiết bị hỗ trợ thở, cung cấp thuốc men và dịch truyền cho hắn, lọc máu và giảm tải cho ruột rà của hắn.

– Xin đừng hiểu nhầm. Tôi muốn anh tôi chết.

Cô ta có vẻ thành thật.

– Có thể anh cô biết kẻ đã bắt cóc và giết chết năm bé gái, đồng thời giam giữ bé gái số sáu. Cô không thể hình dung được ai có thể là kẻ đó…

Lara hướng con mắt duy nhất của mình vào Goran. Rốt cuộc cô ta cũng đã để mắt đến ông. Hay đúng hơn là cô ta công khai để cho ông quan sát.

– Ai mà biết được, kẻ đó có thể là một người trong đám gia nhân. Một người đang có mặt, hay có thể là từng làm việc ở đầy. Ông chỉ việc kiểm tra.

– Chúng tôi đang làm việc đó, nhưng tôi sợ rằng kẻ chúng tôi đang tìm kiếm quá ranh ma để có thể ban cho chúng tôi nhường ấy ân huệ.

– Như ông đã thấy, chỉ có những ai có thể bị Joseph mua chuộc mới bước chân được vào trong ngôi nhà này. Bị quản lý và được cho tiền, dưới sự kiểm soát của anh tôi. Tôi chưa từng thấy người lạ ở đây.

– Vậy còn những thanh niên mà anh trai cô đã quan hệ? – Mila đột ngột lên tiếng.

Lara mất một lúc lâu để trả lời:

– Anh tôi cũng trả tiền cho bọn họ. Thỉnh thoảng, nhất là trong thời gian gần đây, anh tôi đề nghị với họ một kiểu hợp đồng theo đó họ bán linh hồn mình cho anh ấy. Họ cứ nghĩ đó chỉ là trò chơi, một câu chuyện đùa của nhà tỉ phú nhằm tiêu tán chút tiền. Thế là họ ký. Tất cả đều ký. Tôi đã tìm thấy các bản hợp đồng trong két sắt văn phòng. Những chữ ký khá là rõ ràng, ngay cả khi bọn họ không sử dụng chúng một cách nghiêm túc…

Lara bật cười trước sự liên tưởng rùng rợn ấy, nhưng đó là một tiếng cười quái lạ, nó khiến Mila rợn người. Tiếng cười bật ra từ trong sâu thẳm, như thể đã nằm đó từ lâu, trong buồng phổi của cô ta, trước khi bị khạc ra ngoài. Nó khàn đặc vì nicotin, và cả vì đau đớn nữa. Sau đó Lara cầm lấy cuốn sách đặt bên cạnh mình.

Faust.

Mila tiến một bước lại gần.

– Cô không phản đối nếu chúng tôi tìm cách thẩm vấn anh trai cô chứ?

Goran và Boris nhìn Mila như thể cô đang mất trí.

Lara lại bật cười.

– Cô định làm thế nào đây? Anh tôi đang chết nhiều hơn là sống. – Rồi cô ta nghiêm túc trở lại. – Muộn mất rồi.

Nhưng Mila kiên quyết:

– Cứ để chúng tôi thử.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.