Kẻ Nhắc Tuồng

Chương 17



– Chúng tôi tìm một người có tên là Ronald Dermis. – Roche tuyên bố với rừng đèn flash và micro. – Người này khoảng ba mươi tám tuổi. Tóc nâu, mắt nâu, da sáng.

Ông đưa ra trước mặt mọi người một tấm ảnh đã chỉnh sửa cho già đi từ tấm ảnh gốc chụp chung với nhóm trẻ trong cô nhi viện, thể hiện hình ảnh của một Ron người lớn. Ông giơ cao tấm ảnh trong khi ánh đèn flash chớp liên hồi.

– Chúng tôi có lý do để cho rằng người này có liên quan trong vụ bắt cóc các bé gái. Ai biết anh ta, có thông tin gì, hoặc đã từng tiếp xúc với anh ta trong ba mươi năm trở lại đây, xin vui lòng liên hệ với cảnh sát. Xin cám ơn.

Hai chữ cuối là phát súng lệnh cho hàng tràng câu hỏi và những lời năn nỉ từ đám đông báo giới.

– Thưa ngài Roche!…

– Thưa chánh thanh tra!…

– Một câu hỏi thôi ạ!…

Roche phớt lờ bọn họ và bỏ đi thẳng một mạch ra khỏi phòng họp báo bằng cửa phụ.

Động thái của ông là điều không thể tránh khỏi. Họ buộc phải báo động.

Phát hiện của Boris và Mila đã gây ra hai tiếng đồng hồ sôi sục. Giờ thì tình hình đã rõ ràng.

Cha Rolf đã thu lại lời xưng tội của Ron trên chiếc máy ghi âm của Billy. Sau đó ông đã chôn nó cùng với thằng bé như thể chôn xuống một cái hạt cây, biết rằng sớm muộn gì nó cũng sẽ ra quả, với hy vọng là một ngày kia sự thật sẽ cứu chuộc cho cả ba con người. Kẻ dù còn trong lứa tuổi thơ ngây đã gây ra tội ác kinh hoàng ấy. Người đã là nạn nhân của việc làm đó. Và người đã hành động để chôn sâu nó dưới ba tấc đất.

“… Dù sao thì, chuyện này sẽ là bí mật giữa con, ta và Chúa trời”.

– Làm thế nào Albert biết được câu chuyện này? – Goran hỏi. – Cha Rolf và Ron là những người duy nhất biết được bí mật. Như vậy, lý giải duy nhất: Ron và Albert chỉ là một người.

Nhưng có lẽ cũng cần phải xem lại quyết định gắn Alexander Bermann vào vụ án. Nhà tội phạm học không thể nhớ được ai đã nói rằng kẻ giết người hàng loạt nhắm vào một tên ấu dâm vì gã đã bị lạm dụng hồi còn nhỏ. Hình như là Sarah Rosa. Nhưng Stern đã lập tức bác bỏ giả thiết này, và giáo sư Gavila cũng đồng tình với anh. Giờ đây, có lẽ ông phải thừa nhận là ông đã nhầm.

– Những nạn nhân lý tưởng của bọn ấu dâm là trẻ mồ côi và bụi đời, vì chẳng có ai bảo vệ chúng cả.

Goran tự trách mình vì đã không đi đến kết luận sớm hơn. Thế mà ông đã có tất cả mọi miếng ghép trước mắt ngay từ đầu. Ông đã bị mờ mắt vì ý nghĩ cho rằng Albert là một chiến lược gia đại tài.

“Bọn giết người hàng loạt, qua hành động của chúng, muốn kể cho chúng ta nghe một câu chuyện: chuyện về mâu thuẫn nội tại của chính chúng”. Ông vẫn hay nhắc đi nhắc lại như thế với các sinh viên.

Tại sao ông lại để cho mình bị lầm lạc vì một giả thiết khác?

– Gã đã dùng sự tự ái của tôi để xỏ mũi tôi. Tôi chỉ nghĩ gã muốn thách thức chúng ta. Tôi đã sung sướng trước ý nghĩ được đối đầu với một kẻ cố tỏ ra thông minh hơn.

Sau khi xem trên truyền hình cuộc họp báo của thanh tra Roche, giáo sư Gavila một lần nữa tập hợp cả nhóm điều tra tại xưởng giặt của cô nhi viện, nơi họ đã tìm thấy xác của Anneke. Ông cảm thấy đây là nơi lý tưởng để tái khởi động cuộc điều tra. Màn “tự vấn” ngắn ngủi của giáo sư Gavila có tác dụng xua đi mọi hoài nghi về việc họ vẫn là một nhóm, chứ không chỉ là một phòng thí nghiệm cho các phép thử của ông.

Thi thể của bé gái thứ hai đã được mang đi từ lâu, chỗ nước mắt trong bể giặt bằng đá đã được xả hết. Chỉ còn các bóng đèn halogen và tiếng rì rì của máy nổ. Chẳng mấy chốc những thứ đó cũng sẽ được đưa đi nốt.

Goran đã yêu cầu sự hiện diện của cha Timothy. Cha xuất hiện trong hơi thở đứt quãng và tình trạng kích động thấy rõ: mặc dù không còn gì trong phòng giặt gợi ra hình ảnh hiện trường một vụ án mạng, cha vẫn cảm thấy cực kỳ khó ở.

– Không thể tìm ra cha Rolf. – Cha Timothy thông báo. – Và tôi nghĩ là…

– Cha Rolf chắc đã qua đời. – Goran đột ngột cắt ngang. – Nếu không thì chúng tôi đã có thông tin sau thông báo của thanh tra Roche.

Cha Timothy có vẻ chấn động.

– Vậy tôi có thể giúp gì được cho các ông đây?

Goran cân nhắc cẩn thận trước khi nói với mọi người:

– Có thể chuyện này khác thường với mọi người, tôi biết… Nhưng tôi muốn chúng ta cùng cầu nguyện.

Rosa không giấu nổi sự kinh ngạc, cũng như Boris. Hai người lập tức nhìn nhau. Mila thì ngơ ngác. Chỉ có Stern là không. Anh là người ngoan đạo nhất, và là người đầu tiên làm theo đề nghị của giáo sư Goran. Anh bước đến đứng giữa gian phòng và dang hai tay ra để nắm lấy tay người khác, tạo thành một vòng tròn. Mila nhanh chóng tiến đến. Rosa buộc lòng làm theo. Boris là người miễn cưỡng nhất, nhưng anh không thể từ chối lời mời của giáo sư Gavila. Cha Timothy gật đầu và bước đến đứng chính giữa vòng tròn. Rốt cuộc cha cũng đã bình tâm trở lại. Goran không biết cầu nguyện, và có lẽ cũng không có lời nguyện cầu nào thích hợp với tình hình. Nhưng ông vẫn thử làm với chất giọng đầy buồn bã:

– Thời gian vừa qua, chúng ta đã chứng kiến nhiều chuyện kinh khủng. Sự việc đã diễn ra ở đây là một minh chứng. Tôi không biết liệu Chúa có tồn tại hay không, dù tôi luôn mong mỏi điều đó. Tôi biết chắc chắn là cái ác có tồn tại. Vì cái ác có thể được chứng tỏ. Cái thiện thì không bao giờ. Cái ác để lại dấu vết khi nó đi qua. Thi thể của những đứa trẻ tội nghiệp chẳng hạn. Còn cái thiện, ta chỉ có thể chứng kiến mà thôi. Thế nhưng điều đó không đủ đối với chúng ta, những người luôn tìm kiếm các bằng chứng cụ thể… – Ông ngừng một chút.

– Nếu Chúa trời tồn tại, thì tôi muốn hỏi Người… Vì sao Billy Moore phải chết? Sự thù hận của Ronald Dermis từ đâu mà ra? Chuyện gì đã xảy đến với hắn trong những năm vừa qua? Ronald đã học cách giết người như thế nào? Lý do gì đã đẩy Ronald đến chỗ phạm tội? Và tại sao Chúa không chấm dứt nỗi kinh hoàng khủng khiếp này?

Những câu hỏi của giáo sư Goran treo lơ lửng trong sự im lặng vây bủa mọi người.

– Xin cha cứ tự nhiên, thưa cha… – Một lúc sau Stern nói.

Cha Timothy bắt đầu điều khiển nhóm người. Ông họp các bàn tay lại và ngân nga một điệu thánh ca. Chất giọng tự tin và rất đẹp của cha vang vọng trong gian phòng, bay lượn xung quanh họ. Mila nhắm mắt và để cho những ngôn từ cuốn mình đi. Dù là tiếng La tinh, ý nghĩa của chúng vẫn thật rõ ràng ngay cả với những người điếc nhất. Cùng với bài thánh ca, cha Timothy mang lại sự yên bình cho nơi từng bị hỗn loạn, thanh lọc mọi thứ khỏi tàn dư của cái ác.

Bức thư được gửi cho ban khoa học hành vi. Đáng lẽ nó đã bị liệt vào nhóm thư rác của những kẻ dựng chuyện, nếu như nét chữ viết tay không cho thấy có nhiều điểm tương đồng với nét chữ trong một bài tập mà Ronald Dermis từng làm hồi đi học.

Nó được thảo trên một trang giấy tập bằng loại bút bi thông thường. Người gửi không buồn quan tâm đến những dấu tay để lại trên tờ giấy.

Có vẻ như Albert không cần đến những biện pháp cẩn trọng nhất định nữa.

Đoạn văn nằm co cụm ở giữa trang giấy, được viết buông tuồng như một câu duy nhất, gần như không có chấm phẩy.

gửi những người đang lùng tìm tôi billy là một thằng con hoang, một THẰNG CON HOANG! và tôi đã đúng khi giết nó tôi căm thù nó nó sẽ làm bọn tôi đau đớn vì nó sẽ có một gia đình còn bọn tôi thì không những gì đã xảy ra với tôi còn tệ hơn nhưng KHÔNG AI đến cứu tôi KHÔNG AI CẢ. tôi vẫn luôn ở đây trước mắt mấy người nhưng mấy người không thấy tôi thế rồi NGƯỜI xuất hiện. NGƯỜI hiểu tôi. NGƯỜI dạy tôi chính mấy người đã muốn tôi thành ra như vậy hồi xưa mấy người không hiểu tôi liệu bây giờ mấy người có hiểu? tệ thật, rốt cuộc đây là lỗi của mấy người tôi là thế đấy. KHÔNG AI có thể ngăn cản được tất cả chuyện này. KHÔNG AI CẢ.

RONALD

Goran đã chụp một bản sao để tiện nghiên cứu. Ông sẽ ngủ đêm ở nhà cùng cậu con trai. Ông thật sự rất muốn trải qua buổi tối với Tommy. Đã mấy ngày rồi ông không gặp thằng bé.

Vừa bước qua ngưỡng cửa căn hộ, ông lập tức nghe thấy tiếng bước chân thằng bé chạy tới.

– Mọi chuyện thế nào rồi bố?

Goran dang tay ôm Tommy thật chặt.

– Không có gì phải phàn nàn. Còn con?

– Con bình thường.

Ba chữ kỳ diệu. Con trai ông đã biết cách dùng chúng khi hai bố con gặp lại nhau. Như thể để bảo ông không việc gì phải lo lắng, vì con trai ông “vẫn bình thường”. Nó không thấy nhớ mẹ. Nó đã học được cách quên đi.

Nhưng đó cũng là giới hạn sau cuối. Cùng với ba chữ đó, họ dừng mẩu đối thoại. Mọi thứ đã được thỏa thuận. Đấy nhé, bố con mình vừa nhớ ra thiếu mẹ thì đau khổ đến chừng nào. Bây giờ thì chúng ta có thể sống tiếp.

Và mọi chuyện diễn ra đúng như thế.

Goran mang về một cái túi giấy mà Tommy đang nôn nóng mở ra.

– Tuyệt hảo! Đồ ăn Tàu!

– Bố nghĩ con sẽ thích khi ta thay đổi thực đơn của bà Runa một chút.

Tommy nhăn mặt.

– Con ghét món thịt viên của bà Runa! Bà ấy cho quá nhiều lá bạc hà, làm nó có vị như kem đánh răng.

Goran bật cười. Quả thực thằng bé nói đúng.

– Nào, đi rửa tay đi con.

Tommy chạy ào vào trong phòng tắm, sau đó bắt đầu dọn bàn. Goran đã xếp phần lớn các dụng cụ nhà bếp vào các ngăn kệ ở vừa tầm với của thằng bé. Ông muốn nó tham gia vào việc nhà trong giai đoạn mới. Cùng nhau làm việc đồng nghĩa rằng từ nay hai bố con phải chăm sóc lẫn nhau, và không ai được “bỏ cuộc”. Không ai được quyền buồn bã.

Tommy lấy một cái đĩa, trút chỗ hoành thánh chiên ra cùng với sốt chua ngọt, trong lúc Goran đổ cơm chiên vào trong một cái tô. Hai người dùng đũa, và thay cho món kem chiên hay được phục vụ trong các nhà hàng Trung Hoa, Goran đã mua một hộp kem sôcôla vani.

Hai bố con vừa ăn vừa bàn chuyện trong ngày. Tommy kể về việc tổ chức đi cắm trại cùng với các hướng đạo sinh. Goran hỏi han về việc học hành của thằng bé và ông hãnh diện khi biết nó được điểm số rất cao trong môn thể dục.

– Bố rất kém trong các môn thể thao. – Ông thú nhận.

– Thế bố giỏi gì nào?

– Cờ vua.

– Nhưng đó không phải là thể thao.

– Có chứ: nó được đưa vào Thế vận hội đấy.

Tommy có vẻ không bị thuyết phục. Nhưng nó biết bố không bao giờ nói dối nó. Thật ra đó là một bài học nhớ đời. Vì lần đầu tiên nó hỏi ông về mẹ, ông đã kể lại toàn bộ sự thật. Không quanh co. “Không giỡn nha”, như lời Tommy vẫn nói khi nó muốn người khác trung thực. Bố nó đã làm đúng như nó muốn. Không cay cú, không tìm cách trừng phạt mẹ nó. Những lời nói dối – hay tệ hơn là những sự thật nửa vời – chỉ càng làm tăng thêm nỗi lo cho đứa con. Một mình nó sẽ phải đương đầu với hai sự dối trá nặng nề: một là của mẹ, người đã ra đi, và một là của bố, người không đủ dũng khí để nói ra sự thật.

– Hôm nào bố dạy con chơi cờ nhé?

– Dĩ nhiên rồi.

Cùng với lời hứa đó, Goran đưa thằng bé vào giường nằm, rồi ông giam mình trong phòng làm việc. Ông lấy bức thư của Ronald ra đọc lần không biết thứ bao nhiêu. Ngay từ đầu có một thứ đã làm ông chú ý. Đó là câu: “thế rồi NGƯỜI xuất hiện. NGƯỜI hiểu tôi. NGƯỜI dạy tôi”, trong đó các từ “người” được cố ý viết bằng chữ in hoa. Goran đã một lần nghe thấy sự ám chỉ kỳ lạ này. Đó là trong cuốn băng ghi lại lời thú tội của Ronald trước cha Rolf.

“Người đó chỉ đến gặp một mình con”.

Đây là một ví dụ điển hình của sự tách đôi nhân cách, trong đó cái tôi tiêu cực luôn tách rời với cái tôi chủ thể. Và trở thành người.

“Đó là TÔI. Nhưng NGƯỜI đã bảo tôi làm điều đó. Do lỗi của NGƯỜI mà TÔI mới thành ra như thế này”.

Trong ngữ cảnh này, tất cả những người khác trở thành “KHÔNG AI CẢ”. Và cũng được viết chữ in hoa.

“KHÔNG AI đến cứu tôi. KHÔNG AI CẢ. KHÔNG AI có thể ngăn cản được tất cả chuyện này. KHÔNG AI CẢ”.

Ron đã muốn được cứu thoát. Nhưng mọi người đã quên mất nó vì nó chỉ là một thằng bé.

Mila ra ngoài để mua đồ ăn. Sau khi đi lòng vòng qua các cửa hiệu và tiệm ăn đóng cửa vì thời tiết xấu, cô đành mua một gói súp trong một cửa hàng thực phẩm nhỏ. Cô định sẽ hâm nóng bằng lò vi sóng trong bếp của studio, nhưng mua xong cô sực nhớ ra cô còn không biết nó có hoạt động hay không.

Mila quay về căn hộ trước khi bị cái lạnh làm cho tê cóng và khiến cô không bước nổi. Giá cô có đôi giày và bộ đồ tập thể thao: từ nhiều ngày nay cô không chạy bộ, chỗ acid lactic ứ lại trong các khớp khiến cho cử động của cô đâm khó khăn.

Lúc vừa dợm bước lên bậc cấp thì Mila trông thấy Rosa trên vỉa hè trước mặt, đang tranh luận rất căng với một người đàn ông. Anh ta định xoa dịu cô ta nhưng bất thành. Mila nghĩ đó chắc là chồng của Rosa, và đột nhiên cô thấy thông cảm cho anh chàng. Trước khi mụ yêu tinh kia nhận thấy sự hiện diện của cô, điều sẽ càng khiến mụ có lý do để thù ghét cô, Mila bước vào trong nhà.

Trên cầu thang, cô gặp Boris và Stern đang đi xuống.

– Hai anh đi đâu đấy?

– Chúng tôi sang bên trụ sở để xem tình hình săn người đã làm đến đâu. – Boris đáp trong lúc đưa điếu thuốc lên môi. – Cô đi không?

– Không, cám ơn.

Boris nhìn thấy gói súp.

– Vậy thì “bon appétit”[4] nhá!

Trong khi bước tiếp, Mila nghe thấy Boris nói với anh bạn đồng nghiệp nhiều tuổi hơn mình.

– Anh nên bắt đầu hút lại đi.

– Cậu nên bỏ cái món ấy thì có…

Mila nhớ lại hộp kẹo bạc hà của Stern và bật cười khe khẽ.

Trong studio chỉ có mình Mila. Goran đã về nhà ngủ với cậu con trai. Cô hơi thất vọng. Cô đã quen với việc thấy ông ở đó, và thích thú trước phương pháp điều tra của ông. Trừ màn cầu nguyện. Nếu mẹ cô mà còn sống và thấy cô tham gia vào cái trò ấy, chắc bà sẽ không tin ở mắt mình.

Lò vi sóng hoạt động được. Món súp không quá tệ. Cũng có lẽ cơn đói đã khiến cho nó có vẻ ngon hơn bình thường. Mila cầm tô súp và cái muỗng vào phòng ngủ, hài lòng khi được ở một mình.

Cô ngồi chéo chân trên giường. Vết thương nơi đùi trái hơi căng, nhưng nó đang lành. Mọi thứ đều sẽ được chữa lành. Vừa ăn, cô vừa lấy bản sao bức thư của Ronald Dermis để trước mặt. Cô nhìn bức thư trong khi miệng tiếp tục nhai. Dù sao thì Ronald cũng đã chọn đúng thời điểm để tái xuất hiện trong câu chuyện. Nhưng có điều gì đó bất hợp lý trong những câu chữ. Cô không đủ can đảm để nói ra điều đó với Goran, vì cô không nghĩ mình có thể đưa ra lời khuyên với ông. Tuy nhiên, ý nghĩ kia cứ quấy rối cô suốt cả buổi chiều. Bức thư cũng đã được trao cho báo chí, một việc làm bất bình thường. Gavila rõ ràng đã muốn làm hài lòng cái tôi của tên thủ phạm giết người hàng loạt. Cứ như thể ông đang nói: “Thấy chưa? Chúng tôi đang quan tâm đến ông đó nha!” trong khi trên thực tế, họ chỉ tìm cách hướng sự chú ý của gã ra khỏi cô bé mà gã đang bắt giữ.

“Tôi không rõ gã có thể kháng cự lại thôi thúc muốn kết liễu cô bé được bao lâu”, vài giờ trước ông đã nói như thế.

Mila cố gạt bỏ ý nghĩ kia ra khỏi đầu và tập trung vào bức thư. Cô rất khó chịu trước lối viết của Ronald. Cô thấy nó nghịch mắt. Cô không thể nói tại sao, nhưng đoạn thư được viết ở giữa tờ giấy, cái kiểu viết buông tuồng không ngắt nghỉ khiến cô không sao hiểu được trọn vẹn ý nghĩa.

Cô quyết định ngắt thành nhiều câu. Đặt cái tô xuống, cô cầm lấy tập giấy và cây bút chì.

gửi những người đang lùng tìm tôi:

– billy là một thằng con hoang, một THẰNG CON HOANG! và tôi đã đúng khi giết nó. tôi căm thù nó. nó sẽ làm bọn tôi đau đớn. vì nó sẽ có một gia đình còn bọn tôi thì không.

– những gì đã xảy ra với tôi còn tệ hơn! nhưng KHÔNG AI đến cứu tôi! KHÔNG AI CẢ.

– tôi vẫn luôn ở đây trước mắt mấy người nhưng mấy người không thấy tôi.

– thế rồi NGƯỜI xuất hiện. NGƯỜI hiểu tôi. NGƯỜI dạy tôi.

– chính mấy người đã muốn tôi thành ra như vậy. hồi xưa mấy người không hiểu tôi liệu bây giờ mấy người có hiểu? tệ thật, rốt cuộc đây chỉ là lỗi của mấy người.

– tôi là thế đấy. KHÔNG AI có thể ngăn cản được tất cả chuyện này. KHÔNG AI CẢ.

– RONALD

Mila đọc lại từng câu. Đó là một giọng văn huênh hoang, chất chứa đầy thù hận và căm hờn. Nó nhắm vào tất cả mọi người, không phân biệt ai. Vì trong đầu óc của kẻ đã giết Billy, thằng bé tượng trưng cho một thứ rất lớn và thu hút sự chú ý của tất cả mọi người. Điều mà Ron sẽ không bao giờ có được.

Hạnh phúc.

Billy luôn vui vẻ, trong khi nó đã chứng kiến vụ tự tử của bố mẹ. Billy sẽ được nhận nuôi, dù nó chỉ là một đứa trẻ mồ côi loại hai. Billy được nhận tất cả, dẫu nó không có gì để cho đi.

Khi hãm hại thằng bé, Ron đã vĩnh viễn xóa đi nụ cười trên gương mặt đạo đức giả của thiên hạ.

Tuy nhiên, càng đọc những lời này, Mila càng nhận ra các câu văn ít giống với một lời tự thú, hoặc một sự thách thức, mà giống những câu trả lời nhiều hơn. Như thể một người nào đó đã hỏi Ronald, và hắn nôn nóng muốn thoát ra khỏi vòng im lặng vây bủa mình trong một thời gian dài, muốn tự giải phóng khỏi bí mật do cha Rolf áp đặt.

Nhưng câu hỏi là gì? Ai là người đã hỏi hắn?

Mila nhớ lại điều Goran đã nói trong khi cầu nguyện. Về việc điều thiện không thể được chứng minh, trong khi trước mắt chúng ta đầy rẫy những ví dụ của cái ác. Bằng chứng. Ronald cho rằng hắn đã hoàn thành một việc tích cực, cần thiết, khi ra tay hãm hại người bạn học. Đối với hắn, Billy tượng trưng cho cái ác. Ai có thể chứng tỏ được hắn đã không làm điều tốt? Lập luận của hắn thật hoàn hảo. Bởi biết đâu khi lớn lên Billy Moore sẽ trở thành một người rất xấu. Ai mà khẳng định được?

Hồi còn nhỏ và còn theo học ở lớp giáo lý Cơ đốc, Mila luôn tự hỏi mình một câu. Khi cô đã lớn, câu hỏi đó vẫn chưa được trả lời.

Tại sao một đức Chúa trời mà người đời cho là nhân từ lại để cho những đứa trẻ chết đi?

Khi nghĩ kỹ về điều đó, rõ ràng nó đối lập với lý tưởng về tình yêu và sự công bằng vốn luôn tràn trề trong đạo giáo.

Tuy vậy, chết sớm có lẽ là định mệnh mà Chúa đã dành cho những đứa con xấu xa nhất của Người. Và biết đâu những đứa trẻ mà cô đã cứu thoát có thể biến thành những kẻ sát nhân hoặc bọn giết người hàng loạt. Rất có thể, điều cô đã làm là không đúng. Nếu như ai đó đã giết chết Adolf Hitler, hoặc Jeffrey Dahmer, Charles Manson từ khi bọn chúng vẫn còn quấn tã, hành động của người đó là tốt hay xấu đây? Kẻ giết chết bọn chúng chắc sẽ bị kết án và trừng trị, chứ chẳng thể nào được ca tụng như người cứu nhân độ thế.

Mila kết luận là cái thiện và cái ác thường lẫn lộn với nhau. Cái này đôi khi là phương tiện của cái kia và ngược lại.

Làm thế nào người ta có thể lẫn lộn giữa ngôn từ của một lời cầu nguyện và sự điên dại của một tên sát nhân?

Đột nhiên cô cảm thấy lành lạnh sau gáy. Giống như có thứ gì đó bí mật xuất hiện sau lưng cô. Rồi cô nhớ lại ý nghĩ vừa rồi, và lúc ấy cô bỗng nhận ra mình biết các câu hỏi mà Ronald đã tìm cách trả lời trong bức thư của hắn.

Chúng nằm trong lời cầu nguyện của Goran.

Cô cố nhớ lại những lời cầu nguyện của Goran, dù chỉ nghe duy nhất một lần. Cô thử viết ra nhiều lần trên tập giấy, rồi cô làm lẫn lộn thứ tự và phải bắt đầu lại, nhưng rốt cuộc cô đã thành công khi viết chúng ra giấy trắng mực đen, ngay trước mắt mình. Sau đó cô thử lắp ghép chúng với từng câu ở trong bức thư. Phục dựng lại mẩu đối thoại từ xa ấy.

Sau cùng, cô đọc lại toàn bộ…

Tất cả thật rõ ràng, ngay từ câu đầu tiên.

“gửi những người đang lùng tìm tôi”.

Câu này dành cho họ, các cảnh sát. Để trả lời các câu hỏi mà nhà tội phạm học đã nêu ra nhưng chưa được giải đáp…

– Vì sao Billy Moore phải chết?

“billy là một thằng con hoang, một THẰNG CON HOANG! và tôi đã đúng khi giết nó. tôi căm thù nó. nó sẽ làm bọn tôi đau đớn. vì nó sẽ có một gia đình còn bọn tôi thì không”.

– Sự thù hận của Ronald Dermis từ đâu mà ra?

“những gì đã xảy ra với tôi còn tệ hơn! nhưng KHÔNG AI đến cứu tôi! KHÔNG AI CẢ”.

– Chuyện gì đã xảy đến với hắn trong những năm vừa qua?

“tôi vẫn luôn ở đây trước mắt mấy người nhưng mấy người không thấy tôi”.

– Ronald đã học cách giết người như thế nào?

“thế rồi NGƯỜI xuất hiện. NGƯỜI hiểu tôi. NGƯỜI dạy tôi”.

– Lý do gì đã đẩy Ronald đến chỗ phạm tội?

“chính mấy người đã muốn tôi thành ra như vậy. hồi xưa mấy người không hiểu tôi liệu bây giờ mấy người có hiểu? tệ thật, rốt cuộc đây chỉ là lỗi của mấy người”.

– Và tại sao Chúa không chấm dứt nỗi kinh hoàng khủng khiếp này?

“tôi là thế đấy. KHÔNG AI có thể ngăn cản được tất cả chuyện này. KHÔNG AI CẢ”.

Mila không biết phải nghĩ sao nữa. Nhưng có lẽ câu trả lời cho thắc mắc của cô nằm ở cuối bức thư.

Một cái tên.

“RONALD”.

Cô cần phải lập tức kiểm tra giả thuyết của mình.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.