Trong bất giác, Tào Tham và Đường Lệ đã triển khai một trận giao phong. Người nào cũng đều trích dẫn điển tịch, trình bày đạo lý của mình.
Đường Lệ trích dẫn từ ngữ trong hai bộ điển tịch “Thư – Thuấn điển” và
“Chu Lễ – đại sư” mà Tào Tham thì trích dẫn cách nói trong “Lỗ ngữ”.
Trong thị trấn Bái, người có học vấn cũng không nhiều, Đường Lệ cũng
được tính là một người, Tào Tham cũng được tính là một người, còn có
Tiêu Hà…Dù gì thì cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay, có thể tính toán ra được rõ ràng. Thế nhưng những người này lại không cùng học phái.
Tỷ như Đường Lệ, từ nhỏ đã ảnh hưởng sâu sắc học phái tung hoành tam
gia, thụ binh, nho, tổ phụ Đường Tùy vốn cũng là Tung hoành gia trứ danh thời kỳ đầu Tần Vương Chính.
Mà Tào Tham xuất thân từ tầng lớp thảo căn, đông nghe một câu, tây nhìn một cái, cũng không chính xác là học phái gì, nhưng sinh ra tại huyện Bái, chịu ảnh hưởng của người Sở, Tào Tham và tiêu Hà đều nghiêng về học thuyết Lão Hoàng. Lão Hoàng cầu vô vi mà trị, trong bài thơ của Lưu Khám, cũng là bộc lộ một phần
phong khí tiêu dao. Cũng bởi vậy mà Tào Tham đương nhiên có thiên hướng nghiêng về Lưu Khám một chút.
Hai người này giao phong nói
có sách sách, mách có chứng, chi, hồ, giả, dã…làm Lưu Khám và Nhâm
Ngao đứng bên cạnh nghe cũng không được mà đi cũng không xong.
Cả hai nhìn nhau, không khỏi than thở. Lưu Khám cũng có chút hối hận rồi.
Đang yên lành, ngâm thơ cái gì chứ? Thấy ngu chưa? Mù chữ chưa? Nghe hai người này nói cũng đủ để xấu hổ, khó chịu rồi.
– Ta nói hai vị này, rượu lạnh rồi đấy.
Nhâm Ngao cẩn trọng đứng bên cạnh khuyên can, vậy mà làm hai người Đường Lệ, Tào Tham giận tím mặt, tức giận nói:
– Im miệng cho ta!
Làm Nhâm Ngao sợ tới mức co rụt lại, không dám lên tiếng nữa.
Lưu Khám vỗ vỗ vai Nhâm Ngao, cười khổ nói:
– Lão Nhâm, biết đọc sách, biết chữ là khổ thế nào chưa….Mà hai vị
hiền sĩ kia ơi, ta và lão Nhâm chỉ là người thô lỗ mà thôi, các ngươi
nói gì, chúng ta nghe không hiểu được đâu, có thể đổi đề tài câu chuyện được không? Tỷ như nói…
Câu “tỷ như nói” vừa thốt ra khỏi miệng, lại nghe cửa phòng bùm một cái, như là có người đạp mở.
Một dòng nước lạnh cuồn cuộn tràn vào phòng, Lưu Khám không khỏi rụt
cổ, cả người lạnh run lên, ngẩng đầu nhìn, là hai người Thẩm Thực Kỳ và Tào Vô Thương.
Hai vị đại ân nhân ơi, mấy hôm nay không gặp rồi đấy.
Cùng lúc, Lưu Khám dời đến nhà mới, cần kiến tạo phòng xá, Thẩm Thực
Kỳ còn phải tới để xem xét, đồng thời, việc lớn giữa y và Lưu Khám cũng bắt đầu vận hành rồi, trên cơ bản không có thời gian tới thăm. Mà Tào
Vô Thương thì sao? Cũng bề bộn nhiều việc…
Lưu Khám dùng
tám ngàn đồng tiền lớn đổi lấy mười khoảnh ruộng hoang. Dựa theo “điền
luật pháp Tần”, bách tính không được buôn bán tư điền. Huyện Bái không
thiếu đất đai màu mỡ, một khoảnh ruộng tốt đại khái tại ba nghìn đến
tám ngàn Tần tệ. Theo như cách của Tào Vô Thương, tiêu tốn hơn vạn Tệ
Tần, mua được hai ba khoảnh thổ địa, nhưng ai biết, Lưu Khám chết sống
không đồng ý, cứ đòi mua đất hoang.
Mà Khám phu nhân, những
việc lớn thì thường không nhượng bộ, thế nhưng đối với việc nhỏ, cũng
bắt đầu nghe theo ý kiến của Lưu Khám rồi. Đúng vậy, con trai không hề
ngốc, nếu không sao trong tay lại có nhiều tiền như vậy? Đất hoang thì
đất hoang, nói không chừng lần này con trai giả vờ ngốc, lại có thể làm ra gì đó? Cái này gọi là người ngốc có phúc người ngốc.
Nhâm Hiêu cũng không hiểu suy nghĩ của Lưu Khám, mà thậm chí toàn bộ thị trấn Bái, tất cả mọi người cũng không ai hiểu.
Nhưng tiền là của Lưu Khám, nếu hắn muốn quyết tâm mua ruộng đất
hoang, thì ai quan tâm chứ? Dù gì, cũng có một đám người chỉ thích đứng bên xem trò vui.
Cha già của Tào Vô Thương đích thân làm thủ tục, đem mười khoảnh đất hoang bên cạnh ao bùn bán tháo cho Lưu Khám.
Vì vậy, Tào Vô Thương bắt đầu từ thu hoạch vụ thu đã đào móc bùn lầy
phủ lên trên bãi đất hoang, mười khoảnh đất hoang cũng đủ gã bận rộn mất một thời gian. Sau đó còn phải phụ giúp Khám phu nhân mua trâu, vì thế gã còn phải đi một chuyến đến Bành Thành, mua được hai con trâu khỏe
về. Cũng bởi vì nguyên nhân này, sau đó Tào Vô Thương lại cùng Lưu Khám bị phạt mà vẫn chưa được gặp hắn.
– A Khám, thành công rồi, chúng ta thành công rồi.
Thẩm Thực Kỳ vừa đi vào đã hưng phấn la to, xông tới ôm lấy Lưu Khám, có vẻ như muốn ôm chầm Lưu Khám.
Lưu Khám giơ hai tay ra cố gắng chặn cái ôm của Thẩm Thực Kỳ:
– Kỳ ca, cái gì thành công vậy? Mà ta cũng không phải là Long Dương đâu.
Long Dương, cũng chính là Long Dương Quân người nước Ngụy, cực kỳ xinh đẹp, cũng là nam sủng của Ngụy Vương, trong sử sách cũng từng ghi chép về mối tình đồng tính giữa hai người. Lưu Khám thấy hành động kia của Thẩm Thực Kỳ có chút tương tự Long Dương Quân thì trong lòng rét run.
Thẩm Thực Kỳ hẩy Lưu Khám ra:
– Lão tử đây thích phụ nữ!
Nói xong, y vẫy tay ra hiệu với Tào Vô Thương. Tào Vô Thương cũng là người thành thật, ra ngoài cầm một vò rượu đi vào.
– Đây là…?
– A Khám, phương pháp mà ngươi nói đó, quả nhiên là có hiệu
quả…Ngươi xem, thành công rồi! Ta làm theo phương pháp của ngươi, sản xuất thành công rồi!
Tào Vô Thương đặt bình rượu lên trên
sập, mở nắp ra, một mùi rượu thơm sực nức tỏa ra, tràn ngập trong
phòng. Đường Lệ và Tào Tham cũng không gây gổ nữa, mà hai mắt của Nhâm
Ngao thì sáng rực lên.
– Tứ Thủy Hoa Điêu, đây là Tứ Thủy Hoa Điêu mà ngươi nói đó sao?
– Ngươi thật sự thành công rồi?
Lưu Khám bật dậy, bước nhanh lên trước, kiểm tra tỉ lệ rượu trong hũ. Một lát sau, hắn nhẹ nhàng gật đầu, mặt nở nụ cười xán lạn.
Tứ Thủy Hoa Điêu, chính xác mà nói, chính là hình thức rượu Thiệu Hưng ban đầu của hậu thế.
Thật ra, rượu Thiệu Hưng cũng không phải là không tồn tại ở thời đại
này. Từ thời Xuân Thu, rượu vàng đã xuất hiện rồi. Rượu mà đám người
Đường Lệ uống trước đó cũng chính là một loại rượu vàng, chỉ là bởi
nguyên nhân về phương diện công nghệ sản xuất mà rượu vẩn đục, có vị
chua chua.
Kiếp trước Lưu Khám từng làm chuyên gia dinh
dưỡng, có nghiên cứu về rượu không ít. Rượu uống quá lượng thì có hại
cho thân thể, nhưng uống thích hợp vừa đủ, thì lại không có hại, ngược
lại còn hỗ trợ cho việc dưỡng sinh. Rượu vàng, là một loại rượu dưỡng
sinh, kiếp trước Lưu Khám từng đến thăm nhiều xưởng rượu, sau này tại
một nhà nông tại Thiệu Hưng hắn dùng một số tiền lớn mua được phương
thức sản xuất rượu mà gần như đã thất truyền.
Phương pháp
chín lần ủ, là một loại công nghệ cực kỳ truyền thống. Trên lịch sử,
chính là từ lúc xuất hiện phương pháp chín lần ủ, mới sản sinh ra rượu
đục ý nghĩa thật sự. Sau đó tất cả công nghệ, đều là từ phương pháp chín lần ủ mà cải tiến thêm, lưu truyền tới thời đại hiện đại, thì có không ít chi tiết trong đó đã bị thất truyền.
Căn cứ sách cổ ghi chép, phương pháp chín lần ủ xuất hiện vào những năm cuối Tây Hán, và hoàn thiện vào trung kỳ Đông Hán.
Nói cách khác, một vò Tứ Thủy Hoa Điêu trước mặt Lưu Khám là Tứ Thủy
Hoa Điêu đầu tiên trong lịch sử, xuất hiện sớm hơn so với lịch sử là bốn trăm năm.
Màu sắc của rượu vẫn hơi đục, là bởi vì lần đầu
sản xuất, hơn nữa thời gian lắng men chưa đủ, cho nên vẫn chưa hoàn mỹ. Nhưng so với rượu Áng Tề bán trên phố, rượu này lạnh thấu xương, hương thơm ngào ngạt, mấy người xung quanh đều hiếu kỳ, nhất loát nhìn Lưu
Khám.
Bình Tứ Thủy Hoa Điêu đầu tiên nha!
Lưu Khám không nhìn ánh mắt mọi người, mà cấp thiết hỏi Thẩm Thực Kỳ quá trình sản xuất.
Thẩm Thực Kỳ cười nói:
– Ta vốn phát hiện tại Thanh Trúc Lâm có một con suối, liền bắt đầu ở đó. Nhưng sau này ngay bên cạnh ao lầy cũng chính là phía sau nhà ở của ngươi, lại phát hiện có một con suối khác, còn ngọt thanh hơn con suối ở rừng Thanh Trúc, vì vậy ta dùng bốn vạn tiền, mua năm mươi khoảnh
đất hoang gần kề bên nhà ngươi. Hắc hắc, con suối kia cũng nằm trong
đó.
Năm mươi khoảnh đất hoang?
Lưu Khám mở to hai mắt:
– A Kỳ, ngươi điên rồi sao?
– Ta không điên, bằng không sao nhìn được huyền diệu trong đó chứ?
Hiện tại nước suối là của chúng ta, bí phương cũng là của chúng ta…Ha ha ha, a Khám, hiện tại chúng ta muốn không phát tài cũng khó rồi. Nói cho nhanh thì, nói cho nhanh thì…kế tiếp, ngươi có tính toán gì
không?
Lưu Khám quay lại nhìn một đám đang há hốc mồm mắt trợn trừng, đột nhiên cười nói:
– Tiếp theo, đương nhiên là muốn mời các vị lão huynh nếm thử Tứ Thủy Hoa Điêu của ta để đánh giá xem nào?