Hương Bông Tuyết (The Scent Of Snow)

Chương 1



Cornucopia, Washington

Tháng 12, 1892

Những vòng xoắn của sương tuyết ngộ nghĩnh xòe ra như hình cánh quạt. Chúng mỏng manh và óng ánh như bạc, như thể trang trí trên những khung cửa sổ của ngôi nhà nông trại vào buổi sáng hôm ấy khi Rebecca thắp sáng cây đèn lồng bên cạnh giường. Cô ngồi dậy và nhanh chóng khoác lên mình một chiếc áo choàng và mang vào đôi dép dùng mang trong nhà.

Vì văn phòng quá ư là lạnh để làm vệ sinh buổi sáng, cô cầm lấy cây đèn và một chiếc áo dài bằng vải hoa mà cô định mặc cho ngày hôm ấy, và vội vàng đi xuống chiếc cầu thang vừa dốc, vừa chật hẹp dẫn đến tầng một.

Khi đến nhà bếp, một cái bếp thật rộng lớn cùng với nhiều giá kệ và tủ búp phê, cô đặt chiếc đền lồng ở giữa cái bàn bằng gỗ sồi đã bị nhiều vết tì. Cô treo chiếc áo lên phía sau một chiếc ghế và lấy một nhúm củi đóm để nhóm lửa từ cái hộp bằng gỗ bên cạnh cái lò. Khi đống than đã hồng, ngọn lửa rực sáng xung quanh những mảnh gỗ thông đen và khô cằn, Rebecca mỉm cười và nhấc cái nấp của bể chứa nước ở một bên của “Nữ Hoàng Bếp” tối tăm, to lớn.

Nước bên trong đã âm ấm, thật hoàn hảo cho việc làm vệ sinh buổi sáng.

Sau khi làm vệ sinh ban sáng xong xuôi, Rebecca bỏ thêm củi vào lò, liền sau đó nhanh chóng thay chiếc áo ngủ của cô và mặc vào chiếc áo hoa, một trong ba chiếc áo cô ấy sở hữu. Cô sưởi ấm những ngón chân trần của mình trước lò trong lúc tháo bím tóc có màu hạt dẻ, dài đến tận thắt lưng. Cô chải cho nó thật hoàn hảo và rồi thật khéo léo, cô thắt mớ tóc trở lại thành một bím tóc dày như thường lệ. Một khi đã làm xong việc ấy, Rebecca mang vào vớ và một đôi giày thật ấm. Cô đi ra phía sau bậc thang và hất đi mớ nước trong chậu rửa ra ngoài sân đang được phủ đầy tuyết.

Cô đem đồ ngủ của mình trở lại lên phòng cô ở tầng trên trong khi nước dùng để nấu cháo ngô đang được đun nóng trên lò. Cô thu dọn lại giường của mình – hoặc ít ra, cô đã bắt đầu khẳng định nó là của mình – và gõ nhẹ lên cửa của hai đứa trẻ sinh đôi lúc cô đi ngang qua hành lang.

– Annabelle, Susan – Cô gọi như cô vẫn gọi vào mỗi buổi sáng. – Đã là một ngày mới rồi.

Hai đứa em gái 10 tuổi, cùng cha khác mẹ của cô, rên rỉ um sùm đến nỗi cô nghe thấy chúng từ tận ngoài hành lang, và điều đó cũng là một phần của thói quen hàng ngày.

Một nụ cười nở trên môi Rebecca khi cô đang trên đường đi xuống cầu thang. Annabelle và Susan hãy còn nhỏ nên cũng dễ dàng tha thứ cho sự thiếu hiểu biết của chúng nó. Chắc còn lâu lắm chúng nó mới hoàn toàn hiểu được là chúng nó may mắn như thế nào khi được ở trong một ngôi nhà nông trại thật vững chắc với thật nhiều thức ăn để ăn, quần áo ấm để mặc, và cơ hội cho việc học hành.

Nụ cười của Rebecca tan biến khi cô đã đến nhà bếp và bắt đầu chuẩn bị cho bữa ăn sáng. Khi bình minh đã trải ngang qua bầu trời, những hình trang trí của sương tuyết đang nằm trên các khung cửa sổ đã được thay đổi và chuyển dần thành những màu hồng và màu mơ thật rực rỡ, một cảm giác bất an đã làm cho cô bồn chồn không yên. Đã hơn hai năm vừa qua, cô đã tạo một nơi trú thân cho bản thân cô và hai trẻ sinh đôi. Nơi đó chính là trên mảnh đất ngay phía ngoài thị xã nhỏ của Cornucopia, ở tiểu bang Washington – xứ sở của lúa mì. Họ là một phần tử đã được cộng đồng nơi đây chấp nhận – một gia đình, ba người của họ. Và bằng cách may vá, thêm vào thỉnh thoảng cho người ngủ trọ phòng, như thế này Rebecca đã xoay sở qua ngày với một cách kiếm sống hoàn toàn lương thiện.

Cô để ba miếng bánh mì thật to vào trong lò để nướng và sau đó đập vỡ ba cái trứng màu nâu vào trong một cái nồi nước sôi. Annabelle ồn ào khi vào nhà bếp, nhảy lò cò một chân trong khi con bé cố gắng mang chiếc giày vào chân ngược lại. Mái tóc rực rỡ màu vàng mật ong của con bé đã bị rối bù vì giấc ngủ, và chiếc áo dài bằng len của con bé đã bị cài nhầm cúc áo. Susan – đứa duyên dáng hơn trong cặp song sinh – đi lướt vào trong phòng, ăn mặc chỉnh tề và đúng đắn. Tóc của con bé đã được chải và buộc lên một cách khéo léo bằng một sợi ruy băng.

Con bé trao Rebecca một cái nhìn đau khổ và bắt đầu đi dọn bàn ăn. Trong khi đó Annabelle vẫn còn vật lộn và lầm bầm trong chiếc áo choàng của nó.

– Đối với một công việc nhỏ nhặt như là cho vài con con gà ăn mà cũng cuống quít cả lên. – Susan nhận xét.

Annabelle trừng mắt nhìn người chị em song sinh của mình:

– Để rồi xem ngày mai ai sẽ cuống quít lên nhé cô “thục nữ”, khi mà đến phiên “cô” phải đối diện với những con chim quái gở ấy.

– Hãy đi rửa tay và ăn sáng trước đi, Annabelle. – Rebecca dịu dàng can thiệp. – Chị không muốn em đi học trễ đâu đấy.

Vài phút sau, cả ba người họ đã ngồi xuống ăn. Trời đã hừng sáng nhưng vẫn còn chống chọi với bóng tối, và ánh sáng của những cây đèn lồng được xài bằng dầu lửa đang lung linh, làm cho căn bếp đang ấm càng thêm ấm cúng.

– Mary Alice Holton sẽ được một con búp bê vào Noel. – Susan tuyên bố. – Anh trai của nó gởi về từ San Francisco lận đó. Anh ấy làm việc trên bến tàu.

Rebecca cảm thấy đau nhói. Cô đã cố gắng xoay sở để cho hai đứa em gái của mình có thức ăn, chỗ ở, và một tình yêu thương thật vĩ đại từ lúc người cha không nên thân của cô đã bỏ tụi nó trước cửa nhà cô lúc còn ở Chicago – gần ba năm trước, khi bản thân cô cũng chỉ mới tròn mười chín tuổi. Tuy vậy, những món đồ đắt tiền như là những con búp bê được trưng bày bán ngoài tiệm thì thật là ngoài khả năng của cô.

Annabelle, đứa ít cầu kỳ hơn trong hai chị em song sinh, nhăn mặt.

– Mary Alice Holton là con nhỏ hay vòi vĩnh, nhõng nhẽo. Có lẽ anh trai của nó gởi con búp bê đó cho nó thôi than van và để cho ba má nó một chút bình yên.

Mặc dù cô mỉm cười với sự quan sát này, Rebecca cảm thấy có cục nghẹn dày đặc ngay cổ họng mình. Những điều trái ngược mà Annabelle vừa nói, và dù cho sự thật nó thừa nhận lúc nào mình cũng là một đứa con gái tinh nghịch như con trai, thì Rebecca vẫn thừa hiểu con bé cũng rất mong muốn có một con búp bê thật xinh chẳng khác gì Susan.

– Giá của nó đến hai đô lận! – Susan nói tiếp, phớt lờ lời bình luận của người chị em song sinh. – Mắt của nó bằng thủy tinh, đầu của nó bằng sứ, và tóc thì y như tóc thật. Mary Alice đặt tên cho nó là Jeanette.

Annabelle thở dài một cách khó chịu:

– Nếu như đã nói con búp bê này là một món quà dành cho Noel, vậy thì tại sao Mary Alice lại biết nó nhìn như thế nào chứ? Chỉ mới là tuần tiên của tháng mười hai thôi mà.

– Dĩ nhiên là nó nhìn lén rồi. – Susan trả lời cao vút.

– Thôi nào, nhanh lên. – Rebecca nói với một giọng thật mát mẻ. Cô đứng dậy từ ghế ngồi và với tay lấy cái tô trống, muỗng nĩa, và cái dĩa ban nãy đã đựng bánh mì và trứng. – Mấy đứa sẽ đi học trễ cho mà xem. Và này, Annabelle, đừng cả gan quên rằng mình còn phải cho những con gà ấy ăn đấy nhé.

Annabelle và Susan nhìn nhau – mặc dù chúng hay ầm ĩ với nhau, cặp song sinh này có thể truyền thông tin cho nhau một cách huyền bí mà không cần dùng đến một lời nào khi chúng nó muốn – và rồi bưng tô và dĩa của chúng đi theo sau lưng Rebecca để bỏ xuống cái chậu rửa bát bằng sắt. Chẳng mấy chốc, chúng đã được bao bọc lại trong áo choàng và giày ống, mũ len và khăn choàng cổ, cùng với sách vở học và hai cái hộp bằng thiếc đựng đồ ăn trưa trong tay.

Rebecca nhìn theo từ ngưỡng cửa đằng sau trong lúc chúng nó lê từng bước thật mệt nhọc trên lớp bông tuyết thật dày để đi đến chuồng gà. Ánh mặt trời soi sáng xung quanh hai con bé. Susan ngoan ngoãn cầm đồ của Annabelle trong lúc người chị em của nó chấp hành nhiệm vụ cho những con gà đang kêu quác quác kia ăn.

Nhà trường chỉ nằm ở cuối đường và quẹt sang chỗ rẽ – từ lò sưởi – được đốt bằng gỗ – của nhà trường, làn khói xám đang cuộn vào tương phản với màu xám bồ câu của bầu trời – nhưng Rebecca vẫn để mắt trông theo bọn nhỏ cho đến khi chúng khuất khỏi tầm nhìn.

Một cảm giác thật lạ lùng, có chút lo sợ, cứ dai dẳng mãi trong cô khi cô bắt đầu làm những công việc buổi sáng như là dọn dẹp nhà bếp cho ngăn nắp, và chẻ củi thêm để dành nhúm lửa. Có một lý do nào đó mà cô không thể giải thích được, cô cứ nhìn chăm chăm tứ tung về hướng con đường đã được phủ đầy tuyết.

Mình còn công việc phải làm, cô ấy tự nhủ với bản thân và cố gắng bỏ qua trạng thái bồn chồn của mình khi cô trải tấm vải nhung tươi thắm dành để may áo dài Noel cho cô Ginny Dylan lên trên bàn. Những mẫu vẽ đều chính tay cô làm lấy. Dùng một trang hình đã được xé từ một quyển sách về thời trang để làm hướng dẫn, cô đã dành hết thời gian của một buổi chiều và một phần của buổi tối cho công việc này. Mặc dù cô đã cẩn thận kiểm tra những mảnh vải so với kích thước của Ginny, Rebecca vẫn phải xem xét kỹ từng mảnh vải một lần nữa trước khi ghim chúng nó vào trị ví. Tấm vải nhung rất đắt tiền, còn cô thì không có khả năng để tạo một sai lầm nào cả.

Ánh nắng mỗi lúc một sáng hơn khi buổi sáng đã qua, và những hình ảnh bằng sương tuyết từ các ô vuông cửa sổ cũng đã tan chảy. Mặc cho sự tập trung của cô đang dán vào công việc trên tay, Rebecca vẫn cảm thấy chập chờn lo sợ. Có một khắc cô đã phải choàng kín người bằng chiếc áo choàng đã cũ của mình, và đi xuống con đường mòn ra đến tận lề của con đường lớn để nhìn chăm chú thật lâu về cả hai hướng.

Khi cô trở về nhà và trở lại với công việc may vá của mình, cô có vẻ nhẹ nhõm rằng khi nãy đã không có ai gần đó để chứng kiến cho hành động vừa rồi của cô và cần một lời giải thích.

***

Lucas Kiley mua chiếc xe ngựa của anh ở Spokane trong vòng một tiếng đồng hồ khi anh bước xuống chiếc xe lửa miền Tây. Vậy mà anh đã chờ chứ không mua sắm những vật dụng mà anh cần đến. Bởi vì bắt đầu từ đây trở đi, Cornucopia sẽ là nơi cư ngụ của anh nên anh nghĩ rằng tốt hơn hết là anh nên tiếp xúc với các con buôn gần nhà càng nhiều càng tốt trong công việc mua bán.

Anh đã cảm thấy ớn lạnh đến tận xương tủy khi cuối cùng anh cũng đã tới cái thành phố mà anh đã nghĩ đến thật nhiều – trong những năm dài còn trong xí nghiệp ở Chicago và rồi sau này, trong lúc anh phục hồi sức khỏe từ vụ tai nạn – nhưng một chút kỷ niệm cũng làm cho trái tim anh náo nức.

Lucas nhìn thật lâu chung quanh anh, ghi nhớ từ những chi tiết của cái thành phố nhỏ mà từ đây sẽ là quê hương của anh. Chính Chúa cũng biết, nơi đây chẳng có gì nhiều – chỉ có một cửa hàng bách hóa, một ngân hàng, một nhà thờ, một chuồng nuôi gia súc, và một, hai quán rượu nằm san sát bên nhau trên đồng cỏ. Một vài căn nhà nhỏ nhưng vững trãi nằm ở bên hông của những tòa nhà trên con lộ chính, nhưng vì trời lạnh, nên chẳng có ai ra vào, ngoại trừ một con chó vàng gầy gò.

Anh thả lỏng giây cương trên mình hai con ngựa màu hồng kéo xe thật to lớn và một chân đặt lên bàn đạp thắng để thắng xe lại, anh dành một giây để nhìn thoáng qua phía Green Grizzly Beer và Pool Parlor (tên của một tiệm rượu – uống bia và thục bi da). Đã là buổi xế chiều, đúng thật là lúc thích hợp để uống một ly rượu uýt-ky để làm tan đi những cây gai bằng đá trong huyết quản của anh. Nhưng mà anh đang cần từng xu của số tiền anh tiết kiệm được để dự trữ nông trại và lều chứa củi của anh, và chống chọi sống qua mùa Đông này.

Thay vào đó, Lucas bước vào cửa hàng bách hóa. Anh cảm thấy khỏe hơn vì luồng hơi ấm từ cái lò sưởi tròn, to lớn đang đứng ở trung tâm của mọi thứ. Có hai người đàn ông lớn tuổi ngồi với bàn chân của họ đang được sưởi ấm trên những que củi cháy vàng. Một người đàn bà đẹp, tóc màu đen sậm, với một vẻ thanh nhã, lịch sự đã lướt ra từ phía sau quầy hàng. Bà ta chắc độ bốn mươi mấy, Lucas suy đoán.

– Cậu là người lạ ở đây. – Người đàn bà quan sát một cách thân mật, đôi mắt hiểu biết của bà chứa đầy sự thân thiện và vui vẻ. Bà ta chìa một tay ra, cứ sẵn sàng giống như một người đàn ông có thể làm, và Lucas thích bà ấy ngay lập tức.

– Tên của tôi là Mary Daniels, và tôi chăm sóc cửa tiệm này.

Anh bắt tay bà ta.

– Rất vui khi được quen biết bà, bà Daniels. Tôi là Lucas Kiley và…

– Lucas Kiley! – Bà chủ tiệm ngắt lời, tươi cười thật rạng rỡ. Sự vô lễ nhỏ nhặt ấy xem dường như là một sự tao nhã thốt ra từ bà ấy. – Phải thế chứ, cũng đã đến lúc cậu đưa cái bản mặt của cậu đến Cornucopia! Cái gia đình bé nhỏ dễ thương của cậu đã chống chọi trong sự vắng mặt của cậu cũng khá lâu rồi đấy!

Một cơn gió tưởng chừng như lùa vào buồng phổi của Lucas, giống như cái lần ở Chicago, khi anh vướng phải một cuộc ẩu đả và nhận một cú đấm thật mạnh ngay bụng. Một gia đình bé nhỏ dễ thương ư? Anh nghĩ ngợi một cách ngớ ngẩn. Trong phút chốc, anh suýt chút đã tin rằng mình đã kết hôn ở một thời điểm nào đó và rồi quên hẳn cả người đàn bà và lễ cưới. Nhưng sau khi anh lấy lại bình tĩnh sau cú sốc, vừa đủ để bắt đầu:

– Nhưng mà tôi không…

– Cô ấy cứ như là một người chiến binh, cô Rebecca ấy. – Bà Daniels lại xen vào. Bà đứng với hai tay đặt trên cái eo thon thả của mình, ngước lên và nhìn vào Lucas với đôi mắt thật sáng. – Vì sao ư, vì cô ấy đã đem cái chỗ tồi tàn đó và biến cho nó thành một cái gì đó, chỉ một thân một mình cô ấy. Cậu ắt phải hãnh diện vì cô ấy, cậu Kiley ạ.

Lucas đành nuốt hết những sự phản đối xa hơn. Anh vừa mệt mỏi, đói bụng, lại vừa bối rối, và ngay từ lúc anh sống ở nhà trọ của bà Ella Readma ở Chicago vài năm về trước, thì cái tên “Rebecca” này đã mang đến cho anh một ấn tượng thật là mạnh mẽ mỗi khi nó được nhắc đến trong cuộc trò chuyện.

Rõ ràng là cái vấn đề “vợ” này là một sự hiểu lầm. Lucas là một người đàn ông nề nếp đâu ra đó. Anh không bóc đồng hoặc có những mối quan hệ hay tiếp xúc bừa bãi. Anh sẽ làm sáng tỏ vấn đề này sớm thôi.

Anh mua đầy một xe toàn là hàng tạp hóa và thực phẩm phụ – đa số là lương khô như đường và bột, đậu và cà phê – và hướng ra ngoài trong cái lạnh dữ dội của một buổi chiều đầu mùa Đông để về cái nông trại mà anh đã mua. Mặc dù chưa thấy nó tận mắt, nhưng nó đã được hoàn toàn trang bị với những đồ đạc trong nhà, chỉ vài tháng trước khi vụ tai nạn ở xí nghiệp đã giữ anh lại một thời gian thật lâu. Anh không cần phải nhìn vào bản đồ, Lucas hiểu rõ từng đường đi nước bước trong thâm tâm anh, bởi anh đã từng đi đến nơi đây hơn cả ngàn lần trong trí tưởng tượng của mình. Những bờ đường như thể là những người bạn cũ.

Kia là Halley – một chỗ đã bị bỏ hoang, giống y như lời miêu tả của người chủ trước. Và kia là một cây gỗ sồi hiên ngang đứng giữa cánh đồng – hai trăm năm tuổi đời nếu như tính bằng ngày. Xa hơn một chút là nhà trường, được xây thành một phòng.

Lucas mỉm cười khi anh đi ngang qua. Lớp học của ngày hôm nay vừa tan, và bọn trẻ chạy òa qua ô cửa như sỏi đá được bắn ra từ một cây súng ngắn. Chúng hò hét, cười đùa, và chọi nhau bằng những quả bóng tuyết.

Trái tim mệt mỏi của Lucas rộn ràng thêm một nấc, và anh hướng đôi mắt màu xanh lam nhạt của mình về phía rẽ kế tiếp của con đường.

Mặc dù nhà cửa và nông trại vẫn chưa lộ diện, anh đã thấy những làn khói đang lượn từ từ trên bầu trời, và lưu ý đến sự đề cập của bà Daniels về một cô vợ. Anh cau mày và giục mấy con ngựa chạy theo nước kiệu mặc cho lớp tuyết phủ khá dày và việc đi lại hơi khó khăn.

Mặc dù đã biết trước lời cảnh cáo của bà chủ tiệm và những vòng khói của gỗ, Lucas vẫn ngạc nhiên khi nhà và nhà kho của anh hiện ra trước mắt. Và anh thấy một người đàn bà quấn một cái khăn choàng đang đứng trên bậc thềm, một tay che lấy mắt cô ấy để khỏi chói nắng trong lúc cô ta nhìn sự có mặt của anh.

Tò mò như anh lúc đó để ngắm nhìn cảnh vật chung quanh, vậy mà phải cố gắng lắm anh mới có thể tách cái nhìn của mình từ hình dáng của người đàn bà này. Anh nhìn cái nhà kho vững chắc và ngôi nhà hai tầng được quét vôi trắng với vẻ hài lòng. Còn nữa, có một cái giếng nước và một đồng cỏ được rào chặn lại, và những cánh đồng nhìn thật bằng phẳng dưới một lớp bao phủ của tuyết.

Anh quay sự chú ý gần như bực bội của mình trở lại với người đàn bà.

Có một cái gì đó rất là quen thuộc về cái dáng vẻ cao, mảnh khảnh, và mái tóc dày màu đỏ tía đang xõa của cô. Và Lucas xoa lấy cằm đang mọc râu lởm chởm với vẻ tư lự trong lúc anh đánh xe đến gần hơn. Cứ giống như là cô ta đang ngóng chờ anh, kẻ xâm phạm đất đai này đang đứng một cách ngang nhiên trên hành lang sau nhà anh.

Vừa lúc anh kéo chiếc xe ngựa ngừng lại ở trước sân nhà, cô vén chiếc váy lên một tí và bước xuống bậc thang một cách duyên dáng. Hai má của cô ửng đỏ – mà không phải vì trời lạnh, Lucas nghĩ – khi cô đi về phía anh.

Sự nhận diện giữa họ đổ vỡ ra khi anh nhìn xuống cô từ trên thùng xe ngựa và cô ngước mắt nhìn lên về phía anh từ dưới đất. Chỉ trong chốc lát họ có cảm giác như lúc họ còn ở Chicago, trong nhà trọ ấy, ngồi đối diện nhau ở bàn ăn tối.

– Xin chào Rebecca. – Anh cố gắng thốt thành lời, giọng anh có vẻ bực tức. – Tôi hiểu rằng tôi và cô đã ràng buộc bởi sợi dây hôn nhân, mặc dù tôi xin thú nhận điều trước tiên tôi không thể nhớ lại được là lễ thành hôn của chúng ta.

Đôi gò má cao và tuyệt đẹp của cô ửng đỏ lại càng đỏ hơn, nhưng đôi mắt màu nâu của cô đang long lanh – như thể những ngọn đèn dầu đang cháy sáng đằng sau đôi mắt ấy – không ngừng chú ý đến anh.

– Hãy vào bên trong trước khi anh cảm lạnh mà chết. – Cô nói với một sự nhẫn nhục.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.