Juliet

Chương 4



Nếu gặp bọn chúng, ta không tránh khỏi gây lộn đâu

Những ngày nóng nực này dễ làm ta bực bội điên rồ

— ——–oOo—- ——-

Tôi trở lại lâu đài đầy những bóng ma đang thì thào. Như thường lệ, giấc mơ ấy đưa tôi đi hết phòng này sang phòng khác, nhìn ngó mọi nơi vì những người tôi biết đều đã ở đó, mắc kẹt y hệt tôi. Điều mới mẻ lần này, các cánh cửa mạ vàng đã tự mở ra dù tôi chưa kịp chạm đến chúng. Dường như trong không gian đầy những bàn tay vô hình chỉ đường và kéo tôi đi cùng.Thế là tôi cứ đi, đi mãi, qua các hành lang thênh thang và những phòng khiêu vũ trống vắng, cho đến nay vẫn là những phần chưa được phát hiện của lâu đài, và cuối cùng, tôi đến một cánh cửa rộng, vững chãi. Có lẽ đây là lối ra chăng?

Tôi ngắm khung sắt nặng nề trên cánh cửa và giơ tay định thử mở chốt. Nhưng tôi chưa kịp chạm tới, cánh cửa không khóa đã bật mở, lộ ra một khoảng không tối tăm, rộng rãi.

Dừng lại trên ngưỡng cửa, tôi liếc vào bên trong và cố nhìn xem có thấy thứ gì giúp tôi nhận ra tôi đã ra ngoài hay chỉ đang ở một phòng khác. Tôi đứng đó, chẳng thấy gì và khi chớp chớp mắt, một luồng gió lạnh lẽ từ bóng tối phía trước ào tới, cuộn quanh và giật lấy chân tay khiến tôi loạng choạng. Tôi vồ lấy khung cửa bám cho chắc, luồng gió mạnh đến mức giật tung tóc và quần áo tôi, hú lên giận dữ như thể muốn cuốn phăng tôi qua rìa cửa. Sức mạnh của nó kinh khủng đến mức khung cửa bắt đầu bung ra và sàn nhà vỡ vụn dưới chân tôi. Vật lộn để được an toàn, tôi buông khung cửa và cố chạy trở về bên trong lâu đài, nhưng một dòng ma quỷ vô hình, vô tận – rú tít, nhạo báng các đoạn trích dẫn Shakespeare mà tôi biết rất rõ – nhung nhúc mọi phía quanh tôi, hóa hức thoát khỏi lâu đài và kéo tuột tôi vào cơn tỉnh thức của chúng.

Tôi ngã soài trên sàn và trượt trở lại, cố vồ lấy thứ gì đó chắc chắn để bám giữ. Lúc tôi trượt qua rìa, một người nào đó mặc bộ quần áo mô tô màu đen lao thẳng tới, chộp lấy cánh tay tôi và kéo lên.

– Romeo! – Tôi kêu lên, túm lấy anh ta, nhưng khi ngước nhìn, tôi chảng thấy gì sau tấm kính che mặt của mũ bảo hiểm, mà chỉ thấy trống rỗng.

Sau đó, tôi ngã xuống, xuống, xuống mãi…cho đến khi rơi xuống nước. Một lần nữa, tôi lại có mặt trên bến du thuyền ở Alexandria, Virginia, năm tôi lên mười, suýt chết đuối trong đám rong biển và rác rưởi trong lúc Janice và các bạn nó đứng trên cầu tàu, ăn kem và cười cợt, reo hò.

Lúc tôi vừa ngoi được lên khỏi mặt nước, cố hết sức nắm lấy dây neo, tôi thở hổn hển và …thức giấc, thấy mình đang nằm trên đi-văng của danh họa Lippi, một tấm chăn ngứa ngáy thắt nút quanh chân tôi và con Dante đang liếm bàn tay tôi.

– Xin chào, – nhà danh họa nói và đặt cốc cà phê trước mặt tôi. – Dante không thích Shakespeare đâu. Nó là một con chó rất thông minh.

Cuối buổi sáng hôm ấy, khi tôi trở lại khách sạn, mặt trời rực rỡ dẫn đường cho tôi, những sự việc đêm trước hình như hư ảo đến kỳ cục, như thể tất cả chỉ là buổi diễn của một nhà hát khổng lồ, dàn cảnh làm vui cho ai đó. Bữa tối với mẹ con nhà Salimbeni, cuộc chạy trốn qua những đường phố tăm tối, nơi trú ẩn kỳ dị của tôi trong xưởng vẽ của danh họa Lippo…tất cả là chất liệu tạo nên cơn ác mộng, chứng cứ duy nhất cho thấy mọi sự đã thực sự xảy ra là bùn đất và những vết cào xước ở lòng bàn chân tôi.

Điểm mấu chốt là nó đã xảy ra, và tôi phải ngừng ru ngủ mình bằng cảm giác an toàn giả dối càng sớm càng tốt. Đây là lần thứ hai tôi bị theo dõi, lần này không phải là một gã hú họa nào đó mặc thường phục mà là một gã phi xe máy cừ khôi, dù chưa hiểu mục đích của gã là gì. Một vấn đề đang trở nên nghiêm trọng hơn hết thảy là Allessandro. Người biết rõ biên bản hình sự của tôi và không do dự dùng nó để chống lại tôi, nếu tôi đến bất cứ nơi nào gần bà mẹ đỡ đầu quý hóa của anh ta.

Có mọi lý do thích hợp để thoát khỏi địa ngục này, nhưng Julie Jacobs không phải là người dễ bỏ cuộc và tôi có thể cảm thấy Giulietta Tolomei cũng vậy. Sau cùng, một kho báu khá đáng giá đang bị đe dọa, nếu câu chuyện của danh họa Lippi là thật thì tôi sẽ có khả năng tìm ra ngôi mộ của Juliet rồi đặt tay lên pho tượng có cặp mắt bằng ngọc bích đó.

Có khi pho tượng ấy chỉ là một huyền thoại. Có lẽ trong thực tế, đây là cuộc khám phá mà một số kẻ dở người tin rằng tôi có quan hệ với nhân vật nữ của Shakespeare, tưởng là có một phần thưởng lớn đang đợi tôi ở đoạn cuối của mọi thử thách gay go này. Bà Rose thường than phiền rằng, dù tôi có thể thuộc lòng vở kịch của Shakespeare cả xuôi lẫn ngược, tôi vẫn không thực sự quan tâm đến văn chương hoặc tình yêu, và bà quả quyết rằng, đến một ngày kia tôi sẽ nhìn thấy sự thật to lớn, sáng lóa rọi chiếu mọi sai lầm của tôi.

Một trong những hồi ức đầu tiên của tôi về bà Rose là vào lúc đêm hôm khuya khoắt, bà hay ngồi bên cái bàn to bằng gỗ gụ, bên cạnh một ngọn đèn lẻ loi cháy sáng để xem cái gì đó rất cẩn thận bằng kính lúp. Tôi vẫn còn nhớ cảm giác chân con gấu bông nắm chặt trong bàn tay của tôi, và nỗi sợ bị bắt trở lại giường. Lúc đầu bà không nhìn thấy tôi, nhưng lúc phát hiện ra tôi, bà giật mình như thể tôi là một con ma nhỏ đang ám bà. Điều tiếp theo tôi nhớ là được ngồi trong lòng bà nhìn vào một tờ giấy trải rất rộng.

– Nhìn đây này, – bà nói, và giữ cái kính lúp cho tôi. – Đây là cây phả hệ của gia tộc chúng ta, còn đây là mẹ cháu.

Tôi còn nhớ sự háo hức, kích động rồi sau đó là nỗi thất vọng chua chát. Không phải là một tấm ảnh của mẹ tôi, mà chỉ là một dòng chữ, còn tôi hồi đó vẫn chưa biết đọc.

– Nó nói gì đấy ạ? – Chắc là tôi hỏi thế, vì tôi nhớ rất rõ câu trả lời của bà Rose.

– Nó nói rằng, – bà nói với một vẻ rất kịch, hiếm thấy, – “Bác Rose yêu quý, xin vui lòng nhận trông nom con gái bé bỏng của cháu. Nó rất đặc biệt. Cháu nhớ nó vô cùng”. – Tôi kinh hãi vì lúc đó, tôi nhận ra bà đang khóc. Đấy là lần đầu tiên tôi nhìn thấy người lớn khóc. Cho đến hồi đó, tôi chưa bao giờ nghĩ rằng người lớn lại có thể khóc.

Khi Janice và tôi lớn hơn, bà Rose kể cho chúng tôi nghe một mẩu chuyện kỳ quặc về mẹ tôi, nhưng không bao giờ là hình ảnh trọn vẹn. Một hôm, sau khi vừa vào đại học và đã có chút chính kiến, vào một ngày đặc biệt đẹp trời, chúng tôi đưa bà ra khỏi nhà, mời bà ngồi vào ghế trong vườn, với cà phê và bánh xốp trong tầm với, rồi mới cố tình xin bà kể cho nghe toàn bộ câu chuyện. Đây là một khoảnh khắc hợp lực hiếm hoi giữa hai chị em tôi. Chúng tôi cùng tới tấp hỏi bà: Ngoài sự thật cha mẹ tôi chết trong một tai nạn xe hơi, cha mẹ tôi trông như thế nào? Tại sao chị em tôi không bao giờ được lien lạc với những người họ hàng ở Italy, trong khi hộ chiếu của chúng tôi ghi rõ chúng tôi sinh ra ở đấy?

Bà Rose ngồi im lìm, lắng nghe những câu hỏi dồn dập của chúng tôi và không động đến miếng bánh nào; khi bà nghe hết, bà gật đầu:

– Các cháu có quyền hỏi những câu như thế, và sẽ có ngày, các cháu có được câu trả lời thảo đáng. Nhưng lúc này, các cháu phải kiên nhẫn. Ta kể về gia đình các cháu rất ít vì muốn tốt cho các cháu thôi.

Tôi không thể hiểu nổi vì sao biết mọi điều về gia đình mình lại là xấu. Chí ít thì chỉ một chút cũng được. Nhưng tôi tôn trọng sự bực dọc của bà Rose về dòng dõi nên cố kìm nén những xung đột khó hiểu cho đến sau này. Một ngày nào đó, tôi sẽ mời bà ngồi và yêu cầu bà giải thích. Một ngày nào đó, bà sẽ kể cho tôi nghe hết mọi chuyện. Ngay cả khi bà sắp tám mươi tuổi, tôi vẫn mong rồi sẽ có ngày bà trả lời mọi câu hỏi của chúng tôi. Nhưng giờ đây, tất nhiên là bà không thể nữa rồi.

Lúc tôi bước vào khách sạn, giám đốc Rossini đang nghe điện thoại ở phòng đằng sau; tôi dừng lại chốc lát, đợi ông ra. Trong lúc đi bộ từ xưởng vẽ của danh họa Lippi về, tôi nghĩ tới nghĩ lui những diễn giải của người họa sĩ về vị khách đêm khuya tên là Romeo, và kết luận rằng đây là lúc tốt nhất để tôi bắt đầu nghiên cứu về gia tộc Marescotti và hậu duệ hiện nay của họ, nếu có thể.

Tôi hình dung, bước hợp lý đầu tiên là hỏi giám đốc Rossini về cuốn danh bạ điện thoại ở địa phương, và tôi định sẽ làm ngay. Nhưng sau khi đợi khoảng mươi phút, cuối cùng tôi bỏ ý định đó và đến quầy lấychìa khóa phòng treo trên tường.

Giận mình vì đã không hỏi danh họa Lippi cặn kẽ về gia tộc Marescotti lúc có cơ hội, tôi chậm rãi lên cầu thang, những vết rách ở lòng bàn chân làm tôi nhức nhối trong từng bước đi. Tôi không có thói quen đi giày cao gót, nhất là trên những dặm đường tôi đã đi qua trong hai ngày vừa rồi. Tuy nhiên, ngay khi mở cửa phòng, tôi quên bẵng mọi nỗi đau đớn. Căn phòng bị đảo lộn từ dưới lên trên, có khi cả từ trong ra ngoài.

Chắc chắn đã có một kẻ đột nhập – nếu không phải là cả một nhóm – đã kéo bật cửa tủ áo và lôi các thứ nhồi trong gối ra để tìm thứ chúng muốn, quần áo, đồ linh tinh và các thứ trong buồng tắm rải rác khắp nơi, một số đồ lót mới của tôi còn treo lòng thong trên ngọn chúc đài.

Tôi chưa bao giờ nhìn thấy một cái va-li bị nổ bom, nhưng tôi chắc rằng quang cảnh này trông giống như thế..

– Cô Tolomei! – Cuối cùng, giám đốc Rossini thở hổn hển, vát vả để đuổi kịp tôi, – Nữ bá tước Salimbeni gọi đến hỏi xem cô có khá hơn không, nhưng…lạy Đức Mẹ! – vừa nhìn thấy cảnh tàn phá trong phòng tôi, ông quên bẵng mất mọi điều định nói, và cả hai chúng tôi đứng đó trong giây lát, lặng lẽ, kinh hoàng, nhìn đăm đăm vào mọi thứ.

– Vậy đấy, – tôi nói, nhận ra mình có một khán giả, – ít nhất thì bây giờ tôi không phải mở va li ra nữa.

– Kinh khủng quá! –giám đốc Rossini kêu lên. – Nhìn này! Bây giờ người ta sẽ nói rằng khách sạn không an toàn! Ấy, cẩn thận, kẻo giẫm phải thủy tinh!

Sàn nhà đầy những mảnh kính của cửa ban công bị đập vỡ. Rõ ràng kẻ đột nhập đến vì cái hộp của mẹ tôi, và cố nhiên là cái hộp đã biến mất, nhưng câu hỏi là tại sao hắn tiếp tục sục sạo căn phòng của tôi như thế. Hắn còn lục tìm thứ gì đó ngoài cái hộp chăng?

– Đồ ngốc! – Giám đốc Rossini thở dài. – Giờ tôi phải gọi điện cho cảnh sát, họ sẽ tới và chụp ảnh, rồi báo chí sẽ viết rằng khách sạn Chiusarelli không an toàn!

– Đợi đã! – Tôi nói. – Ông đừng gọi cảnh sát. Không cần đâu. Chúng ta biết bọn chúng đến vì cái gì rồi.

Tôi đến bên cái bàn đã để chiếc hộp. – Chúng sẽ không trở lại nữa đâu. Bọn khốn khiếp.

– Ồ! – Giám đốc Rossini chợt tươi nét mặt. – Tôi quên kể với cô rồi! Hôm qua, chính tôi đích thân đưa các va-li của cô lên…

– Vâng, tôi có nhìn thấy.

– …và tôi nhận thấy cô có một thứ đồ cổ rất đắt tiền trên chiếc bàn đó. Thế là tôi đã tự ý mang nó ra khỏi phòng này và cất trong két an toàn của khách sạn. Tôi mong cô không phiền chứ? Bình thường, tôi không can thiệp vào…

Tôi nhẹ cả người đến mức không nghĩ đến việc nổi giận và sự can thiệp của ông hoặc kinh ngạc vì tầm lo xa của ông. Thay vào đó, tôi nắm lấy vai ông: :

– Cái hộp vẫn ở đây ư?

Không còn nghi ngờ gì nữa, khi theo giám đốc Rossini xuống văn phòng của ông, tôi thấy cái hộp của mẹ tôi nằm rất gọn và khít trong két an toàn của khách sạn, giữa các sổ sách kế toán và các cây chúc đài bằng bạc.

– Ông phúc đức quá, – tôi nói, thật lòng, – cái hộp này rất quan trọng.

– Tôi biết, – ông nghiêm trang gật đầu. – Bà tôi có một cái giống y như cái này. Người ta không còn sản xuất chúng nữa. Đây là món đồ cổ truyền thống của Siena. Chúng tôi gọi là hộp bí mật, vì chúng có nhiều ngăn để giấu đồ. Cô có thể giấu cha mẹ nhiều thứ. Hoặc các con. Hoặc bất cứ người nào khác.

– Ông định nói là…nó có một ngăn bí mật ư?

– Phải! – giám đốc Rossini cầm chiếc hộp và bắt đầu săm soi. – Tôi sẽ chỉ cho cô. Cô phải là một người Siena mới biết cách tìm ra, vì nó giấu rất khéo. Không bao giờ ở cùng một chỗ. Hộp của bà tôi có ngăn ở bên cạnh, ngay đây này…nhưng cái hộp này thì khác. Nó đòi hỏi phải khéo léo. Để tôi xem nào….không phải ở đây…không ở đây…-Ông ta kiểm tra kỹ lưỡng cái hộp ở mọi góc độ, thích thú với việc mò mẫm, – Bà tôi có một món tóc, không gì hơn. Tôi tìm thấy nó vào một ngày khi bà đang ngủ. Tôi không bao giờ hỏi…a ha! – Không biết bằng cách nào, giám đốc Rossini tìm ra và bấm nút mở của ngăn bí mật. Ông mỉm cười đắc thắng vì một phần tư đáy hộp rơi xuống mặt bàn, tiếp theo là một cái thẻ nhỏ, vuông vắn.

Lật chiếc hộp, cả hai chúng tôi cùng kiểm tra kỹ lưỡng ngăn bí mật, nhưng nó chẳng chứa gì ngoài tấm thẻ.

– Ông có hiểu những thứ này không? – Tôi chỉ cho giám đốc Rossini những chữ cái và con số trên tấm thẻ, được đánh bằng một máy chữ cổ lỗ. – Trông giống như mật mã vậy.

– Cái này là thứ cũ, – ông nói và cầm tấm thẻ từ tay tôi, – cô gọi nó là gì nhỉ? Một phiếu thư mục. Chúng tôi dùng những phiếu này trước khi có máy tính. Nó có từ trước thời của cô. Chà! Thế giới đã đổi thay biết chừng nào! Tôi nhớ khi…

– Ông có biết nó từ đâu ra không?

– Cái này ư? Có lẽ là từ một thư viện chăng? Tôi không biết. tôi không phải là chuyên gia. Nhưng…..- ông liếc nhìn tôi, ước lượng liệu tôi có xứng đáng với sự cởi mở này không, – tôi biết một người hiểu nó.

Mất một khoảng thời gian, tôi mới tìm ra hiệu sách cũ mà giám đốc Rossini tả, và khi đến nơi, lẽ tất nhiên là nó đã đóng cửa nghỉ trưa. Tôi cố nhìn qua các ô cửa kính xem có ai bên trong không, nhưng chẳng thấy gì ngoài sách, sách và sách.

Rẽ ở góc chếch sang quảng trường Duomo, tôi ngồi xuống bậc trước giáo đường Siena cho qua thời gian. Mặc dù du khách chen chúc vào, ra qua các cửa nhà thờ, toàn bộ khung cảnh này vẫn có một vẻ rất thanh bình, vững chãi và bất diệt, khiến tôi cảm thấy nếu không bận bịu, tôi có thể ngồi đó mãi, giống như tòa nhà này, để ngắm nhìn với niềm hòa cổ và lòng trắc ẩn về sự hiện hữu bất diệt của loài người.

Điểm nổi bật nhất của giáo đường là tháp chuông. Nó không cao như tháp Mangia, bông huệ tây cao vút ở Campo của giám đốc Rossini, nhưng khác thường hơn vì những sọc như ngựa vằn. Nhờ những lớp đá mỏng đen trắng xen nhau lên tận đỉnh, nhìn nó giống chiếc cầu thang bằng gốm nung lên tận Thiên đường, và tôi không khỏi ngẩn ngơ vì ý nghĩa tượng trưng của tòa tháp. Có khi chẳng có gì. Có khi mục đích của nó chỉ là để gây ấn tượng. Hoặc có khi chỉ là biểu trưng của một trong các gia huy ở Siena, Balzana – vệt trắng, vệt đen, giống như một cái ly không chân rót đầy một nửa thứ vang màu đỏ sẫm nhất – làm tôi càng thấy khó hiểu hơn.

Giám đốc Rossini đã kể cho tôi nghe chuyện hai anh em sinh đôi người La Mã cưỡi con ngựa vằn đen – trắng chạy trốn ông bác tàn ác, nhưng tôi không tin truyện kể này nhấn mạnh màu sắc của Balzana. Nó phải là một thứ tương phản. Một nghệ thuật đầy gai góc, kết hợp các thái cực và những thỏa hiệp bắt buộc, hoặc có khi thể hiện nhận thức cuộc đời là sự cân bằng tinh tế của các sức mạnh vĩ đại, và nếu trên đời này không còn cái ác phải diệt trừ thì sẽ tốt đẹp biết bao.

Nhưng tôi không phải là một triết gia, và mặt trời cho tôi biết đã đến giờ mà chỉ những con chó dại và người điên mới phơi mình dưới nắng. Vòng trở lại góc phố, thấy hiệu sách vẫn đóng cửa, tôi thở dài và xem đồng hồ, tự hỏi nên trú ở chỗ nào cho đến khi người bạn thời thơ ấu của mẹ giám đốc Rossini ăn trưa trở về.

Bên trong giáo đường Siena đầy ắp vẻ giàu có và bóng tối. Mọi phía quanh tôi là những cây cột đen và trắng, đồ sộ chống đỡ một bầu trời mênh mông rải rác những vì sao, sàn nhà là một bức khảm khổng lồ, ghép hình các biểu tượng và huyền thoại mà tôi biết chút ít nhưng không hiểu, giống người chỉ nghe thấy âm thanh của một thứ ngôn ngữ xa lạ.

Nơi này khác hẳn những ngôi nhà thờ hiện đại trong thời thơ ấu của tôi, dù niềm tin tôn giáo khác nhau, song tôi vẫn cảm thấy trái tim mình đáp lại bằng một nhận biết bí ẩn, dường như trước kia tôi đã ở đó, mong ngóng Chúa Trời từ rất, rất lâu rồi. Tôi chợt nhớ ra mình mới đến đây lần đầu tiên, nhưng nơi này rất giống với tòa lâu đài đầy những bóng ma trong giấc mơ của tôi. Vừa ngẩn ngơ ngắm mái vòm dát những vì sao, yên lặng giữa một rừng những cây cột mày trắng bạc, tôi vừa nghĩ có người đã đưa tôi vào chính tòa giáo đường này khi tôi còn bé tí, và vì thế tôi đã cất giữ trong trí nhớ mà không biết nó là gì.

Một lần duy nhất tôi ở trong một nhà thờ có diện tích tương tự như thế này, là khi Umberto đưa tôi đến nhà thờ National Shrine ở Washington, trốn học sau cuộc hẹn với nha sĩ. Hồi đó tôi không quá sáu, bảy tuổi, nhưng tôi nhớ rất rõ ông quỳ cạnh tôi ở giữa sàn nhà mênh mông và hỏi:

– Cô có nghe thấy gì không?

– Nghe tháy gì ạ? – Tôi hỏi, tay nắm chặt cái túi nhựa nhỏ đựng bàn chải răng mới màu hồng

Ông ngửa đầu khôi hài:

– Các thiên thần. Nếu cô trật tự hơn, cô sẽ nghe thấy họ cười khúc khích.

– Họ cười gì ạ – Tôi tò mò. – Cười chúng ta ư?

– Họ tiếp nhận những lời răn dạy đang bay ở đây. Không có gió, chỉ có hơi thở của Chúa thôi.

– Hơi thở của Chúa làm họ bay được à?

– Có một mẹo để bay. Các thiên thần kể với tôi thế. – Ông mỉm cười vì tôi mở to mắt, kinh sợ. – Cô phải quên mọi thứ cô biết khi là một con người. Khi là người, cô phát hiện ra có một sức mạnh vĩ đại trên trái đất đáng căm ghét này. Và nó có thể làm cô gần như bay được. Nhưng không bao giờ được đâu.

Tôi nhăn mặt, không hiểu ý ông.

– Thế, mẹo đó là gì ạ

– Yêu thương bầu trời.

Lúc tôi đứng đó, đang đắm chìm trong hồi ức về lời thổ lộ tràn đầy cảm xúc, hiếm hoi của Umberto, một nhóm du khách người Anh tiến đến phía sau tôi, hướng dẫn viên sôi nổi nói đến những thất bại trong việc cố gắng tìm hiểu và khai quật hầm mộ cổ – được cho rằng tồn tại từ thời Trung cổ nhưng nay đã mất vĩnh viễn.

Tôi lắng nghe một lát, thích thú cái kiểu kể chuyện giật gân của người hướng dẫn rồi để giáo đường lại cho các du khách, tôi rảo bước xuống đường Capitano và rốt cuộc, rất ngạc nhiên khi lại trở lại quảng trường Postierla, đối diện với quán cà phê hơi của Malena.

Quảng trường nhỏ này những lần trước tôi có mặt đều tấp nập, nhưng hôm nay yên tĩnh dễ chịu, có lẽ vì đang giờ ngủ trưa và trời nóng như nung. Một cái bệ có con sói cái đang cho hai sói con bú đối diện với đài phun nước nhỏ, có con chim bằng kim loại trông hung dữ lượn bên trên. Hai đứa trẻ, một trai một gái đang té nước vào nhau và chạy tới chạy lui, cười ré lên trong lúc một dãy người già ngồi trong bóng râm cách đấy không xa, đội mũ, áo khoác đã cởi, nhìn sự vui sống của lũ trẻ bằng con mắt hiền hòa.

– Chào nhé! – Malena nói khi nhìn thấy tôi bước vào quán. – Luigi làm việc được đấy chứ?

– Anh ấy là một thiên tài. – Tôi tiến tới chỗ cô, nhoài người trên quầy mát lạnh, cảm thấy tự nhiên lạ thường. – Tôi sẽ chẳng bao giờ rời Siena miễn là anh ấy còn ở đây.

Cô cười vang, tiếng cười ấm áp, ranh mãnh, khiến một lần nữa tôi lại băn khoăn về những bí ẩn trong cuộc sống của những người phụ nữ nơi này. Dù nó là gì đi nữa, tôi cũng bỏ lỡ mất rồi. Nó hơn sự tự tin rất nhiều, hình như nó là khả năng yêu thương nồng nhiệt và không khoan nhượng về cả thể xác lẫn tinh thần, kéo theo giả thuyết rất tự nhiên rằng mỗi con người trên hành tinh đang hấp hối này đều phải bắt tay vào hành động.

– Đây, – Malena đặt tách cà phê hơi xuống trước mặt tôi và nháy mắt, thêm một chiếc bánh quy có vị hồi, – ăn thêm vào. Nó sẽ đem lại cho cô…cô biết không, chí khí.

– Một loại vật trông hung dữ, nhỉ? Tôi nói, ám chỉ đài phun nước ngoài kia. – Nó là loài chim gì thế?

– Chim đại bàng của chúng tôi, tiếng Ý là Aquila. Đài phun nước là …ờ, là gì nhỉ? – Cô cắn môi, tìm từ. – Fonte battesimale….bình nước thánh cho lễ rửa tội, phải không nhỉ? Đúng rồi! Đây là nơi chúng tôi mang trẻ sơ sinh tới, để chúng trở thành aquiline, những con đại bàng nhỏ.

– Đây là lãnh địa Đại bàng sao? – Tôi liếc nhìn những người khách khác, bỗng thấy mình ngô nghê. – Có thực biểu tượng đại bàng xuất phát từ gia tộc Marescotti không?

– Phải, – Malena nói và gật đầu. – Nhưng đương nhiên chúng tôi không sáng tác ra nó. Đại bàng vốn có nguồn gốc từ người La Mã, sau đó Carlomagno kế tục, và từ khi gia tộc Marescotti có quân đội riêng, chúng tôi có quyền sử dụng biểu tượng uy quyền này. Nhưng không ai biết gì hơn.

Tôi chăm chú nhìn cô, gần như tin chắc rằng cô nhắc tới gia tộc Marescotti như thể cô là người nhà họ.

Nhưng tôi vừa mở miệng định hỏi, bộ mặt tươi hơn hớn của cậu hầu bàn len vào giữa chúng tôi.

– Chỉ những người đủ may mắn mới được làm việc ở đây. Chúng tôi biết mọi thứ về con chim cao quý của cô ấy.

– Phớt cậu ta đi, – Malena nói, giả vờ giơ cái khay đánh vào đầu anh ta. – Cậu ấy thuộc lãnh địa Torre – Tháp, cô hiểu không? – Malena nhăn mặt. – Lúc nào cũng pha trò.

Đúng lúc đó, trong niềm vui chung, có một thứ thoáng qua mắt tôi. Một người cưỡi xe máy màu đen, kính che kín mặt, dừng lại giấy lát nhìn qua cửa kính rồi rồ ga phóng mất.

– Ducati Monster S4, – cậu hầu bàn đọc thuộc lòng như nhớ lại quảng cáo trên báo, – một hung thần đường phố thực sự. Động cơ làm mát bằng dung dịch. Nó làm đàn ông mơ đến chém giết, tỉnh dậy toát mồ hôi và cố vồ lấy nó. Nhưng nó không có tay vịn. Vì thế, – cậu ta vỗ vào bụng, gợi ý, – đừng mời một cô gái lên xe nếu bạn không có hệ thống phanh thích hợp.

– Đủ rồi, đủ rồi đấy, Dario! –Malena mắng. – Cậu ăn nói nhố nhăng vừa chứ!

– Cô có biết người đó là ai không? – Tôi hỏi, cố ra vẻ thản nhiên trong lúc cảm thấy rất bứt rứt.

– Cái gã ấy à? – Malena đảo mắt, không chú ý lắm. – Cô có biết người ta nói rằng…những kẻ làm ầm ĩ như thể đang bỏ lỡ cái gì đó ở đằng kia kìa.

– Tôi không làm ầm ĩ! – Dario phản đối.

– Tôi không nói cậu, ngốc ạ! Tôi đang nói đến con muỗi mắt cưỡi xe kia kìa.

– Cô biết hắn là ai không? – Tôi hỏi lại

Cô nhún vai:

– Tôi thích đàn ông lái ô tô. Bọn phóng xe máy…chúng là những tay chơi. Đặt một cô bạn lên xe máy thì được, nhưng con cái cô, phù dâu của cô hay mẹ chồng cô thì sao?

– Ý kiến chính xác của tôi thì, – Dario nói, nhếch lông mày, – Tôi đang dành dụm để mua một cái. Đến lúc này, vài người khách khác trong hàng đằng sau tôi tỏ rõ vẻ sốt ruột, dù Malena có vẻ rất thoải mái phớt lờ hộ vì cô muốn thế, nhưng tôi quyết định hoãn những câu hỏi về gia tộc Marescotti và hậu duệ hiện nay của họ đến lúc khác.

Khi rời quán, tôi nhìn quanh tìm chiếc xe máy, nhưng chẳng thấy tăm hơi. Lẽ tất nhiên tôi không thể biết chắc, nhưng trực giác mách bảo tôi rằng, đây chính là gã đã bắt nạt tôi đêm trước, và nói thật, nếu hắn thực sự là một kẻ ăn chơi đang tìm gái để ghì vào cái ấy của hắn, tôi có thể nghĩ ra nhiều cách tốt hơn để bắt đầu chuyện đó.

Cuối cùng, khi chủ nhân của hiệu sách đi ăn trưa về, tôi đang ngồi ở bậc thềm trước nhà bà, dựa vào cánh cửa, và đang định bỏ cuộc. Nhưng sự kiên nhẫn của tôi được đền bù xứng đáng vì người đàn bà ấy, – một bà già dịu dàng, vóc người mảnh khảnh – vừa nhìn cái phiếu thư mục đã gật đầu ngay lập tức.

– À, phải rồi, – bà ta nói tiếng Anh trôi chảy, không hề tỏ ra ngạc nhiên, – đây là tài liệu lưu trữ của trường đại học. Bộ sưu tập lịch sử. Tôi cho là người ta vẫn dùng bảng mục lục cũ. Để tôi xem nào, phải rồi, phiếu này ở mục Cuối thời Trung cổ. Cái này có nghĩa là địa phương. Cô nhìn đây, – bà chỉ vào mã thẻ – K là chữ cái của giá sách, còn 3-17b là số ngăn. Nhưng nó không nói rõ có cái gì trong đó. Dù sao, mã số có nghĩa như vậy đấy. –Giải quyết sự bí ẩn rất nhanh, bà ngước nhìn tôi, tưởng còn câu hỏi khác. – Sao cô lại có tấm thẻ này?

– Mẹ tôi…đúng hơn là cha tôi, là giáo sư của trường đại học. Bà biết giáo sư Tolomei không ạ?

Bà lão rạng ngời lên như một cây Giáng sinh.

– Tôi nhớ chứ! Tôi là sinh viên của ông ấy mà! Cô biết không, cha cô là một trong những người sắp xếp tất cả bộ sưu tập này. Nó rất lộn xộn. Tôi mất hai vụ hè để dán số lên các ngăn, Nhưng,…tôi không biết vì sao cô lấy thẻ này ra. Ông thường khó chịu mỗi khi người ta để các phiếu thư mục vương vãi.

Trường đại học Siena nằm rải rác khắp thành phố, nhưng nơi lưu trữ lịch sử của trường không xa hiệu sách là mấy, đi về hướng cổng thành tên là Porta Tufi. Mất một lúc tôi mới tìm đúng tòa nhà giữa bao mặt tiền kín đáo dọc con đường; cuối đường là một nơi dành cho giáo dục như miếng vá trên các tấm áp phích về chủ nghĩa xã hội ở hàng rào bên ngoài.

Hy vọng trà trộn được vào đám sinh viên, tôi qua cửa mà bà bán sách đã tả và nhằm thẳng tới tầng hầm.

Có lẽ vì vẫn đang giờ nghỉ trưa – hoặc có khi trong mùa hè chẳng mấy người lai vãng, tôi xuống cầu thang mà không gặp ai; toàn bộ nơi này mát mẻ và yên tĩnh đến mê người. Đây là việc gần như quá dễ dàng.

Chẳng có gì ngoài tấm phiếu thư mục, tôi đi qua nơi lưu trữ vài lần, cố tìm ra đúng giá sách nhưng vô hiệu. Đây là bộ sưu tập riêng biệt, bà bán sách đã giải thích, và ngay cả hồi đó, người ta cũng ít dùng đến nó. Tôi phải tìm phần biệt lập nhất, nhưng lời chỉ dẫn này rất phức tạp vì trên thực tế, mỗi phần ở nơi lưu trữ dường như đều lạnh nhạt với tôi. Ngoài ra, các giá sách tôi nhìn vào đều không có ngăn, chúng chỉ là các giá thông thường xếp đầy sách, không phải là đồ tạo tác. Và cũng chẳng có cuốn sách nào mang nhãn K 3-17b.

Sau khi đi bộ ít nhất khoảng hai mươi phút, cuối cùng tôi thử lại gần một cánh cửa xa nhất ở cuối phòng. Đó là một cánh cửa bằng kim loại được niêm phong kín, gần giống như cửa vào tầng hầm của nhà băng, nhưng tôi có thể mở ra dễ dàng, bên trong một căn phòng khác nhỏ hơn, khí hậu được điều chỉnh phần nào khiến không khí có mùi rất khác, giống một mảnh sô cô la bị bỏ xó. Cuối cùng, phiếu thư mục của tôi mới được việc. Các giá này đầy những ngăn, đúng theo cách bà bán sách miêu tả. Bộ sưu tập sắp xếp theo niên đại, bắt đầu từ thời Etruscan và chấm dứt – tôi đoán thế – vào năm cha tôi mất. Rõ ràng là chưa có người nào sử dụng nó, vì một lớp bụi dày phủ kín khắp nơi, và cái thang gấp cứ ì ra khi tôi cố kéo vì các bánh xe gỉ cứ dính vào sàn nhà. Cuối cùng, khi chịu chuyển động, nó vẫn rít lên phản đối, để lại đằng sau những vết hằn nho nhỏ màu nâu tren lớp vải sơn phủ sàn màu tím.

Tôi đặt thang cạnh giá có nhãn K và trèo lên, nhìn kỹ hơn vào hàng số 3, có khoảng hai chục ngăn cỡ vừa, tất cả đều ngoài tầm với và tầm nhìn, trừ khi ta có thang và biết chính xác cái gì cần tìm. Ban đầu có vẻ như ngăn 17b bị khóa, và sau khi gõ vài lần bằng nắm tay, nó dần lỏng hơn khiến tôi có thể kéo ra được. Rất có thể, chưa có người nào từng mở ngăn kéo này kể từ khi cha tôi đóng nó lại từ nhiều thập kỷ trước

Bên trong, tôi tìm thấy một gói to bọc bằng chất dẻo màu nâu kín hơi, kín gió. Chọc nhẹ vào, tôi cảm thấy đó là một thứ thuộc loại vải thấm nước, gần giống như túi bọt ở cửa hàng bán vải. Hoang mang, tôi rút cái gói ra khỏi ngăn, trèo xuống thang và ngồi ở bậc dưới cùng, kiểm tra các thứ vừa tìm được.

Thay vì xé toạc ra, tôi lại chọc một móng tay vào lớp chất dẻo và khoét một lỗ nhỏ. Không khí bị niêm kín xì ra, cái túi như thở dài và một góc vải màu xanh lơ bợt màu thò ra. Khoét cho cái lỗ to hơn một chút, tôi cảm nhận thớ vải bằng các ngón tay. Tuy không thạo lắm, nhưng tôi ngờ nó là lụa và rất, rất cũ dù trong điều kiện bảo quản cẩn thận.

Hiểu rõ mình đang phơi một thứ mỏng manh ra ngoài không khí và ánh sáng cùng một lúc, tôi gỡ tấm vải khỏi lớp chất dẻo và bắt đầu mở ra trên lòng. Rồi một vật rơi ra và đập xuống sàn nhà trải vải sơn, tiếng kim loại kêu lanh lảnh.

Đó là một con dao to trong bao bằng vàng, được gói kỹ trong nhiều lớp lụa. Lúc nhặt nó lên, tôi nhận ra hình một con đại bàng khảm trên cán.

Ngồi đó, nhấc vật báu bất ngờ trong tay xem nặng nhẹ, tôi bỗng nghe thấy một tiếng động ở góc đằng sau kho lưu trữ. Nhận thức được rằng mình đã xâm phạm quá dễ dàng vào nơi chắc chắn còn giữ nhiều thứ quý giá không thể thay thế, tôi đứng dậy, thở hổn hển, cảm thấy có lỗi và gói lại thứ vừa đoạt được nhanh hết mức có thể. Điều cuối cùng tôi mong muốn là không bị phát hiện trong tầng hầm khác thường, khí hậu được điều hòa với những thứ mới tìm ra trong tay.

Cố im lặng hết sức, tôi lẻn trở lại thư viện chính, kéo cánh cửa kim loại gần như đóng chặt sau lưng. Lom khom sau hàng giá sách cuối cùng, tôi chăm chú lắng nghe. Âm thanh duy nhất tôi nghe thấy là hơi thở không đều của mình. Mọi việc tôi làm là trèo lên các bậc cầu thang và rời khỏi tòa nhà, bình thản như lúc bước vào.

Tôi đã nhầm. Vừa quyết định làm thế chưa được bao lâu, tôi nghe thấy tiếng bước chân. Không phải bước chân của người thủ thư trở lại sau giờ nghỉ trưa, cũng không phải một sinh viên tìm sách, mà là tiếng chân đáng ngại của người nào đấy không muốn tôi nghe thấy hắn đang đến, kẻ lang thang trong nơi lưu trữ này còn thiếu minh bạch hơn cả tôi. Ngó qua các giá sách, tôi thấy hắn đi theo đường của tôi – vâng, đó chính là tên cặn bã đã theo dõi tôi đêm trước – đang trượt từ giá sách này đến giá sách khác, mắt hắn nhìn xoáy vào cánh cửa kim loại dẫn xuống tầng hầm. Nhưng lần này, hắn cầm một khẩu súng.

Chỉ còn vài giây là hắn sẽ đến nơi tôi đang nấp. Suýt nôn vì sợ hãi, tôi luồn theo giá sách cho đến khi tới đầu kia. Ở đây có một lối đi hẹp men tường dẫn tới bàn thủ thư, tôi cố hết sức rón rén rồi gập đôi người lại, nép sát vào đầu hẹp của một giá sách, hy vọng thoát khỏi tầm nhìn khi kẻ côn đồ đi qua trong lối đi ở đầu kia.

Lúc đứng đó, quá sợ đến mức không thở nổi, tôi phải chống chọi với sự thôi thúc phải chạy bán sống bán chết. tự buộc mình ở lại, tuyệt đối im lặng, cố đợi thêm vài giây rồi mới dám vươn ra nhìn, và tôi thấy hắn lặng lẽ lẻn vào tầng hầm.

Tuột giày ra bằng những ngón tay run rẩy, tôi vội vã chạy dọc lối đi hẹp, rẽ ngoặt cạnh bàn thủ thư và tiếp tục chạy lên cầu thang, ba bậc một, không dám dừng lại ngoảnh nhìn phía sau.

Cho đến lúc đã cách xa trường đại học và an toàn trong một phố nhỏ mờ tối, tôi mới dám chạy chậm dần, và cảm thấy phần nào nhẹ nhõm. Nhưng cảm giác ấy không kéo dài lâu. Rất có thể, đây chính là kẻ đã biến phòng tôi thành một đống rác, và thứ duy nhất hắn thấy là tôi không ngủ trên giường khi hắn tới.

Peppo Tolomei gần như sửng sốt khi hìn thấy tôi, vì tôi trở lại Bảo tàng Cú sớm hơn ông tưởng.

– Giulietta! – Ông kêu lên, đặt hiện vật và giẻ lau chùi xuống. – Có chuyện gì thế? Cái gì thế này?

Cả hai cùng nhìn cái gói hỗn độn trong tay tôi.

– Em không biết, – tôi thú nhận. – Nhưng em nghĩ nó là của cha em.

– Để đây, – ông dọn sạch một khoảng trên bàn, và rất nhẹ nhàng đặt mảnh lụa xanh xuống, để lộ con dao găm náu bên trong.

– Anh có biết cai này ở đâu ra không? – Tôi nói và cầm con dao lên.

Nhưng Peppo không nhìn vào con dao. Ông bắt đầu mở mảnh lụa bằng đôi tay cung kính. Khi nó đã được trải rộng ra toàn bộ, ông lùi lại như bị thôi miên và làm dấu.

– Cô tìm thấy cái này ở đâu vậy? – Ông nói, giọng ông không hơn gì tiếng thì thầm.

– Ùm…cái này trong bộ sưu tập của cha em ở trường đại học. Nó bọc con dao. Em không biết nó là một thứ đặc biệt.

Peppo nhìn tôi, sửng sốt:

– Cô không biết đây là gì ư?

Tôi nhìn mảnh lụa xanh kỹ hơn. Chiều dài của nó lớn hơn bề rộng rất nhiều, gần giống một biểu ngữ, bên trên in hình một phụ nữ với vầng hào quang quanh mái tóc và đôi bàn tay giơ lên ban phúc. Thời gian làm phai màu sắc, nhưng vẻ say mê của bà vẫn còn nguyên. Ngay một người tầm thường như tôi cũng biết đó là bức vẽ Đức Mẹ Đồng Trinh Maria.

– Đây là lá cờ thánh sao?

Peppo vừa nói vừa vuốt cho phẳng:

– Đây là mảnh lụa, giải thưởng lớn của Palio. Nhưng nó rất cổ. Cô có nhìn thấy các chữ số La Mã ở góc không? Đó là năm. – Ông cúi xuống đẻ xác minh con số lần nữa. – Đúng! Đức Mẹ ơi! – Ông quay sang tôi, mắt ngời sáng. – Đây không chỉ là mảnh lụa cổ, mà còn là mảnh lụa huyền thoại nhất! Ai cũng tưởng nó biến mất vĩnh viễn. Nhưng nó đây! Đây là giải thưởng ở Palio năm 1340. Một kho báu vĩ đại! Nó được lót bằng những cái đuôi nhỏ xíu của…tôi không biết tiếng Anh gọi là gì. Nhìn này, – ông chỉ vào mép lụa tả tơi, – ở đây và đây nữa. Không chỉ là những con sóc bình thường, mà là những con sóc đặc biệt. Nhưng ngày nay chúng không còn nữa.

– Thế, thứ này có đáng giá không ạ? Về mặt tiền nong ấy?

– Tiền ư? – Quan niệm ấy xa lạ với Peppo, ông nhìn tôi cứ như thể tôi đề nghị giao việc cho chúa Jesus theo giờ. – Nhưng đây là giải thường! Nó rất đặc biệt….là một vinh dự lớn lao. Từ thời Trung cổ, người thắng cuộc ở Palio nhận được một lá cờ lụa tuyệt đẹp, lót lông thú đắt tiền; người La Mã gọi nói là pallium, chính vì thế các cuộc đua của chúng tôi gọi là Pali. Nhìn này, – ông chỉ cây gậy vào một số lá cờ treo trên tường, – mỗi lần lãnh địa của chúng tôi thắng ở Palio, chúng tôi đều được một giải thường mới cho bộ sưu tập. Chúng tôi có những lá cờ cổ nhất, tới hai trăm năm tuổi.

– Thế ra các vị không có giải thưởng khác từ thế kỷ XIV sao?

– Ồ không! Peppo sôi nổi lắc đầu. – Đây là thứ rất rất đặc biệt. Cô thấy đấy, thời xa xưa, người thắng ở Palio nhận giải thưởng và quấn lên người để mừng chiến thắng. Chính vì thế tất cả đều thất lạc.

– Vậy nó phải đáng giá cái gì đó chứ, – tôi khăng khăng. – Ý em là nó quý hiếm đến thế kia mà.

– Tiền, tiền, tiền, – ông chế nhạo. –Tiền không phải là tất cả. Cô không hiểu sao? Đây là lịch sử của Siena!

Sự nhiệt tình của ông anh họ tương phản gay gắt với tâm trạng của tôi. Sáng nay, dường như tôi liều cả mạng sống vì một con dao cổ han gỉ và một lá cờ bạc màu. Phải, đây là một giải thưởng, và có giá trị như thế, gần như là một đồ tạo tác đầy ma thuật với dân Siena, nhưng, trừ phi tôi nhầm, nếu tôi nhặt được ở ngoài trường thành Siena, nó chỉ là một mảnh giẻ cũ rich vô giá trị.

– Còn con dao thì sao? –Tôi hỏi. – Trước kia anh đã từng nhìn thấy chưa?

Peppo quay bàn và cầm con dao lên.

– Cái này, – ông nói và rút dao ra khỏi vỏ rồi xem xét dưới ngọn chúc đài, – là một con dao găm. Một vũ khí rất có ích.

Ông kiểm tra hình chạm rất kỹ, gật gù một mình vì toàn bộ thứ này bắt đầu có nghĩa.

– Một con đại bàng. Tất nhiên rồi. Nó được cất giấu cùng với giải thưởng từ năm 1340. Tưởng như tôi nên sống để nhìn thấy thứ này. Tại sao ông ấy không bao giờ cho tôi xem nhỉ? Tôi cho rằng ông biết tôi sẽ nói gì. Những báu vật này thuộc về toàn thể thành phố Siena, chứ không chỉ của gia tộc Tolomei.

– Anh Peppo, – tôi nói và lau trán, – em biết làm gì với thứ này?

Ông nhìn tôi, cái nhìn của ông xa vời lạ lùng, dường như một phần ông là hiện tại, còn một phần ở năm 1340.

– Cô có nhớ tôi đã kể cha mẹ cô tin rằng Romeo và Juliet sống ở đây, ở Siena không? Năm 1340 có một Palio gây nên nhiều tranh cãi. Người nói giải thưởng biến mất – giải thưởng đây này – và một kỵ sĩ đã chết trong cuộc đua. Nghe nói Romeo đấu trong Palio ấy, và tôi nghĩ đấy chính là con dao găm của chàng.

Lúc này, sự tò mò của tôi đã át nỗi thất vọng.

– Chàng thắng chứ?

– Tôi không chắc. Có người nói chàng là người chết. Nhưng hãy nhớ lấy lời tôi, – Peppo nhìn tôi, mắt nheo lại, – nhà Marescotti sẽ làm mọi việc để được đặt tay lên cái này.

– Ý anh là, nhà Marescotti hiện đang sống ở Siena ư?

Peppo nhún vai:

– Dù cô tin mảnh lụa này là gì đi nữa, thì con dao găm chính xác là của Romeo. Nhìn hình chạm con đại bàng trên cán dao xem? Cô có hình dung được một báu vật như thế này lại thuộc về họ không?

– Em cho rằng có thể trả nó…

– Không! – Lúc này, niềm hân hoan ngây ngất trong mắt anh họ tôi nhường chỗ cho nhiều cảm xúc mà chẳng còn mê mẩn là mấy. – Cô phải để nó lại đây! Đây là một báu vật và bây giờ thuộc về toàn thành phố Siena, không chỉ của lãnh địa Đại bàng hoặc nhà Marescotti. Cô mang nó đến đây là rất hay.Chúng tôi phải thảo luận việc này với toàn thể các quan chức địa phương của các lãnh địa. Họ rất hiểu biết. Trong thời gian này, tôi sẽ để báu vật này vào két an toàn tránh xa ánh sáng và không khí. – Ông bắt đầu sốt sắng gập mảnh lụa lại. – Tôi hứa với cô, tôi sẽ trông nom nó hết sức cẩn thận. Két an toàn của chúng tôi rất chi là an toàn.

– Nhưng cha mẹ em để nó lại cho em…- tôi liều phản đối.

– Phải, phải, phải, nhưng đây không phải là thứ nên thuộc về bất cứ người nào. Cô đừng lo, các quan chức sẽ biết làm gì.

– Thế còn..

Peppo nghiêm khắc nhìn tôi.

– Tôi là cha đỡ đầu của cô. Cô không tin tôi sao?

Con thấy thế nào? Liệu con có ưng chàng quý tộc này không?

Tối nay con sẽ thấy chàng ở buổi dạ tiệc nhà ta

— ——–oOo—- ——-

Siena, 1340 Công nguyên

Với danh họa Ambrogio, đêm trước lễ Đức Mẹ lên Trời thiêng liêng chẳng khác gì đêm trước lễ Giáng sinh. Suốt lễ vọng ban đêm, cả giáo đường Siena vốn tối tăm nay được thắp sáng huy hoàng với những cây nến lễ khổng lồ – một số cây nặng hơn hai mươi kilo – khi một đoàn diễu hành dài từ các lãnh địa đổ về gian giữa của giáo đường, tiến thẳng tới bàn thờ bằng vàng để tôn vinh Đức Mẹ Đồng Trinh Maria, nữ thần bảo hộ Siena và kỳ niệm ngày bà lên Trời.

Ngày mai chính thức là lễ Đức Mẹ lên Trời, tòa giáo đường uy nghi sẽ được chiếu sáng bằng một rừng đuốc bập bùng khi chư hầu từ các thị trấn và làng mạc xung quanh mang đồ cống nạp tới. Hàng năm vào ngày này, ngày Mười lăm tháng Tám, luật pháp sau khi tính toán cẩn thận sẽ buộc họ cống một số lượng nến sáp ong nhất định để dâng lên nữ thần thiêng liêng của Siena, các quan chức nghiêm khắc của thành phố sẽ có mặt trong giáo đường để bảo đảm rằng mỗi thị trấn và làng mạc trực thuộc nộp đủ số nến quy định. Giáo đường được chiếu sáng bằng muôn vàn ngọn lửa thiêng chỉ thêm khẳng định một điều với những người xa lạ rằng; Siena là một nơi vẻ vang, được một nữ thần đầy quyền uy bảo trợ, và được là người tùy tùng của Người cũng vô cùng đáng giá.

Danh họa Ambrogio thích buổi lễ vọng ban đêm hơn cuộc diễu hành ban ngày. Có một cái gì đó thần diệu diễn ra khi quần chúng mang ánh sáng vào bóng tối, sự xúc động lan vào mọi ngóc ngách tâm hồn họ và nếu nhìn kỹ, có thể thấy cả điều kỳ diệu trong mắt họ.

Nhưng tối nay, ông không thể tham gia đoàn diễu hành như thường lệ. Từ khi ông vẽ các bức bích họa lớn trong cung Pubblico, giới quan chức địa phương đối xử với ông như người cùng hội cùng thuyền – chắc chắn vì họ muốn ông vẽ họ thật đẹp và tôn vinh họ – và thế là ông phải ở đây, trên bậc đài vọng với chín quan chức Biccherna, phụ trách chiến tranh, phụ trách dân chúng. Niềm an ủi duy nhất là địa vị cao cho phép ông nhìn toàn cảnh ban đêm; các nhạc công mặc đồng phục đỏ tươi, các tay trống và những người liệng cờ đeo gia huy, các thầy tu khoác áo choàng óng ả, cuộc diễu hành trong ánh nến cứ tiếp diễn cho đến khi mọi lãnh địa tỏ lòng tôn kính nữ thần đã dang rộng tà áo che chở cho tất cả.

Chắc chắn gia tộc Tolomei dẫn đầu đoàn diễu hành từ lãnh địa San Cristoforo. Gia huy của họ màu đỏ và vàng, ngài Tolomei và phu nhân bước vào gian giữa của giáo đường và tiến thẳng tới ban thờ chính, hành xử hệt như bậc vương giả tiến đến ngai vàng. Một nhóm các thành viên trong gia đình đi ngay sau họ, và chẳng mấy chốc danh họa Ambrogio phát hiện ra Giulietta trong số đó. Dù mái tóc nàng phủ tấm lụa xanh lơ – màu xanh trong trắng và uy nghi của Đức Mẹ Đồng Trinh Maria – và dẫu mặt nàng chỉ được chiếu sáng bằng một cây nến sáp nhỏ trong đôi bàn tay ngoan đạo chắp lại, vẻ kiều diễm của nàng vẫn dễ dàng làm lu mờ mọi thứ xung quanh, kể cả những của cải đẹp đẽ của các anh chị họ nàng.

Nhưng Giulietta không để ý đến những cái nhìn ngưỡng mộ hướng theo nàng suốt dọc đường đến bàn thờ. Nàng chỉ nghĩ đến Đức Mẹ Đồng Trinh Maria, trong lúc mọi người quanh nàng tiến thẳng tới ban thờ cao với vẻ mãn nguyện của người dâng lễ, mắt cô gái chú mục xuống sàn cho đến lúc quỳ cùng các anh chị họ và trao cây nến của mình cho các thầy tế.

Lúc đứng dậy, nàng khẽ nhún gối chào hai lần và quay mặt về phía mọi người. Chỉ đến lúc này, hình như mới chú ý đến vẻ huy hoàng xung quanh, nàng có vẻ hơi xao xuyến dưới mái vòm mênh mông, chăm chú nhìn mọi vật và mọi người với vẻ tò mò, lo lắng. Danh họa Ambrogio không mong gì hơn được ào tới, dâng nàng sự giúp đỡ khiêm nhường của ông, nhưng lễ nghi phép tắ đòi hỏi ông phải ở nguyên tại chỗ, và chỉ được phép thưởng thức vẻ đẹp của nàng từ xa.

Ông không phải là người duy nhất chú ý đến nàng. Các quan chức đang bận rộn đàm phán và bắt tay cũng im bặt khi nhìn thấy gương mặt rạng rỡ của Giulietta. Bên dưới đài vọng, ngay cả ngài Salimbeni trang trọng cũng phải quay nhìn thứ làm tất cả lặng ngắt.. Lúc ngắm cô gái, một vẻ hài lòng, thích thú lan trên mặt ông ta, và đúng lúc ấy, Salimbeni nhớ tới bậc thầy vẽ bức bích họa đã làm ông chú ý, – khi ông còn trẻ và ngốc nghếch – trong một ngôi nhà có tiếng là xấu xa. Cách vẽ miêu tả thần Dionysus đang giáng trần xuống hòn đảo Naxos, tìm công chúa Ariadne bị người tình Theseus phản bội và bỏ rơi ở đó.

Truyền thuyết về cuộc gặp gỡ giữa nàng và vị thần rất mơ hồ một số người thích nghĩ họ hòa thuận, đằm thắm bay đi với nhau còn những người khác hiểu rằng cuộc gặp gỡ giữa con người và các vị thần đa tình có bao giờ kết thúc hạnh phúc đâu.

So Salimbeni với một vị thần có lẽ là sự so sánh quá tử tế, làm rạng danh cho ông ta. Nhưng hồi đó, các vị thần ngoại giáo cổ xưa không hề nhân từ và thân thiện. Dẫu Dionyss là thần rượu và được tán dương, ngài cũng sẵn sàng biến mình thành vị thần của sự điên rồ, một sức mạnh kinh khủng của tự nhiên có thể cám dỗ đàn bà chạy lao vào rừng và xé thịt thú bằng tay không.

Lúc này, Salimbeni đứng đó ngắm Giulietta đi qua nền giáo đường, cái nhìn xấc láo của ông ta tỏ ra nhân từ và dạt dào, nhưng nhà danh họa có thể thấy dưới bộ áo lộng lẫy của người đàn ông, sự biến dạng đang diễn ra.

Nhà danh họa nghe thấy một trong chín vị quan chức lẩm bẩm.

– Này, Tolomei lạ thật đấy. Ông ta nhốt kín cô nàng ở chỗ nào suốt thời gian này thế nhỉ?

– Đừng đùa, – Niccolio Patrizi, vị quan chức già nhất nói. –tôi nghe nói cô ấy bị bọn Salimbeni làm cho mồ côi. Chúng tấn công nhà cô gái trong lúc cô ấy đi xưng tội. Tô biết rõ cha cô ta. Ông ấy là một người đàn ông hiếm có. Chưa bao giờ tôi lung lạc được sự liêm chính của ông ấy.

Người khác khịt mũi:

– Ngài có chắc là cô nàng kia không? Đời nào Salimbeni để một viên ngọc như thế tuột khỏi kẽ tay?

– Tôi biết chắc cô ấy được một giáo sĩ cứu mạng. Tôi đã trả lời cho cả hai. – Niccolino Patrizi thở dài và nhấp một ngụm vang trong cái ly bằng bạc. – Tôi chỉ mong chuyện này không bùng lên mối thù truyền kiếp lần nữa, hiện giờ chúng ta phải kìm nó lại,

Ngài Tolomei nghĩ đến những tuần lễ qua mà sợ. Ngài thừa biết trong buổi lễ vọng Đức Mẹ Đồng Trinh Maria lên trời, ngài sẽ phải đối mặt với kẻ thù, những tên Salimbeni đáng ghê tởm nhất, và lòng tự trọng đòi hỏi ngài phải trả thù cho cái chết của gia đình Giulietta. Sau khi cúi chào trước bàn thờ, ngài tiến thẳng tới chỗ đài vọng, tìm Salimbeni trong số các nhà quý tộc đang tập hợp ở bên dưới.

– Chào ông bạn thân mến! – Salimbeni dang rộng hai tay, cử chỉ rất thân ái khi nhìn thấy kẻ thù cũ đang đến gần. – Tôi hy vọng gia đình ông vẫn mạnh khỏe chứ?

– Hầu như thế, – Tolomei đáp, hàm ông nghiến chặt. – Tôi chắc ông có nghe đồn gần đây có người mải mê bạo lực?

– Tôi có nghe, – Salimbeni nói, cử chỉ thân thiện biến thành cái nhún vai tùy tiện, – nhưng tôi chẳng bao giờ tin lời đồn đại.

– Còn tôi sẽ may mắn hơn, – Tolomei đáp lại, cả vóc người lẫn thái độ đều cao vút lên và không thể kiềm chế nổi, – vì tôi phải tận mắt chứng kiến người sẵn sàng đặt cả hai bàn tay lên Kinh Thánh mà thề -Thực ư? – Salimbeni ngoảnh đi như thể đã chán đề tài này. – Tòa án nào lại xuẩn ngốc đến mức nghe những lời thề ấy?

Tiếp theo câu hỏi là sự im lặng đầy ẩn ý. Tolomei và mọi người xung quanh đều biết ông đang bị một thế lực có khả năng nghiền nát và hủy hoại mọi thứ ông có – tính mạng, tự do và tài sản, – vấn đề chỉ là thời khắc. Các vị quan chức sẽ chẳng làm gì để bảo vệ Tolomei. Trong các két riêng của họ có quá nhiều vàng nhà Salimbeni, và sẽ còn đến nhiều hơn nữa vì không ai trong số họ mong kẻ bạo ngược kia sụp đổ. – Ông bạn thân mến ơi, – Salimbeni nói tiếp, nụ cười tự mãn, nhân từ trở lại, – tôi hy vọng ông không để những sự việc xa xưa ấy phá hỏng buổi tối của ông. Ông nên lấy làm mừng vì những ngày giao chiến giữa chúng ta đã chấm dứt, chúng ta có thể bước vào một tương lai thái bình và thấu hiểu nhau.

– Ông gọi cái này là thái bình và thấu hiểu ư?

– Có lẽ chúng ta có thể cân nhắc..- Salimbeni nhìn qua căn phòng về phía cô gái, và tất cả mọi người có mặt. – trừ Tolomei – đều nhìn thấy thứ ông ta đang nhắm tới, – việc đánh dấu hòa bình của chúng ta bằng một cuộc hôn nhân chăng?

– Tất nhiên! – Trước kia Tolomei đã đưa ra đề xuất này vài lần, nhưng lúc nào cũng bị từ chối. Ông hình dung nếu hòa trộn dòng máu của Salimbeni với Tolomei chắc chắn hai dòng họ sẽ bớt phải đổ máu hơn. Nóng lòng muốn rèn khi sắt đang nóng, ông sốt ruột gọi vợ ở đầu kia căn phòng. Phải vẫy mấy lần, phu nhân Antonia mới tin những người đàn ông muốn bà có mặt, bà lo lắng, khép nép đến chỗ Salimbeni như một nô lệ trước mặt vị chủ nhân dễ thay đổi tính khí

-Ngài Salimbeni thân mến của tôi đề nghị hai gia đình chúng ta kết thân. – Tolomei giải thích với bà. – Phu nhân nghĩ sao? Đây chẳng phải là việc tuyệt vời sao?

Phu nhân Antonia vặn đôi tay, vẻ háo hức nịnh bợ. -Vâng, đúng thế ạ. Một việc tuyệt vời.

Bà suýt nhún gối cúi chào Salimbeni trước khi nói chuyện trực tiếp với ông ta.

– Vì ngài có lòng nói đến chuyện cầu hôn, chúng tôi có một đứa con gái vừa tròn mười ba, tuy nó không hoàn toàn phù hợp với anh Nino rất điển trai của ngài. Con bé ít nói nhưng mạnh khỏe. Nó ở đằng kia, – phu nhân Antonia chỉ qua sàn, – cạnh Tebaldo, trưởng nam của tôi đấy ạ. Nếu ngài không ưng con bé, nó còn cô em gái hiện giờ mười một tuổi.

– Cảm ơn lời mời hào phóng của bà, phu nhân thân mến ạ, – Salimbeni nói, cúi đầu rất lịch thiệp, – nhưng tôi không nghĩ đến con trai tôi. Tôi đang nghĩ cho chính tôi kia.

Cả Tolomei lẫn phu nhân Antonia đều ngớ người, kinh ngạc không thốt nên lời. Mọi người xung quanh cũng không thể tin nổi, song họ vội kìm lại, chỉ bật lên những tiếng xì xào bồn chồn, ngay cả trên đài vọng, tất cả đều theo dõi sự việc tiến triển bên dưới với vẻ lo ngại căng thẳng.

– Cô gái kia là ai vậy? – Salimbeni nói tiếp, rõ ràng không hay biết đến chấn động bên dưới. Ông ta hất đầu về phía Giulietta. – Trước kia, cô ta đã có chồng chưa?

Cơn giận cũ của Tolomei trở lại trong giọng nói của ông:

– Đấy là cháu gái tôi. Nó còn lại một thân một mình sau những sự kiện bi thảm mà tôi vừa nhắc tới. Tôi tin rằng nó sống chỉ để tìm cách báo thù những kẻ đã tàn sát gia đình nó.

– Tôi hiểu. – Trông Salimbeni không hề nao núng. Trái lại, hình như ông ta còn cảm thấy thích thú với thách thức đó. – Cô ta là người có chí khí nhỉ?

Phu nhân Antonia không thể nín lặng lâu hơn, bà sốt sắng dấn tới.

– Rất mạnh mẽ, thưa ngài. Một cô gái rất khó ưa đấy ạ. Tôi tin rằng ngài nên chọn một trong các con gái của tôi thì hơn. Chúng sẽ không phản đối.

Salimbeni mỉm cười, hầu như nói với chính mình. – Như vậy, tôi thích được phản đối hơn.

Dù ở xa, Giulietta cũng cảm thấy nhiều ánh mắt đang đổ dồn vào nàng, và nàng không biết trốn đi đâu để tránh sự soi mói. Hai bác nàng đã bỏ cả họ hàng để hòa vào đám quý tộc, và nàng có thể thấy họ đang trò chuyện với một người toát lên sự phong lưu và cao thượng của một hoàng đế, nhưng lại có cái nhìn tham lam và them khát của thú dữ. Điều đáng lo là cái nhìn của người ấy cứ chốc chốc lại xoáy vào nàng.

Tìm chỗ náu đằng sau một cây cột, nàng hít vài hơi thật sâu và thầm nhủ mọi việc thế là ổn. Sáng hôm nay, tu sĩ Lorenzo đã đưa cho nàng bức thư của Romeo nói rằng cha chàng, sĩ quan chỉ huy Marescotti sẽ gặp ông bác Tolomei của nàng để cầu hôn càng sớm cùng tốt. Từ lúc nhận được bức thư đó, nàng chỉchăm chăm cầu xin Chúa Trời để cuộc cầu hôn được chấp thuận và tình trạng lệ thuộc của nàng vào gia đình Tolomei sẽ trở thành quá khứ.

Ngó nhìn từ sau cây cột, Giulietta có thể nhận ra chàng Romeo tuấn tú của nàng trong đám các nhà quý tộc, trừ phi nàng nhầm, chàng đang vươn người và nhìn quanh tìm nàng, và hình như mỗi lúc càng thêm bực tức vì không thấy nàng ở đâu. Đứng cạnh chàng là một người đàn ông chỉ có thể là phụ thân của chàng. Nàng cảm thấy niềm vui dâng tràn khi nhìn thấy họ, biết rằng cả hai quyết thỉnh cầu nàng trở thành người nhà họ. Khi nhìn thấy họ tiến tới chỗ ông bác Tolomei, nàng đã cố dằn lòng. Kín đáo tiến đến gần hơn, từ cây cột này sang cây cột khác, nàng cố lại gần để nghe được câu chuyện của những người đàn ông mà không bị họ phát hiện. May cho nàng, họ đang mải mê với chủ đề hấp dẫn nên chẳng chú ý gì.

– Chào chỉ huy! – Bác Tolomei của nàng kêu to khi nhìn thấy cha con Marescotti tiến tới. – Hãy cho chúng tôi biết kẻ thù có đang ở các cổng không đây?

– Kẻ thù đã ở ngay đây, – sĩ quan chỉ huy Marescotti đáp, và lịch sự gật đầu với người đàn ông có cặp mắt ác thú đang đứng cạnh bác nàng, – Tên nó là tham nhũng, và nó không chịu dừng lại ngoài cổng. – Ông ngừng giấy lát, để mọi người cười phá lên. – Thưa ngài Tolomei, có một việc tế nhị mà tôi muốn bàn bạc với ngài. Việc riêng thôi. Khi nào tôi có thể đến thăm ngài?

Tolomei nhìn sĩ quan Marescotti, tỏ rõ sự khó hiểu. Nhà Marescotti có thể không giàu có như nhà Tolomei, nhưng ngọn đuốc lịch sử chiếu sáng tên tuổi họ, và cây phả hệ của gia tộc Marescotti chắc đã phát triển về phía Charlemagne từ năm thế kỷ trước, nếu không phải ở chính Eden. Chắc Giulietta sẽ rất vui nếu bác Tolomei của nàng bước vào công cuộc làm ăn với một người mang tên tuổi tầm cỡ ấy. Thé là ông quay lưng lại người đàn ông có cái nhìn của thú dữ và dang rộng đôi tay:

– Xin hãy cho tôi biết ngài muốn gì.

Sĩ quan Marescotti ngập ngừng, không vui vì khung cảnh công khai và có biết đôi tai ở tứ phía quanh họ. -Tôi cho rằng ngài Salimbeni không mấy thích thú với công việc của chúng ta, – ông nói, rất xã giao. Nghe thấy tên Salimbeni, Giulietta thấy toàn thân nàng cứng đờ vì sợ. Chỉ đến lúc này, nàng mới hiểu rằng gã đàn ông có cặp mắt thú dữ kia – kẻ đã gây nên những cử chỉ hèn mọn của phu nhân Antonia lúc trước – là kẻ phải chịu trách nhiệm về vụ tàn sát gia đình nàng.

Nàng đã mất bao thời gian để tưởng tượng con ác quỷ đội lốt người ấy trông ra sao, cuối cùng hắn đứng trước mặt nàng, nàng sửng sốt khi thấy ngoài đôi mắt ra, trông hắn không hề hung dữ.

Nàng đã hình dung đến một kẻ to ngang và hay hiềm thù, thích chiến tranh và hay quấy nhiễu; thay vào đó, nàng nhìn thấy một người có vẻ như chưa bao giờ cầm đến vũ khí, dường như tài khéo léo của ông ta chỉ là lối nói khoa trương trong phòng ăn. Không gì tương phản giữa hai người đàn ông như giữa sĩ quan chỉ huy Marescotti và Salimbeni: một người là chuyên gia chiến tranh không thèm khát gì ngoài hòa bình, còn người kia là chiếc áo choàng lịch sự khoác quanh người, nhưng dưới lớp vải tinh tế là nỗi thèm khát xung đột.

– Ngài nhầm rồi, thư ngài sĩ quan, – Salimbeni thưởng thức sức mạnh trong câu nói, – tôi rất thích thú chuyện làm ăn và không thể đợi được đến sáng. Ông biết đấy, ngài Tolomei và tôi là bạn tốt của nhau, chắc chắn ông ấy sẽ không từ chối…- Salimbeni đủ chân thành để cười thầm khi chọn từ, – lời khuyên khiêm nhường của tôi về công việc rất ư quan trọng của các ngài.

– Xin ngài tha lỗi, – Marescotti nói và lịch thiệp cúi đầu, – nhưng ngài nói đúng. Việc này có thể đợi đến sáng.

– Không! – Romeo không thể bỏ đi mà chưa nói rõ việc của họ, chàng bất ngờ bước tới và cha chàng không kịp ngăn lại. – Không thể đợi được ạ! Thưa ngài Tolomei, tôi mong muốn được kết hôn với Giulietta, cháu gái của ngài.

Lời đề nghị thẳng thừng này khiến Tolomei ngạc nhiên đến mức không thể phản ứng ngay tức thì. Ông không phải là người duy nhất lặng ngắt vì Romeo đã bốc đồng xen vào cuộc bàn bạc của những người đàn ông, mà mọi người xung quanh cũng đều rướn người xem ai có dũng khí nói tiếp. Đằng sau cây cột, Giulietta dưa tay lên che miệng, nàng cảm động vì quyết tâm của Romeo, nhưng cũng kinh hãi vì chàng nói năng hấp tấp, chống lại mong muốn của cha mình.

– Ngài có thể nghe thấy rằng, – sĩ quan Marescotti bình tĩnh khác thường, nói với ngài Tolomei đang há miệng ngạc nhiên, – tôi muốn đề nghị một cuộc hôn nhân giữa trưởng nam của tôi là Romeo với Giulietta, cháu gái ngài. Tôi chắc ngài thừa biết rằng chúng tôi là một gia đình giàu có và danh tiếng, và với tất cả sự kính trọng, tôi tin mình có thể hứa rằng, cháu gái của ngài sẽ không hề bị giảm sút sự an nhàn cũng như địa vị. sau khi tôi qua đời, người kế nghiệp và bảo trợ gia đình tôi sẽ là Romeo, con trai tôi, và Giulietta sẽ trở thành nữ chủ nhân của một cơ ngơi lớn, gồm nhiều tòa nhà và đất đai rộng rãi, các chi tiết này tôi đã thảo trong một hồ sơ. Khi nào có dịp chúng ta đến thăm nhau, tôi có thể đích thân mời ngài xem hồ sơ đó được không?

Tolomei không đáp. Nhiều nét khác thường lướt qua mặt ông, như đàn cá mập lượn vòng quanh nạn nhân dưới mặt nước, và rõ ràng ông đang khổ sở tìm lối thoát.

– Nếu ngài quan tâm đến hạnh phúc của cô ấy, – sĩ quan Marescotti nói tiếp, không hài lòng vì sự do dự của ngài Tolomei, – thì đây là dịp tôi để tôi có thể bảo đảm với ngài rằng, con trai tôi không hề phản đối cuộc hôn nhân này.

Cuối cùng, lúc Tolomei cất lời, giọng ông đã giữ được chút dũng khí.

– Ngài rất hào phóng, – ông nói dứt khoát, – ngài đã cho tôi vinh dự lớn lao vì lời cầu hôn này. Tôi sẽ xem kỹ hồ sơ và cân nhắc lời đền nghị của ngài…

– Ngài không cần phải làm thế! – Salimbeni bước xen vào giữa hai người, giận dữ vì bị phớt lờ. – Tôi cho rằng việc này đã giải quyết xong.

Sĩ quan Marescotti lùi lại một bước. Có lẽ vì ông là một chỉ huy quân đội và luôn trong tư thế sẵn sàng đối phó với các cuộc tấn công lét lút, bẩn thỉu, hơn nữa Salimbeni quá nguy hiểm với bất cứ kẻ thù nào. -Chúng tôi xin lỗi! – Ông nói, -Tôi tin rằng ngài Tolomei và tôi đang trò chuyện.

– Các ngài muốn nói gì tùy thích, -Salimbeni đập lại, – nhưng cô gái ấy là của tôi. Đây là một điều kiện của tôi để duy trì tình trạng hòa bình lố bịch này.

Không ai nghe thấy tiếng kêu kinh hoàng của Giulietta lẫn trong tiếng ồn ào chung, sau đòi hỏi quá quắt của Salimbeni. Nấp sau cây cột, nàng ép cả hai bàn tay lên miệng và ra sức cầu nguyện rằng nàng đang hiểu lầm câu chuyện của những người đó, rằng cô gái trong cuộc đối thoại kia không phải là nàng, mà là người khác.

Cuối cùng, lúc đủ can đảm nhìn lại, nàng thấy ông bác Tolomei của người bước tới gần Salimbeni để trả lời sĩ quan Marescotti mặt ông ta nhăn nhó vì ngượng ngập:

– Thưa ngài thân mến, – Tolomei nói, tiếng ông run run, – như ngài nói, đây là một việc tế nhị. Nhưng chắc là chúng ta có thể dàn xếp.

-Thực thế ạ! – Rốt cuộc, phu nhân Antonia đã dám xen vào, lần này bà ta khúm núm với viên sĩ quan đang cau có. –Tôi có một đứa con gái tròn mười ba tuổi, nó sẽ là người vợ tuyệt vời cho con trai ngài. Nó đứng ở kia kìa, ngài có thấy không ạ?

Sĩ quan Marescotti chẳng buồn quay đầu nhìn.

– Ngài Tolomei, – ông nói, kiên nhẫn vì ông vẫn còn có thể tập trung, – chúng tôi chỉ cầu hôn cháu gái ngài Giulietta của ngài thôi. Ngài có thể khuyên bảo cô ấy về việc này. Ngày nay không còn là thời man rợ, phớt lờ những mong muốn của phụ nữ…

– Giulietta là cháu gái tôi! – Tolomei ngắt lời bực bội vì bị vợ xen ngang, và không vui vì trở thành nạn nhân của câu chuyện, – và tôi có thể bảo ban nó theo cách tôi đã chọn. Tôi cảm ơn sự quan tâm của ngài, thưa ngài Marescotti, nhưng tôi có những dự định khác cho cháu.

– Tôi khuyên ngài nên cân nhắc việc này cẩn thận hơn, – sĩ quan Marescotti nói, dấn một bước như thể cảnh cáo. – Cô gái đã gắn bó với con trai tôi, người mà cô ấy gọi là vị cứu tinh, và cô ấy sẽ đau khổ nếu ngài bắt cô ấy lấy người khác. Nhất là với người..- ông ném cái liếc mắt phẫn nộ vào Salimbeni – người hình như hiểu rất rõ tấn thảm kịch đã xảy ra với gia đình cô ấy.

Đối mặt với lập luận vững chắc ấy, Tolomei lúng túng không tìm ra lời phản bác. Ngay Giulietta cũng đâm thương ông; đứng giữa hai người đàn ông, bác nàng trông như người sắp chết đuối đang cố níu lấy những tấm ván tản mát của con thuyền, mà kết quả chẳng được gì.

– Theo tôi hiểu, thì ngài đang phản đối yêu sách của tôi, phải không ngài sĩ quan? – Salimbeni hỏi, lại bước vào giữa hai người. – Chắc ngài không có ý nghi ngờ quyền làm chủ gia đình của ngài Tolomei đấy chứ? Và chắc…- vẻ đe dọa trong mắt Salimbeni không lẫn vào đâu được, – nhà Marescotti không khao khát tranh chấp với Tolomei và Salimbeni chứ?

Đứng sau cây cột, Giulietta không thể kìm được nước mắt. Nàng muốn chạy tới chỗ những người đàn ông và ngăn họ lại, nhưng biết rằng sự có mặt của mình chỉ làm cho sự việc tồi tệ hơn mà thôi. Khi lần đầu tiên Romeo nói đến ý định kết hôn với nàng – cái ngày ở phòng xưng tội – chàng đã nói rằng, giữa các gia tộc của họ luôn hòa bình. Giờ đây, hình như vì nàng, những lời lẽ ấy không còn đúng nữa.

Niccolino Patrizi, một trong chính vị quan chức hàng đầu của Siena, đã nghe lỏm được cuộc xung đột đang leo thang bên dưới đài vọng và thấy mỗi lúc một thêm e sợ. Ông không phải là người duy nhất.

– Khi họ là tử thù, tôi rất sợ họ, – người ngồi cạnh ông vừa trầm ngâm, vừa nhìn xoáy vào Tolomei và Salimbeni. – Giờ họ là bạn, tôi thậm chí càng sợ nhiều hơn.

– Chúng ta là chính quyền! Chúng ta phải vượt lên xúc cảm bình thường của con người! – Niccolino Patrizi kêu to và nhổm lên khỏi ghế. – Ngài Tolomei! Ngài Salimbeni! Tại sao lại có vẻ bí mật như thế trong lễ vọng Đức Mẹ lên Trời? Tôi hy vọng các ngài không tiến hành làm ăn trong ngôi nhà của Chúa chứ?

Sự im lặng đầy ẩn ý bao trùm tầng lớp quý tộc khi những lời này thốt ra từ đài vọng và bên dưới bàn thờ cao, trong phút chốc vị Giám mục quên cả ban phúc.

-Thưa ngài Patrizi tôn quý! – Salimbeni đáp lại, vẻ lễ độ châm biếm. – Ngài không cần khen ngợi chúng tôi hoặc bản thân bằng những lời như thế. Ngài nên chúc mừng chúng tôi thì hơn, vì ông bạn rất thân thiết Tolomei của tôi và tôi đã quyết định đánh dấu sự hòa bình lâu dài của chúng tôi bằng một cuộc hôn nhân.

– Xin chia buồn vì cái chết của vợ ngài! – Niccolino Patrizi nói tolomei. – Toi chưa được nghe tin phu nhân đã qua đời!

– Phu nhân Agnese sẽ không sống qua tháng này. – Salimbeni nói, không hề tỏ vẻ xúc động. – Bà ấy nằm liệt giường ở pháp đài Tentennano và không ăn uống được gì.

– Thật khó mà ăn, khi ngài không cho! – – Một trong các vị chắc sắc lầm bầm.

– Ngài sẽ cần phải cầu xin Đức Giào hoàng chấp thuận lễ cưới giữa những kẻ thù cũ, – Nicoolino Patrizi nhấn mạnh, – nhưng tôi không chắc ngài sẽ được chấp thuận. Dòng sông máu đã rửa trôi con đường giữa nhà các ngài và không người đàn ông tử tế nào lại dám đưa con gái băng qua. Một hồn ma độc ác…

– Chỉ hôn nhân mới xua tan được những hồn ma đọc ác!

– Đức Giáo hoàng lại tin vào chuyện khác!

– Có thể, – Salimbeni nói, cho phép nụ cười khiếm nhã bẻ cong dôi môi, – nhưng Giáo hoàng nợ tiền tôi, Cả ngài cũng thế.Tất cả các ngài.

Lời khẳng định kỳ quái đó ngay lập tức có hiệu quả. Niccolino Patrizi ngồi xuống, mặt đổ bừng vì giận dữ, còn Salimbeni trơ tráo nhìn khắp lượt những nguười còn lại trong chính quyền, dường như thách thức tất cả những ai dám chống lại sự ngạo nghễ của ông ta. Nhưng cả bậc đài vọng lặng ngắt.

– Ngài Salimbeni! – Một tiếng nói xuyên qua tiếng thì thầm phẫn nộ cố nén lại, và mọi người đều rướn lên để nhìn người thách đấu.

– Ai nói đấy? – Salimbeni lúc nào cũng thích thú tận dụng cơ hội đặt những người thấp kém hơn vào đúng chỗ của họ. – Đừng nhút nhát thế!

– Nhút nhát thuộc phần tôi, -Romeo đáp và tiến tới, – còn tử tế thuộc phần ngài, thưa ngài Salimbeni.

– Cái gì hở, hãy cầu nguyện đi, – Salimbeni ngẩng cao đầu, cố nhìn xuống đối thủ. – Ngươi có thể nói thế với ta ư?

– Chỉ vì, – Romeo nói, người phụ nữ ngài thèm muốn đã thuộc về người đàn ông khác.

– Thực thế sao? – Salimbeni liếc nhìn Tolomei. – Sao lại thế?

Romeo đứng thẳng lên:

– Đức Mẹ Đồng Trinh Maria đã đặt nàng vào tay tôi để tôi có thể che chở nàng mãi mãi. Và thứ mà Thượng đế đã bện tết, không người nào được tháo cởi!

Lúc đầu Salimbeni hoài nghi, rồi cười phá.

– Nói hay lắm, chàng trai ạ, giờ thì ta nhận ra cậu rồi. Con dao găm của cậu đã giết chết một người bạn tốt của tôi, nhưng ta sẽ rộng lượng bỏ qua và không hận thù, có vẻ như ngươi đã chăm sóc cô dâu tương lai của ta rất tốt.

Quay đi, Salimbeni coi như câu chuyện đã chấm dứt. Lúc này mọi con mắt đổ dồn vào Romeo, mặt chàng bừng bừng vì sự thay đổi đột ngột và nhiều người cảm thấy thương chàng trai trẻ rõ ràng là nạn nhân của tay thiện xạ ti tiện và nguy hiểm.

– Đi thôi con trai, – sĩ quan Marescotti nói và quay lưng đi. – Chúng ta đừng nấn ná ở đây mà bỏ lỡ cuộc thi đấu.

– Bỏ lỡ ư? – Romeo kêu lên. –Sẽ không bao giờ có cuộc thi đấu nào nữa!

– Dù thái độ của những người này có thế nào đi nữa, – cha chàng nói,- họ cũng đã bắt tay dưới bàn thờ Đức Mẹ Đồng Trinh. Tranh chấp với họ là con tranh chấp với Chúa đấy.

– Con nhất định sẽ làm thế!- Romeo tuyên bố. – Vì thượng đế đã chống lại chính bản thân Người khi cho phép chuyện này xảy ra!

Khi chàng trai lai tiến tới, không cần làm gì để giữ yên lặng, vì những cái nhìn lo lắng của mọi người dồn hết lên đôi môi chàng vẻ mong đợi.

– Đức Mẹ thiêng liêng của Chúa! – Romeo thét to, ngạc nhiên vì toàn thể đều hướng lên không gian của mái vòm bên trên chứ không hề chú ý đến Salimbeni. – Một tội ác lớn lao sắp diễn ra tại chính ngôi nhà này, dưới tà áo choàng của Người, ngay trong đêm nay! Con xầu xin Người hãy dựng bọn du thủ du thực đứng thẳng dậy và hiện ra trước mắt chúng, để không kẻ nào còn nghi ngờ ý chí thiêng liêng của Người! Hãy để người chiến thắng ở Palio chính là do Người lựa chọn! Xin Người ban cho con ngọn cờ thiêng của Người để con có thể trải trên giường cưới và ngủ trên đó với cô dâu hợp pháp của con! Nếu lời cầu xin được đáp ứng, con sẽ trả lại lá cờ cho Người, thưa Đức Mẹ nhân từ vì nó đã theo ý muốn của Người, do chính bàn tay Người ban cho con, và cho toàn nhân loại thấy Người ủng hộ con trong việc ày!

Khi Romeo yên lặng, không người nào xung quanh dám nhìn vào cặp mắt chàng. Một số sợ chết điếng vì lời báng bổ, những người khác xấu hổ vì một Marescotti dám làm một cuộc mặc cả ích kỷ, trái thông lệ như thế với Đức Mẹ Đồng Trinh Maria, nhưng phần lớn thương cho cha chàng, sĩ quan Marescotti vốn được mọi người ngưỡng mộ. Dù sao này, lời báng bổ rành rành kia có sự can thiệp của thần thánh hay chỉ đơn thuần là chính kiến của con người, thì trong ý nghĩ của đa phần dân chúng, chàng Marescotti trẻ tuổi sẽ không được phép sống sót qua Palio.

Phải, phải, trầy xước chút thôi. Ôi mẹ ơi, thế cũng đủ rồi.

Hầu đâu? Mau chạy đi tìm thầy thuốc cho ta

— ——–oOo—- ——-

Ra khỏi bảo tàng Cú, tôi bật khóc, Một mặt, thấy nhẹ người vì mảnh lụa thưởng và con dao găm của Romeo hiên giờ nằm trong két của Peppo; mặt khác, tôi tiếc vì đã dễ dàng trao chúng cho người khác như thế. Nhỡ mẹ tôi muốn tôi sử dụng chúng cho một mục đích cụ thể nào đó thì sao? Biết đâu chúng mang lại manh mối để định vị ngôi mộ của Juliet

Suốt đường trở về khách sạn, tôi cố cưỡng lại thôi thúc quay lại bảo tàng và đòi những báu vật của mình. Tôi không làm thế chỉ vì biết rằng sự thỏa mãn khi lấy lại được chúng sẽ nhanh chóng nhường chỗ cho nỗi sợ hãi về sự việc xảy ra với chúng sau đó. Ai dám nói chúng ở trong két của Peppo an toàn hơn trong két của giám đốc Rossini? Và lại, tên côn đồ kia biết nơi tôi ở, liệu hắn có phá cửa vào phòng tôi lần nữa không? Sớm hay muộn, hắn sẽ biết nơi tôi cất các thứ của mình.

Tôi dừng lại giữa đường phố. Cho đến lúc này, tôi không hề nghĩ trở lại khách sạn là việc không mấy khôn ngoan, không bao giờ nghĩ tôi không còn mang theo các đồ tạo tác kia nữa. Chắc chắn rằng tên du côn kia đang đợi tôi làm việc đó. Sau cuộc chơi trốn – tìm ở khu lưu trữ của trường đại học, hắn sẽ không còn tâm trạng khoan hồng đặc biệt nào nữa.

Rõ ràng là tôi phải chuyển sang khách sạn khác, và phải làm thế nào để xóa hết dấu vết. Hoặc có thể chuyện này thực tế là ám hiệu bắt tôi nhảy lên chuyến bay tới, trở lại Virginia?

Không. Tôi không thể từ bỏ. Không phải lúc này, khi tôi đã đi được một chặng đường nào đó. Tôi sẽ đổi khách sạn, có lẽ ngay đêm nay, khi trời tối. Tôi sẽ trởi thành kẻ vô hình, láu cá tầm thường. Lần này, Juliet sắp được nghỉ ngơi.

Khách sạn Chiusarelli và đồn cảnh sát nằm trên cùng một tuyết phố. Tôi nấn ná ở bên ngoài một chút, quan sát các cảnh sát tới, lui và tự hỏi liệu đây có phải là một nước cờ thông minh hay không – làm như mình biết luật lệ nơi đây và cứ liều cho họ phát hiện ra nhận dạng kép của tôi. Rốt cuộc, tôi quyết định không làm thế. Theo kinh nghiệm ở Rome và Copenhagen, tôi biết rằng cảnh sát giống hệt các phóng viên, và chắc chắn là họ sẽ lắng nghe câu chuyện, nhưng họ thích thêm thắt theo kiểu của họ nhiều hơn. Thế là tôi cuốc bộ trở lại khu thương mại, cứ mươi bước lại rẽ, xem có kẻ nào đi theo không, và suy nghĩ đến chiến lược đúng đắn của tôi từ nay trở đi. Tôi vào cả nhà băng ở lâu đài Tolomei, xem liệu chủ tịch Maconi có thời gian gặp và cho tôi lời khuyên không. Không may, ông đi vắng, nhưng người thu ngân đeo kính mỏng – giờ là bạn tốt nhất của tôi – cam đoan với tôi rằng ông ấy sẽ không có gì vui hơn việc gặp lại tôi khi ông trở về, sau chuyến nghỉ mươi ngày ở hồ Como.

Từ khi tới Siena, tôi đã đi qua cửa chính bị cấm của Monte dei Paschi vài lần. Tôi luôn rảo bước qua pháo đài Salimbeni để không bị phát hiện, thậm chí tôi còn chúi đầu xuống, tự hỏi phòng làm việc của Đội trưởng An ninh quay ra Corso hay hướng khác.

Nhưng hôm nay thì khác. Hôm nay là ngày tôi không sợ nguy hiểm và đã tận dụng dịp này. Thế là tôi tới cửa trước hình Gothic và bước vào bên trong, chắc chắn các camera giám sát sẽ ghi lại rất rõ dáng dấp một người lạ như tôi.

Với một tòa nhà từng bị các gia đình thù địch thiêu rụi – gia đình tôi là một trong số đó, – bị dân chúng giận dữ phá tả tơi, được các chủ nhân xây dựng lại vài lần, rồi bị chính phủ sung công, và cuối cùng tái sinh như một thể chế tài chính vào năm 1472, khiến nó thành nhà băng cổ nhất còn sống sót trên thế giới, lâu đài Salimbeni là một nơi yên tĩnh khác thường. Nội thất thiết kế nhào trộn thời Trung cổ với hiện đại theo kiểu hợp với cả hai, và lúc tôi đến khu vực lễ tân, khoảng thời gian giữa hiện tại và quá khứ như khép lại quanh tôi, không hề có đường ráp nối.

Nhân viên lễ tân đang bận nói chuyện điện thoại, nhưng vẫn đưa tay che ống nghe và hỏi – bằng tiếng Ý trước, rồi sau đó bằng tiếng Anh – tôi đến gặp ai. Khi tôi nói là bạn của Chỉ huy An ninh, có việc gấp cần bàn với anh ta, người đó mỉm cười và nói tôi có thể tìm gặp anh ở tầng hầm.

Thật ngạc nhiên đến thú vị khi người đó để tôi vào như thế này, không có người đi kèm và không cần báo trước, tôi bắt đầu xuống cầu thang, cố tình ra vẻ thờ ơ, trong lúc một hàng chuột nhắt đang nhảy múa chí tử trong lồng ngực. Chúng đã im thin thít đến mức kỳ cục khi tôi nhạy trốn gã mặc thường phục lúc trước, nhưng ở đây, chúng sôi lên sung sục chỉ vì tôi sắp gặp Alessandro.

Đêm hôm trước, lúc bỏ lại Alessandro lại khách sạn, thật lòng tôi không hề muốn gặp lại anh ta lần nữa. Tôi chắc cả hai đều có cảm giác như thế. Vậy mà tôi đang ở đây, thẳng tiến tới hang ổ của anh ta chẳng vì lý do gì ngoài bản năng. Janice hay nói rằng bản năng là lý do bột phát nhất. Tôi không chắc vai trò của lý do đó. Lý trí bảo tôi rằng có vẻ như Alessandro và nhà Salimbeni bị cuốn vào những chuyện bẩn thỉu vừa ngáng đường tôi; tuy nhiên, sự gan góc lại mách bảo, tôi có thể dựa vào Alessandro, dẫu chỉ để biết anh ta ghét tôi đến chừng nào.

Lúc tôi vào tầng hầm, không khí mát hơn rất nhiều, những dấu vết của cấu trúc tòa nhà nguyên gốc bắt đầu lộ ra ở các bức tường thô ráp và bị mài mòn quanh tôi. Thời Trung cổ, chỗ nền này là một tòa tháp cao, có lẽ cao ngang với tháp Mangia ở Camp. Toàn bộ thành phố từng đầy rẫy những tòa nhà tháp như thế này. Chúng được dùng làm công sự trong thời buổi loạn lạc.

Ở chân cầu thang có một hành lang hẹp chui sâu vào bóng tối, một bên có nhiều cánh cửa bọc sắt khiến nơi này giống như ngục tối. Tôi bắt đầu sợ rằng mình đã rẽ nhầm ở nơi nào đó dọc đường, bất chợt nhiều giọng nói bùng lên, tiếp theo là tiếng hoan hô từ sau một cánh cửa mở nửa chừng.

Tôi đến gần cửa, hơi e sợ. Dù Alessandro có thực ở đây hay không, tôi sẽ phải giải thích dài dòng về việc mình định làm, nhưng lập luận chưa bao giờ là mặt mạnh của tôi. Ngó vào bên trong, tôi thấy một cái bàn đầy các bộ phận bằng kim loại và nhiều miếng sandwich ăn dở, một bức tường treo súng trường, ba người đàn ông mặc quần đồng phục và áo phông – một người trong bọn là Alessandro – đứng quanh màn hình một chiếc tivi nhỏ. Thoạt tiên, tôi ngỡ họ đang quan sát một camera giám sát ở đâu đó trong tòa nhà, nhưng khi tất cả bất chợt rên lên và ôm đầu, tôi hiểu rẳng họ đang xem một trận bóng đá.

Không thấy ai phản ứng với tiếng gõ cửa đầu tiên của mình, tôi đẩy cánh cửa – chỉ một chút thôi – và hắng giọng. Rốt cuộc, Alessandro quay đầu xem kẻ nào dám cả gan ngắt quãng cuộc chơi của họ, và khi nhìn thấy tôi đứng đó, gượng cười, trông anh ta giống như người bị ai đó quật một cái chảo rán lên đầu.

– Xin lỗi đã làm phiền, – tôi nói, cố để trông không giống thằng nhóc đi cà kheo, dù chắc rằng tôi đúng là như thế. – Anh có thể dành cho tôi một lát được không?

Lát sau, hai người kia rời phòng, họ vớ lấy súng và áo khoác đồng phục, nhét miếng sandwich ăn dở vào miệng.

– Thế là thỏa mãn tính tò mò của tôi rồi, – Alessandro nói, tắt tivi và quẳng cái điều khiển sang một bên. Rõ ràng là anh ta không nghĩ tôi cần nghe nốt câu nói, dẫu cách nhìn cho thấy anh ta ngầm hài lòng khi thấy tôi, dù thực tế, tôi dai như một con đỉa bám vào bụng dưới vô đạo đức của xã hội.

Tôi ngồi lên một cái ghế trống, nhìn các thứ vũ khí trên tường. – Đây là phòng làm việc của anh à?

– Phải. – Anh ta kéo đôi dây đeo quần lên vai và ngồi xuống cái ghế ở bên kia bàn. – Đây là nơi chúng tôi thẩm vấn. Phần lớn là người Mỹ. Đây từng là phòng tra tấn.

Sự thách thức trong mắt Alessandro làm tôi quên mất nỗi lo lắng chung chung và lý do vì sao tôi tới đây. – Nó hợp với anh nhỉ?

– Tôi nghĩ thế. – Anh ta gác cái ủng nặng trịch lên mép bàn và dựa lưng vào tường.- Tôi nghe đây. Chắc cô phải có lý do thích đáng để tới đây.

– Tôi sẽ không gọi nó chính xác là lý do. – Tôi ngoảnh đi, cố gắng nhớ lại cách tường thuật trịnh trọng tôi đã tập dượt lúc xuống cầu thang, nhưng vô ích. – Chắc anh cho tôi là một con mụ quỷ quyệt…

– Tôi thấy còn tệ hơn kia.

-…và tôi cũng không ghi tên vào câu lạc bộ những người hâm mộ anh đâu.

Anh ta cười gượng:

– Vậy mà cô đã tới đây.

Tôi khoay tay trước ngực, nén một tiếng cười lo lắng.

– Tôi biết anh không tin tôi là Giulietta Tolomei, và anh biết gì không? Tôi không quan tâm. Nhưng điểm mấu chốt là…- Tôi nuốt khó nhọc, cố giữ vững giọng nói, – có người đang cố giết tôi.

– Cô định nói là, ngoài cô ra?

Lời châm chọc của anh ta giúp tôi lấy lại bình tĩnh.

– Có một gã đi theo tôi, – tôi nói, giọng cộc cằn. – Loại người khó chịu. Mặc thường phục. Loại cặn bã. Tôi hình dung hắn là một người bạn của anh.

Alessandro không hề nao núng:

– Vậy cô muốn tôi làm gì?

– Tôi không biết…- Tôi tìm kiếm một tia cảm thông trong mắt anh ta. – Anh giúp tôi nhé? Có một tia như tôi mong, nhưng gần như là đắc thắng.

– Hãy cho tôi biết vì sao tôi phải làm thế?

– Này! – Tôi kêu lên, thực sự lúng túng vì thái độ của anh ta. – Tôi …là một cô gái đang lâm vào cảnh gieo neo!

– Còn tôi là ai. Hiệp sĩ chắc?

Tôi nuốt một tiếng rên, tự giận mình vì tưởng anh ta sẽ quan tâm. -Tôi tưởng đàn ông Italy dễ xúc động vì sức mê hoặc của nữ giới.

Anh ta cân nhắc ý kiến đàn ông:

– Chúng tôi là thế. Khi chúng tôi gặp đúng người.

– Thôi được, – tôi nói, nuốt cơn giận, – đủ rồi. Anh muốn tôi cuốn xéo, và tôi sẽ đi. Tôi sẽ trở về Mỹ và không bao giờ làm phiền anh hoặc bà mẹ đỡ đầu đẹp như tiên của anh nữa. Nhưng trước hết, tôi muốn tìm ra gã đó là ai, và phải có người đập vỡ mông hắn chứ.

– Và người đó là tôi ư?

Tôi trừng trừng nhìn anh ta:

– Có thể là không. Tôi chỉ giả sử một người như anh sẽ không muốn một kẻ như hắn chạy lung tung trong thành phố Siena yêu dấu của anh. Nhưng…- tôi làm động tác đứng dậy, – tôi thấy mình đã hoàn toàn lầm tưởng về anh.

Cuối cùng, Alessandro chúi người về phái trước, chống khuỷu tay lên bàn với vẻ ân cần giả vờ. — – Cô Tolomei, hãy cho tôi biết vì sao cô nghĩ có kẻ muốn giết cô.

Tôi chẳng có chỗ nào mà đi cũng chẳng sao, tôi sẽ rời khỏi nơi ấy ngay, nếu rốt cuộc, anh ta không gọi tôi là cô Tolomei.

– Ờ, – tôi lúng túng cựa quậy trên mép ghế. – Như thế này: hắn đi theo tôi suốt các phố, đột nhập vào phòng tôi ở khách sạn, và sáng hôm nay, hắn cầm súng đuổi theo tôi…

– Vậy là…-Alessandro nói, trình bày rất kiên nhẫn, – đừng nghĩ hắn định giết cô. – Anh ta ngừng một lát, quan sát thật kỹ nét mặt tôi rồi cau mày. – Sao cô lại mong tôi giúp cô, nếu cô không kể thật với tôi?

– Nhưng tôi đang nói thật mà! Tôi thề!

Tôi cố nghĩ ra cách khác để thuyết phục anh ta, nhưng mắt tôi bị hút vào những hình xăm trên cánh tay phải của anh, và đầu tôi bận rộn xử lý thông tin đó. Đây không phải là Alessandro tôi mong được gặp khi bước vào lâu đài Salimbeni. Alessandro tôi biết tao nhã và tinh tế nếu không nói là rất chuộng nghi thức, chắc chắn anh ta không thể có con chuồn chuồn – hoặc bất cứ thứ quỷ nợ gì đó – xăm trên cổ tay. Nếu Alessandro có đọc được ý nghĩ của tôi, anh ta đã không lộ ra.

– Không phải toàn bộ sự thật. Còn nhiều chỗ khuyết trong trò chơi ghép hình này.

Tôi đứng phắt dậy:

– Cái gì làm anh nghĩ có một bức tranh lớn?

– Lúc nào cũng có một bức tranh lớn. Vì thế, hãy cho tôi biết hắn theo đuổi thứ gì?

Tôi hít một hơi sâu, chỉ vì quá hiểu rằng tôi tự đặt mình vào tình thế này, và anh ta có quyền được nghe giải thích rõ ràng hơn.

– Thôi được, – cuối cùng, tôi nói, – tôi nghĩ hắn theo đuổi một thứ mẹ tôi để lại cho tôi. Một loại của gia truyền mà cha mẹ tôi đã tìm thấy từ nhiều năm trước, và bà muốn tôi giữ nó. Vì thế, mẹ tôi giấu nó ở một nơi chỉ có tôi mới tìm ra. Tại sao vậy? Vì – dù anh thích điều này hay không – tôi chính là Giulietta Tolomei.

Tôi bướng bỉnh nhìn anh ta, và thấy anh ta đang chăm chú ngắm nghía tôi với một thứ na ná nụ cười.

– Cô đã tìm thấy rồi chứ?

– Tôi không nghĩ thế. Tôi mới chỉ tìm thấy một cái hộp han gỉ đầy giấy tờ và … một lá cờ cổ, một thứ giống như con dao găm và nói thật, tôi không thấy….

– Gượm đã! – Alessandro giơ tay ra hiệu cho tôi nói chậm lại. – Giấy tờ loại gì, lá cờ loại gì vậy? -Những bài báo, thư từ. Những thứ ngớ ngẩn. Đừng bắt tôi kể lại.

Lá cờ hình như là một mảnh lụa từ năm 1340. Tôi tìm thấy nó trong một ngăn kéo, quấn quanh con dao găm như thế này…

– Đợi đã! Cô vừa nói đã tìm thấy mảnh lụa từ năm 1340 ư?

Tôi ngạc nhiên thấy anh phản ứng với tin này còn mạnh hơn ông anh họ Peppo của tôi rất nhiều. -Vâng, tôi nghĩ thế. Hình như vật đó rất đặc biệt. Còn con dao găm…

– Nó đang ở đâu?

– Ở một nơi an toàn. Tôi để nó lại bảo tàng Cú. Thấy anh ta không hiểu kịp, tôi nói thêm. – Anh họ tôi, Peppo Tolomei là người phụ trách bảo tàng. Anh ấy nói sẽ trông nom nó cẩn thận giúp tôi. Alessandro rên lên và lùa cả hai bàn tay vào tóc.

– Sao thế? – Tôi nói. – Đấy không phải là ý hay sao?

– Khốn kiếp! – Anh đứng dậy, thọc tay vào ngăn kéo rút ra một khẩu súng ngắn và đút vào bao ở thắt lưng.

– Đi nào, chúng ta đi thôi!

– Gượm đã! Có chuyện gì thế? – Tôi miễn cưỡng đứng dậy. – Anh không định đến thăm anh họ tôi với…khẩu súng này chứ?

– Không! Tôi không định thế. Đi thôi!

Lúc chúng tôi vội vã xuống hành lang, anh liếc nhìn bàn chân tôi:

– Cô có thể chạy khi mang những thứ này chứ?

– Này, – tôi nói, cố theo kịp, – tôi chỉ muốn làm mọi việc sáng tỏ. Tôi không tin vào súng ống. Tôi chỉ muốn hòa bình thôi. Được không?

Alessandro dừng lại giữa hành lang, rút súng ra và ấn nó vào tay tôi trước khi tôi kịp nhận ra việc anh làm.

– Cô có cảm thấy không? Đây là một khẩu súng. Nó đang tồn tại. Ở đằng kia, có nhiều người tin vào nó. Vì thế, hãy tha lỗi cho tôi vì phải “quan tâm” đến họ để cô có thể bình yên.

Chúng tôi rời nhà băng qua cổng sau và chạy dọc con đường xuống phố thông sang đường dành cho mô tô. Đây không phải là con đường tôi biết, nhưng chắc chắn chúng tôi sẽ đến thẳng quảng trường Castellare. Alessandro rút súng ra, lúc chúng tôi đến gần cửa bảo tàng Cú, nhưng tôi giả vờ không để ý.

– Lùi lại sau tôi, – anh nói, – và nếu sự việc xấu đi, hãy nằm xuống sàn và ôm lấy đầu.

Không đợi tôi trả lời, anh đặt ngón tay lên môi và từ từ mở cửa.

Tôi cẩn thận đi vào bảo tàng sau anh vài bước. Tôi không nghĩ đến việc anh phản ứng quá mạnh mẽ, nhưng tôi sẽ để anh tự đi đến kết luận riêng. Toàn bộ tòa nhà im lìm, không hề có dấu vết của bọn phạm tội. Chúng tôi đi qua vài phòng, súng chĩa về phái trước, nhưng cuối cùng tôi dừng lại.

– Nghe này…

– Ngay lập tức, Alessandro đưa tay bịt miệng tôi, và lúc đứng đó, cả hai đều căng thẳng vì nghe thấy tiếng người đang rên.

Đi nhanh qua các phòng còn lại, chẳng mấy chốc chúng tôi lượn vào chỗ phát ra tiếng rên, và khi Alessandro tin chắc không có kẻ phục kích, chúng tôi chạy ào vào trong, thấy Peppo đang nằm trên sàn phòng làm việc, người bầm dập, thâm tím nhưng vẫn còn sống.

– Ôi, Peppo! – Tôi kêu lên, cố giúp ông, – Anh không sao chứ?

– Không! – Ông trả lời ngay. – Tất nhiên là tôi không sao! Tôi nghĩ là tôi bị ngã. Chân tôi không thể cử động được.

– Anh để yên nhé…–Tôi nhìn quanh xem ông để nạng ở đâu, rồi thấy cái két trong góc mở toang và trống rỗng. – Anh có nhìn thấy kẻ đã gây ra việc này không/

– Người nào? – Peppo cố ngồi dậy, nhưng nhăn nhó vì đau. – Ôi, cái đầu tôi! Tôi cần thuốc. Salvatore! Ôi, không, gượm đã. Hôm nay là ngày nghỉ của Salvatore…là ngày mấy nhỉ?

– Ông dừng cử động! – Alessandro quỳ gối và mất một lúc để kiểm tra chân Peppo. – Tôi đoán là ống chân của ông bị gẫy. Tôi sẽ gọi xe cấp cứu.

– Gượm đã! Đừng! – Rõ ràng Peppo không muốn gọi cấp cứu. –Tôi chỉ định đóng két sắt. Cô có nghe lời tôi không? Tôi phải đóng két sắt lại.

– Chúng ta sẽ lo về cái két sau, – tôi nói.

– Con dao găm…ở trong phòng họp của giám đốc. Tôi đã tra cứu về nó trong một cuốn sách. Nó cũng phải để vào két. Nó là một tai họa

Alessandro và tôi nhìn nhau. Giờ không phải lúc để tôi nói với Peppo rằng đã quá muộn để đóng két. Chắc chắn là mảnh lụa cũng như mọi báu vật khác mà ông anh họ tôi canh giữ đều đã mất rồi. Nhưng có khi tên trộm chưa để ý đến con dao găm. Tôi đứng dậy và vào phòng họp, biết chắc con dao găm của Romeo đang nằm trên bàn, cạnh cuốn hướng dẫn về các vũ khí thời Trung cổ của một nhà sưu tầm.

Nắm chặt con dao trong tay, tôi trở lại phòng làm việc của Peppo đúng lúc Alessandro đang gọi xe cấp cứu.

– Đúng rồi, – anh họ tôi nói khi nhìn thấy con dao găm, – nó đấy. Cho vào két, nhanh lên. Nó mang vận rủi đến đấy. Hãy nhìn những gì xảy ra với tôi xem. Cuốn sách nói trong con dao có linh hồn của quỷ dữ.

Peppo bị chấn động nhẹ ở não và gẫy một cái xương, nhưng bác sĩ nhất định giữ ông nằm viện qua đêm, cắm nhiều thứ máy móc để đề phòng. Không may, bà bác sĩ nhất định đòi kể lại chính xác chuyện xảy ra với ông.

– Bà ấy bảo có kẻ đánh vào đầu ông và cuỗm sạch mọi thứ trong két. – Alessandro thì thầm với tôi, dịch lại câu chuyện sôi nổi giữa bà bác sĩ và ông bệnh nhân cáu kỉnh của bà, – ông ấy nói muốn nói chuyện với một bác sĩ thực thụ, vì không có ai đánh vào đầu ông trong bảo tàng riêng của ông hết.

– Giulietta! – Peppo gọi to, lúc ông đã xua được bà bác sĩ đi. – Cô đã làm gì vậy, hở? Y tá nói có kẻ đột nhập vào bảo tàng!

– Em e đúng là như thế, – tôi nói và cầm tay ông. – Em rất tiếc. Đấy là lỗi của em. Nếu em không….

– Ai kia? – Peppo nghi ngờ nhìn Alessandro. – Anh ta đến đây để lập biên bản à? Bảo anh ta tôi không nhìn thấy gì hết nhé.

– Đây là đại úy Santini, – tôi giải thích. – Anh ấy là người đã cứu anh, anh nhớ chưa? Nếu anh ấy không làm thế, anh sẽ vẫn còn…rất đau đớn.

– Hừ.- Peppo vẫn chưa chịu từ bỏ tâm trạng gây hấn. – Trước kia tôi đã gặp anh ta. Anh ta là một Salimbeni. Tôi đã chẳng bảo cô tránh xa những người ấy sao?

– Suỵt! Em xin anh! – Tôi cố hết sức giữ Peppo im lặng, nhưng tôi biết Alessandro đã nghe thấy hết. – Anh cần nghỉ ngơi.

– Không, tôi không cần! Tôi cần nói chuyện với Salvatore. Chúng tôi phải tìm ra kẻ nào đã làm việc này. Trong két còn có nhiều báu vật khác nữa.

– Em e rằng tên trộm tìm mảnh lụa và con dao găm, – tôi nói. – Nếu em không mang những thứ đó đén chỗ anh, sẽ không xảy ra truyện gì hết.

Trông Peppo rất bối rối.

– Nhưng ai mà…Chao ôi! – Cái nhìn đăm đăm của ông trở nên xa vời lạ lùng như thể ông đang nhìn vào quá khứ u ám. –Tất nhiên rồi! Tại sao tôi không nghĩ ra nhỉ? Nhưng hắn làm thế thật sao?

– Ai nói đến ai vậy? – Tôi siết chặt bàn tay ông, cố làm ông tập trung trở lại. – Ai có biết kẻ nào đã làm việc này với anh không?

Peppo vồ lấy cổ tay tôi và nhìn tôi, xúc động dữ dội.

– Ông ấy luôn nói chàng sẽ trở lại. Patrizio, cha cô. Ông luôn nói rồi sẽ có ngày, Romeo sẽ trở lại và giành lại mọi thứ…mạng sống của chàng… tình yêu của chàng… mọi thứ chúng ta đã lấy đi của chàng.

– Peppo, – tôi nói và vỗ nhẹ cánh tay ông. – Em nghĩ anh hãy cố ngủ đi.

Qua khóe mắt, tôi có thể thấy Alessandro đang xem xét cẩn thận con dao găm của Romeo trong tay, anh cau mày như thể cảm nhận được thấy sức mạnh ẩn giấu của nó.

– Romeo, – Peppo nói, có vẻ thẫn thờ hơn vì cuối cùng, thuốc an thần đã ngấm, – Romeo Marescotti. Cậu ta không thể là hồn ma mãi mãi. Có lẽ đây là sự báo thù của cậu ấy. Báo thù tất cả chúng ta. Vì mọi việc chúng ta đã đối xử với mẹ cậu ta. Romeo là…biết nói thế nào với cô đây – một đứa con hoang chăng?…Đại úy?

– Sinh ra ngoài giá thú, – Alessandro nói, cuối cùng anh đến nhập bọn với chúng tôi.

– Phải, phải! – Peppo gật đầu. – Sinh ra ngoài giá thú! Đó là một vụ bê bối lớn. Chao ôi, cô ấy mới đẹp làm sao… thế mà, ông ta nỡ đuổi cả hai mẹ con họ đi..

– Ai kia? – tôi hỏi.

– Marescotti. Ông ngoại. Ông ta là người rất nệ cổ. Nhưng rất điển trai. Tôi vẫn nhớ sự xuất hiện của Topolone năm 65, một con ngựa rất đẹp, cô biết không, đó là chiến thắng đầu tiên của Aceto. Người ta không còn lập nên những chiến công như thế nữa; Hồi đó, họ không bị trật mắt cá hay truất quyền dự thi, và chúng tôi cũng chẳng cần đến các bác sĩ thú y hay thị trưởng bảo rằng chúng tôi không thể thi đấu…Ôi chà! – Ông lắc đầu căm phẫn.

– Peppo? – Tôi vỗ nhẹ bàn tay ông. – Anh đang nói về Marescotti. Còn Romeo, anh nhớ không?

– Ồ, có chứ! Người ta bảo chàng trai ấy có đôi tay tai họa. Một thứ cậu ta chạm vào…đều hỏng cả. Ngựa thì mất. Người thì chết. Người ta nói thế. Vì tên cậu ta đặt theo Romeo. Cậu ta thuộc dòng dõi ấy mà. Sự nổi loạn…có sẵn trong máu. Cậu ta không thể ngồi yên một chỗ, làm gì cũng rất nhanh ồn ào. Lúc nào cũng đi Vespa, lúc nào cũng đi Vespa…

– Anh biết anh ta ư?

– Không, tôi chỉ nghe nói thôi. Hai mẹ con cậu ta không bao giờ trở lại. Không ai nhìn thấy họ nữa. Người ta kể cậu ta lớn lên mà không được dạy dỗ ở Rome, trở thành tội phạm và một tên giết người. Người ta bảo… người ta bảo cậu ta chết rồi. Ở Nassiriyah. Với một cái tên khác.

Tôi quay lại, liếc nhìn Alessandro, và khi bắt gặp cái nhìn chăm chú của tôi, mắt anh sẫm lại khác thường.

– Nassiriyah ở đâu? – Tôi thì thào. – Anh có biết không?

Không hiểu vì sao, câu hỏi làm Alessandro tươi tắn hơn, nhưng anh chưa kịp trả lời thì Peppo đã thở dài thườn thượt và nói tiếp:

– Theo tôi, đây chỉ là huyền thoại. Dân chúng thích những huyền thoại. Và những bi kịch. Cả những âm mưu nữa. Ở đây, mùa Đông quá tĩnh lặng.

– Còn anh không tin ư?

Peppo lại thở dài lần nữa, mí mắt ông nặng trĩu dần.

– Làm sao tôi biết tôi nên tin vào cái gì nữa? Chao ôi, tại sao người ta không cử một bác sĩ đến cho tôi?

Đúng lúc đấy, cánh cửa bật mở, toàn thể gia đình Tolomei ùa vào phòng, vây quanh người “anh hùng suýt thiệt mạng” cùng những tiếng kêu gào và khóc lóc. Rõ ràng là họ đã được bác sĩ thuật lại sự việc, vì bà Pia, vợ Peppo lườm tôi và gạt tôi sang một bên để chiếm chỗ cạnh chồng bà, không người nào thể hiện chút gì có thể coi là biết ơn. Điều khiến tôi bẽ mặt hơn là, bà lão Nonna Tolomei lập cập bước qua cửa đúng lúc tôi đang tìm lối thoát, chắc chắn bà ta nghĩ thủ phạm của toàn bộ vụ này không phải là tên trộm, mà là tôi.

– Chính mày! –Bà gầm gừ, chỉ ngón tay buộc tội vào ngực tôi. – Đồ con hoang!

Bà còn nói nhiều nữa nhưng tôi không hiểu. Sững sờ như một con nai trước đoàn tàu đang lao tới, chết khiếp vì cơn thịnh nộ của bà ta, tôi cứ đứng ngây ra đó không thể nhúc nhích nổi, cho đến khi Alessandro phát chán với sự lố bịch của gia đình này, nắm lấy khuỷu tay tôi và kéo tôi qua cửa cho an toàn.

– Khiếp quá! – Tôi thở hổn hển. – Bà ấy nổi điên nổi đóa. Anh có tin bà ấy là bà cô tôi không? Bà áy nói gì vậy?

– Đừng bận tâm, – Alessandro nói, và đi xuống hành lang bệnh viện với vẻ mặt của người đang ước giá mà có quả lựu đạn thừa trong tay.

– Bà ấy gọi anh là một Salimbeni! – Tôi nói, hãnh diện vì hiểu được một chút.

– Đúng thế. Mà đấy không phải là lời khen.

– Thế bà ấy gọi tôi là gì? Tôi không kịp hiểu.

– Chẳng sao đâu.

– Có chứ. – Tôi dừng lại giữa hành lang. – Bà ấy gọi tôi là gì? Alessandro nhìn tôi, cái nhìn của anh bỗng trở nên dịu dàng.

– Bà ấy bảo: “Đồ con hoang. Mày không phải là người của chúng tao”

– Ôi. – Tôi ngập ngừng nuốt những từ ấy. – Tôi đoán chẳng ai tin tôi là Giulietta Tolomei thực sự. Có lẽ tôi đáng bị thế. Có lẽ nơi đây là loại địa ngục đặc biệt dành riêng cho những người như tôi.

– Tôi tin cô.

Tôi nhìn anh, sửng sốt:

– Thật ư? Nghe mới quá. Từ bao giờ vậy?

Anh nhún vai và dợm bước.

– Từ lúc tôi nhìn thấy cô đứng ở cửa phòng tôi.

Tôi không biết đáp lại sự ân cần bất chợt của anh ra sao, và thế là chúng tôi im lặng đi nốt quãng đường, xuống cầu thang và ra cửa trước của bệnh viện, ló ra trong ánh nắng vàng ươm, êm ả, đánh dấu thời khắc cuối ngày và bắt đầu một thứ gì đó xa vời, khó đoán trước.

– Giulietta, – Alessandro quay sang tôi, tay chống nạnh, – còn điều gì tôi nên biết nữa không?

– Có, – tôi nói, mắt nheo lại vì nắng, – còn có một gã cưỡi mô tô…

– Lạy Đức Mẹ!

– Nhưng gã này khác hẳn. Gã chỉ…theo tôi khắp nơi. Tôi không biết gã muốn gì…

Alessandro tròn mắt:

– Cô không biết hắn muốn gì ư? Cô có muốn tôi bảo cho biết hắn muốn gì không?

– Không, – tôi sửa lại váy áo. – Không thành vấn đề. Những gã kia – gã vận thường phục – đã đột nhập vào phòng tôi ở khách sạn. Vì thế…tôi nghĩ có lẽ nên đổi khách sạn.

– Cô nghĩ thế sao? – Alessandro không để ý lắm. – Còn tôi sẽ nói với cô rằng, việc đầu tiên chúng ta làm là đến đồn cảnh sát…

– Không, đừng dính đến cảnh sát!

– Họ là những người duy nhất có thể nói với cô rằng ai đã làm việc đó với Peppo. Tôi sẽ không truy cập được danh sách tội phạm ở Monte dei Pashci. Cô đừng lo, tôi sẽ đi cùng cô. Tôi quen những người này.

– Ôi, phải rồi! – Tôi suýt nữa thúc vào ngực anh ta. – Đây chỉ là cách khôn khéo để tống tôi vào nhà giam thôi.

Anh giơ tay ra:

– Nếu tôi muốn tống cô vào tù, tôi sẽ chẳng cần phải khôn khéo, đúng không?

– Nghe này! – tôi đứng thẳng, vươn người hết mức. – tôi vẫn chưa đánh giá đúng trò chơi quyền lực của anh.

Tư thế của tôi khiến anh mỉm cười: -Thế tại sao cô vẫn chơi?

Trụ sở cảnh sát Siena là nơi rất yên tĩnh. Đồng hồ trên tường đã hết pin lúc bảy giờ kém mười ở một thời điểm nào đó trong quá khứ, và lúc tôi ngồi đó trong buổi chiều hôm ấy, chăm chỉ lật hết trang này đến trang khác danh sách những kẻ bất lương, tôi bắt đầu cảm thấy chẳng có gì tiến triển. Càng nhìn vào những bộ mặt đó trên màn hình máy tính, nói thật, tôi càng chẳng biết kẻ lén theo tôi trông như thế nào khi nhìn gần. Lần đầu tiên tôi thấy hắn, hắn đeo kính râm. Lần thứ hai trời tối mù mịt nên không nhìn thấy gì nhiều, và lần thứ ba – mới chiều nay – tôi quá tập trung vào khẩu súng trên tay hắn, nên không để ý đến những chi tiết chính xác trên mặt hắn.

– Tôi xin lỗi, – tôi quay sang Alessandro đang ngồi rất kiên nhẫn cạnh tôi, khuỷu tay chống lên đầu gối, đợi tôi tìm ra, – nhưng tôi không nhận ra ai hết. –Tôi mỉm cười ra chiều ân hận với nữ sĩ quan cảnh sát chịu trách nhiệm máy tính, biết rõ ràng tôi đã làm mất thời gian của mọi người, – Tôi xin lỗi!

– Không sao, – cô ta nói, mỉm cười với tôi vì tôi là một Tolomei, – sẽ không lâu trước khi chúng tôi có dấu vết phù hợp.

Việc đầu tiên Alessandro làm khi chúng tôi tới đồn cảnh sát trình báo về vụ tấn công ở bảo tàng Cú. Hai xe tuần tra ngay lập tức được cử đi cùng bốn cảnh sát, quá ngỡ ngàng vì một vụ phạm tội hiển nhiên đã xảy ra trong khu vực của họ, Nếu tên côn đồ ngớ ngẩn đến mức để lại bất kỳ dấu vết nào ở bảo tàng – nhất là dấu vân tay, thì việc chúng tôi biết hắn là ai chỉ còn là vấn đề thời gian, với điều kiện là trước kia hắn từng bị bắt.

– Trong lúc đợi, – tôi nói, – anh có nghĩ chúng ta nên tìm kiếm Romeo Marescotti không? Alessandro cau mày:

– Cô thực sự tin lời Peppo nói ư?

– Sao lại không? Có khi chính là hắn. Có khi chỉ có hắn từ đầu chí cuối.

– Mặc thường phục ư? Tôi không nghĩ thế.

– Sao lại không nhỉ? Anh biết hắn ư?

Alessandro hít một hơi thật sâu:

– Phải, và hắn không có trong máy tính. Tôi đã để ý rồi

Tôi trừng trừng nhìn anh, quá đỗi sửng sốt không thể nói nên lời.

Tôi chưa kịp hỏi thêm, hai cảnh sát đã vào phòng, một người mang laptop và đặt trước mặt tôi. Không ai nói tiếng Anh, nên Alessandro phải dịch lại.

– Họ tìm được một dấu vân tay ở bảo tàng, – anh giải thích, – và muốn cô xem có hình ảnh nào cô thấy quen quen không.

Tôi quay nhìn vào màn hình. Một dẫy năm bộ mặt đàn ông, cái nào cũng nhìn tôi với vẻ vừa hờ hững vừa căm phẫn. Một lát sau, tôi nói:

– Tôi không dám chắc một trăm phần trăm, nhưng nếu các vị muốn biết kẻ nào giống tên di theo tôi nhất, tôi sẽ nói là số bốn.

Sau cuộc trò chuyện ngắn với mấy cảnh sát, Alessandro gật đầu.

– Đây chính là tên đã tấn công bảo tàng: Họ muốn biết vì sao hắn tấn công bảo tàng và vì sao hắn theo cô khắp nơi

– Có thể cho tôi biết hắn là ai không? – Tôi nhìn khắp những gương mặt trang nghiêm. – Hắn có thuộc loại …sát nhân không?

– Hắn tên là Bruno Carrena. Trong quá khứ hắn dính dấp đến một tội ác có tổ chức, và hắn liên kết với một số kẻ rất nguy hiểm. Hắn đã biến mất một thời gian, nhưng hiện nay…- Alessandro hất đầu về phía màn hình. – Hắn đã trở lại.

Tôi nhìn bức ảnh lần nữa. Rõ ràng Bruno Carrera đã qua thời sung sức nhất. Có điều lạ là hắn trở lại nhằm ăn cắp một mảnh lụa cũ chẳng có tí tẹo giá trị thương mại nào.

– Chỉ vì tò mò thôi, – tôi nói mà không nghĩ, – hắn có từng liên kết với một người tên là Luciano Salimbeni không?

Mấy cảnh sát nhìn nhau

– Rất dẻo miệng, – Alessandro thì thầm, có ý nói ngược lại. – Tôi tưởng cô không muốn trả lời bất cứ câu hỏi nào.

Tôi ngước lên và thấy các cảnh sát đang nhìn tôi rất kỹ với vẻ quan tâm mới mẻ. Chắc họ đang tự hỏi chính xác thì tôi làm gì ở Siena, và tôi đã tiết lộ những thông tin về vụ tấn công bảo tàng đến chừng nào

– Cô đây biết Luciano Salimbeni ư? – Một người hỏi Alessandro

– Anh hãy nói với họ rằng Peppo đã kể về Luciano Salimbeni cho tôi nghe, – tôi nói. – Rõ ràng là hai mươi năm trước, hắn đã theo đuổi đồ gia truyền của gia đình tôi. Nó sẽ rất có ích nếu ở đúng chỗ.

Alessandro rất cố gắng làm rõ vụ của tôi, nhưng các sĩ quan cảnh sát chưa hài lòng và vẫn hỏi thêm nhiều chi tiết. Đây là một cuộc đấu tranh quyền lực kỳ cục, vì họ rất kính trọng anh, nhưng vẫn có một cái gì đó về tôi và câu chuyện của tôi không ăn khớp. Lúc cả hai người đó rời phòng, tôi quay sang Salimbeni, hoang mang:

– Thế là thế nào? Bây giờ chúng ta có thể đi được chưa?

– Cô tưởng rằng, – anh nói, chán ngán, – họ dễ dàng để cô đi trước khi họ biết được vì sao gia đình cô dính dáng tới một trong những tên tội phạm bị truy nã gắt gao nhất nước Ý sao?

– Dính dáng ư? Tôi đã nói là Peppo nghi ngờ…

– Giulietta, – Alessandro ngả về phía tôi, không muốn bất cứ ai nghe lỏm được, – tại sao cô không kể mọi chuyện với tôi?

Tôi chưa kịp trả lời, mấy cảnh sát đã trở lại cùng hồ sơ về Bruno Carrera in từ máy tính, nhờ Alessandro hỏi tôi về một quan hệ đặc biệt.

– Hình như cô đúng, – anh nói lúc đọc lướt tài liệu, – Bruno từng làm nhiều việc vặt cho Luciano Salimbeni. Có lần bị bắt, hắn đã khai với họ câu chuyện về một pho tượng có cặp mắt bằng vàng… – Anh nhìn tôi, cố phán đoán sự thành thật của tôi. – Cô có biết gì về việc này không?

Hơi ngỡ ngàng vì cảnh sát biết về pho tượng bằng vàng – dẫu họ biết không sâu sắc, – song tôi cố lắc đầu thật mạnh.

– Tôi không hề biết.

Trong vài giây, mắt chúng tôi khóa vào nhau trong một cuộc chiến lặng lẽ, nhưng tôi không lùi bước. Rốt cuộc, anh nhìn lại bản in.

– Có vẻ như Luciano liên quan đến cái chết của cha mẹ cô, ngay trước khi hắn mất tích.

– Mất tích ư? Tôi tưởng hắn đã chết.

Alessandro không nhìn tôi.

– Cẩn thận đấy. Tôi không hỏi ai kể với cô chuyện đó. Tôi đúng khi làm ra vẻ cô không có ý định kể cho các sĩ quan cảnh sát này mọi thứ cô có đấy chứ? – Anh liếc nhìn tôi để xác nhận rồi tiếp tục. – Tôi gợi ý cô nên làm ra vẻ đáng thương, có thể chúng ta mới có thể ra khỏi đây. Họ đã hỏi số An sinh Xã hội của cê hai lần.

– Chúng ta đừng quên rằng, – tôi thì thầm, – anh là người kéo tôi vào đây!

– Và bây giờ tôi lại kéo cô ra. – Anh vòng một cánh tay quanh người tôi và vuốt tóc tôi như thể tôi cần an ủi. – Đừng lo cho Peppo. Ông ấy sẽ ổn thôi.

Cùng đóng kịch, tôi dựa vào vai anh và hít một hơi thật sâu, đẫm lệ đến mức cảm thấy gần như thật. Thấy vẻ lo lắng xúc động của tôi, cuối cùng mấy sĩ quan cảnh sát rút lui và để chúng tôi lại với nhau; năm phút sau, chúng tôi cùng ra khỏi đồn cảnh sát.

– Làm tốt đấy, – Alessandro nói, ngay khi chúng tôi vừa ra khỏi tầm nghe.

– Chắc thế. Dù…hôm nay chắc chắn không phải ngày lành của tôi, nên đừng mong những vòng pháo hoa lộng lẫy.

Anh dừng lại và nhìn tôi, trán anh hơi cau lại:

– Chí ít bây giờ cô cũng biết tên kẻ đi theo cô. Đó chẳng phải là điều cô muốn khi đến gặp tôi chiều nay sao.

Trong lúc chúng tôi ở đồn cảnh sát, trời đã tối mịt, nhưng không khí vẫn còn ấm áp, những ngọn đèn đường phủ làn ánh sáng vàng dịu lên mọi vật. Không có chiếc vespa nào lao qua chúng tôi, toàn bộ quảng trường trông như một sân khấu trong nhà hát nhạc kịch.

– Ragazza nghia là gì? – Tôi hỏi. – Có phải là một thứ kinh tởm không?

Alessandro đút hai tay vào túi và bước đi.

– Tôi cho rằng nếu tôi nói với họ cô là bạn gái của tôi, họ sẽ thôi hỏi sổ An sinh Xã hội của cô. Và cả số điện thoại của cô nữa.

Tôi cười vang.

– Họ không băn khoăn vì cô Juliet quỷ tha ma bắt đang hẹn hò với một Salimbeni sao?

Alessandro mỉm cười, nhưng tôi có thể thấy câu hỏi của tôi làm anh mếch lòng.

– Tôi e rằng ở đây người ta không dạy Shakespeare trong Học viện Cảnh sát.

Chúng tôi lặng lẽ đi một lát, chẳng nhằm tới nơi nào cụ thể. Đã đến lúc chúng tôi chia tay, nhưng tôi cảm thấy không muốn vậy chút nào. Tôi chẳng nghĩ tới việc Bruno Carrera có thể đang dợi tôi khi tôi về phòng khách sạn; ở gần Alessandro, tôi cảm thấy đó là một việc tự nhiên để làm.

Giờ có phải là lúc thích hợp để tôi cảm ơn anh không? – Tôi nói.

– Bây giờ ư? – Anh xem đồng hồ đeo tay.

– Phải, giờ là phải lúc đấy.

– Ăn tối có được không? Trên phòng tôi nhé?

Lời đề nghị của tôi khiến anh thích thú.

– Chắc được. Trừ phi cô muốn quanh quẩn ngoài ban công đợi chàng Romeo?

– Anh nhớ là có kẻ đã lọt qua ban công phòng tôi chứ?

– Tôi nhớ. – Mắt anh hơi nheo lại. – Cô đang muốn tôi bảo vệ cô.

Tôi mở miệng định trả đũa bằng một câu đanh đá, nhưng nhận ra mình không muốn làm thế chút nào. Sự thật là, sau mọi chuyện đã xảy ra và những chuyện vẫn có thể xảy ra, tôi chẳng thích gì hơn việc có Alessandro – kèm khẩu súng – trong tầm với, suốt thời gian tôi còn ở lại Siena này.

– Được, – tôi kìm sự kiêu hãnh lại, – tôi nghĩ là mình sẽ không phản đối nếu anh làm vậy.

Chàng trai si tình, hãy mượn đôi cánh của thần Tình yêu

Và cùng vút bay vượt qua giới hạn thông thường

— ——–oOo—- ——-

Siena, 1340 Công nguyên

Hôm đó là ngày Palio, dân chúng Siena vui vẻ lênh đênh trên biển cả của những bài ca. Mỗi đường phố trở thành một dòng sông, mỗi quảng trường thành một vòng xoáy sùng đạo đê mê, cuốn thành dòng những lá cờ phần phật và những biểu ngữ họ có thể giương cao ở những chỗ nước nông và đứng giạng chân ở những chỗ đất cao, trơn trượt, vươn tới Đức Mẹ trên Thiên đường để cảm nhận sự tiếp xúc dịu dàng của Người.

Dòng người mộ đạo ào qua các cổng thành từ lâu, tuôn ra vùng nông thôn theo các ngả tới Fontebecci, cách cửa Camollia vài dặm về phía Bắc. Tại đây, một đại dương những cái đầu nhấp nhô, chăm chú theo dõi mười lăm kỵ sĩ của Palio xuất hiện từ các lều, vận chiến bào, sẵn sàng tôn vinh nàng Trinh nữ mới giành vương miện bằng cuộc trình diễn hăng hái của mình.

Danh họa Ambrogio chọn thời điểm thuận lợi trong buổi sáng để rời thành phố, huých khuỷu tay tìm đường len qua đám đông và ông thấy không mấy tội lỗi trong việc này vì nếu không, ông sẽ phải nhường và rẽ đến một ngàn lần trước khi đi được nửa đường đến Fontebecci. Nhưng ông không thể. Sáng nay, vị họa sĩ già cảm thấy khổ sở biết chừng nào! Sự can thiệp của ông vào những cuộc tình của đám thanh niên này mới sai lầm khủng khiếp làm sao! Nếu ông không hăm hở chắp nối người đẹp với người đẹp vì lợi ích của vẻ đẹp, Romeo sẽ không bao giờ biết rằng Giulietta còn sống, và nàng sẽ không bao giờ nhiễm phải sự nồng nàn của chàng.

Ý nghĩ rằng tình yêu cái đẹp của người nghệ sĩ có thể dễ dàng biến ông thành kẻ phạm tội mới kỳ quặc làm sao. Số phận tàn ác làm sao, khi dạy một ông già bài học về cái giá hạnh phúc của một cặp trẻ tuổi? Hoặc ông đã lầm khi cố giải thích tội lỗi của mình thông qua những ý niệm cao quý? Tóm lại, chỉ xuất phát từ lòng nhân đạo của ông, mà cặp tình nhân trẻ bị đầy đọa ngay từ lúc ban đầu ư? Có lẽ nào ông đã chuyển sự khao khát yếu đuối của mình vào tấm thân đáng ngưỡng mộ của Romeo, và mọi mong mỏi kết hợp hạnh phúc cho đôi trẻ chỉ là một cách gián tiếp để được phép lọt vào phòng tân hôn của Giulietta Tolomei?

Nhà danh họa không phải là người có hứng thú với những điều khó hiểu của tôn giáo, trừ phi chúng là một phần của bức tranh sắp được trả công, nhưng đột nhiên, ông thấy hơi buồn nôn khi thấy mình như một lão già giật dây dâm đãng, chắc có phần gần với thứ Chúa cảm thấy trong từng phút, từng ngày. Nếu Người thực sự cảm thấy mọi thứ. Sau hết, Người là đấng thiêng liêng trên cao, và tất cả có thể hiểu rằng tính thần thánh không thích hợp với sự xúc động. Nếu không, khi đó nhà danh họa thành tâm tiếc thương Chúa vì lịch sử nhân loại chẳng hơn gì một câu chuyện dài lê thê đẫm nước mắt.

Với Đức Mẹ Đồng Trinh thì khác, bà từng là con người, và bà thấu hiểu những gì con người phải chịu đựng. Bà là người luôn lắng nghe những nỗi thống khổ của bạn và chắc chắn Chúa gửi tiếng sét ái tình đúng hướng. Giống người vợ đáng yêu của một người đàn ông phi thường, bà là người để làm bạn và cầu xin, là người biết cách với tới trái tim thần thánh của Người. Nhờ có bà, Siena được ban những chiếc chìa khóa để mở cánh cửa thành phố, là người đặc biệt yêu quý dân Siena, che chở họ chống lại kẻ thù, theo cách một người mẹ bảo vệ cậu con trai nhỏ khi đứa con tìm kiếm vòng ôm của bà lúc bị các anh bắt nạt.

Dáng điệu khải huyền của nhà danh họa không phản chiếu trên mặt những người mà ông gạt sang bên, lúc ông cố tới Fonterbecci trước khi cuộc đua bắt đầu, Mọi người đã chè chén no nê và không ai vội vàng tiến lên, mà chỉ cần có chỗ dọc đường, họ thực sự chẳng có nhu cầu cuốc bộ đến tận Fontebecci.

Chắc chắn có nhiều cảnh để xem ở khu vực khởi hành với các lều bạt, những cái giật mình giả tạo, các gia đình quyền quý có con trai tham gia, nhưng rốt cuộc, cảnh ngoạn mục nào đáng xem hơn mười lăm con chiến mã phi nước đại đến gần?

Cuối cùng, khi tới nơi, danh họa Ambrogio tiến thẳng tới chỗ có màu sắc của con đại bàng Marescotti. Romeo đã sẵn sàng xuất phát từ cái lều màu vàng, những người đàn ông trong gia đình vây quanh chàng, và khó có thể tìm thấy một nụ cười trong số họ. Ngay sĩ quan Marescotti dù nổi tiếng là luôn có lời khích lệ mọi người trong những hoàn cảnh tuyệt vọng nhất vậy mà lúc này trông ông giống như một người lính biết trước rằng mình sẽ rơi vào ổ phục kích. Ông đích thân giữ ngựa đứng yên trong lúc Romeo cưỡi và là người duy nhất trực tiếp dặn dò con trai.

– Đừng sợ, – nhà danh họa nghe thấy ông vừa nói, vừa chỉnh lại tấm giáp che mặt con vật, – nó đứng như một thiên thần, nhưng sẽ chạy như một quỷ dữ.

Romeo chỉ gật đầu, chàng phấn khích đến nỗi không thể nói gì mà chỉ thúc ngựa vào làn đường, tay cầm lá cờ chim đại bàng đã được trao. Chàng sẽ cưỡi ngựa cùng lá cờ đó suốt cả chặng đường, và nếu được Đức Mẹ Đồng Trinh Maria chở che, chính lá cờ này sẽ được dùng để đổi lấy mảnh lụa thưởng ở cuối cuộc thi. Mặt khác, nếu Mẹ Maria trong tâm trạng đố kỵ, chàng sẽ là người cuối cùng cắm cờ của mình trước giáo đường, và trên đường về chàng phải nhặt một con lợn, tượng trưng cho nỗi nhục nhã.

Lúc mũ sắt được đưa ra, Romeo bắt gặp cái nhìn của danh họa Ambrogio, và chàng vô cùng ngạc nhiên đến mức làm cho con ngựa chàng đang cưỡi trở nên bồn chồn.

– Thưa danh họa! – Chàng kêu lên, giọng nghe thật chua xót, – ông đến để vẽ bức tranh về sự suy sút của tôi sao? Tôi bảo đảm với ông, đó đúng là một cảnh tượng cho con mắt của họa sĩ đấy.

– Cậu nói đúng, – danh họa Ambrogio đáp lại, – cứ mắng nhiếc tôi đi. Tôi đã cho cậu một bản đồ dẫn thẳng tới tai họa, và bây giờ tôi thiết tha muốn sửa chữa sai lầm đó.

– Tránh ra, ông già! – Romeo nói. – Song, ông nhanh lên thì hơn, vì tôi thấy dây đã sẵn sàng.

– Tôi thực lòng muốn, – nhà danh họa đáp lại, – nếu cậu cho phép nói tôi nói thẳng.

-Chúng ta lúc nào cũng có thì giờ để nói thẳng, – sĩ quan Marescotti nói. – Chúng ta nghe đây!

Danh họa Ambrogio hắng giọng. Cuộc độc thoại cẩn thận suốt buổi sáng nay của ông giờ biến đâu mất, và ông chỉ nhớ được câu đầu tiên. Nhưng sự cấp bách sớm thắng tài hùng biện, và ông buột nói ra những tin tức ông biết được.

– Cậu đang bị nạn rất lớn! – Ông bắt đầu. – Và nếu cậu không tin tôi….

– Chúng tôi tin ông! – Đại úy Marescotti quát. – Hãy cho chúng tôi biết chi tiết!

– Một học trò của tôi, Hassan – nhà danh họa nói tiếp, – đã nghe lỏm được chuyện ở lâu đài Salimbeni tối qua. Lúc ấy cậu ta đang vẽ một thiên thần trên trần, một tiểu thiên sứ, nên tôi tin rằng…

– Mặc xác tiểu thiên sứ! – Sĩ quan Marescotti gầm lên. – Hãy cho chúng tôi biết Salimbeni định làm gì con trai tôi!

Danh họa Ambrogio hít một hơi.

– Tôi tin rằng kế hoạch của họ như sau: sẽ không có cuộc tấn công nào ở Fontebecci này, vì có nhiều con mắt đang theo dõi. Nhưng giữa đường đến cửa Camollia, nơi con đường mở rộng, con trai của Tolomei và một người khác sẽ chặn đường cậu hoặc đẩy cậu xuống mương. Nếu con trai Salimbeni vượt xa cậu thì họ tạm bằng lòng với việc chỉ làm cậu chậm lại. Nhưng đấy mới chỉ là bắt đầu. Khi cậu vào thành phố, hãy cẩn thận khi qua lãnh địa mà Salimbeni kiểm soát. Khi cậu băng qua các tòa nhà ở khu vực Magione và Santo Stefano, sẽ có nhiều người trong tháp ném đồ vật vào cậu, nếu cậu ở trong số ba kỵ sĩ dẫn đầu, Khi cậu vào San Donato và Sant Egidio, bọn chúng không dám cả gan làm gì,nhưng nếu cậu tiến vào cánh đồng phía trước và có khả năng thắng cuộc, bọn chúng nhất định sẽ làm liều.

Romeo nhìn cha.

– Cha sẽ giải quyết chuyện này ra sao?

– Con nhưng sẽ phải làm như thế, – sĩ quan Marescotti nói. – Cha cho rằng chuyện này chẳng có gì là lạ. Nhưng nhờ danh họa, bây giờ chúng ta biết chắc rồi. Romeo, con phải phi trước vào bãi và đứng hàng đầu. Đừng thương ngựa, cứ chạy. Khi đến cửa Camollia, con phải nhường họ chạy trước, từng người một, cho đến khi con ở vị trí thứ tư.

– Nhưng…

– Đừng ngắt lời cha! Cha muốn con giữ vị trí thứ tư cho đến khi con qua Santo Stefano. Sau đó, con phải vượt lên đứng thứ ba hoặc thứ hai. Nhưng không được dẫn đầu. Cho đến khi qua lâu đài Salimbeni, con hiểu không?

– Như thế thì quá gần đích! Con không thể vượt qua!

– Nhưng con nhất định phải qua.

– Nhưng gần quá! Trước kia chưa có ai làm được thế!

– Còn bây giờ, – sĩ quan Marescotti nói, mềm mỏng hơn, – có gì ngăn cản con trai của ta đâu?

Một tiếng kèn hiệu lanh lảnh vang lên từ hàng xuất phát, chấm dứt mọi cuộc trò chuyện. Cái mũ sắt có hình đại bàng đặt lên đầu Romeo, tấm ch mặt khép lại. Thầy tu của gia đình vội vã ban phúc cho chàng thanh niên – rất có thể đây là lần cuối cùng – và nhà danh họa gửi lời chúc cho con ngựa đầy khí lực. Sau đó, chỉ mình Đức Mẹ Đồng Trinh có khả năng che chở cho quán quân của bà.

Lúc mười lăm con ngựa đã xếp hàng ở sợi dây, đám đông bắt đầu hò reo tên người họ yêu quý cũng như tên kẻ thù. Gia đình quý tộc nào cũng có người ủng hộ và người đối đầu; không gia đình nào được yêu quý hoặc bị khinh miệt hoàn toàn. Ngay nhà Salimbeni cũng có một đám đông cổ súy tận tụy, và trong dịp này số đó rất lớn, những người đàn ông đầy tham vọng mong được rủng rỉnh quanh năm khi sự ủng hộ công khai, mạnh mẽ của họ được đền đáp.

Trong đám kỵ sĩ, ít người có suy nghĩ gì khác ngoài con đường phía trước. Những đôi mắt tìm kiếm hoặc tránh né nhau, các vị thánh bảo trợ được huy động như đàn châu chấu tiến về Ai Cập qua những lời cầu khẩn, và vào giây phút cuối những lời lăng mạ phóng ào ào như tên bắn vào cổng thành đóng chặt. Thời gian cầu nguyện đã hết, không còn nghe thấy lời khuyên, không còn những việc chưa xong. Dù là kẻ hung ác, xấu xa hay người tử tế, đều được tinh thần chung của dân chúng Siena mong mỏi, họ đã hiến cả tính mạng, và chỉ có trận chiến, cuộc đua mới có thể thi hành công lý. Không có luật pháp ngoài số phận, không quyền lợi ngoài thiện ý của cơ hội; thắng lợi là lẽ phải duy nhất được biết đến,

Thế đấy, – danh họa Ambrogio ngẫm nghĩ, – hôm nay ngày Mẹ Đồng Trinh lên Trời bằng lòng khoan dung với chúng con, những kẻ có tội khốn khổ, già cũng như trẻ, Con xin Người rủ lòng thương Romeo Marescotti và che chở chàng khỏi các thế lực xấu xa sắp nuốt chửng cả thành phố này. Con hứa với Người, nếu Người để cho chàng được sống, con xin dâng hiến hết phần đời còn lại cho vẻ đẹp của Người. Nhưng nếu hôm nay chàng chết, chàng bỏ mạng vì tay con, bàn tay này sẽ không bao giờ cầm bút vẽ nữa vì đau buồn và xấu hổ.

Lúc Romeo phi ngựa tới khu vực xuất phát cùng lá cờ đại bàng, chàng cảm thấy lớp mạng âm mưu nhớp nháp khép lại quanh mình. Mọi người đã nghe tin về cuộc thách thức hỗn xược của chàng với Salimbeni, và đều hiểu một cuộc chiến gia tộc ắt phải xảy ra. Biết những người tranh giải, câu hỏi trong hầu hết tâm trí mọi người không phải là ai sẽ thắng, mà là ai còn sống ở cuối cuộc đua

Romeo nhìn khắp các kỵ sĩ khác, ước lượng sự đơn độc của mình. Trăng lưỡi liềm là Tebaldo – con trai của Tolomei, – rõ ràng là đồng minh với Hình thoi, Ino – con trai của Salimbeni, còn Gà trống và Bò đực đều nhìn chàng bằng cái nhìn đầy phản trắc. Chỉ có Cú gật đầu với vẻ cảm thông cứng rắn của một người bạn, nhưng vào thời điểm đó, Cú cũng còn nhiều bạn khác.

Khi sợi dây rơi xuống, Romeo còn chưa hoàn toàn ở trong khu vực xuất phát chính thức. Chàng quá mải nhìn các kỵ sĩ khác nên không để ý đến vị quan chức chịu trách nhiệm. Vả lại, Palio hay bắt đầu bằng nhiều xuất phát giả, người ra lệnh chẳng buồn gọi mọi người trở lại và phải báo hiệu xuất phát tới hơn mười lần, thực ra đây là các phần của cuộc thi.

Nhưng hôm nay không như vậy. Lần đầu tiên trong lịch sử Palio, không có tiếng kèn hủy bỏ ngân lên sau lần xuất phát thứ nhất. Bất chấp sự bối rối và một con ngựa bị rớt lại đằng sau, mười bốn kỵ sĩ kia được phép tiếp tục và cuộc đua vẫn tiến hành. Quá sửng sốt nên chỉ kịp thoáng phẫn nộ vì lối chơi trái luật, Romeo nghiêng cây thương cho đến lúc có thể kẹp chặt nó dưới cánh tay, thúc gót vào hông ngựa và bắt đầu đuổi theo.

Cánh đồng ở xa phía trước nên không thể nói ai đang dẫn đầu; chàng chỉ nhìn thấy qua khe mũ là bụi bặm và nhiều bộ mặt đầy vẻ hoài nghi hướng về phía chàng, khuôn mặt của những người đứng xem mong đợi chàng người tình trẻ tuổi vượt xa các đối thủ. Phớt lờ những tiếng la hét và cử chỉ của họ – một số khích lệ, những người khác thì không – Romeo phi qua, hoàn toàn thả lỏng dây cương và cầu xin chú ngựa sẽ đền đáp thiện chí của chàng.

Sĩ quan Marescotti đã liều lĩnh có tính toán khi cho con trai cưỡi con ngựa đực chưa thiến. Với một con ngựa cái hoặc ngựa thiến, Romeo có thể chơi đẹp, nhưng chơi đẹp sẽ không đủ khi tính mạng đang lâm nguy. Ít ra, một con ngựa giống sẽ là tất cả hoặc không là gì. Phải, có khả năng con Cesare sẽ lao vào cuộc chiến, đuổi theo một con cái, thậm chí quăng ngã kỵ sĩ, nhưng mặt khác, nó có thừa sức mạnh cần thiết để biến khỏi một tình thế ngu hiểm, và quan trọng hơn hết, nó tràn đầy tinh thần chiến thắng.

Con Cesare còn có một phẩm chất nữa, là trong những hoàn cảnh bình thường, nó hoàn toàn không thích hợp với Palio, nhưng hiện giờ, Romeo chỉ có một con đường duy nhất là đuổi kịp các đối thủ, và con ngựa có những cú nhảy dài, mạnh mẽ khác thường.

Luật thi của Palio không nói gì đến việc xoay xở dọc đường. Chỉ có một điều kiện: kỵ sĩ xuất phát ở Fonterbeci và cán đích ở giáo đường Siena là có khả năng đoạt giải. Nó chưa bao giờ quy định con đường chính xác, vì không người nào ngu ngốc đến mức chạy theo đường chính. Các cánh đồng ở bên đường thường gập ghềnh, đầy những gia sức hoặc các đồng cỏ khô, cũng như bị cắt bởi vô số hàng rào và cổng. Nói cách khác, chạy tắt qua các cánh đồng có nghĩa là phải đối mặt với rất nhiều trở ngại, những trở ngại có thể không là gì với một kỵ sĩ mặc tunic (áo choàng không tay, trùm đến đầu gối, thắt ngang lưng, đàn ông La Mã và Hy Lạp cổ thường mặc, nhưng sẽ giết chết con ngựa chở một hiệp sĩ mặc giáo sắt và cầm cây thương.

Romeo không lưỡng lự lâu. Mười bốn kỵ sĩ khác đã phi về hướng Tây Nam theo đường vòng dài hai dặm trên đường dẫn tới cửa Camollia, Đây là cơ hội của chàng.

Phát hiện ra một chỗ hở trong đám đông đang la hét, chàng lái con Cesare rời khỏi đường cái, lao vào cánh đồng vừa gặt và phi theo đường chim bay tới cổng thành.

Con ngựa cảm thấy mùi thách thức nên lao vút qua cánh đồng, dồi dào sinh lực hơn cả lúc trên đường cái, và khi thấy hàng rào gỗ đầu tiên ở đằng trước, Romeo gật phắt cái mũ sắt đại bàng ra rồi ném vào đống cỏ khô. Không có luật quy định trang phục của kỵ sĩ, ngoài cây thương và màu sắc của gia tộc. các kỵ sĩ mặc chiến bào và đội mũ sắt chỉ để tự vệ. Quẳng mũ sắt đi, Romeo biết chàng sẽ rất dễ bị thương nếu các kỵ sĩ khác thúc bằng gậy cũng như khi các đồ vật cố tình rơi xuống từ các nhà tháp trong thành phố, nhưng chàng cũng biết nếu không làm nhẹ trọng lượng, con ngựa – vốn khỏe khoắn – sẽ không bao giờ vào kịp thành phố.

Bay vút qua hàng rào đầu tiên, con Cesare nặng nề tiếp đất, và Romeo không bỏ phí thời gian, giật phắt tấm che ngực khỏi vai, ném vào giữa chuồng lợn. Hai hàng rào tiếp theo thấp hơn cái đầu tiên, con ngựa nhảy qua dễ dàng hơn và Romeo giơ cao cây thương lên trên đầu để tránh đập vào hàng rào. Mất cây thương mang màu sắc của gia tộc Marescotti có nghĩa là sẽ thua trong cuộc đua dẫu chàng có về thứ nhất.

Ai nhìn thấy chàng ngày hôm ấy đều phải trịnh trọng tuyên bố rằng Romeo đã cố làm những điều không thể. Tiết kiệm được một khoảng cách đáng kể vì đi tắt, song dễ trở nên vô hiệu vì nhiều cú nhảy, và lúc trở lại đường cái, chàng vẫn tụt lại sau các kỵ sĩ khác y như lúc trước. Chưa kể đến những thiệt hại với con ngựa vì phi nước đại qua những đồng cỏ, chỗ trũng, và nhảy như một con chó dại dưới mặt trời tháng Tám.

May mắn thay, Romeo không biết những điều kỳ cục của chàng. Chàng cũng không biết mình đã xuất hiện trên đường trước cánh đồng trong những hoàn cảnh rất khác thường. Ở đâu đó dọc đường, có người đã thả một hòm đựng ngỗng ngay trước khi các kỵ sĩ Palio đến, và trong lúc lộn xộn, những quả trứng ngỗng thối đã được ném rất chính xác vào một kỵ sĩ nhất định – thuộc một nhà tháp nhất định – để trả miếng cho hành động tương tự đã xảy ra vào năm trước. Những trò chơi khăm như thế là một phần của Palio, nhưng hiếm khi có ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc đua.

Ai cũng cho là có bàn tay của Đức Mẹ Đồng Trinh Maria trong mọi việc: hòm ngỗng, sự chậm trễ và chuyến bay kỳ diệu của Romeo qua bảy hàng rào. Nhưng với mười bốn kỵ sĩ đang nghiêm túc phi trên đường cái, thấy Romeo bất ngờ xuất hiện phía trước họ là một việc quái gở. Thế là họ đuổi theo chàng, căm ghét dữ dội lúc con đường hẹp dần như cái phễu để tất cả xuyên qua mái vòm của cổng Camollia.

Chỉ những chàng trai leo lên cổng thành bằng gạch mới có thể tận mắt nhìn thấy đoạn phi ngựa liều lĩnh cuối cùng của Romeo. Dù trước đó họ trung thành với ai, những người họ hàng của họ đang đổ xô vào xem ở bên dưới yêu ghét ra sao, họ không thể làm gì hơn là reo hò cổ vũ người thách thức táo bạo lúc chàng lao vụt qua phía dưới họ. Rõ ràng là chàng rất dễ gặp nguy hiểm vì không một mảnh giáp che thân, không mũ sắt, và một đoàn kỵ sĩ điên rồ phi sát theo sau.

Nhiều Palio đã được quyết định ngay tại cổng Camollia; người kỵ sĩ may mắn dẫn đầu qua cổng thành có cơ hội tiếp tục dẫn đầu qua các con phố hẹp và kết thúc tại Quảng trường Duomo. Từ lúc này trở đi, thách thức lớn nhất của các kỵ sĩ là các nhà tháp dọc hai bên đường; bất chấp luật quy định rằng những đồ vật cố ý ném từ bất kỳ tòa tháo nào thì tòa tháp ấy nhất định bị giật đổ, vậy nhưng các chậu hoa, gạch đá vẫn rơi xuống các đối thủ đang phi dưới phố – một cách kỳ lạ hoặc ác ý – tùy thuộc lòng trung thành của bạn. Bất chấp luật pháp, những hành động như thế hiếm khi bị trừng phạt, vì những sự việc dẫn đến tai nạn trên đường đua Palio là thứ rất ít được quan chức thành phố quan tâm.

Lúc phi qua cổng thành định mệnh vào Siena ở vị trí dẫn đầu, Romeo thừa hiểu chàng đã không tuân lời cha. Sĩ quan Marescotti đã dặn chàng tránh dẫn đầu, chính vì cơ nguy bị đồ vật từ các tòa tháp ném xuống. Dù có đội mũ sắt, chàng vẫn dễ bị ngã ngựa nếu một cái bình sành ném trúng đầu, và thiếu mũ sắt, chắc chắn chàng sẽ chết trước khi tiếp đất.

Nhưng Romeo không thể để những người khác vượt chàng. Chàng đã phải vật lộn rất vất vả và băng qua cánh đồng mới đuổi kịp, ý nghĩ lùi lại vị trí thứ tư – dù chỉ là chiến lược và bản năng tự bảo toàn – thật đáng khinh và hoàn toàn không thể để những kẻ khác kết thúc cuộc đua mà không có chàng.

Thế là chàng thúc ngựa và ầm ầm lao vào thành phố với niềm tin rằng Đức Mẹ Đồng Trinh sẽ mở đường cho chàng bằng quyền uy thần thánh của Người, và từ trên cao, Người sẽ bảo vệ chàng khỏi mọi điều xấu xa.

Chàng không nhìn thấy mặt mũi, chân tay, dáng người nào; con đường của Romeo là những bức tường xếp hàng, đầy những khuôn miệng đang la hét những cặp mắt mở to. Miệng không thốt nên lời, mắt chẳng thấy gì ngoài màu đen và trắng, đối thủ và đồng minh. Chàng nhẩn nha trong đám đông điên rồ chẳng có người nào, chẳng bao giờ có thể thuật lại trung thực diễn biến của cuộc đua. Tất cả đều xúc động, tất cả đều hy vọng và mọi mong muốn của đám đông luôn là quân át chủ bài của cuộc đua.

Vật đầu tiên rơi trúng Romeo khi chàng đang vào khu Magione. Chàng không bao giờ biết nó là thứ gì, chỉ cảm thấy vai bất chợt đau rát lúc vật đó sượt qua và rơi xuống đất, ở đâu đó ngay sau chàng.

Vật tiếp theo – một cái bình sành –trúng đùi chàng đánh thịch, và ngay lập tức chàng tưởng cú va chạm này có thể nghiền nát xương mình. Nhưng sờ lên chân, chàng cảm thấy không sao, thậm chí không đau. Xương gẫy hay không cũng chẳng hề gì, miễn là chàng vẫn trên yên và chân chàng vẫn vững trong bàn đạp.

Vật thứ ba nhỏ hơn đập vào chàng, và thật có phúc vì nó rơi đúng trán nên chàng chỉ suýt ngã. Romeo thở hổn hển, tối tăm mặt mũi song vẫn điều khiển được ngựa, trong lúc đó ở xung quanh là bức tường của những cái miệng đang la hét cười ha hả trước sự bối rối của chàng. Chỉ đến lúc này chàng mới hiểu cha mình đã trù liệu đúng mọi thứ: nếu cứ khăng khăng dẫn đầu qua các vùng của Salimbeni, chàng sẽ không bao giờ đi hết được cuộc đua.

Khi đã quyết đinh, chẳng chút khó khăn để chàng lùi khỏi vị trí thứ nhất, điều khó nhất là không để qua ba người vượt qua. Tất cả đều trừng trừng nhìn chàng lúc họ vượt lên, – con trai của Tolomei, con trai của Salimbeni và một người nữa, – còn Romeo trừng trừng nhìn lại với ánh mắt căm ghét vì nghĩ họ tưởng chàng bỏ cuộc, và tự ghét mình vì phải viện đến mánh lới.

Tiếp tục đuổi theo, chàng bám sát ba người kia hết mức, chúi đầu xuống và tin rằng không một tòa tháp nào ủng hộ Salimbeni dám liều làm đau con trai của người bảo trợ họ. Đúng như tính toán của chàng, lá cờ có ba hình thoi của Salimbeni làm tất cả do dự một lúc lâu đến mức không ai dám ném gạch đá, bình lọ, và khi cả bốn phi nước đại qua khu San Donato, Romeo không bị trúng thêm vật gì nữa.

Cuối cùng, lúc phi qua lâu đài Salimbeni, chàng biết đã đến lúc chàng làm điều không thể: vượt ba đối thủ, từng người một, trước khi đường đua đến đoạn dốc ngược lên phố Capitano và vào quảng trường Duomo. Đây thực sự là thời điểm cho thần thánh can thiệp, chàng thành công và thắng cuộc từ vị trí hiện tại, chỉ có thể nhờ một ân huệ siêu phàm.

Thúc ngựa, chàng cố đuổi kịp con trai Tolomei và con trai Salimbeni – họ sát cánh bên nhau như thể là đồng minh mãi mãi, – nhưng lúc Romeo sắp vượt qua, Nino Salimbeni liền khuỳnh cánh tay như con bọ cạp chổng đuôi lên, đâm ngập con dao găm sáng loáng vào Tebaldo Tolomei, ngay phía trên áo giáp, nơi cái cổ mềm lộ rõ giữa giáo che thân và mũ sắt.

Sự việc xảy ra nhanh đến nỗi không ai có thể nhìn thấy chính các kẻ tấn công và cách thức tấn công. Chỉ một ánh vàng lóe lên, một cuộc vật lộn chớp nhoáng. Chàng trai Tebaldo Tolomei mười bảy tuổi đổ nhào khỏi ngựa, nằm sóng sượt giữa quảng trường Tolomei, rồi được kéo giật sang một bên vì các cổ động viên của cha chàng gào thét. Trong lúc đó, kẻ sát nhân, tiếp tục phi hết tốc lực, không hề ngoảnh nhìn lại. Người duy nhất có phản ứng với hành động tàn bạo đó là kỵ sĩ thứ ba – lo sợ cho tính mạng của mình vì hình như chàng là địch thủ duy nhất còn lại, – nên chàng ngoặt lá cờ vào tên sát nhân, cố làm hắn rời khỏi bàn đạp.

Xiết chặt hết mức dây cương con Cesare, Romeo cố vượt qua hai kỵ sĩ đang vật lộn, nhưng bị cản trở khi Nino Salimbeni tấn công chàng dồn dập trong lúc ra sức tránh ngọn cờ của người thứ ba.

Thõng người chỉ cao hơn bàn đạp ngựa một chút, Romeo nhìn thấy lâu đài Marescotti vút qua và hiểu rằng, chỗ ngoặt chí tử của Palio ở ngay trước mặt. Nếu chàng không ở trên yên khi đến đường rẽ, cuộc thi Palio của chàng – và có thể cả đời chàng – sẽ đối mặt với một kết cục rất nhục nhã.

Trong quảng trường Duomo, tu sĩ Lorenzo – dễ đến lần thứ hai mươi trong buổi sáng hôm ấy – ân hận vì đã không nán lại trong căn phòng hiu quạnh của mình với cuốn sách kinh. Thầy đã để sự điên rồ của Palio cuốn mình ra ngoài và đi xa. Thầy đang ở đây, mắc kẹt giữa đám đông và chỉ có thể nhìn thấy đoạn đường cuối, chưa bao giờ bận tâm đến mảnh lụa quỷ ám đang bay phấp phới trên cây cột cao, là dải thòng lọng bằng lụa quanh cổ người vô tội.

Cạnh thầy là bậc đài vọng đầy những người đứng đầu các gia đình quyền quý, không nhầm với đài vọng của chính quyền dành cho những người ít xa hoa, ít dòng dõi hơn, nhưng – theo lối nói khoa trương một cách khiêm tốn – thì họ có cùng hoài bão. Cả Tolomei và Salimbeni đều ở trên đài vọng của các gia đình quý tộc, họ chọn cách theo dõi thắng lợi của con mình trên các ghế lót nệm thoải mái thay vì chịu bụi bặm ở chỗ xuất phát tại Fontebecci, chỉ để ban phát những lời khuyên nhủ của cha với bọn trẻ bạc bẽo, chẳng bao giờ biết lưu ý.

Họ ngồi đó, vẫy chào những người phấn khởi cổ vũ và cúi chào có chừng mực, họ không làm ngơ trước thực tế rằng năm nay, giọng điệu của dân chúng đã thay đổi. Palio lúc nào cũng là điệu nhạc chối tai với những ai hát các bài ca của riêng từng lãnh địa và các anh hùng của họ – gồm cả gia đình Tolomei và Salimbeni, nếu họ có một kỵ sĩ trong cuộc đua, – nhưng năm nay hình như có thêm nhiều người tham gia hát các bài ca Aquila, con đại bàng Marescotti.

Ngồi đó, lắng nghe mọi thứ, trông Tolomei có chiều lo lắng. Chỉ đến lúc này, tu sĩ Lorenzo mới đánh bạo phỏng đoán người đàn ông giỏi giang kia đang băn khoăn liệu đưa cô cháu gái Giulietta – phần thưởng thực sự của Palio – đi cùng có phải là một ý tưởng hay ho không.

Giulietta không hay biết nàng ngồi đó giữa người bác và người chồng tương lai, đồ trang sức vương giả trông thật lạc lõng trên đôi má nhợt nhạt của nàng. Có lần nàng quay đầu nhìn thẳng vào tu sĩ Lorenzo, dường như nàng biết thầy đang đứng đó quan sát nàng. Vẻ mệt mỏi trên mặt nàng khiến lòng thầy đau nhói, và ngay sau đó thầy thấy bực bội vì không thể cứu nàng.

Tại sao Chúa Trời lại giải thoát nàng khỏi cuộc tàn sát xảy ra với gia đình nàng, rồi lại ném nàng vào tay chính kẻ hung ác đã giết chết họ? Số phận thật tàn bạo, nghiệt ngã, và tu sĩ Lorenzo đột nhiên ao ước giá như cả nàng lẫn thầy không sống sót qua cái ngày thảm họa đó.

Nếu Giulietta biết những ý nghĩ của người bạn lúc nàng ngồi trên đài vọng khiến mọi người thương xót, nàng sẽ tán thành rằng kết hôn với Salimbeni là một vận số tệ hại hơn cả cái chết. Nhưng còn quá sớm để nàng thất vọng, Palio chưa kết thúc, Romeo – theo nàng biết – vẫn còn sống, và Thượng đế có khi vẫn đứng về phía họ.

Nếu Đức Mẹ Đồng Trinh Maria thực sự mếch lòng vì cách hành xử của Romeo trong giáo đường đêm trước, Người đã giáng cho chàng chết ngay tại chỗ; nhưng thực tế là chàng vẫn được phép sống và trở về nhà nguyên vẹn, ắt hẳn Thượng đế muốn nàng thi đấu ở Palio. Còn bây giờ…ý muốn của Thượng đế là một việc, còn ý thích của Salimbeni, kẻ đang ngồi cạnh nàng là việc hoàn toàn khác.

Tiếng rầm rập của đoàn ngựa đang phi tới khiến đám đông quanh đài vọng nhao nhao mong đợi và ồ lên hò reo điên cuồng, gào tên người họ yêu quý và tên đối thủ, dường như với họ tiếng la hét có thể điều khiển được số phận. Khắp nơi quanh nàng, dân chúng vươn người để được thấy ai trong mười lăm kỵ sĩ là người vào quảng trường đầu tiên, nhưng Giulietta không dám nhìn. Nhắm mắt lại trước sự hỗn loạn, nàng ép đôi tay chắp lại lên môi và liều lĩnh nói lên một từ khiến mọi sự tốt đẹp: “Aquila” (Đại bàng)

Sau giây lát nín thở, hàng ngàn tiếng nhắc lại ở khắp nơi quanh nàng:

– Aquila! Aquila! Aquila!

Tiếng khóc, tiếng cười, tiếng nhạo báng…và Giulietta mở mắt, xúc động vì nhìn thấy Romeo lao vút qua quảng trường – ngựa của chàng trượt trên đường đau gập ghềnh và sùi bọt mép vì kiệt sức, – nhằm thẳng tới cỗ xe thiên thần cắm mảnh lụa thưởng. Mặt chàng méo mó vì thịnh nộ và nàng sửng sốt thấy người chàng vấy máu, nhưng chàng vẫn cầm lá cờ đại bàng trong tay, và về nhất. Về nhất.

Tiếng hoan hô không ngừng, Romeo phi thẳng tới cỗ xe thiên thần, gạt các lễ sinh mũm mĩm, đeo cánh và cầm sợi dây sang một bên, chàng vồ lấy mảnh lụa thưởng và cắm lá cờ của chàng vào đó. Giơ cao phần thưởng trong sự đắc thắng không thể kiềm chế, chàng quay lại đối diện với địch thủ gần nhất – Nino Salimbeni – và khoái chí vì cơn thịnh nộ của gã.

Không ai quan tâm đến các kỵ sĩ về thứ ba, thứ tư và thứ năm; gần như đồng loạt, cả đám đông quay đầu xem Salimbeni sẽ làm gì Romeo, và đây là diễn biến bất ngờ của các sự kiện. Lúc này, không một người đàn ông hoặc đàn bà nào ở Siena không biết Romeo thách thức Salimbeni và lời chàng cầu nguyện – nếu chàng thắng ở Palio, chàng sẽ không biến mảnh lụa thưởng thành quần áo, mà sẽ trải trên giường cưới của chàng – và không ít trái tim cảm thông với chàng trai trẻ đang yêu này.

Thấy Romeo đã nắm chặt mảnh lụa thưởng, R, đứng phắt dậy, dao động trong luồng gió tạt ngang của số phận. Xung quanh ông, dân chúng Siena rên rỉ và cầu xin, năn nỉ ông thay đổi quyết định. Người đàn ông ngồi cạnh chắc sẽ vỡ tim nếu ông làm thế.

– Ngài Tolomei! – Romeo gầm vang, giơ cao mảnh lụa thưởng lúc con ngựa nhấc hai chân trước lên, – Thượng đế đã thương tôi! Ngài có dám phót lờ mong muốn của Đức Mẹ Đồng Trinh Maria không? Ngày có dám hy sinh thành phố này vì sự phẫn nộ của Người k? Ý thích của người đàn ông kia, – chàng táo bạo chỉ thẳng vào Salimbeni, – có ý nghĩa với ngài hơn sự an toàn của tất cả chúng ta không?

Đám đông gầm lên giận dữ vì ý kiến ấy, và tốp linh canh gác quanh đài vọng lùi lại, đề phòng. Trong số thị dân, có nhiều người coi thường lính gác và vươn tay tới Giulietta, giục nàng nhảy khỏi đài vọng để họ đưa nàng tới chỗ Romeo. Nhưng Salimbeni chặn ý định của họ bằng cách đứng dậy và đặt bàn tay quả quyết lên vai nàng.

– Giỏi lắm, chàng trai! – Ông ta quát Romeo, cậy có nhiều bạn bè và người ủng hộ cổ vũ, nên muốn xoay chuyển tình thế. – Cậu đã thắng cuộc! Giờ hãy về nhà và lấy mảnh lụa thưởng may cho mình chiếc áo đẹp, và có khi tôi sẽ để anh làm phù rể cho tôi khi…

Nhưng đám đông nghe đã đủ và không để ông ta nói hết.

– Bọn Salimbeni ô nhục vì đã vô lễ với ý muốn của Thượng đế! – Ai đó hét lên. Những người khác hưởng ứng ngay tức khắc, la hết phản đối bọn quý tộc và sẵn sàng biến cơn thịnh nộ thành cuộc nổi loạn. Những kình địch cũ ở Palio giờ quên hẳn nhau, và vài người khờ dại vẫn đang ca hát nhanh chóng bị những người xung quanh bắt im miệng.

Dân chúng Siena hiểu rằng, nếu tất cả bọn họ đoàn kết chống lại một số ít người, họ rất có khả năng xông lên đài vọng, mang người phụ nữ rõ ràng thuộc về người khác đi. Đây không phải là lần đầu tiên họ nổi loạn chống lại Salimbeni, và họ biết rằng nếu họ dấn tới, họ se buộc bọn người kiêu ngạo kia phải trốn vào các tòa tháp cao của chúng, rút hết các bậc và thang lên khỏi tầm với.

Giulietta ngồi trên đài vọng như một thủy thủ thiếu kinh nghiệm giữa đại dương đầy bão tố, vừa sợ hãi vừa say sưa cảm nhận sức mạnh của bao con người cuồng nhiệt quanh nàng. Họ kia, hàng ngàn người xa lạ mà nàng không hề biết tên, nhưng họ sẵn sàng coi thường những cây kích của bọn lính gác để mang lại công lý cho nàng. Giá họ dấn tới, bậc đài vọng chẳng mấy nỗi sẽ bị đổ nhào, và tất cả những người đàn ông quý tộc cùng những chiếc áo choàng lộng lẫy của họ sẽ vội vã thoát thân khỏi đám quần chúng lộn xộn.

Trong lúc huyên náo om sòm như thế, Giulietta hình dung nàng và Romeo có thẻ trốn biến, Đức Mẹ Đồng Trinh Maria chắc chắn sẽ kéo dài sự hỗn loạn để họ cùng nhau thoát khỏi thành phố.

Nhưng sự đời không diễn ra như thế. Khi chúng chưa tập hợp đủ, một nhóm người mới đột nhiên xông vào quảng trường, gào to tin tức khủng khiếp về công tử Tolomei.

-Cậu Tebaldo! – Họ vừa khóc lóc, vừa vò đầu bứt tai tuyệt vọng, – Cậu Tebaldo ơi! Chao ôi, tôi nghiệp cậu ấy!

Rốt cuộc, khi họ đến đài vọng và tìm thấy Tolomei đang quỵ gối năn nỉ họ cho biết có chuyện gì đã xảy ra với con trai ông, họ đầm đìa nước măt, hươ con dao găm đẫm máu lên không trung và đáp:

– Cậu ấy đã chết! Bị giết. Bị đâm chết trong cuộc đua Palio!

Vừa hiểu chuyện, Tolomei ngã vật ra, co giật và toàn thể lễ đài bùng lên sợ hãi. Sửng sốt trước cảnh tượng ông bác như bị quỷ ám, lúc đầu Giulietta lùi lại, nhưng vẫn cố quỳ xuống và chăm sóc ông hết mức có thể, che chắn ông khỏi những bàn chân và cẳng chân chen lấn, cho đến lúc phu nhân Antonia và những người hầu len được tới nơi.

– Bác Tolomei, – nàng giục ông, không biết nói gì thêm, – bác bình tĩnh lại đi!

Người duy nhất không phản ứng gì khi nghe chuyện đó là Salimbeni, đòi xem vũ khí giết người và ngay lập tức giơ cao lên cho mọi người nhìn thấy.

– Nhìn đây! – ông ta gầm lên. – Các người có một anh hùng rồi đấy! Đây là con dao găm đã giết chết Tebaldo Tolomei trong cuộc đua thiêng liêng của chúng ta! Nhìn thấy chưa? – Ông ta chỉ vào cán dao. – Dao khắc hình đại bàng nhà Marescotti! Các người có hiểu gì không, hả?

Giulietta kinh hoàng thấy đám đông nhìn trừng trừng đầy nghi hoặc vào Salimbeni và con dao. Đây là con người họ vừa muốn trừng phạt, nhưng sững sờ vì tin tức về hành động xấu xa và hình dáng thương tâm của ngài Tolomei đã làm họ nhãng đi. Lúc này họ không biết nghĩ gì, và cứ đứng đó, há hốc miệng chờ đợi.

Nhìn thấy tình cảm thay đổi trên mặt họ, Giulietta hiểu ngay rằng Salimbeni đã trù tính khoảnh khắc này từ trước, lợi dụng đám quần chúng hỗn độn này để chống lại Romeo nếu chàng thắng ở Palio. Lúc này họ quên hẳn lý do tấn công lễ đài lúc nãy, nỗi xúc động của họ vẫn ào ạt dữ dội, hung hăng đòi xé nát một ai đó.

Họ không phải đợi lâu. Salimbeni có đủ cổ động viên trung thành trong đám đông, ngay lúc hắn hươ con dao găm lên, một người đã hét to:

– Romeo là kẻ giết người!

Trong giây lát, dân chúng Siena lại tập hợp, lần này sự căm thù, phẫn nộ dồn hết vào chàng thanh niên mà họ vừa reo hò, tung hô là anh hùng của họ.

Lơ lửng trên biển người đang trong cơn chấn động, lúc này Salimbeni trơ tráo ra lệnh bắt giữ Romeo ngay lập tức, và gọi những người bất đồng là kẻ phản bội. Nhưng Giulietta nhẹ hẳn người khi mười lăm phút sau, tốp lính gác trở lại lễ đài, và chỉ dẫn theo con ngựa sùi bọt mép, lá cờ in hình chim đại bàng và mảnh lụa thưởng. Không thấy tăm hơi Romeo Marescotti. Không người nào nhìn thấy Romeo rời quảng trường.

Đến khuya đêm ấy, khi triệu tập các gia đình, một người đàn ông vì muốn cứu vợ và các con gái khỏi tay bọn tội phạm dốt nát, đã thú nhận rằng có nghe tin đồn Romeo đã trốn thoát qua đường cống ngầm Bottini, đi cùng với một thầy tu trẻ dòng Franxit.

Cuối buổi chiều hôm đó, khi Giulietta nghe thấy đám người hầu thì thầm tin này, nàng đã cầu nguyện, tạ ơn Đức Mẹ Đồng Trinh Maria. Trong tâm trí nàng, người thầy tu trẻ dòng Franxit kia chắc chắn là tu sĩ Lorenzo, nàng đủ hiểu thầy để biết chắc rằng thầy sẽ làm mọi việc trong khả năng để cứu người đàn ông mà nàng thương yêu.

Ôi, bá tước là một quý tộc rất đáng yêu.

So với bá tước, Romeo chỉ là cái giẻ lau bát.

Phu nhân ơi, đại bàng cũng chẳng có được

Con mắt tinh anh, xanh biếc và xinh đẹp

Như mắt Paris

— ——–oOo—- ——-

Nhà băng Monte dei Paschi tối tăm và trống trải sau giờ làm việc, chào đón chúng tôi bằng sự yên tĩnh dễ chịu khi cả hai cùng bước lên cầu thang trung tâm. Alessandro hỏi tôi có phiền không nếu dừng lại một lúc trên đường để ăn tối, và tất nhiên tôi nói không. Lúc này, theo anh lên bậc thang trên cùng, tôi bắt đầu băn khoăn: Chính xác thì anh đưa tôi đi đâu và vì sao.

– Theo cô.. – Anh mở cánh cửa gỗ sồi nặng trịch và đợi tôi bước vào, té ra là một văn phòng rộng rãi. – Đợi tôi một phút thôi. – Anh bật đèn rồi biến mất ở căn phòng phía sau, để cửa khép hờ. – Đừng chạm vào bất cứ thứ gì nhé!

Tôi liếc nhìn những đi văng sang trọng, chiếc bàn và ghế bành bệ vệ. Căn phòng không mang mấy dấu hiệu của phòng làm việc thực sự. Một tập hồ sơ nằm lẻ loi trên bàn trông như để phô trương. Vật trang trí duy nhất cho bức tường là các cửa sổ nhìn xuống quảng trường Salimbeni; trong phòng không hề có tài sản cá nhân nào như văn bằng hoặc những bức ảnh, hay bất cứ thứ gì đó để nhận dạng chủ nhân. Tôi vừa đưa một ngón tay sờ mép bàn xem có bụi không thì Alessandro lại xuất hiện, đang cài khuy áo sơ mi.

– Cẩn thận! – Anh nói. – những cái bàn như thế này giết chết nhiều người hơn cả súng đấy.

– Đây là phòng làm việc của anh à? – Tôi hỏi, thấy mình thật ngớ ngẩn

– Xin lỗi, – anh nói và với cái áo khoác trên ghế. – Tôi biết cô thích tầng hầm hơn. Với tôi, – anh ném cái nhìn không nhiệt tình lên khắp khung cảnh sang trọng xung quanh, – nơi này thực sự là một phòng tra tấn.

Ra ngoài, anh dừng lại giữa quảng trường Salimbeni và nhìn tôi với nụ cười trêu chọc:

– Cô muốn đưa tôi đi đâu đây?

Tôi nhún vai:

– Tôi thích xem gia đình Salimbeni ăn tối ở đâu.

Nụ cười của anh tắt ngay tắp lự:

– Tôi không nghĩ thế. Trừ khi cô muốn dành phần còn lại của buổi tối với Eva Maria. –Thấy tôi không muốn thế, anh nói tiếp. – Tại sao chúng ta không đến nơi nào khác nhỉ? Một nơi nào đó ở khu vực của cô chẳng hạn.

– Nhưng tôi không biết bất cứ ai trong khu Cú, – tôi phản đối, – ngoài ông anh họ Peppo. Và tôi cũng không biết nên ăn ở đâu.

– Thế thì tốt. – Anh bước đi. – Sẽ chẳng có ai làm phiền chúng ta đâu.

Chúng tôi đến nhà hàng Cecco, rẽ ngay gần Bảo tàng Cú. Nơi này nhỏ, cách xa đường mòn và tấp nập những người dân địa phương. Mọi món ăn trông giống những món ngon nhất ở nhà do mẹ nấu, một số món dọn trong bát bằng đất sét. Nhìn quanh, tôi không thấy một thử nghiệm nào về mặt mỹ thuật với rau quả hoặc thảo dược rắc ở rìa các đĩa trống một nửa. Ở đây các đĩa đầy ụ, gia vị nêm sẵn trong đồ ăn. Hầu như bàn nào cũng có năm, sáu thực khách; tất cả cười nói hoặc tranh cãi thân mật, không ai bực mình vì nói quá to hoặc khăn bàn dây bẩn. Giờ thì tôi hiểu vì sao Alessandro muốn đến một nơi không ai biết anh; căn cứ vào cách người ta la cà với bạn bè ở đây – mời mọi người và cả những chú chó của họ nhập bọn, to tiếng nếu bị từ chối, – tôi thấy ở Siena thạt khó có bữa ăn yên tĩnh cho hai người. Lúc chúng tôi đi qua họ, vào một góc để không bị quấy rầy, tôi có thể thấy Alessandro nhẹ người vì không có ai nhận ra anh. Chúng tôi vừa yên vị, anh thò tay vào túi áo khoác, rút ra con dao găm của Romeo và đặt lên bàn giữa chúng tôi.

– Hình như, – anh nói những từ lạc lõng rất chậm rãi, nếu không nói là miễn cưỡng, – tôi nợ cô một lời xin lỗi,

– Thôi được, – tôi chúi mũi vào quyển thực đơn để che nụ cười tự mãn, – đừng lôi nó ra. Anh đã đọc hồ sơ về tôi, Tôi vẫn là mối đe dọa cho xã hội mà.

Nhưng anh vẫn chưa chịu cười xòa, và chúng tôi ngồi im lặng lúng túng một lát, giả vờ nghiên cứu thực đơn và chuyển câu chuyện về hướng con dao găm.

Cho đến lúc chúng tôi có một chai Prosecco và một đĩa khai vị trước mặt, Alessandro mới mỉm cười – dẫu vẫn tỏ ra ân hận – và nâng cốc.

– Lần này tôi hy vọng cô thích nó hơn. Rượu cũ, bình mới mà.

– Đợi đến món chính chắc sẽ khá hơn, – tôi nói và chạm cốc với anh. – Nếu sau đó, tôi không bị săn đuổi, phải chạy chân không qua các phố, tôi sẽ nói tối nay may mắn hơn tối qua,

Anh nhăn mặt:

– Tại sao cô lại về khách sạn?

– Tôi xin lỗi, – tôi cười to, – nhưng đánh bạn với gã Bruno cặn bã còn tốt hơn với anh nhiều. Ít ra, hắn cũng tin tôi là Giulietta ngay từ đầu.

Alessandro ngoảnh đi, và tôi chợt nghĩ tôi là người duy nhất đánh giá được sự trớ trêu của hoàn cảnh. Tôi biết anh phải chiều lòng – và chắc chắn đủ tài mỉa mai loanh quanh – nhưng ngay lúc này, rõ ràng anh không thích nhắc đến thái độ bất lịch sự của mình.

– Năm tôi mười ba tuổi, – cuối cùng anh nói, và dựa vào lưng ghế, – tôi sống với ông bà tôi ở Siena này suốt mùa Hè. Ông bà tôi có một nông trại đẹp. Có vườn nho. Có ngựa. Có hệ thống ống nước. Một hôm, họ có khách. Đó là một phụ nữ Mỹ, Diane Tolomei và hai cô con gái nhỏ, Giulietta và Giannozza..

– Gượm đã! – Tôi ngắt lời anh. – Anh định nói là tôi ư?

– Cô đóng…- gọi là gì ấy nhỉ? – À, đóng bỉm. – Phớt lờ sự ngỡ ngàng của tôi, anh nói tiếp. – Bà tôi bảo tôi chơi với hai chị em trong lúc họ nói chuyện, và tôi dẫn hai cô ra chuồng ngựa, chỉ cho xem mấy con ngựa. không may, cô sợ và ngã vào cái chĩa xóc cỏ khô, – anh lắc đầu, hồi tưởng lại khoảnh khắc đó, – thật kinh khủng. Cô gào lên, và máu khắp nơi. Tôi bế cô vào bếp, nhưng cô đá lung tung và khóc thét, còn mẹ cô nhìn tôi như thể tôi cố tình hành hạ cô vậy. May thay, ba tôi biết phải làm gì, bà cho cô một que kem to và khâu chỗ rách theo kiểu bà đã làm nhiều lần với mọi đứa con và cháu của bà. – Alessandro nhấp một ngụm Prosecco rồi nói tiếp. – Hai tuần lễ sau, cha mẹ tôi đọc trên báo tin Diane Tolomei qua đời vì tai nạn ô tô cùng hai con gái nhỏ. Họ rất buồn. – Cuối cùng, anh ngước nhìn và bắt gặp ánh mắt tôi. – Chính vì thế tôi không tin cô là Giulietta Tolomei.

Trong một lúc, chúng tôi ngồi đó nhìn nhau. Đó là một chuyện buồn cho cả hai, nhưng có một thứ gì đó vui lẫn lộn và vô cùng hấp dẫn là trước kia, từ hồi còn bé chúng tôi đã gặp nhau.

– Đúng là mẹ tôi mất vì tai nạn ô tô, – tôi nói khẽ, – nhưng hôm ấy bà không mang chúng tôi theo. Báo chí đưa tin nhầm. Về chuyện cái chĩa xóc cỏ khô, – tôi nói tiếp, cảm giác vui lên, – tôi rất cảm kích khi biết chuyện xảy ra. Anh có nghĩ tôi đã lo lắng biết chừng nào khi có một cái sẹo mà không hiểu từ đâu ra không?

– Cô vẫn bị sẹo à?

– Đúng vậy! – Tôi kéo váy để anh nhìn thấy vết lằn trắng trên đùi tôi, – Trông khiếp nhỉ? Nhưng rốt cuộc, bây giờ tôi đã hiểu ai đáng trách rồi.

Chăm chú nhìn xem liệu anh có ăn năn không, tôi thấy anh nhìn đăm đăm vào đùi tôi với vẻ bàng hoàng chẳng giống anh tí nào, làm tôi cười phá.

– Xin lỗi! – Tôi kéo tà váy xuống. – Tôi bị lôi cuốn vào câu chuyện của anh quá?

Alessandro hắng giọng và cầm chai Prosecco.

– Hãy cho tôi biết lúc nào cô muốn thêm chai nữa nhé.

Ăn nửa chừng, anh nhận một cú điện thoại từ đồn cảnh sát. Lúc anh trở lại bàn, tôi nhận thấy anh có tin lành.

– Vậy là, – anh nói lúc ngồi xuống, – có vẻ tối nay cô không phải chuyển khách sạn nữa. Họ đã tìm thấy Bruno ở nhà chị hắn, vali của hắn đầy những thứ đồ ăn cắp ở bảo tàng của anh họ cô. Khi biết hắn đã trở lại nghề cũ, chị hắn đánh hắn dữ dội đến mức hắn lạy lục van vỉ họ bắt hắn ngay lập tức. – Anh cười và lắc đầu, nhưng khi thấy tôi nhếch lông mày, anh trở nên nghiêm túc. – Thật không may, họ không tìm thấy mảnh lụa thưởng. Chắc hắn đã giấu ở đâu đó. Cô đừng lo, rồi nó sẽ xuất hiện thôi. Hắn không thể bán cái mảnh lụa cũ nát ấy…-Thấy tôi phát hoảng vì cách chọn từ của anh, anh nhún vai. – Tôi không lớn lên ở đây mà.

– Một nhà sưu tầm sẽ mua mảnh lụa cũ nát ấy với giá rất cao, – tôi nói gay gắt. – Những thứ đó có giá trị tinh thần rất lớn với người dân ở đây….và tôi chắc anh thừa biết điều đó. Ai mà biết đâu có khi dòng họ Marescotti của Romeo đứng sau những chuyện này. Anh có nhớ anh họ Peppo của tôi đã nói rằng hậu duệ của Romeo cho rằng mảnh lụa thưởng và con dao găm này thuộc về họ.

– Nếu thế, – Alessandro ngả người về phía sau lúc người hầu bàn dọn đĩa, – ngày mai chúng ta sẽ biết, khi họ có cuộc chuyện trò nho nhỏ với Bruno. Hắn không phải là kẻ im lặng.

-Sao anh biết? Anh tin thế sao? …Nhà Marescotti thuê hắn lấy trộm mảnh lụa thưởng ư?

Tôi có thể thấy Alessandro không thích chủ đề này tí nào.

-Nếu họ đứng sau chuyện này thật, – cuối cùng, anh nói, – họ sẽ không dùng Bruno. Họ có người của họ, Và họ cũng không để lại con dao găm trên bàn.

– Có vẻ như anh biết họ?

Anh nhún vai:

– Siena là một thành phố nhỏ mà.

– Tôi tưởng anh nói anh không lớn lên ở đây.

– Đúng thế. – Anh gõ ngón tay lên bàn vài lần, rõ ràng là khó chịu vì sự đeo đẳng của tôi. – Nhưng các mùa Hè tôi đều ở đây với ông bà tôi. Tôi đã kể với cô rồi. Tôi và các anh em họ chơi đùa trong vườn nho nhà Marescotti hàng ngày. Chúng tôi lúc nào cũng sợ bị phát hiện. Đó là một phần của trò nghịch ngợm. Cả bọn đều sợ ông già Marescotti. Lẽ tất nhiên, trừ Romeo.

Tôi suýt đánh đổ cốc vang.

– Anh định nói là Romeo ấy ư? Người mà anh họ Peppo của tôi đã kể, là người có thể lấy trộm mảnh lụa thưởng sao? – Thấy Alessandro không trả lời, tôi nói tiếp, khẽ hơn, – thế là khớp rồi. các anh là bạn thời thơ ấu.

Anh nhăn nhó:

– Không hẳn là bạn đâu. – Thấy tôi sắp xổ ra một tràng câu hỏi nữa, anh đưa thực đơn cho tôi. – Đây. Đến lúc chọn bánh ngọt tráng miệng rồi.

Lúc ăn món tráng miệng, vừa nhúng bánh quy hạnh nhân – cantucci – vào rượu vang, tôi vừa cố lái đến chuyện Romeo, nhưng Alessandro không muốn đả động đến nữa. Thay vào đó, anh hỏi tôi về thời thơ ấu, vì sao tôi lại dính dáng đến phong trào phản chiến. Anh nói, rõ là khoái chí vì vẻ cau có của tôi.

– Kể tiếp đi, đấy không thể là lỗi của em gái cô.

– Tôi chưa bao giờ nói thế. Chúng tôi có những ưu thế khác hẳn nhau.

– Để tôi đoán xem nào…Em gái cô là quân nhân à? Cô ấy đã đến Iraq sao?

– Chà! – Tôi lấy thêm miếng cantucci. – Janice không thể tìm ra Iraq trong trò chơi. Nó coi cuộc đời…chỉ là một trò chơi.

– Cô ấy thật đáng xấu hổ. – Alessandro lắc đầu.

– Tận hưởng cuộc sống thôi, – tôi nói, mau mắn. – Tôi biết là anh không hiểu mà! Khi chúng tôi…

– Tôi hiểu chứ, – anh ngắt lời tôi. – Cô ấy mải vui chơi, còn cô thì không thể. Cô ấy thích tận hưởng cuộc sống, còn cô không thể làm thế. Thật quá tệ khi có người cứ đinh ninh ghi nhớ điều đó.

Tôi xoay xoay cốc đã uống hết, phát biểu ý kiến mà không thoải mái cho lắm:

– Anh nghe ngày, với Janice Jacobs, người quan trọng nhất đời là Janice Jacobs. Nó sẽ nướng chả bất cứ người nào để áp đảo ý kiến. Nó thuộc loại người…-Tôi ngừng lại, cũng nhận ra rằng tôi không muốn gợi lên quá khứ đáng sợ trong buổi chiều dễ chịu này.

– Còn Julie Jacobs thì sao? –Alessandro rót đầy cốc rượu vang cho tôi. – Ai là người quan trọng nhất với cô ấy?

Tôi nhìn nụ cười của anh, không biết có phải anh vẫn đang chế nhạo tôi không.

– Để tôi đoán nhé, – anh đùa. – Julie Jacobs muốn cứu cả thế giới và làm cho mọi người hạnh phúc…

– Nhưng trong khi thực hiện, cô ấy lại khiến mọi người khổ sở, – tôi nói tiếp, cướp lời giáo lý của anh, – kể cả bản thân mình. Tôi biết anh đàng nghĩ gì mà. Anh đang nghĩ mục đích không bào chữa cho phương tiện, và dù cưa hết đầu của các Nàng tiên cá bé nhỏ, anh cũng không chịu ngừng gây hấn. Tôi hiểu điều đó. Tôi hiểu mọi chuyện này.

– Vậy sao cô không làm thế đi?

– Tôi không làm ư? Không thể làm theo cách đó được. – Tôi nhìn anh xem liệu chúng tôi có thể quên nhắc tới Nàng tiên cá bé nhỏ và chuyển sang đề tài vui vẻ hơn không. Nhưng không thể được. Dù anh mỉm cười, cái nhìn của anh cho tôi biết đây là một vấn đề không thể giấu mãi được.

– Thôi được, – tôi thở dài, – đây là chuyện xảy ra. Tôi nghĩ chúng ta đã khoác cho nó vô số những thứ mệt nhọc, và báo chí Đan Mạch sẽ đến chụp ảnh…

– Họ đã làm thế rồi.

– Tôi biết! Nhưng tôi không bao giờ muốn cắt đầu nàng đi…

– Cô đang cầm cưa đấy.

– Đấy chỉ là tình cờ thôi! – Tôi vùi mặt vào hai bàn tay. – chúng tôi không nhận thức được nàng lại bé nhỏ đến thế. Đó chỉ là một pho tượng bé xíu. Quần áo không vừa vặn, Rồi một người nào đó – một kẻ khờ dại – rút cái cưa ra…- Tôi không thể nói tiếp.

Chúng tôi ngồi lặng im một lát, cho đến khi tôi nhìn qua các kẽ tay xem anh còn phẫn nộ không. Nhưng không. Thực ra, trông anh còn hơi vui vui. Dẫu anh không cười hẳn, song trong mắt anh có một thoáng lấp lánh.

Chuyện ấy có gì buồn cười đâu? – Tôi cằn nhằn.

– Có đấy, – Alessandro nói, – Cô đúng là một Tolomei. Có nhớ không?..”Ta sẽ thể hiện là một kẻ bạo ngược; khi phải chiến đấu với con người, ta sẽ lịch sự với các nàng tiên cá, ta sẽ cắt đầu các nàng”. – Khi thấy tôi hỏi câu trích dẫn, anh mỉm cười. “Được, đầu của các nàng tiên cá hay đầu các trinh nữ, ngươi cứ mang đi tùy ý ngươi”.

Tôi buông tay xuống lòng, phần nào nhẹ nhõm, phần nào bối rối vì câu chuyện thay đổi.

– Anh làm tôi ngạc nhiên đấy. Tôi không biết anh thuộc lòng Romeo và Juliet.

Anh lắc đầu:

– Tôi chỉ thuộc những vai thách đấu thôi. Tôi hy vọng không làm cô chán ngán.

Không biết anh đang tán tỉnh tôi hay làm tôi vui, tôi lại nghịch con dao găm.

– Cũng lạ, – tôi nói, – nhưng tôi biết toàn bộ vở kịch. Tôi luôn thế. Ngay cả trước khi tôi hiểu là vở gì. Giống như có tiếng nói trong đầu tôi vậy…-Tôi bật cười. – Tôi không biết vì sao lại kể với anh điều này.

– Bởi vì, – Alessandro nói, thẳng thắn, – cô chỉ mới phát hiện ra cô là ai thôi. Rốt cuộc, mọi thứ đã bắt đầu được cảm nhận. Mọi việc cô đã làm, mọi thứ cô chọn không làm..giờ thì cô hiểu rồi. Đây là thứ mà người ta gọi là số phận.

Tôi ngước lên, thấy anh đang chăm chú nhìn nhưng không phải là vào tôi, mà là con dao găm.

– Còn anh thì sao? – Tôi hỏi. – Anh đã khám phá ra số phận của mình chưa?

Anh hít một hơi:

– Tôi biết nó rồi. Và nếu tôi quên, Eva Maria sẽ nhắc nhở ngay. Nhưng tôi không bao giờ thích ý niệm tương lai đã định sẵn. Suốt đời, tôi cố chạy trốn số phận.

– Và anh đã thành công?

Anh ngẫm nghĩ:

– Trong một khoảng thời gian thôi. Nhưng cô biết không, số phận luôn bắt kịp ta. Dù ta có trốn xa đến đâu.

– Anh đã đi xa ư?

Anh gật đầu, nhưng chỉ một lần.

– Rất xa. Đến tận cùng.

– Anh làm tôi tò mò quá, – tôi nhẹ nhàng nói, hy vọng anh sẽ suy nghĩ kỹ lưỡng. Nhưng không. Căn cứ vào nét cau lại trên trán anh, tôi đoán đó là một chủ đề không vui. Tôi nóng lòng muốn biết thêm về anh, nhưng không muốn làm hỏng buổi tối, nên chỉ hỏi, – anh có định trở lại nơi đó không?

Anh gần như mỉm cười:

– Sao thế? Cô muốn đi ư?

Tôi nhún vai, lơ đãng xoay xoay con dao găm trên khăn trải bàn.

– Tôi không cố chạy trốn khỏi số phận đâu.

Lúc tôi không nhìn anh, anh dịu dàng đặt bàn tay lên thứ vũ khí để ngăn nó xoay tròn.

– Có lẽ nên thế.

– Tôi cho rằng, – tôi phản đối, kéo dần báu vật của tôi ra khỏi lòng bàn tay anh để trêu, – tôi thích ở lại và đấu tranh hơn.

Ăn xong, Alessandro khăng khăng đòi đi bộ về khách sạn cùng tôi. Thấy anh đã thắng trong việc giành quyền thanh toán tiền ăn, tôi không chống lại. Ngoài ra, dù Bruno Carrera hiện giờ đã ở sau song sắt, vẫn còn kẻ phóng xe máy khắp thành phố, rình bắt con chuột nhát gan là tôi.

– Cô biết không, – anh nói, lúc chúng tôi cùng đi trong bóng tối, – tôi đã từng hành động như cô. Tôi quen nghĩ ta phải đấu tranh cho hòa bình, giữa ta và một thế giới hoàn hảo luôn đòi hỏi sự hy sinh. Giờ thì tôi hiểu hơn rồi. – Anh liếc nhìn tôi. – Cứ để mặc thế giới đấy.

– Không cố làm cho nó tốt đẹp hơn sao?

– Đừng ép người ta trở nên hoàn hảo. Ta sẽ chết khi đang cố gắng.

Tôi không khỏi mỉm cười vì cái kết luận trần tục ấy.

– Dù thực tế anh họ tôi đang nằm viện, được các nữ bác sĩ vây quanh chăm sóc, vậy mà tôi lại vui thế này. Thật quá tệ vì chúng ta không thể là bạn bè.

Câu này thật mới mẻ với Alessandro.

– Chúng ta không thể ư?

– Chắc chắn là không, – tôi nói. –Tất cả những người bạn khác của anh sẽ nói gì đây? Anh là một Salimbeni, còn tôi là một Tolomei. Số phận đã định cho chúng ta là kẻ thù.

Nụ cười của anh trở lại:

– Hoặc là người tình.

Tôi bật cười, gần như ngạc nhiên.

– Ồ, không! Anh là một Salimbeni, hóa ra Salimbeni chính là chàng Paris của Shakespeare, anh chàng nhà giàu muốn cưới Juliet sau khi nàng bí mật kết hôn với Romeo!

Alessandro tiếp nhận tin này lúc sải bước.

– À phải, tôi nhớ ra rồi: anh chàng Paris điển trai và giàu có. Đấy là tôi ư?

– Có vẻ thế. – Tôi thở dài rất kịch. – Chúng ta đừng quên rằng tổ tiên của tôi, Giulietta, đã yêu Romeo Marescotti, nhưng bị ép gả cho Salimbeni xấu xa, tổ tiên của anh! Nàng mắc kẹt trong tam giác tình yêu giống y như Juliet của Shakespeare vậy.

– Tôi cũng xấu xa sao? – Alessandro mỗi lúc một thích câu chuyện hơn. – Giàu có, điển trai và xấu xa. Không phải là một vai tồi. – Anh ngẫm nghĩ giây lát, rồi nói thêm, khẽ hơn, – nói riêng giữa cô và tôi thôi nhé, tôi luôn cho rằng Paris hay hơn Romeo nhiều. Theo tôi, Juliet là một ả ngốc.

Tôi đứng phắt lại giữa đường:

– Gì kia?

Alessandro cũng đứng lại.

– Thử nghĩ mà xem. Nếu Juliet gặp Paris trước, chắc chắn nàng sẽ yêu anh chàng. Rồi sau đó họ sẽ sống hạnh phúc chưa từng thấy. Nàng đã sẵn sàng để yêu.

– Không phải thế! – Tôi phản đối. – Romeo duyên dáng…

– Duyên dáng ư? – Alessandro tròn mắt. – Đàn ông gì mà lại duyên dáng?….

– …và khiêu vũ tuyệt giỏi…

– Romeo có bàn chân bằng chì! Chàng đã tự nhủ như thế!

-…nhưng quan trọng hơn cả, – tôi kết luận, – chàng có đôi bàn tay sành sỏi!

Rốt cuộc, trông Alessandro thất vọng hẳn.

– Ra thế, Chàng có đôi bàn tay sành sỏi! Cô đã bảo tôi thế đấy. Vậy, những người tình vĩ đại ấy làm bằng chất liệu gì nhỉ?

– Đấy là theo Shakespeare. – Tôi liếc nhìn bàn tay anh, nhưng anh đánh bại tôi bằng cách đút tay vào túi.

– Cô thực sự muốn sống cả đời theo Shakespeare sao? – Anh hỏi và lại bước đi.

Tôi nhìn con dao găm. Thật bất tiện khi đi lại với thứ này, nhưng nó quá to không nét vào xắc của tôi được, và tôi không muốn nhờ Alessandro mang giúp lần nữa.

– Không hẳn thế.

Anh cũng liếc nhìn con dao, và tôi biết chúng tôi đang nghĩ giống nhau. Nếu Shakespeare đúng, thì đây là vũ khí mà Giulietta Tolomei dùng để tự vẫn.

– Sao cô không viết lại nhỉ? – Anh đề xuất. – Và thay đổi số phận của cô đi?

Tôi trừng trừng nhìn anh:

– Anh định nói là viết lại Romeo và Juliet sao?

Anh vẫn không nhìn tôi, vẫn nhìn thẳng về phía trước.

– Và là bạn tôi.

Tôi ngắm nét mặt nhìn nghiêng của anh trong bóng tối. Chúng tôi đã nói chuyện suốt đêm, nhưng tôi vẫn gần như chẳng biết gì về anh.

– Với một điều kiện, – tôi nói, – anh kể cho tôi nghe nhiều hơn về Romeo.

Vừa nói xong, tôi đã tiếc khi thấy vẻ thất vọng trên mặt anh.

– Romeo, Romeo, – anh đay nghiến, – lúc nào cũng Romeo. Chính vì thế mà cô đến Siena ư? Để tìm anh chàng duyên dáng có bàn chân biết nhảy múa và bàn tay sành sỏi? Tôi e rằng cô sẽ vỡ mộng thôi. Hắn chẳng có gì giống như Romeo cô tưởng là biết đâu. Hắn không thích các vần thơ. Hãy tin tôi đi: hắn là một thằng khốn thực thụ. Nếu tôi là cô… – cuối cùng, anh nhìn tôi, – lần này, tôi sẽ chia sẻ ban công với Paris.

– Tôi không hề có ý định chia sẻ ban công với bất cứ ai, – tôi nói, chanh chua. – Tôi chỉ muốn giành lại mảnh lụa thưởng, và theo cách tôi nghĩ, Romeo là người duy nhất có động cơ lấy trộm nó. Nếu anh không cho là hắn lấy thì cứ nói, và tôi sẽ không nói đến chủ đề này nữa.

– Đúng, – Alessandro nói. – Tôi không nghĩ là hắn lấy. Nhưng như thế không có nghĩa hắn là người trong sạch. Cô đã nghe anh họ cô nói rồi đấy: Romeo có bàn tay tai họa. Ai cũng mừng khi tưởng hắn đã chết.

– Cái gì làm anh tin chắc hắn chưa chết?

Anh liếc nhìn:

– Tôi linh cảm thế.

– Sự thính nhạy với những kẻ cặn bã ư?

Anh không trả lời ngay. Cuối cùng, anh nói với chính mình nhiều hơn là với tôi:

– Sự thính nhạy với kẻ thù.

Tối hôm ấy, gia đình Rossini hôn vào chân cây thánh giá tưởng tượng lúc nhìn thấy tôi đi vào cửa trước khách sạn.

– Cô Tolomei! Cảm tạ Chúa! Cô đã an toàn! Anh họ cô từ bệnh viện đã gọi đến cho tôi nhiều lần…- Chỉ đến lúc này ông mới nhận ra Alessandro đi sau tôi, và gật đầu chào. – ông ấy bảo cô kết bạn với kẻ xấu. Cô đã ở đâu vậy?

Tôi co rúm lại:

– Ông thấy đấy, tôi đang trong tay người tốt nhất.

– Tốt thứ hai thôi, – Alessandro sửa lại, thích ý nghĩa ngớ ngẩn của tình hình. – Trong lúc này.

– Ông ấy cũng nhờ tôi nói với cô rằng hãy cất con dao găm vào nơi an toàn, – gia đình Rossini nói tiếp.

Tôi nhìn xuống con dao trong tay.

– Đưa nó cho tôi, – Alessandro nói, – Tôi sẽ trông coi nó cho cô.

– Đúng vậy, – gia đình Rossini giục. – Hãy đưa nó cho đại úy Santini. Tôi không muốn có bất kỳ kẻ nào đột nhập nữa.

Thế là tôi đưa con dao găm của Romeo cho Alessandro, và một lần nữa thấy nó biến vào cái túi trong người anh.

– Chín giờ ngày mai tôi sẽ quay lại, – anh nói, – Đừng mở cử cho bất cứ ai nhé.

– Không mở cả cửa ban công ư?

– Nhất là cửa ban công, càng không được mở.

Đêm hôm ấy lúc lên giường, tôi lao vào đống tài liệu đựng trong hộp của mẹ tôi, tên là Cây phả hệ của Giulietta và Giannozza. Trước kia tôi đã xem, nhưng không thấy sáng tỏ. Giờ đây, sau khi Eva Maria khẳng định ít nhiều rằng tôi là hậu duệ của Giulietta Tolomei, bỗng nhiên nó mang lại nhiều cảm xúc vì mẹ tôi đã cẩn thận vẽ lại dòng dõi huyết thống của tôi.

Phòng tôi vẫn hỗn độn, nhưng tôi không muốn chú ý đến hành lý của mình nữa. Chí ít thì kính vỡ cũng dọn đi rồi, đã lắp tấm mới trong lúc tôi ra ngoài, tối nay nếu có kẻ nào muốn vào phòng tôi, hắn sẽ khiến tôi tỉnh giấc trước.

Trải tài liệu lên giường, tôi mất một lúc lâu mới tìm ra mình trong một rừng tên. Đây không phải là cây phả hệ bình thường, vì nó phác họa riêng gốc gác của chúng tôi về bên ngoại, chỉ liên quan đến quan hệ trực tiếp giữa Giulietta Tolomei năm 1340 và tôi.

Rốt cuộc, tôi tìm ra mình và Janice ở phía dưới cùng của tài liệu, bên trên là tên cha mẹ tôi:

Sau tràng cười ha hả vì thực tế tên thật của Janice là Giannozza – nó vốn ghét cái tên Janice, rồi vừa khóc vừa nói đấy không phải tên nó, – tôi lần lên phía trên sơ đồ và tìm thấy chính xác những tên tương tự ở đó.

Và vân vân. Danh sách ở giữa dài đến mức tôi phải vắt nó từ ban công vào như một cái thang dây. Thật ấn tượng vì có người – đúng hơn là hàng chục người qua nhiều thế kỷ – siêng năng gìn giữ dấu vết dòng dõi chúng tôi, bắt đầu trở ngược lại từ năm 1340 với Giulietta và em gái Giannozza.

Thỉnh thoảng, hai cái tên ấy – Giulietta và Giannozza – xuất hiện bất ngờ cạnh nhau trên cây phả hệ, nhưng luôn có họ mà chưa bao giờ là họ Tolomei. Đó là điều đặc biệt thú vị, tôi có thể thấy Eva Maria không hoàn toàn đúng khi nói rằng Giulietta Tolomei là tổ tiên của tôi. Theo tài liệu này, tất cả chúng tôi – mẹ tôi, Janice tôi – đều là hậu duệ cả em gái Giulietta, Giannozza và chồng bà là Mariotto Gambacorta. Còn về Giulietta, không hề có ghi chép nào về việc bà lấy chồng và chắc chắn là không có con.

Như có linh tính, cuối cùng tôi gạt tài liệu sang bên và chúi vào đọc các văn bản khác. Biết rằng trên thực tế, Giannozza Tolomei là tổ tiên thực sự của mình, tôi càng đánh giá cao những đoạn thư của Giulietta gửi cho nàng và những lời bình luận hào hứng về cảnh sống tĩnh lặng ở thôn quê, cách xa Siena của Giannozza.

Em thật may mắn, em yêu quý nhất của chị, – có đoạn, Giulietta viết, – vì ngôi nhà của em rộng rãi đến thế và chồng em chăm chỉ dạo chơi..- sau đó nàng suy tư, – chao ôi, giá chị được là em, lẻn ra ngoài và nằm dài trên lớp cỏ xạ hương suốt một giờ yên bình trộm lén….

Cuối cùng, tôi thiếp đi và ngủ say trong vài giờ liền, cho đến khi có tiếng huyên náo rất to khiến tôi choàng tỉnh giấc trong lúc trời vẫn tối đen.

Một thứ gì đó xuất hiện lờ mờ trên nền những âm thanh của thế giới náo động kia, mất một lúc tôi mới nhận ra tiếng xe máy rú ga tăng tốc phía dưới ban công phòng tôi.

Tôi nằm đó một lúc, khó chịu vì tính cách bạt mạng của thanh niên Siena nói chung, và một lát sau tôi mới nhận thức được rằng đây không phải cuộc đua xe thông thường, mà chỉ có một tay cưỡi mô tô duy nhất đang cố thu hút sự chú ý của người nào đó. Và, tôi bắt đầu thấy sợ, vì người đó chính là tôi.

Nhìn qua khe cửa chớp, tôi không thể thấy rõ những gì ở dưới đường, nhưng lúc đứng bên trong, cố nhìn ngó ngược xuôi, tôi bắt đầu nghe thấy tiếng ồn ào ở các phòng xung quanh. Hình như các vị khách khác của khách sạn cũng ra khỏi giường và mở cửa chớp xem có sự gì đang diễn ra ở bên dưới.

Cảm thấy bạo lên vì phản ứng chung, tôi mở cánh cửa kiểu Pháp và thò đầu ra ngoài; lúc này, tôi nhìn thấy hắn. Đúng kẻ cưỡi mô tô theo tôi, đang lượn thành những hình số 8 dưới ngọn đèn đường. Trong trí nhớ, chắc chắn đây là kẻ trước kia đã theo tôi hai lần – một lần cứu tôi khỏi tên Bruno Carrera, và một lần nhìn tôi qua cửa kính hiệu cà phê của Malena – vì hắn vẫn mặc đồ đen tuyền, kính che kín mặt, và tôi chưa bao giờ thấy chiếc mô tô nào giống xe hắn.

Một lát sau, hắn quay đầu và phát hiện ra tôi ở cửa ban công. Tiếng động cơ bỗng giảm thành tiếng vo vo, gần như chìm hẳn trong tiếng đóng sầm giận dữ của các cửa sổ và cửa ban công khác thuộc khách sạn Chiusarelli, nhưng hắn chẳng buồn để tâm. Thò tay vào túi, hắn rút ra một vật tròn tròn, rồi giơ thẳng cánh tay ra sau, hắn ném lên ban công phòng tôi, rất trúng đích.

Vật đó rơi xuống ngay phía trước tôi tạo thành một tiếng kỳ cục, mềm, thậm chí hơi nẩy lên lúc lắc rồi mới dừng lại. không có ý giao lưu gì khác, người bạn mặc áo da đen của tôi giật mạnh chiếc Ducati vào vòng tăng tốc điên cuồng, đến mức nó gần như dựng đứng lên và suýt quăng hắn đi. Vài giây sau, hắn rẽ vào góc phố và khuất dạng, để lại màn đêm tĩnh lặng cho các vị khách khác của khách sạn, – một số càu nhàu, một số bật cười.

Tôi đứng một lát, nhìn trân trân cái vật vừa được ném lên, rồi cuối cùng mới dám nhặt và mang vào trong phòng, đóng chặt cửa ban công lại. Bật đèn, tôi thấy đó là một quả bóng tennis quấn trong giấy nặng và buộc bằng dây cao su. Tờ giấy té ra là tin nhắn do một bàn tay mạnh mẽ, tự tin viết bằng mực đỏ sẫm với giọng điệu của các bức thư tình và của người tự vẫn. Thư viết:

Giulietta ~

Xin hãy tha thứ cho tôi vì tôi phải thận trọng, và tôi có lý do chính đáng.

Chẳng mấy chốc cô sẽ hiểu. Tôi phải nói và giải thích mọi chuyện với cô.

Sáng mai lúc chín giờ, hãy đến gặp tôi trên ngọn tháp Mangia, và không được nói

điều này với bất kỳ ai.

~ Romeo


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.