GIỮA HAMPSHIRE VÀ LUÂN ĐÔN
Không phải tôn ông Pitt chỉ sửa lại rào giậu cùng chữa lại vài căn phòng trong trại Crawley Bà chúa mà thôi đầu. Vốn khôn ngoan, anh ta bắt tay ngay vào việc gây dựng lại uy tín của gia đình đã bị ông bố xấu thói và keo kiệt phá hoại. Ngay sau khi cha anh chết, anh ta được bầu thay mặt cho địa phương trong Quốc hội; với tư cách là một quan toà, một nghị sĩ, một người tai mặt trong quận, đại diện cho một dòng họ lâu đời, anh ta tự thấy có nhiệm vụ hoạt động nhiều trước công chúng Hampshire ; Pitt bèn tỏ ra hào phóng đối với các tổ chức từ thiện trong quận, chịu khó thăm viếng những nhà tai mặt trong vùng, và không bỏ lỡ một cơ hội nào để leo lên một địa vị, trước hết là trong quận, sau đó là trong toàn quốc, mà anh ta thấy xứng đáng với tài năng lỗi lạc của mình. Công nương Jane được lệnh đi lại thân mật với gia đình Fuddlestones, gia đình Wapshots và các nam tước láng giềng khác.
Bây giờ ta lại thấy xe ngựa của họ ra vào luôn luôn trên con đường lớn của trại Crawley Bà chúa. Pitt mở tiệc thết đãi họ thường xuyên (món ăn làm tuyệt khéo, nhưng chắc công nương Jane ít khi mó tay đến), đồng thời quanh năm bạn bè xa gần cũng mời vợ chồng anh ta đi dự tiệc ngoài luôn. Tuy tính Pitt vốn trầm lặng không ưa ồn ào mấy, sức yếu mà ăn uống cũng kém ngon, nhưng anh ta thấy ở vào địa vị mình cần tỏ ra là người hiếu khách, mỗi lần phải ngồi tiếp khách quá lâu đến nỗi sau bữa tiệc đầu nhức như búa bổ, Pitt thấy mình thật khổ sở vì nhiệm vụ. Anh ta bàn với những tay chủ điền các chuyện mùa màng, chuyện luật lệ về lúa má, chuyện chính trị. Trước kia anh ta thường tỏ thái độ phóng khoáng đối với những vấn đề săn trộm và bảo vệ thú rừng, bây giờ lại làm ra bộ hết sức khe khắt. Pitt không đi săn; anh ta không ra săn bắn. Anh ta chỉ là một con người của sách vở, với những thói quen hiền lành, nhưng anh ta cho rằng phải đẩy mạnh việc nuôi ngựa trong quận, và cũng cần chú ý đến vấn đề bảo vệ cáo rừng đỡ bị giết hại. Vì lẽ đó, Pitt ta sẵn sàng mời ông bạn là ngài Huddlestone Fuddlestone vốn ham săn cáo đến săn trong phạm vi trại Crawley Bà chúa. Không những thế, trong đời sống hằng ngày, anh ta lại tỏ ra có khuynh hướng phục tùng tôn giáo chính thống. Southdown phu nhân giận lắm vì con rể thôi không thuyết giáo trước công chúng, cũng không đến dự những buổi họp đạo hữu tự do trước nữa. Trái lại, anh ta rất chăm đi nhà thờ, đến thăm vị giám mục và các mục sư ở Winchester; khi ngài phó chủ giáo Trumper mời tới chơi một ván bài, anh ta vui lòng nhận lời ngay. Southdown phu nhân đau khổ quá, bà thấy con rể bây giờ là kẻ bỏ đi, vì bắt đầu đam mê những thú vui phàm tục!… Một lần, đi dự lễ đạo ở Winchester về, Pitt tuyên bố rằng năm sau sẽ đưa hai em gái đi dự những buổi dạ hội ở quận; hai cô sướng quá muốn tôn ông anh lên mà thờ. Công nương Jane vì vâng lời chồng mà đi, nhưng trong bụng có lẽ cũng thích. Bà mẹ vợ lập tức viết thư cho tác giả cuốn “Người đàn bà giặt thuê ở Finchley” ngụ tại Hảo Vọng giác miêu tả thật khủng khiếp về cách ăn ở phàm tục của cô con gái; hồi này ngôi nhà của bà ở Brighton vắng người thuê, bà lại về trú ngụ ở đó. Phải thú thực rằng con gái và con rể cũng không lưu luyến bà lắm lắm. Rebecca về thăm trại Crawley Bà chúa lần sau thấy vắng mặt bà lão hay cho thuốc, có lẽ cũng không thấy nhớ nhiều thì phải. Tuy vậy, cho đến ngày lễ Giáng sinh, cô ta cũng viết thư cho Southdown phu nhân, nhắc lại những ngày gặp gỡ cũ, ngỏ lời cảm tạ vì phu nhân đã có lòng thương chuyện trò và cho thuốc khi cô ta đau ốm; lại nói rằng mình về trại trông thấy cái gì cũng nhớ đến người vắng mặt.
Những sự đổi thay trong cách cư xử của Pitt Crawley mang lại thêm uy tín cho anh ta, phần lớn là dựa vào lời khuyên của người thiếu phụ bé nhỏ mưu mẹo ở phố Curzon. Hồi Pitt về chơi Luân đôn, Becky bảo anh ta thế này: “Bác chỉ muốn là một nam tước thôi à? Bác bằng lòng chỉ làm một ông phú hộ nhà quê chăng? Không, thưa tôn ông Pitt Crawley, em biết bác có thể hơn thế. Em biết bác có tài, có tham vọng. Bác giấu được mọi người, nhưng thoát sao được mắt em. Em đã đưa cho hầu tước Steyne xem bài xã thuyết bác viết về vấn đề lúa mạch; ngài quan tâm đến bài đó làm; ngài nói rằng theo ý các vị trong Nội các, đấy là một tài liệu đầy đủ nhất về vấn đề lúa mạch. Ngài tổng trưởng rất chú ý đến bác, em cũng rõ bác định làm gì rồi: bác muốn trở thành có tiếng tăm trong Quốc hội, phải không nào? Thiên hạ ai cũng bảo bác là nhà hùng biện có tài nhất nước Anh; họ chưa quên những bài diễn thuyết của bác ở Oxford, bác muốn trở thành đại biểu của quận; ở đấy với số phiếu của bác, lại có dân chúng trong quận làm hậu thuẫn, bác muốn làm gì mà chẳng được, bác muốn trở thành đệ nhất nam tước tại trại Crawley Bà Chúa; bác sẽ được toại nguyện ngay khi còn sống. Em thấu rõ gan ruột bác rồi. Ôi! Giá chồng em có được trí thông minh và địa vị của bác, chắc chắn em cũng là người vợ xứng đáng… nhưng…nhưng em chỉ là em dâu bác thôi – cô ta cười tiếp – em nghèo túng thật, nhưng vẫn mong bác thành công; vả lại biết đâu con chuột lại chẳng giúp con sư tử được việc nhỉ?”
Pitt Crawley nghe nói, vừa ngạc nhiên vừa khoái trá. Anh ta nghĩ thầm: “Con mụ này đi guốc vào bụng mình thật! Đố bao giờ mình bảo được Jane đọc bài xã thuyết về lúa mạch của mình. Cô ấy không thể hiểu rằng mình là người có tài cao, có chí lớn. Thì thiên hạ vẫn nhớ những bài diễn thuyết của mình ở Oxford cơ à? Bọn đê tiện!
Bây giờ mình đã là nghị sĩ, sắp sửa ngồi trong hội đồng hàng quận, chúng nó mới nhớ đến mình. Năm ngoái, lão hầu tước Steyne gặp mình trong triều cứ lờ đi, bây giờ mới bắt đầu hiểu rằng Pitt Crawley chẳng phải tay vừa đâu. Phải lắm, tôi vẫn như xưa thôi, có điều đến bây giờ cá mới gặp nước; rồi tôi sẽ cho các vị biết rằng tôi nói, tôi hành động cũng không kém gì tôi viết. Xưa kia, trước khi Achilles được trao gươm vào tay, ai biết anh ta là cái quái gì. Tôi đây là cũng được trao gương và rồi thế giới sẽ nghe đại danh Pitt Crawley”.
Bởi thế nhà ngoại giao xấu thói mới đột nhiên đâm ra hiếu khách, mới chăm đi dự lễ hội tôn giáo và làm việc từ thiện, mới giao thiệp thân mật với giới tu sĩ, mới thết tiệc cũng như dự tiệc luôn luôn, mới tỏ ra nhã nhặn một cách đặc biệt với các tá điền khi gặp họ trong những phiên chợ, và mới hết sức quan tâm đến mọi công việc trong quận. Đồng thời, vì thế ngày lễ Giáng sinh trong trại mới được tổ chức linh đình lâu nay chưa từng có.
Đúng ngày lễ Giáng sinh, tất cả gia đình tề tựu đông đủ. Bên nhà thờ cũng sang ăn cơm không thiếu một ai. Rebecca đối với bác Bute hết sức thành thực và thân mật, y như giữa hai người không hề có chuyện gì xảy ra. Rồi cô ta săn đón hỏi han hai cô con gái bà Bute, tỏ ngạc nhiên vì họ tiến bộ rất nhiều về khoa âm nhạc. Cô ta còn đòi hai chị em nhà này hát đi hát lại một bài song ca trích trong cuốn sách nhạc to tướng mà Jim phải lóc cóc về nhà đem sang trại; cu cậu bực mình lắm. Bà Bute bắt buộc phải giữ một thái độ hoà nhã đối với con người xảo quyệt; dĩ nhiên sau đó mấy mẹ con tha hồ mà bàn tán với nhau không hiểu vì sao Pitt lại tỏ ra nể nang em dâu một cách vô lý đến thế. Riêng Jim được ngồi cạnh Becky lúc ăn cơm, tuyên bố rằng cô ta là một người đàn bà hoàn toàn; toàn thể gia đình ông Bute đồng ý công nhận thằng Rawdy là một đứa trẻ kháu khỉnh. Họ có thái độ kính trọng nó như đối với một vị nam tước tương lai, vì thực ra giữa thằng bé và tước vị này chỉ có một trở ngại tức là chú bé Pitt Binkie xanh xao, quặt quẹo.
Hai đứa trẻ chơi với nhau rất thân. Đối với thằng Rawdy, thằng Piky chỉ là con chó cún so với một con chó xồm; con bé Matila là con gái không đọ được với một thằng con trai gần tám tuổi, sắp sửa mặc cả áo chẽn như người lớn. Cho nên thằng Rawdy lập tức trở thành người chỉ huy… hai chị em con Matilda cứ kính cẩn lẽo đẽo theo sau thằng này, lấy làm sung sướng lắm vì được nó chiếu cố chơi với. Chưa bao giờ thằng bé thích chí đến thế. Nó thích nhất khu vườn rau: vườn hoa không thích bằng, nhưng lần nào được đến thăm chuồng chim bồ câu, chuồng gà và chuồng ngựa thì nó sướng vô kể. Nó nhất định không cho hai chị em cô Crawley hôn nó, nhưng thỉnh thoảng nó cũng bằng lòng cho công nương Jane vuốt ve một lúc. Sau bữa ăn, lúc đến giờ theo các bà sang phòng khách, để cho các ông ở lại uống rượu vang, thì nó thích ngồi cạnh bác gái hơn cạnh mẹ nó. Rebecca thấy tình mẫu tử đang lúc hợp thời, một buổi tối gọi nó đến gần và trước mặt mọi người cúi xuống hôn nó một cái.
Được mẹ hôn, thằng bé nhìn trừng trừng vào mặt mẹ, đỏ tía cả hai tai, chân tay lẩy bẩy y như những phút nó bị xúc động rất mạnh. Nó bảo mẹ:
– Ở nhà má có hôn con bao giờ đâu, hở má?
Mọi người yên lặng, sửng sốt; Kêbecca nhìn con, tức lộn ruột.
Thấy công nương Jane vồ vập con mình, Rawdon quý chị dâu lắm.. Becky và công nương Jane cũng chưa thân nhau hơn so với lần trước, khi Becky về thăm trại cố tình làm vui lòng mọi người; thằng Rawdy vô tình nói mấy câu làm cho hai chị em dâu đối với nhau kém phần thân mật. Cũng có thể vì tôn ông Pitt đối với em dâu đã tỏ ra săn sóc hơi quá chăng?
Thằng Rawdy đã lớn,ưa được gần các ông hơn là ngồi với các bà. Nó thích theo bố ra chuồng ngựa; bố nó hay lủi ra đây hút một điếu xì gà… Jim,con trai ông mục sư, thỉnh thoảng cũng theo anh họ ra làm vài hơi và dự những trò tiêu khiển khác. Anh ta đánh bạn rất thân với người coi rừng của Pitt, vì hai bên cùng là tay sành chó cả. Một hôm, Jim, Rawdon và người gác rừng cùng đi săn chim trĩ; họ đem theo cả thằng Rawdy. Một lần khác, cả bốn chui vào nhà kho lùng săn chuột; thằng Rawdy thấy săn chuột lại vui hơn săn chim trĩ nhiều. Họ đứng chắn ở cửa mấy cái cống thông nước trong nhà kho, rồi từ cửa mé bên kia, họ xua mấy con chồn vào; đoạn cả bọn đứng im phắc, tay mỗi người giơ sẵn thật cao một cái gậy. Một con chó săn túc trực sẵn sàng (Jim đặt tên nó là Forceps); con chó không dám thở mạnh, co một chân lên đứng im như tượng, lắng nghe tiếng chuột khe khẽ rúc rích dưới lỗ. Bí quá sinh liều,cuối cùng đàn chuột bị săn riết lần lên mặt đất; con chó săn vồ được một; bác gác rừng đập chết một; Rawdon vội vàng quá đánh hụt một con chuột, nhưng lại quật trúng suýt chết một con chồn.
Hôm ngài Huddlestone Fuddlestone mang bầy chó săn sang trại Crawley Bà chúa thật là một ngày lịch sử.
Thằng Rawdy được chứng kiến một cảnh tượng hết sức ngoạn mục. Mười giờ rưỡi, thấy Tom Moody là thợ săn của ngài Huddlestone Fuddlestone, phi ngựa nước kiệu tiến vào con đường lớn trong trại, theo sau là cả một đàn chó đông lúc nhúc. Sau hết là hai thằng hầu mặc chế phục màu đỏ lấm láp, cưỡi ngựa cầm roi lùa những con chó đi chậm. Họ có lối quất roi rất tài, cứ nhè những chỗ gầy sát xương mà quật những con chó dám la cà dừng lại hoặc dám lấm lét nhòm ngó mấy con thỏ rừng chạy vụt qua trước mõm.
Tiếp theo là thằng Jack, con trai bác Tom Moody; thằng bé chỉ nặng có ba mươi ki-lô, cao bốn mươi tám inch; nó cọc người không lớn được nữa. Thằng Jack cưỡi một con ngựa gầy trơ xương sườn, trên lưng úp một bộ yên to tướng. Đó là con ngựa quý nhất của tôn ông Huddlestone; lão đặt tên nó là “Thượng lưu”; nhiều thằng bé khác cũng cưỡi ngựa lục đục kéo vào; ông chủ phóng ngựa tới sau cùng.
Tom Moody thúc ngựa đến trước cửa lớn ngôi nhà chính, bác quản lý bước ra đón, đưa rượu mời, nhưng Tom không uống. Hắn dắt bầy chó săn ra bãi cỏ tìm chỗ có bóng râm; đàn chó lăn kềnh trên nền cỏ êm, con nọ đùa bỡn hoặc gầm gừ với con kia, thỉnh thoảng lại oẳng nhau một trận, nhưng lập tức bị Tom quát mắng hoặc đét cho vài roi chúng lại câm miệng ngay.
Bây giờ mới đến các vị chủ nhân trẻ tuổi, cưỡi toàn ngựa nòi; họ đi ủng cao đến đầu gối bước vào nhà, chào các bà và uống rượu mạnh. Vài người nhũn nhặn và thượng võ hơn thì đứng cậy bùn bám vào ủng, rồi đổi ngựa “thồ” lấy ngựa săn, và cho phi vài vòng quanh bãi cỏ để gây hào hứng. Đoạn họ đứng quây xung quanh bầy chó săn, bàn tán với Moody về cuộc săn vừa qua, về những đức tính của con Sniveller hoặc con Diamond, về tình hình thú rừng hiện nay trong địa phương và về chuyện giống cáo bây giờ tồi quá.
Bây giờ mới thấy tôn ông Huddlestone đến. Lão cưỡi một con ngựa tuyệt đẹp tiến thẳng đến ngôi nhà chính, xuống ngựa bước vào chào các bà xong là bắt tay ngay vào việc, vì tính lão vốn ít nói.
Bầy chó săn bị xua ra trước cửa ngôi nhà chính; thằng Rawdy đứng giữa đám chó, vừa thích lại vừa sợ, vì chúng cọ mình vào thằng bé, thỉnh thoảng lại quất đuôi vào nó một cái. Tom Moody hết quát tháo lại lấy roi vụt đen đét cũng không được.
Trong khi ấy tôn ông Huddlestone đã nhảy phốc lên lưng con “Thượng lưu”. Lão nói: “Tom, trước hết ta hãy qua cánh rừng Sowster đã, lão tá điền Mangle mách tao ở đấy có một đôi cáo”. Tom bèn rút tù và thúc ngựa phi nước kiệu, theo sau là bầy chó săn, bọn người hầu cầm roi, các ông trai trẻ ở Winchester bọn tá điền quanh vùng, và cả những bác nông dân trong trại đi chân không; họ coi ngày hôm ấy là một ngày hội lớn. Tôn ông Huddlestone cùng Rawdon Crawley đi đoạn hậu; cả đoàn người khuất dạng dần cuối con đường cái.
Lão mục sư Bute Crawley không muốn ra mắt công chúng trước ngôi nhà của cháu trai; Tom Moody vẫn còn nhớ bốn mươi năm về trước, lão là một mục sư trẻ tuổi, vóc người gọn gàng, chuyên cưỡi những con ngựa thật bất kham phi cứ băng băng qua những lạch nước rộng nhất và những hàng rào cao nhất trong vùng. Lão Bute cưỡi một con ngựa ô vạm vỡ phóng từ phía nhà thờ ra, vừa đúng lúc tôn ông Huddlestone phi ngựa qua, và nhập ngay vào đoàn người. Thế rồi cả chó cả người mất hút; thằng Rawdy đứng trơ lại một mình trên bậc thềm, ngây ra nhìn có vẻ khoái lắm.
Trong thời gian về nghỉ ở trại, thằng bé không được ông bác ưa thích lắm. Tính Pitt thường lạnh nhạt, nghiêm khắc thích đóng cửa ngồi một mình trong phòng khách, cặm cụi với những công việc kiện cáo; xung quanh chỉ thấy toàn bọn tá điền và bọn công sai ra vào trong phòng. Trái lại, các cô nó, hai chị em con nhà bác ở trại và Jim rất mến nó. Thấy Jim có ý tán tỉnh một cô em gái mình, có lần Pitt đã khuyến khích Jim một cách hơi lộ liễu rằng khi nào cái lão già hay săn cáo kia về chầu giời thì sẽ giành chân mục sư cho em họ. Jim bèn thôi không săn cáo nữa, chỉ đi bắn vịt giời hoặc chim dẽ; săn chuột qua quýt gọi là, rồi trở về trường đại học cố gạo thi lại lần nữa cho khỏi trượt. Anh ta đã sắm đâu được một bộ quần áo màu xanh, một chiếc cà vạt đỏ, và vài món trang sức lịch sự khác, chuẩn bị sẵn sàng cho việc leo lên địa vị mới. Đó là phương pháp rẻ tiền và tiết kiệm mà tôn ông Pitt dùng để trả nợ bà con họ hàng.
Tuy nhiên, ngay trong dịp lễ Giáng sinh này, anh chàng nam tước đã lấy hết can đảm biếu em trai thêm một tờ ngân phiếu nữa trị giá những một trăm đồng; mới đầu Pitt cũng tiếc đứt từng khúc ruột, nhưng về sau nghĩ rằng mình quả là con người hào phóng nhất đời, anh ta cũng thấy hể hả. Hai bố con Rawdon rời trại về tỉnh lòng buồn rười rượi; trái lại Becky và đám phụ nữ chia tay nhau lại có phần vui vẻ; cô bạn của chúng ta trở về Luân đôn tiếp tục nốt công việc ta đã rõ khi bước vào chương này. Được bàn tay cô ta sắp đặt, bộ mặt ngôi nhà ở phố Great Gaunt như trẻ hẳn lại, sẵn sàng đón tiếp gia đình tôn ông Pitt khi anh ta về Luân đôn để dự họp Quốc hội, và để lãnh trách nhiệm lớn lao đối với đất nước cho xứng với thiên tài của anh ta.
Trong khoá họp đầu tiên, tay đạo đức giả sâu sắc này chưa lộ rõ chủ trương ra vội; anh ta chỉ lên tiếng thay mặt cho dân chúng ở Mudbury trình bày một bản kiến nghị. Nhưng Pitt lại chịu khó dự đầy đủ khoá họp, và nghiên cứu kỹ những thủ tục hoạt động trong Hạ nghị viện. Về nhà, anh ta lại kỳ khu nghiên cứu kỹ càng cuốn “Sách xanh” (); công nương Jane thấy chồng thức khuya làm việc tợn quá phát hoảng lên vì lo chồng ốm. Anh ta còn lân la làm quen với các vị tổng trưởng các lãnh tụ trong đảng, nhất định chỉ ít năm nữa sẽ leo lên địa vị của họ.
Rebecca thấy công nương Jane đối với mình ngọt ngào thân mật thì ghét thậm tệ đến nỗi phải khó khăn lắm mới giấu kín được thái độ thực của mình. Becky lấy làm phiền về lòng tốt và sự thẳng thắn của chị dâu lắm lắm, cũng không sao tránh được khỏi lộ rõ sự khinh ghét của mình ra, hoặc có những cử chỉ khiến cho công nương Jane cuối cùng cũng đoán được. Ngược lại, công nương Jane cũng không ưa gì Rebecca, vì lúc nào cũng thấy chồng trò chuyện với em dâu; hai bên hình như lại có những dấu hiệu kín đáo gì với nhau thì phải. Pitt nói với Rebecca về những chuyện chưa hề bao giờ bàn với vợ. Dĩ nhiên, cô vợ không hiểu gì mấy về những vấn đề ấy, nhưng cứ phải ngồi ngậm hột thị thì cũng cảm thấy bực mình; lại càng bực mình hơn vì đang khi mình không có gì mà nói, thì cái con mụ Rawdon táo tợn này cứ thao thao bất tuyệt nhảy từ vấn đề này sang vấn đề khác, sẵn sàng có ý kiến đáp lại hết thảy mọi người, bao giờ cũng có những câu khôi hài chêm vào đúng lúc. Còn gì nhục hơn là ngay trong nhà mình mà phải ngồi lẻ loi cạnh lò sưởi để mà nhìn bọn đàn ông quây lấy kẻ thù.
Hồi còn ở trại, đám trẻ con thường xúm xít quanh công nương Jane (cả thằng Rawdon, vì nó rất mến cô ta); nhưng mỗi khi đang kể chuyện cổ tích cho bầy trẻ con nghe, thấy Becky bước vào phòng với nụ cười mỉa mai với cái nhìn khinh khỉnh, thì lập tức công nương Jane im bặt không sao nói được nữa. Những ý tưởng đơn giản mộc mạc trong đầu cô ta tự nhiên biến mất, y như các nàng tiên trong chuyện cổ khi thấy bóng quỷ dữ lại gần. Rebecca yêu cầu chị dâu tiếp tục câu chuyện lý thú đang dở dang, giọng nói thoáng điểm một chút gì châm biếm mỉa mai; nhưng công nương Jane không sao kể tiếp được nữa. Về phía Becky, cô ta không sao chịu nổi những ý tưởng hồn nhiên cũng như những thú vui mộc mạc, cô ta ghét lây cả những người nào ưa thích chúng; Becky không ưa trẻ con, không ưa cả những người yêu trẻ con. “Em không sao chịu được cái bọn nhà quê chúng nó”. Cô ta thường nói như thế mỗi khi kể chuyện công nương Jane với hầu tước Steyne. “Cũng như có người không sao chịu được nước thánh vậy”. Ngài hầu tước nhếch mép cười đáp, rồi phá ra cười có ý giễu cợt.
Cho nên hai chị em dâu ít khi gặp mặt nhau, trừ trường hợp Becky có việc cần nhờ vả công nương Jane thì không kể. Những lúc ấy, họ “chị chị, em em” với nhau ra chiều thân thiết đáo để, nhưng rồi lại cứ như mặt trăng mặt trời. Riêng tôn ông Pitt, mặc dầu công chuyện bề bộn ngập đầu, hằng ngày vẫn tìm cách gặp bằng được cô em dâu một lần mới chịu.
Một bữa phải đi dự buổi tiệc khai mạc Quốc hội, Pitt liền nhân dịp ra mắt em dâu trong bộ lễ phục đặc biệt tức là bộ sắc phục của nhà ngoại giao anh ta vẫn mặc hồi còn là đại diện ngoại giao tại tiểu triều đình Pumpernickel. Becky khen anh ta bận bộ áo trông rất “nền”; trước đó, anh ta đã được vợ con không ngớt lời ca ngợi; bây giờ cô em dâu cũng xưng tụng không kém. Cô ta bảo chỉ có những người quý phái chính tông mặc áo trào trông mới có mẽ; kiểu quần ngắn khít ống chỉ thích hợp với những người con dòng cháu dõi. Pitt khoan khoái nhìn xuống đôi chân mình, yên trí rằng gái nào cũng phải mê; thực ra đôi chân anh ta cũng tương tự như thanh gươm anh ta đeo bên sườn, nghĩa là cũn cỡn và khẳng khiu như nhau.
Pitt đi rồi, Becky bèn vẽ ngay một bức biếm hoạ, rồi đưa cho hầu tước Steyne xem, lúc lão đến chơi. Lão hầu tước thấy vẽ giống như in thích lắm, bỏ túi mang đi. Lão đã ban cho tôn ông Pitt Crawley cái hân hạnh được tiếp kiến ngay tại nhà Becky; lại tỏ ra rất nhã nhặn đối với vị tân nam tước, nghị sĩ Quốc hội. Pitt rất lạ vì thấy vị đại thần tỏ ý nể nang em dâu lắm, lại thấy cô ta nói cười tự nhiên duyên dáng như không, mà bọn khách khứa đàn ông ai cũng phải chăm chú lắng nghe. Hầu tước Steyne ngỏ ý rằng sự nghiệp chính trị của vị tân nam tước có nhiều triển vọng, và lão đang khát khao được nghe bài diễn văn đầu tiên của Pitt. Lão còn nói rằng vì hai nhà ở gần nhau (phố Great Gaunt dẫn thẳng ra quảng trường Gaunt) nên bao giờ hầu tước Steyne phu nhân về Luân đôn thì mong sẽ được tiếp Crawley phu nhân… Độ một hai hôm sau, lão cho gửi danh thiếp đến ông bạn láng giềng, một việc mà đối với lão Pitt giá ngày trước, lão không làm bao giờ, mặc dầu hai nhà vẫn là láng giềng với nhau trong gần một thế kỷ.
Càng ngày Rawdon càng cảm thấy mình bị lẻ loi giữa những chuyện mưu tính, những cuộc tiếp tân lịch sự và những nhân vật khôn ngoan sang trọng ấy. Anh ta được vợ cho phép đi đến câu lạc bộ và đi ăn cơm ngoài với bọn bạn hữu chưa vợ thường xuyên hơn trước; Rawdon tha hồ đi về tuỳ ý, cô vợ không một lời căn vặn.
Nhiều bận hai bố con dắt nhau sang phố Gaunt ngồi chơi với công nương Jane và mấy đứa cháu, trong khi tôn ông Pitt đóng kín cửa ngồi chung xe với Rebecca đi đến nghị viện, hoặc từ Nghị viện về nhà.
Anh chàng cựu trung tá hay ngồi lặng lẽ hàng giờ liền ở nhà anh trai, cố gắng không làm gì hết, không nghĩ gì hết. Anh ta thú nhất là được đóng vai đầu sai, hoặc chạy đi lo việc mướn một thằng hầu, tậu một con ngựa cho anh, hoặc ngồi cắt món thịt cừu rán cho mấy đứa trẻ ăn. Lâu dần, tính nết anh ta đâm ra lười biếng và phục tùng; Delilah đã cầm tù và cắt mất bộ tóc của anh ta rồi. Bầu máu nóng sôi sục mười năm về trước nay đã nguội ngắt; Rawdon biến thành một ông sang trọng đứng tuổi lỳ xỳ, thụ động và béo. Còn công nương Jane đáng thương của chúng ta cũng biết Rebecca đã bắt mất hồn của chồng mình, tuy rằng lần nào gặp nhau, hai chị em dâu cũng vẫn vồn vã chị chị em em ngọt ngào.