Kiếm một chỗ ngồi. Nực cười. Cả đời tôi chưa từng đến chỗ nào buồn thảm đến thế này.
OK, tôi biết đây là một đám tang. Không có gì vui vẻ. Nhưng ít nhất thì đám tang của Bert còn nhiều người, đầy hoa, có nhạc và có không khí. Ít nhất thì ở căn phòng bên đấy còn cảm thấy chút gì đó.
Căn phòng này tịnh không. Nó trống huơ và lạnh lẽo, độc trơ mỗi quan tài kín mít đặt ngay phía trước và dòng tên “Sadie Lancaster” bằng mấy chữ nhựa vớ vẩn trên bảng thông báo. Không hoa, không mùi thơm dễ chịu, không đàn hát, chỉ có thứ nhạc rẻ tiền thu sẵn lảnh lót phát ra từ dàn loa. Cả căn phòng hầu như trống hoác. Chỉ có bố mẹ và tôi đứng một bên; chú Bill, cô Trudy và con em họ tôi Diamanté đứng bên kia.
Tôi lén đưa mắt liếc nhìn khắp phía bên kia của gia đình. Mặc dù chúng tôi là chỗ ruột rà song họ vẫn có vẻ giống như những nhân vật danh tiếng từ trong tạp chí bước ra. Chú Bill nằm ườn ra trên chiếc ghế nhựa như thể là chủ sở hữu căn phòng này, nhấn nhấn chiếc Blackberry. Cô Trudy đang lật nhanh tờ Hello, có lẽ đang đọc thông tin về tất cả bạn bè. Cô diện đầm đen bó sát, mái tóc vàng ươm uốn ốp quanh khuôn mặt một cách cầu kỳ còn khe ngực của cô thì rám nâu và trông còn ấn tượng hơn cả lần trước tôi gặp cô. Cô Trudy và chú Bill lấy nhau hai mươi năm về trước, thế mà tôi thề là hôm nay trông cô còn trẻ hơn cả trong mấy bức ảnh cưới nữa.
Mái tóc bạch kim của Diamanté buông xuống tận mông và bộ váy ngắn nó đang mặc in hình đầu lâu xương sọ. Quả là có thẩm mỹ đối với một đám tang. Nó đang nghe iPod và nhắn tin trên điện thoại, liên tục ngó đồng hồ đeo tay vẻ cau có sưng sỉa. Diamanté năm nay mười bảy, sở hữu hai xe hơi và một nhãn hiệu thời trang riêng mà chú Bill lập cho nó tên là “Váy xòe và Ngọc trai”. (Có lần tôi đã xem trên mạng. Váy áo ở đó toàn loại trên 400 bảng và ai mua đồ đều được đề tên vào danh sách đặc biệt “Bạn thân của Diamanté” và một nửa số đó là trẻ con nhà các loại sao. Nó giống như Facebook vậy, có điều là có quần áo).
“Mẹ này,” tôi nói, “Sao ở đây lại chẳng có hoa gì vậy?”
“À.” Ngay lập tức trông mẹ lại đầy lo lắng, “Mẹ đã bảo cô Trudy về chuyện hoa rồi, cô ấy bảo sẽ lo chuyện đó. Cô Trudy này?” Mẹ gọi với sang. “Hoa tang lễ thế nào rồi nhỉ?”
“À,” cô Trudy gấp tờ Hello lại và quay người ra như thể chuẩn bị tán gẫu. “Em nhớ là chúng ta có bàn vụ này rồi. Nhưng chị có biết giá cả thảy tất cả những thứ này là bao nhiêu không?” Cô chỉ vòng quanh căn phòng. “Mà chúng ta lại chỉ ngồi đây có, xem nào, hai mươi phút? Pippa à, thực tế một chút đi. Hoa hoét làm gì cho lãng phí.”
“Ờ chắc vậy,” mẹ ngần ngừ đáp.
“Không phải là em tiếc bà cụ cái lễ tang,” Cô Trudy ngả về phía chúng tôi, hạ thấp giọng, “Nhưng thử hỏi bà cụ đã làm gì cho chúng ta nào? Ý em là em chẳng biết gì về bà cụ cả. Chị có biết gì không?”
“Ờ, cũng khó,” Trông mẹ có vẻ khổ sở, “Bà cụ đã bị đột quỵ, rồi suốt từ đó cụ hầu như bị lẫn…”
“Chính xác!” Cô Trudy gật đầu, “Bà cụ chẳng biết gì cả. Vậy vấn đề là gì? Chỉ vì Bill mà chúng ta có mặt ở đây.” Cô Trudy liếc nhìn chú Bill trìu mến. “Anh ấy mềm lòng quá. Em vẫn thường bảo với mọi người là…”
“Vớ vẩn!” Diamanté giật tai nghe ra và nhìn mẹ mình đầy miệt thị, “Chúng ta ở đây chỉ vì màn trình diễn của bố. Bố đâu có định tới nhưng nhà sản xuất bảo đám tang sẽ ‘làm tăng vọt chỉ số cảm thông của bố lên’. Con đã nghe họ bàn vậy.”
“Diamanté!” cô Trudy gắt lên.
“Đúng thế đấy. Bố là kẻ đạo đức giả nhất quả đất mà mẹ cũng vậy. Lẽ ra bây giờ con phải ở nhà Hannah rồi.” Hai má Diamanté phùng lên bực bội. “Bố nó đang tổ chức một bữa tiệc lớn mừng bộ phim mới của ông ấy mà con lại lỡ mất. Chỉ vì để bố có thể mang vẻ ‘thuộc về gia đình’ và ‘quan tâm’. Thật quá bất công.”
“Diamanté!” cô Trudy nói gay gắt. “Con có nhớ là chính bố con đã trả tiền để con và Hannah tới Barbados không hả? Và cái vụ nâng ngực mà con cứ luôn miệng đòi đó, ai chi tiền cho con hả, con có nghĩ tới không?”
Diamanté rít một hơi như thể bị xúc phạm ghê gớm. “Thế là không công bằng. Cái vụ nâng ngực đó là để làm từ thiện.”
Tôi không thể ngăn mình ngả về phía trước vì tò mò, “Làm sao nâng ngực lại có thể làm từ thiện được?”
“Em định sau đó trả lời phỏng vấn cho tạp chí về vụ đó và lấy tiền thu được để làm từ thiện,” nó nói đầy hãnh diện. “Kiểu như nửa số tiền thu được hay đại loại như thế.”
Tôi liếc mẹ. Trông bà sốc đến nỗi không nói nổi, suýt nữa thì tôi bật cười khúc khích.
“Xin chào!” Tất cả chúng tôi ngước lên thì thấy một người phụ nữ vận quần xám và chiếc áo cổ đứng kiểu thầy dòng thẳng tiến qua lối đi giữa hai hàng ghế về phía chúng tôi.
“Vô cùng xin lỗi.” bà ta nói, mở rộng hai bàn tay, “Mong là các vị đã không phải chờ quá lâu,” Bà ta có mái tóc muối tiêu cắt ngắn, cặp kính gọng đen và chất giọng trầm, nghe gần như giọng đàn ông, “Xin thành thật chia buồn cùng gia đình.” Bà ta liếc nhìn cái quan tài trơ trọi. “Tôi không biết là quý vị đã được thông báo gì chưa, nhưng thường thì người ta hay treo ảnh người thân…”
Chúng tôi nhìn nhau lúng túng. Rồi đột nhiên cô Trudy chặc lưỡi một cái. “Tôi có một bức đây. Viện dưỡng lão có gửi tới.”
Cô lục túi rút ra một cái phong bì màu nâu, lôi từ trong đó ra một bức ảnh chụp lấy ngay trông mờ mịt. Khi cô truyền nó cho mọi người xem, tôi cũng nhìn một cái. Trong bức ảnh là một bà già bé tí, nhăn nheo, khòng khoèo trên chiếc ghế đẩu, mặc cái áo len kỳ quái màu hoa cà nhạt. Khuôn mặt bà nhăn nhúm. Mái tóc trắng của bà như cái nùi bông trong mờ của cây kẹo bông. Đôi mắt bà mờ đục, như thể bà còn không nhìn thấy cuộc đời nữa.
Bà dì Sadie của chúng tôi đó. Thậm chí tôi còn chưa từng gặp bà.
Linh mục nhìn tấm ảnh đầy ngờ vực rồi gắn lên tấm bảng thông báo to đùng, ở đó trông nó cực kỳ buồn bã, đáng xấu hổ và đơn độc.
“Có ai muốn nói gì về người đã khuất không?”
Câm lặng, tất cả chúng tôi đều lắc đầu.
“Tôi hiểu. Với thân quyến chuyện này quá đỗi đau đớn.” Linh mục rút một cuốn sổ và cây bút chì từ túi áo ra. “Trong trường hợp đó tôi hân hạnh được nói thay cho gia đình. Nếu gia đình ta có thể cung cấp cho tôi một số chi tiết. Những sự kiện trong cuộc đời bà cụ. Hãy nói cho tôi tất cả mọi chuyện về cụ bà Sadie mà chúng ta sắp tưởng niệm.”
Im lặng.
“Chúng tôi không rõ lắm về bà cụ,” bố nói vẻ hối lỗi. “Bà cụ già lắm rồi.”
“105 tuổi,” mẹ xen vào. “Bà ấy đã 105 tuổi.”
“Bà cụ có kết hôn không?” linh mục gợi ý.
“Ờ…” bố nhíu mày. “Có ông chồng nào không Bill?”
“Em đâu biết. Có, em nghĩ là có. Nhưng chẳng biết ông ấy tên gì.” Chú Bill thậm chí còn chẳng buồn rời mắt khỏi chiếc Blackberry. “Chúng tôi có thể cử hành tang lễ với thông tin đó không?”
“Tất nhiên rồi.” Nụ cười thông cảm của linh mục đông cứng lại. “Vậy thì, có lẽ là một câu chuyện nhỏ nào đó trong lần cuối gia đình vào thăm bà cụ… một sở thích nào đó…”
Lại một hồi im lặng tội lỗi.
“Trong bức hình chụp bà cụ mặc chiếc áo len đan,” cuối cùng mẹ đánh bạo lên tiếng. “Có lẽ bà cụ đã đan nó. Có lẽ bà cụ thích đan.”
“Các vị chưa từng tới thăm bà cụ sao?” Vị linh lục rõ ràng đang cố giữ lịch sự.
“Đương nhiên là có!” mẹ chống chế. “Chúng tôi đã tạt vào thăm cụ hồi năm…” Mẹ nghĩ, “1982, tôi nghĩ vậy. Hồi đó Lara còn bé lắm.”
“1982?” Linh mục trông có vẻ nóng mặt lắm rồi.
“Bà cụ không biết chúng tôi,” bố nhanh miệng đỡ lời, “Bà cụ thật sự hoàn toàn không còn tỉnh táo.”
“Thế còn cuộc sống của bà cụ trước đó thì sao?” Giọng linh mục nghe có vẻ hơi phẫn nộ. “Không có thành tựu gì sao? Chuyện hồi trẻ của bà cụ?”
“Giời ạ, bà không chịu thôi phải không?” Diamanté giật đôi tai nghe iPod ra khỏi tai. “Bà có hiểu là chúng tôi có mặt ở đây chỉ là do bị bắt phải thế hay không? Bà ấy chẳng làm gì đặc biệt cả. Bà ấy chẳng đạt được thứ gì cả. Bà ta chẳng là ai cả! Chỉ là một người vô giá trị già cóc đế.”
“Diamanté!” cô Trudy quở trách nhẹ nhàng. “Thế là hỗn!”
“Nhưng mà đúng thế phải không nào? Nhìn xem!” Nó chỉ khắp căn phòng trống huơ trống hoác vẻ khinh miệt. “Nếu chỉ có sáu người tới dự lễ tang của con thì con sẽ tự bắn mình.”
“Này cô gái trẻ.” Linh mục bước lên vài bước, khuôn mặt bà đỏ lên vì tức giận. “Không có con người nào trên mảnh đất của Chúa là người vô giá trị.”
“Vâng, sao cũng được.” Diamanté đáp thô lỗ, và tôi có thể thấy linh mục đang mở miệng định vặn lại lần nữa.
“Diamanté.” Chú Bill nhanh chóng giơ tay lên. “Đủ rồi đấy. Tất nhiên là tự tôi cũng thấy có lỗi vì không tới thăm cụ Sadie, tôi chắc cụ là một người hết sức đặc biệt, và tôi chắc chắn điều tôi nói cũng là suy nghĩ của cả gia đình.” Chú ấy mới duyên dáng làm sao, tôi có thể thấy những chiếc lông xù lên của vị mục sư xẹp dần xuống. “Nhưng lúc này đây điều chúng tôi muốn là tiễn đưa cụ với sự trang nghiêm. Tôi mong là bà có một lịch trình chặt chẽ, cũng như chúng tôi vậy.” Chú gõ nhẹ lên chiếc đồng hồ đeo tay.
“Thật ra.” Vị linh mục nói sau một lúc im lặng. “Tôi cũng sắp sửa soạn ngay đây. Trong khi chờ đợi, quý vị làm ơn tắt di động.” Nhìn khắp lượt chúng tôi đầy chê trách lần cuối, bà ta lại đi ra, và cô Trudy ngay lập tức quay người lại.
“Táo gan thật, bắt chúng ta phải cảm thấy tội lỗi! Mọi người biết đấy, chúng ta đâu có buộc phải tới đây.”
Cánh cửa mở ra và chúng tôi đều ngẩng lên – nhưng đó không phải là vị linh mục mà là Tonya. Tôi không biết chị ấy sẽ tới. Ngày hôm nay sắp đủ trăm phần trăm tồi tệ rồi.
“Con có tới trễ không?” Cái giọng như tiếng máy khoan bằng khí nén của chị vang vọng khắp căn phòng khi chị sải bước trên lối đi giữa hai hàng ghế. “Con vừa chuồn được khỏi Phòng Trẻ tập đi trước khi hai thằng nhóc song sinh nổi đóa. Nói thật là người giúp việc lần này còn tệ hơn cả lần trước nữa, và chuyện đó nói lên một điều là…”
Chị mặc quần dài màu đen và một chiếc áo len đan màu đen điểm họa tiết da báo, mái tóc nhuộm highlight dày buộc túm đuôi ngựa. Tonya trước làm quản lý văn phòng cho Shell và rất giỏi sai phái. Giờ chị đang làm bà mẹ toàn thời gian với hai thằng nhóc sinh đôi, Lorcan và Declan, và thay vào đó sai phái người giúp việc.
“Tụi trẻ thế nào?” mẹ hỏi, nhưng Tonya không để ý. Chị chỉ dán mắt vào chú Bill.
“Chú Bill à, cháu vừa đọc cuốn sách của chú! Tuyệt vời! Nó đã thay đổi cả cuộc đời cháu. Cháu đã kể với mọi người về nó. Mà bức ảnh thì miễn chê, dù ngoài đời chú đẹp hơn nhiều.”
“Cảm ơn cháu yêu.” Bill mỉm cười đúng kiểu “Đúng-tôi-biết-mình-xuất-sắc” nhưng có vẻ như chị không để ý.
“Cuốn sách đó chẳng tuyệt vời lắm sao?” Chị khẩn khoản kêu gọi tất cả chúng tôi ủng hộ. “Chẳng phải chú Bill là một thiên tài sao? Khởi nghiệp với hai bàn tay trắng! Chỉ có hai đồng xu và một giấc mơ lớn! Nó đem lại cảm hứng to lớn cho nhân loại!”
Chị ấy đúng là đồ nịnh thần, tôi thấy buồn nôn. Rõ ràng là bố mẹ cũng cảm thấy như vậy vì chẳng ai trả lời cả. Chú Bill cũng chẳng thèm chú ý tới chị, nên bất đắc dĩ chị đành xoay gót.
“Lara, em thế nào? Dạo này chị hầu như chẳng thấy em. Em đang trốn đó!” Cặp mắt chị săm soi tôi đầy chủ ý khi bước tới gần và tôi lùi lại. Á à. Tôi biết cái nhìn đó rồi.
Chị Tonya của tôi về cơ bản có ba bộ mặt:
1. Trống rỗng và đần thối.
2. Cười hô hố phô trương, như khi nói “Chú Bill, chú giết cháu mất!”
3. Khoái chí hể hả ngụy trang bằng vẻ thông cảm khi chị xát muối vào nỗi đau của người khác. Chị nghiện kênh truyền hình thực tế và những cuốn sách ngoài bìa có hình những đứa trẻ khốn khổ, nhếch nhác, có tựa đề kiểu Ngoại ơi, làm ơn đừng đánh con bằng máy cán là.
“Chị chưa gặp lại em từ khi em chia tay với Josh. Thật đáng tiếc. Bọn em có vẻ đẹp đôi thế mà.” Tonya nghiêng đầu đầy đau khổ. “Chẳng phải hai đứa nó đẹp đôi sao mẹ?”
“Ờ, chuyện đó đã không kết thúc tốt đẹp.” Tôi có nói sao cho có vẻ dửng dưng. “Mà dù sao…”
“Có chuyện gì trục trặc vậy?” Chị lại nhìn tôi với cặp mắt thỏ non, giả đò quan tâm mỗi khi có chuyện gì tồi tệ xảy ra với một người nào đó mà chị rất, rất thích thú.
“Tự nhiên thế thôi.” Tôi nhún vai.
“Nhưng không phải thế đúng không nào? Phải có lý do gì đó chứ.” Tonya quả là tàn nhẫn. “Nó không nói gì sao?”
“Tonya,” bố nhẹ nhàng xen vào, “Đây có phải lúc không con?”
“Bố, con chỉ đang giúp Lara thôi mà,” Tonya nói, cảm thấy bẽ mặt. “Lúc nào cũng thích hợp để nói cho rõ những chuyện này! Vậy có ai khác à?” Cặp mắt chị xoay lại phía tôi.
“Không phải đâu.”
“Hai đứa vẫn hòa thuận chứ?”
“Vâng.”
“Thế tại sao?” Chị khoanh tay lại, vẻ dò hỏi và gần như là trách cứ. “Tại sao?”
Em không biết tại sao! Tôi muốn hét lên như vậy. Chị không nghĩ là em đã tự hỏi mình câu đó hàng tỷ lần rồi ư?
“Chỉ là thế thôi!” Tôi ép mình mỉm cười. “Về chuyện đó em ổn. Em đã nhận ra tụi em không có duyên với nhau vậy nên em đã vượt qua và giờ em rất thoải mái. Em thực sự hạnh phúc.”
“Trông chị không hề hạnh phúc,” từ bên kia lối đi Diamanté với sang nhận xét. “Phải không mẹ?”
Cô Trudy quan sát tôi một hồi.
“Ừ,” cuối cùng cô nói, với một giọng dứt khoát. “Trông chị ấy không hạnh phúc.”
“Có mà!” Tôi có thể thấy nước mắt làm cay xè mắt. “Chỉ là em đang giấu thôi! Em thực sự rất, rất hạnh phúc.”
Chúa ơi, tôi ghét mấy người họ hàng này quá đi.
“Tonya con yêu, ngồi xuống đi,” mẹ nói khéo léo. “Chuyến đi thăm trường thế nào con?”
Chớp mắt khó khăn, tôi rút điện thoại ra và giả đò kiểm tra tin nhắn để không ai làm phiền tôi. Thế rồi, trước khi tôi kịp ngăn mình lại thì ngón tay tôi đã cuộn màn hình đến chỗ những bức ảnh.
Đừng nhìn, tôi nói với mình kiên quyết. Không được nhìn.
Nhưng ngón tay tôi không tuân lệnh. Sự thôi thúc quá áp đảo. Tôi phải ngó một cái đã, chỉ để giúp tôi tiếp tục… Mấy ngón tay tôi cào cào trong khi tôi tìm bức ảnh tôi thích nhất. Josh và tôi. Đứng bên nhau trên sườn núi, quàng tay qua nhau; cả hai đều mặc bộ đồ trượt tuyết. Mái tóc vàng của Josh cuộn lại bên trên chiếc kính trượt tuyết chụp lên đầu anh. Anh đang mỉm cười với tôi làm lộ cái lúm đồng tiền hoàn hảo trên má; cái lúm đồng tiền đó tôi vẫn thường ấn ngón tay vào, như đứa bé con chơi mẩu đất nặn vậy.
Chúng tôi gặp nhau lần đầu tại bữa tiệc ngày hội đốt lửa, xúm quanh một đống lửa trong một khu vườn ở Clapham thuộc sở hữu của một cô gái tôi quen hồi học đại học. Josh phát pháo hoa cho mọi người. Anh đốt cho tôi một cây rồi hỏi tên tôi và tôi viết “Lara” vào bóng tối bằng cây pháo, rồi tôi cười to và hỏi tên anh. Chúng tôi viết tên mình lên bóng tối cho tới khi hai cây pháo tắt rụi, rồi nhích đến gần đống lửa nhấm nháp rượu vang đã được hâm nóng và pha chế để cùng ôn lại những bữa tiệc pháo hoa hồi còn bé. Mọi điều chúng tôi nói đều rất ăn ý. Chúng tôi cùng cười trước những chuyện giống nhau. Tôi chưa bao giờ gặp người nào dễ gần đến thế. Hay có nụ cười dễ thương đến thế. Tôi không thể tưởng tượng anh đang ở bên một người nào khác. Đơn giản là tôi không thể…
“Ổn không, Lara?” Bố đang liếc tôi.
“Có ạ!” Tôi đáp tươi tỉnh và nhấn phụp vào cái điện thoại để ông không nhìn thấy màn hình. Khi thứ nhạc rẻ tiền chơi bằng đàn điện tử nổi lên tôi lại tụt sâu vào ghế, đau khổ tột độ. Lẽ ra hôm nay tôi không bao giờ nên tới đây. Lẽ ra tôi nên kiếm cớ trốn. Tôi ghét gia đình mình và những đám tang, mà ở đây lại còn chẳng có chút cà phê tử tế và…
“Chuỗi hạt của tôi đâu rồi?” Giọng nói xa xôi của một cô gái cắt ngang dòng suy nghĩ của tôi.
Tôi liếc quanh để xem là ai, nhưng chẳng có ai quanh tôi cả. Ai thế nhỉ?
“Chuỗi hạt của tôi đâu?” cái giọng yếu ớt kia lại cất lên. Nó lảnh lót, gay gắt và có vẻ trịch thượng. Có phải từ điện thoại không? Phải chăng tôi đã không tắt hẳn? Tôi lôi điện thoại ra khỏi túi – nhưng màn hình đã tắt ngúm rồi mà.
Quái lạ.
“Chuỗi hạt của tôi đâu?” Cái giọng đó giờ lại vang lên như ở ngay trong tai tôi. Tôi nao núng, nhìn quanh hoang mang.
Quái dị hơn là hình như không ai khác nghe thấy.
“Mẹ.” Tôi nghiêng sang. “Vừa rồi mẹ có nghe thấy gì không? Như là… có ai nói ấy?”
“Ai nói ư?” mẹ nhìn tôi khó hiểu. “Không, con yêu. Giọng nói kiểu gì?”
“Giọng của một cô gái, mới đây mà…” tôi ngừng bặt khi thấy cái vẻ lo lắng quen thuộc xuất hiện trên mặt mẹ. Tôi hầu như nhìn thấy được những ý nghĩ của mẹ, trong một cái bong bóng: Lạy Chúa, con gái tôi đang nghe thấy những giọng nói trong đầu nó.
“Chắc con nghe nhầm,” tôi vội vã nói và đút tọt chiếc điện thoại vào túi, vừa lúc đó thì linh mục xuất hiện.
“Mời quý vị đứng lên,” bà ngân dài giọng, “Và tất cả hãy cùng tôi cúi đầu. Chúa kính yêu, chúng con xin phó thác cho Người linh hồn của người chị Sadie…”
***
Không phải tôi thành kiến gì, nhưng vị linh mục này có cái giọng đơn điệu nhất trần đời. Chúng tôi đã cử hành tang lễ được năm phút và tôi thôi không còn cố gắng chú ý nữa. Nó giống như buổi tập hợp ở trường học vậy; đầu óc ta cứ mụ mị đi. Tôi ngả ra sau và nhìn chằm chằm lên trần nhà không nghe nữa. Mi mắt tôi chuẩn bị khép lại thì giọng nói kia lại vang lên, ngay trong tai tôi.
“Chuỗi hạt của tôi đâu?”
Nó làm tôi giật thót cả tim. Tôi quay đầu sang trái sang phải nhưng vẫn chẳng thấy gì. Có chuyện gì xảy ra với tôi vậy?
“Lara!” Mẹ thì thầm lo sợ. “Ổn chứ con?”
“Con bị đau đầu chút xíu thôi,” tôi rít khẽ lại với mẹ, “Có lẽ con nên ra ngồi bên cạnh cửa sổ. Cho thoáng khí.”
Phác cử chỉ cáo lỗi, tôi đứng dậy đi về phía chiếc ghế gần cuối phòng. Vị linh mục hầu như không chú ý: bà ta đang mải mê với bài diễn thuyết của mình.
“Sự kết thúc của cuộc sống này là sự khởi đầu của cuộc sống khác… sinh ra từ cát bụi rồi trở về với cát bụi…”
“Chuỗi hạt của tôi đâu? Tôi cần nó.”
Đầu tôi quay ngoắt sang trái sang phải, hy vọng lần này sẽ nhìn thấy người nói. Rồi đột nhiên tôi thấy. Một bàn tay.
Một bàn tay được tỉa tót, mảnh dẻ, đặt lên lưng ghế ngay trước mặt tôi.
Ánh mắt tôi lướt từ dưới lên, ngờ hoặc. Bàn tay của một cánh tay dài, trắng, thanh mảnh. Cánh tay của một cô gái trạc tuổi tôi. Người đang uể oải ngồi trong chiếc ghế trước mặt tôi, ngón tay gõ gõ vẻ sốt ruột. Cô có mái tóc đen, bồng bềnh, mặc chiếc đầm lụa màu mạ non không tay, và tôi thoáng thấy cái cằm trắng nhô ra phía trước.
Tôi kinh ngạc đến mức chẳng biết làm gì khác ngoài há hốc miệng.
Cái đồ quái quỷ gì vậy?
Khi tôi nhìn, cô xoay người rời khỏi ghế như thể không ngồi im được nữa và bắt đầu đi đi lại lại. Bộ váy của cô buông thẳng xuống gối, xếp li nhỏ ở gấu, và cứ kêu sột soạt khi cô bước đi.
“Tôi cần nó,” cô làu bàu vẻ khó chịu, “Nó đâu rồi? Nó đâu rồi?”
Giọng cô có trọng âm nhanh mạnh, rành rọt, giống như trong những phim đen trắng thời xưa. Tôi liếc liên hồi về phía những người còn lại trong gia đình – nhưng không ai khác thấy cô. Thậm chí không có ai nghe thấy tiếng cô cả. Tất cả mọi người đều đang ngồi im lặng.
Đột nhiên, như thể cảm thấy tôi đang nhìn đăm đăm vào cô, cô bèn xoay lại và nhìn thẳng vào mắt tôi. Cặp mắt thật sẫm và lấp lánh, tôi không biết được chúng màu gì, nhưng chúng mở to trân trối khi tôi nhìn lại.
OK. Tôi bắt đầu hoảng sợ rồi. Tôi đang bị ảo giác. Một ảo giác đang đi lại và nói chuyện. Và nó đang tiến về phía tôi.
“Cô có thể thấy tôi.” Cô trỏ một ngón tay trắng về phía tôi và tôi co rúm lại trong ghế. “Cô có thể thấy tôi!”
Tôi lắc đầu quầy quậy. “Tôi không thấy.”
“Và cô có thể nghe thấy tôi nói.”
“Không, tôi có nghe thấy đâu.”
Tôi thấy mẹ ở đầu phòng đang quay lại nhíu mày với tôi. Tôi bèn ho lên, rồi trỏ vào ngực. Khi tôi quay lại, người con gái đã không còn đó. Biến mất.
Cảm ơn Chúa. Tôi cứ tưởng mình đang bị điên. Ý tôi là tôi biết dạo này mình bị trầm cảm, nhưng mà thấy một ảo ảnh thật sự như vậy thì…
“Cô là ai?” Tim tôi thót lên tận cổ khi giọng cô gái đó lại cắt ngang ý nghĩ của tôi. Lần này thì thình lình cô lại đang sải bước giữa hai hàng ghế tiến về phía tôi.
“Cô là ai?” cô gặng hỏi. “Đây là đâu? Mấy người kia là ai?”
Chớ có trả lời ảo giác, tôi tự nhủ kiên quyết. Làm vậy sẽ chỉ khuyến khích nó thêm thôi. Tôi quay đầu đi và cố gắng tập trung vào linh mục.
“Cô là ai?” Cô gái đột nhiên xuất hiện ngay trước mặt tôi. “Cô có thật không?” Cô giơ một bàn tay lên như thể định chọc vào vai tôi và tôi co rúm lại, nhưng bàn tay cô lại lao thẳng qua tôi từ bên này sang bên kia.
Tôi choáng váng há hốc cả miệng. Cô gái hoang mang nhìn chằm chằm vào bàn tay mình, rồi nhìn tôi.
“Cô là cái gì vậy?” cô hỏi, “Cô là một giấc mơ ư?”
“Tôi á?” tôi không thể không vặc lại bằng một giọng khe khẽ đầy phẫn nộ. “Đương nhiên tôi chẳng phải mơ mộng gì hết. Cô mới là giấc mơ!”
“Tôi không phải giấc mơ!” Cô nói nghe cũng phẫn nộ y như thế.
“Thế cô là ai?” Tôi không nén được vặc lại.
Ngay lập tức tôi hối hận vì đã làm vậy, vì bố và mẹ cùng liếc nhìn tôi. Nếu tôi kể với họ rằng tôi đang nói chuyện với một ảo giác thì họ sẽ phát điên lên. Tôi sẽ bị tống vào bệnh viện tâm thần The Priory ngay ngày mai.
Cô gái kia hếch cằm lên. “Tôi là Sadie. Sadie Lancaster.”
Sadie…?
Không. Không thể nào.
Tôi hoàn toàn không cử động nổi. Mắt tôi đảo điên cuồng từ người con gái đang đứng trước mặt sang bà già có mái tóc như kẹo bông, da nhăn như táo Tàu trong bức ảnh chụp lấy ngay kia, rồi quay trở lại với cô gái. Tôi đang thấy ảo giác về bà dì 105 tuổi đã mất ư?
Cô gái ảo giác kia trông cũng khá hoảng sợ. Cô quay lại và bắt đầu nhìn quanh căn phòng như thể mới lần đầu nhận thấy nó vậy. Sau vài giây choáng ngợp cô thoắt ẩn thoắt hiện khắp căn phòng, ngó nghiêng từng ngóc ngách, từng cái cửa sổ, y như một con bọ cứ vo ve quanh cái bể thủy tinh vậy.
Tôi chưa bao giờ có một người bạn tưởng tượng. Tôi chưa từng xài ma túy. Vậy thì chuyện gì đang xảy ra với tôi vậy? Tôi tự nhủ mình hãy phớt lờ cô đi; gạt bỏ cô ra khỏi đầu, chú mục vào cái bà linh mục kia kìa. Nhưng vô ích; tôi không thể không dõi theo nhất cử nhất động của cô.
“Nơi này là gì thế hả?” Giờ thì cô lại lởn vởn quanh tôi, nheo mắt ngờ vực. Cô tập trung vào cái quan tài ở phía trước căn phòng. “Cái gì kia?”
Ôi Chúa ơi.
“Chẳng là gì cả,” tôi vội vã nói. “Chẳng là gì hết! Chỉ là… ý tôi là… nếu tôi là cô thì tôi sẽ không nhìn quá gần…”
Quá muộn rồi. Cô đã hiện ra bên cỗ quan tài, nhìn chằm chằm vào nó. Tôi còn thấy cô đang đọc cái tên “Sadie Lancaster” trên bảng nhựa. Tôi có thể thấy mặt cô giật nẩy lên vì sốc. Một lát sau cô quay ra ngó bà linh mục vẫn đang lải nhải bằng cái giọng đều đều. “Cụ bà Sadie có một cuộc hôn nhân mãn ý, điều đó có thể là sự khích lệ đối với tất cả chúng ta…”
Cô gái gí sát mặt vào mặt bà linh mục và nhìn bà ta vẻ khinh miệt. “Đồ ngớ ngẩn,” cô nói gay gắt.
“Bà là người phụ nữ đã sống đến tuổi cổ lai hy,” bà linh mục vẫn nói tiếp, chẳng hay biết gì, “Tôi nhìn vào bức ảnh này…” Bà ta chỉ vào tấm ảnh mỉm cười đầy hiểu biết. “… và tôi thấy một phụ nữ, dù cho thể chất yếu đuối, vẫn sống một cuộc đời tươi đẹp. Người tìm được niềm vui khuây khỏa trong những điều nhỏ bé. Đan len chẳng hạn.”
“Đan len ư?” cô gái nhắc lại không tin nổi.
“Vì vậy,” Rõ ràng là vị linh mục đã kết thúc bài diễn văn của bà ta. “Tất cả chúng ta hãy cúi đầu trong khoảnh khắc im lặng cuối cùng trước khi nói lời vĩnh biệt.” Bà bước xuống bục và một đoạn nhạc muzak lại vang lên.
“Giờ thì lại chuyện gì nữa thế?” Cô gái nhìn quanh, đột ngột trở nên cảnh giác. Nhoằng cái cô đã hiện ra bên cạnh tôi. “Chuyện gì đang diễn ra vậy? Nói cho tôi đi nào! Nói đi!”
“À, cái quan tài sẽ đi qua tấm rèm kia,” tôi thì thào khe khẽ, “Rồi… ờ…” tôi chuội, bị cơn xấu hổ xâm chiếm. Làm sao để diễn giải chuyện đó cho khéo đây? “Cô thấy đấy, chúng ta đang ở đài hóa thân. Thế có nghĩa là…” tôi phẩy phẩy hai bàn tay.
Mặt cô gái trắng bệch ra vì sốc, và tôi chỉ biết lúng túng giương mắt nhìn khi cô nhòa dần vào một trạng thái trong suốt, nhợt nhạt, kỳ lạ. Gần như là cô đang nhạt dần đi vậy – thậm chí còn hơn thế. Trong khoảnh khắc tôi cơ hồ có thể nhìn xuyên qua cô. Rồi, như thể đã nghĩ ra được giải pháp nào đó, cô trở lại.
“Không.” Cô lắc đầu. “Không thể để chuyện đó xảy ra được. Tôi cần chuỗi hạt. Tôi cần nó.”
“Xin lỗi,” tôi đáp, bất lực. “Tôi chẳng thể làm gì được.”
“Cô phải ngăn đám tang lại ngay,” Cô đột ngột nhìn lên, cặp mắt thẫm vào lấp lánh.
“Sao cơ?” tôi nhìn cô chằm chằm. “Tôi không thể làm thế!”
“Cô có thể! Hãy bảo họ dừng ngay lại!” Khi tôi quay sang bên kia để phớt lờ cô, cô lại xuất hiện ở phía đó. “Đứng lên! Nói gì đi!”
Giọng cô lảnh lót và nài nỉ như giọng của đứa bé mới chập chững. Tôi điên cuồng quay đầu tứ phía, cố tránh cô.
“Ngăn đám tang lại! Ngăn nó lại! Tôi phải có chuỗi hạt!” Cô ghé sát mặt tôi; nắm tay cô nện lên ngực tôi. Tôi không cảm thấy gì, nhưng tôi rụt người lại. Tuyệt vọng tôi đành đứng dậy và ngồi ra sau một hàng làm đổ đánh rầm một cái ghế.
“Lara, con ổn chứ?” Mẹ nhìn sang lo lắng.
“Con ổn,” tôi nói, cố gắng phớt lờ tiếng la hét trong tai mình.
“Anh sẽ gọi xe,” chú Bill bảo cô Trudy. “Việc này phải xong xuôi trong vòng năm phút.”
“Dừng lại! Dừng lại-dừng lại-dừng lại!” Giọng cô gái vót lên thành tiếng rít the thé lộng óc, giống như tiếng vọng trong tôi. Tôi sắp bị tâm thần phân liệt mất. Giờ thì tôi đã hiểu vì sao người ta lại đi ám sát tổng thống. Tôi không làm cách nào mà lờ cô đi được. Cô giống như một nữ thần báo thù vậy. Tôi không thể chịu đựng được chuyện này thêm chút nào nữa. Tôi ôm chặt đầu mình, cố ngăn cô lại, nhưng vô ích. “Dừng lại! Dừng lại! Cô phải ngăn…!”
“Được rồi! Được rồi! Cứ im đi đã!” Hết cách, tôi đành đứng dậy. “Khoan đã!” tôi hét lên, “Mọi người dừng lại đã! Mọi người phải dừng đám tang lại! DỪNG ĐÁM TANG LẠI!”
Tôi thở phào, cô thôi không rít lên nữa.
Ở phía dưới, cả gia đình tôi đều há hốc miệng nhìn tôi như thể tôi bị điên vậy. Vị linh mục nhấn một cái nút trên bảng gỗ gắn vào tường và tiếng nhạc muzak đàn điện tử ngừng lại tắp lự.
“Dừng đám tang lại ư?” cuối cùng mẹ lên tiếng.
Tôi lặng lẽ gật đầu. Nói thật là tôi cảm thấy không còn kiểm soát được mình nữa.
“Nhưng tại sao?”
“Con…ừm…” tôi hắng giọng. “Con nghĩ đây vẫn chưa phải là lúc thích hợp. Để tiễn bà đi.”
“Lara.” Bố thở dài. “Bố biết hiện giờ con đang căng thẳng nhưng thực sự là…” Ông quay sang phía vị linh mục. “Tôi thực sự xin lỗi. Con gái tôi dạo này không được bình thường cho lắm. “Trục trặc với bạn trai ấy mà,” ông nói rành rọt.
“Chuyện này chẳng có liên quan gì đến vấn đề đó cả!” Tôi phản ứng phẫn nộ, nhưng chẳng ai thèm để ý đến tôi.
“À, tôi hiểu,” vị linh mục gật đầu thông cảm. “Lara, chúng ta sẽ kết thúc đám tang ngay thôi,” bà ta nói như thể tôi là đứa trẻ lên ba vậy. “Rồi có lẽ cô và tôi sẽ cùng nhau uống trà và trò chuyện một chút, được không?”
Bà ta lại nhấn cái nút và tiếng nhạc muzak điện tử lại vang lên. Một lát sau, chiếc quan tài bắt đầu chuyển động kẽo kẹt trên bệ, khuất dần sau tấm rèm. Tôi nghe thấy đằng sau đột ngột có tiếng hổn hển, rồi…
“Khôôôông!” một tiếng rú đau đớn cất lên. “Khôôông! Dừng lại! Cô phải dừng ngay lại!”
Tôi kinh hoàng khi thấy người con gái kia phi thẳng tót lên chiếc bệ và bắt đầu đẩy cỗ quan tài ngược trở lại. Nhưng đôi tay cô bất lực; chúng cứ lún sâu vào trong.
“Làm ơn đi!” cô ngước lên nói với tôi một cách tuyệt vọng, “Đừng để họ làm vậy!”
Tôi bắt đầu cảm thấy thực sự hoảng sợ. Tôi chẳng biết tại sao mình lại hoang tưởng ra chuyện này, hoặc nó có ý nghĩa gì. Nhưng tôi cảm giác nó có thật. Nỗi đau khổ của cô trông rất thật. Chỉ là tôi không thể cứ giương mắt ngồi nhìn chuyện này.
“Không!” tôi hét lên, “Dừng lại!”
“Lara…” mẹ cất tiếng.
“Con nói thật đấy! Đúng là có lý do và trở ngại khiến cỗ quan tài này không thể bị… hỏa thiêu. Cả nhà phải dừng lại ngay!” Tôi hớt hải chạy xuống lối đi. “Nhấn cái nút đó ngay không là tôi tự làm đấy!”
Vẻ lúng túng, vị linh mục lại nhấn nút, và quan tài dừng lại.
“Con yêu, có lẽ con nên chờ ở bên ngoài thì hơn.”
“Nó lại tỏ vẻ ấy mà, như mọi bận!” chị Tonya cáu kỉnh nói. “ ‘Đúng là có lý do và trở ngại’. Con muốn nói là làm quái gì có chuyện đó chứ? Cứ tiếp tục đi!” Chị nói với vị mục sư giọng hách dịch, bà này hơi xù lông lên.
“Lara.” Bà ta lờ Tonya đi và quay sang phía tôi. “Cô có lý do gì muốn ngăn cản đám tang của bà dì cô lại sao?”
“Đúng!”
“Đó là…” bà ta ngừng lại dò hỏi.
Ôi Chúa ơi. Tôi phải nói gì đây? Vì một ảo giác đã bảo tôi phải làm vậy à?
“Là bởi vì…ờ…”
“Cứ bảo tôi đã bị giết!” Tôi choáng váng nhìn lên, thấy cô gái đó ngay trước mặt mình. “Nói thế đi! Rồi họ sẽ phải dừng đám tang lại! Nói đi!” Cô ở bên cạnh tôi, hét vào tai tôi. “Nói thế đi! Nói-thế-đi-nói-thế-đi-nói-thế-đi…”
“Tôi nghĩ là bà dì của tôi đã bị giết!” tôi tuyệt vọng thốt ra.
Tôi đã từng thấy mọi người trong nhà nhìn mình, sững sờ, nhiều lần trong đời rồi. Nhưng chưa có lần nào lại gây ra phản ứng giống như lần này. Tất cả đều xoay người lại trên chiếc ghế, quai hàm trễ xuống vì chẳng hiểu mô tê gì cả, trông hệt như một kiểu tranh tĩnh vật nào đó. Tôi suýt nữa thì bật cười.
“Bị giết?” cuối cùng vị linh mục lên tiếng.
“Vâng,” tôi nó cả quyết. “Tôi có lý do để tin rằng đã có một chuyện xấu xa xảy ra. Thế nên chúng ta cần phải giữ thi thể lại để làm bằng chứng.”
Vị linh mục chầm chậm bước về phía tôi, nheo mắt lại, như thể đang cố đánh giá chính xác xem tôi là kẻ làm mất thì giờ đến mức nào. Nhưng bà ta không biết một chuyện là trước kia tôi thường hay chơi trò thi xem ai nhìn vào mắt người kia lâu hơn với Tonya và tôi luôn thắng. Tôi nhìn lại bà ta, địch lại một cách hoàn hảo với ánh mắt nghiêm nghị của bà ta, cái vẻ đây-không-phải-chuyện-đùa.
“Bị giết… như thế nào?” bà ta hỏi.
“Tối hơn là tôi nên nói chuyện với những người có thẩm quyền,” tôi đáp trả như thể đang trong một tập phim Điều tra hiện trường tội phạm: Nhà tang lễ.
“Cô muốn tôi gọi cảnh sát?” Giờ thì trông bà ta thực sự sốc.
Ôi Chúa ơi. Đương nhiên là tôi không muốn bà ta gọi đám cảnh sát chết giẫm ấy rồi. Nhưng giờ tôi không thể rút lui được nữa. Tôi phải diễn sao cho thuyết phục.
“Đúng thế,” tôi ngừng một lát rồi nói. “Đúng thế, tôi nghĩ đó là cách tốt nhất.”
“Bà không thể tin con bé nghiêm túc được!” Tonya bùng nổ, “Rõ ràng là nó đang cố gắng làm mọi người kinh ngạc đấy!”
Tôi có thể thấy là vị linh mục hơi bực mình với Tonya rồi, điều đó có lợi cho tôi.
“Cô gái thân mến,” bà ta nó xẵng, “quyết định đó không tùy thuộc vào cô. Bất cứ lời buộc tội nào giống như thế này đều phải được kiểm tra. Và em gái cô nói đúng. Thi thể sẽ phải được bảo quản để khám nghiệm pháp ý.”
Tôi nghĩ là bà linh mục đã bắt đầu quan tâm tới chuyện này rồi. Có lẽ tối Chủ nhật nào bà ta cũng xem những vụ giết người bí ẩn trên ti vi. Quả vậy, bà ta thậm chí còn bước gần hơn về phía tôi và hạ thấp giọng, “Cô nghĩ ai đã giết bà dì cô?”
“Tốt hơn là tôi không nên bình luận gì vào lúc này,” tôi nói vẻ ám muội, “Chuyện phức tạp lắm,” Tôi liếc nhanh sang Tonya một cái đầy ý nghĩa. “Nếu bà hiểu tôi muốn nói gì.”
“Gì cơ?” Mặt Tonya hồng lên vì phẫn nộ, “Em không định buộc tội chị chứ.”
“Em chẳng nói gì cả.” Tôi lấy giọng bí hiểm. “Ngoại trừ với cảnh sát.”
“Chuyện nhảm nhí. Chúng ta có thể kết thúc chuyện này hay không đây?” Chú Bill cất chiếc BlackBerry đi. “Dù thế nào thì xe của tôi cũng đến rồi và chúng ta dành thời gian cho bà cụ thế là đủ.”
“Quá đủ!” cô Trudy phụ họa. “Nào, Diamanté, đây là một tấn trò!” Cáu kỉnh làm dấu thánh giá, cô bắt đầu thu gom mấy cuốn tạp chí về người nổi tiếng của mình.
“Lara, chú không biết cháu định bày trò quái quỷ gì vậy.” Chú Bill sừng sộ nhìn bố khi đi ngang qua. “Con bé cần giúp đỡ, con gái anh ấy. Một đứa điên khùng chết giẫm.”
“Lara, con yêu.” Mẹ đứng dậy ra khỏi ghế và bước tới, nhăn trán vì lo âu. “Thậm chí con còn không biết cụ Sadie cơ mà.”
“Có thể con không biết, có thể con biết.” Tôi khoanh tay. “Có nhiều chuyện con không nói với mẹ.”
Tôi sắp bắt đầu tin vào vụ giết người này rồi.
Lúc này trông linh mục thật lúng túng, như thể tất cả chuyện này đang vượt quá khả năng của bà. “Tôi nghĩ là tốt hơn hết là tôi nên gọi cảnh sát. Lara, nếu cô đợi ở đây… tôi nghĩ là những người khác có lẽ nên ra về.”
“Lara.” Bố đi tới và nắm lấy cánh tay tôi. “Con yêu.”
“Bố… cứ đi đi.” Tôi cố tạo ra phong thái cao thượng, bị hiểu lầm. “Con làm việc phải làm thôi. Con sẽ không sao đâu.”
Liếc nhìn tôi với nhiều loại ánh mắt từ cảnh giác, giận dữ cho tới thương hại, cả gia đình tôi từ từ rút khỏi căn phòng, đi theo vị linh mục.
Tôi bị bỏ lại một mình trong căn phòng im lặng. Và cứ như lời nguyền đột nhiên bị phá vỡ. Tôi đã làm cái việc trời đánh thánh vật gì thế này? Tôi bị điên rồi sao?
Thực ra thì, nó sẽ lý giải nhiều chuyện. Có lẽ tôi nên được nhận vào một viện tâm thần bình yên, tử tế nào đó nơi ta chỉ vẽ lên những bộ quần liền áo và không cần phải nghĩ về công việc làm ăn thất bát hoặc bạn trai cũ hay vé phạt đỗ xe.
Tôi ngồi thụp xuống một cái ghế tựa và thở phì ra. Ở phần trước của căn phòng, cô gái ảo giác hiện ra ngay trước bảng thông báo, nhìn chằm chằm vào bức ảnh bà lão còng nhỏ bé.
“Vậy, có phải là cô đã bị giết?” tôi không thể nén được bèn lên tiếng.
“Ồ, tôi không nên nghĩ thế.” Cô hầu như chẳng thèm công nhận tôi, nói gì đến chuyện cảm ơn. Hãy tin là tôi đang gặp một ảo ảnh chẳng biết cư xử gì cả.
“Ờ, không cần cảm ơn đâu.” Tôi nói cục cằn. “Cô biết không. Bất cứ lúc nào cô nhờ tôi cũng sẵn lòng.”
Cô gái hình như còn chẳng thèm nghe. Cô ngó nghiêng khắp căn phòng như thể không hiểu một chuyện gì đó.
“Hoa đâu cả rồi? Nếu đây là đám tang của tôi thì hoa đâu?”
“À!” Tôi cảm thấy tội lỗi ghê gớm. “Hoa đã bị… đưa nhầm sang một nơi khác. Có nhiều lắm, thật đấy. Đẹp cực.”
Cô không có thật, tôi tự nhủ một cách nhiệt thành. Đó chỉ là lương tâm tội lỗi của chính tôi đang nói.
“Thế còn mọi người?” Cô nói nghe có vẻ không hiểu. “Tất cả mọi người đâu hết rồi?”
“Một số người không đến được.” Tôi đan tay vào nhau ở sau lưng hy vọng mình nói nghe thuyết phục. “Dù vậy, rất nhiều người đến…”
Tôi ngừng lại, khi cô biến thành làn khí mỏng, ngay lúc tôi đang nói với cô.
“Chuỗi hạt của tôi đâu?” tôi giật thót tim vì sợ khi giọng cô lại vang lên hối thúc trong tai tôi.
“Tôi không biết cái chuỗi hạt quỷ tha ma bắt của cô ở đâu cả!” tôi kêu toáng lên. “Đừng có chọc tức tôi nữa! Cô cũng thấy là tôi sẽ không bao giờ quên được cái chuyện vừa rồi chứ hả? Mà thậm chí cô còn chưa buồn nói cảm ơn nữa!”
Im lặng, cô nghiêng mặt quay đi, như một đứa trẻ bị bắt quả tang.
“Cảm ơn cô,” cuối cùng cô nói.
“Không có chi.”
Cô gái ảo giác đang xoay xoay cái vòng tay kim loại hình con rắn quấn lấy cổ tay cô, và tôi thấy mình đang quan sát cô kỹ hơn. Tóc cô sẫm, bóng và ngọn tóc ôm lấy khuôn mặt khi cô chúi đầu về phía trước. Cổ cô cao và trắng và giờ thì tôi có thể thấy cặp mắt vĩ đại, long lanh của cô màu xanh lục. Đôi giày da màu kem của cô nhỏ xíu, có lẽ cỡ 4, với những cái nút nhỏ và gót kiểu Cuba. Tôi đoán cô trạc tuổi tôi. Có lẽ còn trẻ hơn.
“Chú Bill,” cuối cùng cô lên tiếng, xoay xoay cái vòng tay. “William. Một trong hai thằng con của Virginia.”
“Đúng thế. Virginia là bà nội tôi. Bố tôi là Micheal. Thế có nghĩa cô là bà dì của tôi…” tôi chợt ngừng lại và ôm đầu. “Chuyện này thật điên rồ. Làm sao mà tôi thậm chí còn biết trông cô như thế nào được? Làm sao tôi có thể hoang tưởng ra cô nhỉ?”
“Cô không hoang tưởng ra tôi!” Cô hếch cái cằm lên, trông có vẻ bực. “Tôi có thật!”
“Cô không thể có thật được,” tôi nói cáu tiết, “cô chết rồi! Thế thì cô là gì hả, một con ma à?”
Một khắc im lặng kỳ cục. Rồi cô gái nhìn đi chỗ khác. “Tôi không tin có ma quỷ,” cô nói giọng khinh thường.
“Tôi cũng chẳng tin.” Tôi cũng không chịu kém cạnh. “Chẳng bao giờ.”
Cánh cửa mở ra và tôi thấy sốc.
“Lara.” Vị linh mục bước vào, khuôn mặt bà ta hồng lên và bối rối. “Tôi vừa nói chuyện với cảnh sát xong. Họ muốn cô tới đồn cảnh sát.”