Sử Hồng Anh ngã người vào lòng Kim Trục Lưu, nàng chỉ cảm thấy êm ái lạ thường. Kim Trục Lưu thì thầm bên tai nàng:
“Hồng Anh, xin đa tạ bức thư của muội, lúc này huynh mới biết mình là tên ngu ngốc. Không cần đến kiếp sau, kiếp này chúng ta sẽ được bên nhau”. Hồng Anh thì thầm:
“Muội còn lo Thược Dược không gặp được huynh, té ra hai người đã gặp nhau hôm ấy”.
Kim Trục Lưu ngẩng đầu lên nhìn, chỉ thấy Diệp Mộ Hoa cùng một toán nghĩa
quân chạy về phía mình. Kim Trục Lưu rút thanh huyền thiết bảo kiếm lau
máu rồi tra vào bao, bước lên cười nói:
“Mộ Hoa, ngươi đến thật đúng lúc, ta muốn tặng một món lễ vật cho nghĩa quân”.
Diệp Mộ Hoa nhảy xuống ngựa, cúi người hành lễ nói:
“Té ra tên tặc tử Soái Mạnh Hùng đã bị sư thúc giết chết, chúc mừng sư thúc đã lập được công lớn. Đây có phải là Sử cô nương không?” Kim Trục Lưu
đáp:
“Chính thế!” Rồi giới thiệu Sử Hồng Anh cho Diệp Mộ Hoa rồi nói:
“Y tuy là sư điệt của huynh, nhưng bản lĩnh trận chiến còn cao hơn huynh nhiều, chính y đã chỉ huy trận này”. Diệp Mộ Hoa nói:
“Sư thúc đã quá khen, trận này toàn là do huynh đệ nghĩa quân dũng cảm
chiến đấu, nhưng công lao của Sử cô nương cũng không nhỏ. Tôi vẫn chưa
đáp tạ Sử cô nương”.
Rồi mọi người quay trở lại Tây Xương, bọn
Tần Nguyên Hạo, Phong Diệu Thường, Vũ Văn Hùng, Giang Hiểu Phù ra nghênh đón. Kim Trục Lưu không thấy vợ chồng Lý Đôn, đang định hỏi thì Tần
Nguyên Hạo đã nói:
“Vợ chồng Lý Đôn cùng Trần Quang Chiếu, Thạch
Hà Cô đã chia nhau xuất phát đi tìm Lệ Nam Tinh. Người của Lục Hợp bang
biết Lệ Nam Tinh đều đi theo họ tìm kiếm. Kim huynh, huynh hãy yên tâm,
chỉ cần Lệ đại ca còn sống, chúng tôi sẽ tìm ra y”. Kim Trục Lưu hỏi:
“Còn Công Tôn cô nương đâu?” Thạch Hà Cô đáp:
“Công Tôn cô nương đã ra khỏi thành từ sớm. Cô ta đi tìm Lệ Nam Tinh”.
Tần Nguyên Hạo vội nói:
“Tiệc mừng công đã bày xong, đang đợi các người trở về”. Kim Trục Lưu biết
nhiều người đi tìm Lệ Nam Tinh thì hơi yên tâm, vì thế bảo:
“Được, tôi đến gặp Trúc lão tiền bối trước đã”.
Trúc Thượng Phụ bước ra nghênh đón, Kim Trục Lưu hành lễ xong, Trúc Thượng Phụ cười ha hả:
“Tôi và Giang sư huynh của thiếu hiệp là thông gia với nhau, chúng ta có vai vế bằng nhau, thiếu hiệp đừng khách sáo”. Kim Trục Lưu nói:
“Không dám!” Trúc Thượng Phụ cười to:
“Người xưa nói anh hùng xuất thiếu hiệp, quả thật rất đúng. Kim thiếu hiệp,
không cần đến mười năm, có lẽ thành tựu của thiếu hiệp còn hơn cả Giang
đại hiệp?”.
Tiệc mừng công bày trong phủ tướng quân, ai nấy lần
lượt ngồi vào chỗ. Kim Trục Lưu, Sử Hồng Anh, Diệp Mộ Hoa ngồi cùng với
Trúc Thượng Phụ.
Trúc Thượng Phụ mất Tây Xương cho đến nay đã
được hai năm, nay mới quay lại chỗ cũ trong lòng rất vui mừng. Ông ta
uống xong vài chén hứng chí nói:
“Năm xưa ta đã bị Soái Mạnh Hùng ám toán ở đây. Nay chúng ta lại ngồi đây uống rượu mừng công, Soái Mạnh Hùng đã đầu lìa khỏi cổ, tuy không phải đích thân ta giết, coi như thù
cũng đã trả được! Nào, nào! Xin mời Kim thiếu hiệp ba chén, đa tạ thiếu
hiệp đã lấy đầu Soái Mạnh Hùng cho tôi!”.
Kim Trục Lưu đáp:
“Đây đều là công lao của mọi người, chúng ta hãy cùng uống ba chén!” Mọi người uống cạn ba chén, Trúc Thượng Phụ lại nói:
“Năm xưa vì tôi sơ suất cho nên mất Tây Xương, trong lòng rất hổ thẹn. Nay
may nhờ có mọi người giúp tôi đoạt lại, Trúc mỗ quyết không để mất lần
nữa! Nếu quân Thanh có đến, tôi thề chết giữ thành!” Nói xong ném ngay
chén rượu xuống đất. Đột nhiên có một người vọt khỏi chỗ, tiếp lấy chén
rượu, người ấy chính là Diệp Mộ Hoa.
Trúc Thượng Phụ ngạc nhiên:
“Diệp huynh, sao lại không cho Trúc mỗ phát thệ?”.
Diệp Mộ Hoa mỉm cười:
“Trúc lão tiền bối thề chết giữ thành, tráng chí thật đáng mừng. Nhưng theo vãn bối thấy chi bằng bỏ Tây Xương có lẽ tốt hơn”.
Nếu người khác nói ra lời này Trúc Thượng Phụ chắc chắn sẽ nổi giận bừng
bừng, nhưng Diệp Mộ Hoa là người chỉ huy thật sự trong chiến trường,
Trúc Thượng Phụ biết y tinh thông binh pháp, tính toán chu toàn, nghe y
nói như thế trong bụng tuy không hài lòng nhưng cũng hỏi:
“Diệp huynh, tôi thật không hiểu. Nếu phải bỏ Tây Xương thì hôm nay cần gì phải lấy lại. Trúc mỗ đang muốn mong nghe cao kiến!”.
Diệp Mộ Hoa đáp:
“Lời của vãn bối chẳng có gì cao minh cả, chỉ là nói theo binh pháp mà thôi. Nay chúng ta tuy đoạt được Tây Xương nhưng binh lực của quân Thanh
nhiều hơn chúng ta. Nếu bọn chúng tập trung binh lực đánh Tây Xương mà
chúng ta cứ cố thủ chắc sẽ thất bại nặng nề”.
Trúc Thượng Phụ không vui, hỏi:
“Diệp huynh tuy nói đúng nhưng nếu sợ địch lớn mạnh chúng ta đâu có phải là
anh hùng hảo hán gì, hơn nữa dù ta yếu địch mạnh, nhưng ta có quyết tâm
bọn chúng chưa chắc hơn được chúng ta”.
Diệp Mộ Hoa nói:
“Không phải là chúng ta sợ kẻ địch, song đánh trận cũng như buôn bán, phải xem thử có lời hay không có lời. Binh lực của địch lớn hơn chúng ta nhiều,
dù một người chúng ta giết được vài tên cũng chẳng có lợi. Theo ý của
vãn bối, muốn đánh thắng trận, tốt nhất phải chọn địa điểm, thời gian có lợi cho chúng ta, chắc thắng mới đánh, nếu không chắc đừng đánh. Đánh
đuổi Thát Đát, khôi phục Trung Hoa là việc lớn, cần phải suy nghĩ cho
toàn cuộc chứ không nên vì sự được mất của một thành hay một trì. Trong
tình hình địch mạnh ta yếu, điều quan trọng là phải tiêu diệt sức của
địch, dần dần biến thế yếu của chúng ta thành thế mạnh, đó mới chính là
thượng sách”.
Trúc Thượng Phụ vỡ lẽ ra, gật đầu:
“Được, Diệp huynh hãy nói tiếp”.
Diệp Mộ Hoa nói:
“Lần này chúng ta đột kích thành công là vì điều kiện mọi phương diện đều có lợi. Một là Soái Mạnh Hùng ỷ binh nhiều lương đủ, tưởng rằng chúng ta
không dám tấn công mạnh, vả lại đang có chuyện vui nên lơi lỏng phòng
bị.
Hai là chúng ta có nội ứng, Sử cô nương đả thương Soái Mạnh
Hùng, quan quân như rồng không đầu, cho nên chúng ta tấn công càng dễ
dàng hơn đã tính toán. Ba là Lý đại ca chiêu hàng được huynh đệ Lục Hợp
bang, coi như đã cắt một cánh tay của Soái Mạnh Hùng, do đó chúng ta mới dễ dàng hạ được phủ tướng quân. Trận này chúng ta không tổn thương
nhiều, nhưng đã phá được kẻ địch, coi như cuộc làm ăn này vốn ít mà lời
nhiều. Nhưng chúng ta cũng không thể đánh thêm một trận như thế này nữa.
Nếu chúng ta tử thủ Tây Xương, lúc đó kẻ địch sẽ chủ động, còn chúng ta bị động.
Đánh như thế sẽ không có lợi cho chúng ta. Cho nên theo ý tôi là chi bằng ra ngoài chọn lựa địa điểm có lợi. Bên ngoài rộng rãi, đa số bá tánh đều
giúp chúng ta, chúng ta ở giữa bá tánh như cá gặp nước! Vả lại chúng ta
có thể đánh được thì đánh, đánh không được thì chạy. Đánh như thế chẳng
phải sẽ có lợi lớn cho chúng ta hay sao?”.
Trúc Thượng Phụ nghe thế khâm phục đến sát đất, cười ha hả:
“Đúng là nghe một lời của người còn hơn mười năm đọc sách. Như thế chi bằng chúng ta trở về núi Đại Lương?” Diệp Mộ Hoa nói:
“Ý của vãn bối chính là như thế. Nhưng cũng không cần nôn nóng, quan binh
vừa mới bại trận, trong thời gian ngắn chưa thể tập trung binh lực,
chúng ta cứ đóng ở Tây Xương mười ngày nửa tháng để phủ dụ trăm họ. Nếu
có ai muốn theo chúng ta đến núi Đại Lương, họ cũng có thời gian chuẩn
bị”.
Trúc Thượng Phụ gật đầu:
“Đúng thế, đây quả là cách vẹn cả đôi đường”.
Kế hoạch đã định, mọi người đều vui vẻ chúc rượu lẫn nhau. Kim Trục Lưu và Sử Hồng Anh vẫn nhớ đến Lệ Nam Tinh cho nên không được vui lắm.
Mấy ngày sau, từng tốp người tìm Lệ Nam Tinh đều đã trở về nhưng không ai biết tung tích của chàng.
Đến ngày thứ sáu thì vợ chồng Lý Đôn cùng Trần Quang Chiếu, Thạch Hà Cô
cũng quay về. Họ cũng chẳng tìm được Lý Nam Tinh, nhưng còn có một người không quay về, đó chính là Công Tôn Yến.
Cho đến nay cũng không
ai biết nàng đi về đâu, tìm không ra Lệ Nam Tinh, Công Tôn Yến lại mất
tích, Kim Trục Lưu càng lo lắng gấp bội. Vì thế chàng và Sử Hồng Anh
quyết định đi tìm họ.
Lại nói ngày hôm ấy Công Tôn Yến ra khỏi
thành, trên đường chỉ lo tìm kiếm Lệ Nam Tinh, bất giác đã rời khỏi đội
ngũ nghĩa quân. Công Tôn Yến thầm tính:
“Lệ Nam Tinh đột nhiên
biến mất, nếu chàng chưa chết thì chắc chắn đã bị người ta bắt sống.
Người bắt sống chàng chắc chắn chẳng phải là kẻ tầm thường, nếu không
phải là võ quan dưới trướng Soái Mạnh Hùng cũng là hảo thủ giang hồ được Soái Mạnh Hùng mời tới. Những người này biết thân phận của Lệ Nam Tinh
cho nên bắt chàng để sau này lấy công chuộc tội”.
Công Tôn Yến một mình một ngựa chạy hai ngày hai đêm nhưng chẳng thấy tung tích của Lệ Nam Tinh.
Đến ngày thứ tư, Công Tôn Yến đang đi đường bỗng gặp một người quen, người đó chính là Cung Bỉnh Phan, nàng vui mừng hỏi:
“Cung thúc thúc, sao người lại đến đây?”.
Cung Bỉnh Phan cười đáp:
“Chính vì tiểu thư, đà chủ không yên tâm cho nên bảo tôi đi tìm tiểu thư. Nghe nói Tây Xương đã bị nghĩa quân tấn công, không biết là thật hay giả,
tôi đang muốn đi đến Tây Xương đây!”.
“Đương nhiên là thật. Kim Trục Lưu cũng ở đấy”.
“Tại sao tiểu thư không ở Tây Xương mà lại chạy ra đây một mình?”.
“Tôi tìm một người bằng hữu đã bị thương, tôi nghi ngờ y đã bị bắt. Cung
thúc thúc, người có phát hiện có một thiếu niên bị người ta áp giải hay
không?”.
Cung Bỉnh Phan lắc đầu:
“Không thấy. Nhưng không biết tiểu thư nói ai thế?”.
“Chính là Lệ Nam Tinh”.
“Ồ, té ra là y, võ công của Lệ Nam Tinh cũng rất cao, ai đã bắt y?”.
“Tôi chỉ biết y bị Sử Bạch Đô đả thương, chứ không biết ai bắt y”. Nói tới đây Công Tôn Yến rất thất vọng, nàng hỏi:
“Vậy trên đường thúc thúc có gặp ai khả nghi hay không?”.
Cung Bỉnh Phan nghĩ ngợi rồi cười:
“Người như thế nào mới là khả nghi, ta cũng không biết. Nhưng nghe tiểu thư
nói thì ta đã nhớ lại. Ta gặp một cặp thầy trò rất ít lộ mặt trên giang
hồ, có thể nói kẻ này cũng có chút khả nghi”.
Công Tôn Yến vội vàng hỏi:
“Cặp thầy trò đó là ai?”.
Cung Bỉnh Phan nói:
“Chính là Dương Hạo và Cung Bình Dã”.
“Vậy thúc thúc gặp họ khi nào, ở đâu, tại sao cảm thấy họ đáng ngờ?”.
Cung Bỉnh Phan đáp:
“Ở phía trước có một trấn nhỏ tên gọi Hắc Thạch Nham, tôi đã gặp bọn họ
trong một khách sạn nhỏ. Tôi và Dương Hạo không qua lại với nhau, nhưng
cũng gặp mặt vài lần. Khi tôi bước vào khách sạn y đang nói chuyện với
chưởng quỹ ở ngoài. Theo lý y phải chào hỏi tôi, nhưng không biết cớ gì y giả vờ không thấy tôi, mà vội vàng lẩn vào phòng. Tôi nghe Cung Bình Dã hỏi bên ngoài có ai bị Dương Hạo suỵt một tiếng rồi lại nói rất nhỏ.
Tôi không để ý, nghĩ bụng kẻ này chỉ kiêu ngạo, không thèm nhìn tôi, tôi cần gì phải để ý đến y cho nên cũng không theo dõi họ đang nói gì”.
Công Tôn Yến cả mừng:
“Chắc chắn là bọn chúng. Đáng tiếc, đáng tiếc, chắc là Lệ Nam Tinh bị bọn chúng điểm huyệt đạo giấu trong phòng”.
“Hình như Dương Hạo rất ít qua lại với quan phủ, sao lần này y lại xuất hiện ở phủ tướng quân?”.
“Thầy trò bọn chúng là thượng khách của Soái Mạnh Hùng, khi trận chiến nổ ra cả hai thầy trò biến mất”.
Cung Bỉnh Phan chợt hiểu ra:
“Chả trách nào Dương Hạo không dám gặp ta, có lẽ sợ ta tra hỏi”.
“Bây giờ chúng ta đuổi theo, chắc vẫn còn kịp”.
“Ta đang nóng lòng đến Tây Xương tìm tiểu thư, sáng hôm nay tôi là người
đầu tiên rời khỏi khách sạn, lúc đó thầy trò Dương Hạo vẫn chưa thức
dậy. Phía trước Hắc Thạch Nham có hai con đường, một đường đi về Lan
Châu, một đường đi về Hoàng Trung, nhưng không biết thầy trò của họ đã
đi về hướng nào”.
“Được, chúng ta chia nhau tìm!”.
“Khoan đã!”.
“Cung thúc thục có gì căn dặn?”.
“Dương Hạo đã luyện Tu la âm sát công, chúng ta không thể coi thường. Chúng ta chia nhau ra tìm, nếu tiểu thư phát hiện được y đừng vội động thủ. Ở
đây có một cây xà diệp tiễn, khi phát hiện tung tích của bọn chúng thì
tiểu thư hãy lập tức phóng tên làm ám hiệu, phía tôi cũng thế”.
Công Tôn Yến gật đầu:
“Được!” Rồi nàng cầm lấy cây xà diệp tiễn, cả hai chia tay nhau, một người đi
về hướng đông, một người đi về hướng tây. Thớt ngựa của Công Tôn Yến đã
hơi đuối sức. Nàng phóng ngựa chạy hơn một canh giờ ngựa dần dần chạy
chậm lại, phía trước lại là đường núi rất khó đi.
Công Tôn Yến lo lắng, thầm nhủ:
“Đáng tiếc quan quân đang ở phía sau, mình không cướp được ngựa, chỉ e nếu không đổi ngựa thì không lên đường được”.
Nghĩ chưa dứt chợt nghe tiếng tiêu vọng tới như ai như oán, như khóc như than.
Công Tôn Yến cả mừng, bất giác quên cả lời dặn của Cung Bỉnh Phan, lạc giọng kêu lên:
“Lệ đại ca, Lệ đại ca!” Cũng chẳng biết người thổi tiêu phía trước có phải
là Lệ Nam Tinh hay không, nhưng nàng kêu hai tiếng Lệ đại ca tiếng tiêu
ngừng bặt.
Công Tôn Yến giật mình, thầm nhủ:
“Không xong,
mình kêu như thế chắc Dương Hạo biết mình đuổi tới chỉ e bất lợi đối với Lệ đại ca!” Nhưng dù sao cũng đã sai, nàng chỉ đành lập tức bắn cây xà
diệp tiễn lên rồi thúc ngựa đuổi theo.
Vòng qua chân núi, quả nhiên thấy có ba người ngồi trên tảng đá, ba người này chính là Dương Hạo, Cung Bình Dã và Lệ Nam Tinh.
Dương Hạo vốn đã điểm huyệt đạo của chàng, những nơi này cách Tây Xương đã
xa, đường núi lại gập ghềnh khó đi, thầy trò Dương Hạo không muốn cõng
Lệ Nam Tinh nên Dương Hạo đã giải huyệt đạo của chàng để chàng tự đi. Y
đoán rằng Lệ Nam Tinh đã bị thương, có giải huyệt đạo chàng cũng chẳng
làm gì được. Dương Hạo bắt Lệ Nam Tinh không phải dâng cho triều đình mà là muốn lợi dụng chàng lập lại Thiên ma giáo.
Lệ Nam Tinh muốn
sống không được muốn chết không xong, trong lòng đầy u uất, nên thổi
tiêu giải cơn sầu, không ngờ Công Tôn Yến đã tìm tới nơi, Lệ Nam Tinh
nhìn thấy nàng vội vàng kêu lên:
“Yến muội, muội hãy quay về!”.
Dương Hạo quát:
“Câm họng!” Cung Bình Dã rút soạt thanh trủy thủ kề vào cổ Lệ Nam Tinh, quát:
“Sư phụ bảo ngươi im miệng quạ lại, ngươi có nghe không?”.
Thật ra Lệ Nam Tinh đã không còn sức chống cự, Cung Bình Dã cũng không cần
làm như thế mà chỉ cần điểm á huyệt của chàng. Y làm thế là chỉ để dọa
Công Tôn Yến.
Công Tôn Yến vừa lo vừa giận, kêu lên:
“Ngươi dám động một cọng lông của chàng, ta bảo cha sẽ giết toàn bộ các ngươi!”.
Dương Hạo cười ha hả:
“Cha ngươi thì thế nào, ngươi đừng lấy tên cha của ngươi ra dọa bọn ta!”
Công Tôn Yến nghe thế hơi sợ hãi, miệng tuy còn cứng nhưng khí đã nhụt,
nàng hỏi:
“Chúng ta có thể thương lượng không?”.
Dương Hạo nói:
“Nói thực cho ngươi biết, bọn ta chẳng có ác ý với Lệ công tử.
Không những thế bọn ta còn muốn đưa y lên làm giáo chủ của Thiên ma giáo!
Nhưng y lại không chịu cho nên bọn ta chỉ đành đối xử như thế này. Công
Tôn cô nương, nếu cô nương giúp bọn ta khuyên y làm giáo chủ, còn cô
nương thì làm giáo chủ phu nhân, họ chẳng tốt hay sao?”.
Lệ Nam Tinh kêu lên:
“Yến muội, đừng nghe lời bọn chúng, hãy nghe lời huynh, mau trở về?”.
Cung Bình Dã tát hai cái vào mặt Lệ Nam Tinh, quát:
“Câm miệng, ta nói là làm!” Thế rồi y vạch một đường trên cổ của Lệ Nam Tinh một vệt máu chảy ra nhưng Lệ Nam Tinh vẫn mỉm cười khinh miệt.
Dương Hạo quát:
“Bình Dã, dừng tay lại?” Công Tôn Yến tức giận đến nỗi toàn thân phát run, nàng kêu lên:
“Ngươi … các ngươi dám bức hiếp chàng!” Dương Hạo nói:
“Tên học trò của ta rất thô lỗ, ngươi đừng giận. Công Tôn cô nương, thế này
nhé, ta cho cô nương đi theo bọn ta, cô nương không khuyên y cũng được,
nhưng có thể chăm sóc cho y”. Công Tôn Yến hơi chần chừ rồi đột nhiên
nói:
“Được?” Rồi nàng vung roi, quả nhiên thúc ngựa chạy lên. Té
ra Công Tôn Yến vẫn chưa biết sự lợi hại của Dương Hạo, nàng muốn bất
ngờ bắt sống Dương Hạo buộc y trả Lệ Nam Tinh.
Nào ngờ Dương Hạo
cũng tính bắt nàng để uy hiếp Công Tôn Hoằng. Lệ Nam Tinh đột nhiên tung người từ trên sườn núi nhảy xuống, người đang ở trên không miệng đã la
lên:
“Yến muội hãy trở về!” Lệ Nam Tinh nghĩ rằng nếu mình chết thì Công Tôn Yến dù đau lòng cũng phải quay về.
Lệ Nam Tinh đang bị thương, không muốn chịu nhục, vả lại chàng biết Công
Tôn Yến không bằng thầy trò Dương Hạo cho nên quyết ý chết cho xong.
Cung Bình Dã không ngờ chàng lại làm thế, đến khi nghe chàng kêu lên,
muốn vươn tay ra chụp lại cũng đã không kịp nữa.
Trong khoảnh khắc này, cả Công Tôn Yến và Dương Hạo đều sững người ra!
Khi Công Tôn Yến sững người, nàng cảm thấy trước mắt như trời xoay đất
chuyển, đầu óc trống rỗng, tựa như cả bản thân mình cũng biến mất. Nàng
kêu lên:
“Lệ đại ca!” Rồi cứ xông lên phía trước theo bản năng!
Khi Dương Hạo ngẩn người ra lại động sát cơ, y cần phải giết chết Công Tôn
Yến diệt khẩu để sau này Công Tôn Yến không để lộ ra chuyện y bức tử Lệ
Nam Tinh.
Hai người đều đang xông về phía đối phương, Dương Hạo dồn lực vào chưởng tâm, phát ra một đòn Tu la âm sát công!
Công Tôn Yến ngồi trên ngựa bị chấn động bởi đòn Phách không chưởng, người
bị đánh bay lên. Cũng nhờ thế mà nàng không bị trúng chưởng nhưng con
ngựa của nàng đã gục xuống.
Một luồng khí cực kỳ lạnh lẽo dồn tới khiến cho Công Tôn Yến hơi tỉnh táo hơn, nàng lộn người trên không
trung rồi đánh ra một chiêu ưng kích trường không, người đảo xuống đâm
kiếm về phía Dương Hạo.
Dùng Tu la âm sát công rất hao phí chân
lực, Dương Hạo không kịp ngưng tụ chân lực để phát tiếp ra một đòn nữa, y chỉ thấy ánh hàn quang lóe lên, mũi kiếm đã đâm tới đỉnh đầu y.
Dương Hạo kinh hoảng, vội vàng phất ống tay áo lên, búng ngón tay ra. Chỉ
nghe một tiếng keng nhẹ vang lên, ống tay áo của Dương Hạo đã bị chém
một mảnh, đầu ngón tay cũng bị mũi kiếm vạch rách nhưng y vẫn có thể né
được kiếm ấy của nàng.
Dương Hạo xoay người tung ra toàn chiêu
sát thủ, Công Tôn Yến tuy né tránh được nhưng hổ khẩu đã bị móng tay của y quét trúng đau nhói lên. Dương Hạo cười hềnh hệch:
“Ngươi đã
chẳng trả thù được nữa, chi bằng cứ để ta giúp cho bọn ngươi, để ngươi
và Lệ Nam Tinh làm một cặp uyên ương đồng mệnh!”.
Công Tôn Yến chợt nghĩ bụng:
“Đúng thế, mình phải xem Lệ đại ca thế nào”.
Rồi nàng quát:
“Tránh ra”. Sau đó đánh liên tiếp ba chiêu liên hoàn, mỗi chiêu đều như muốn
liều mình với đối phương, Dương Hạo cũng hơi thất kinh, vội vàng tránh
sang một bên.
Công Tôn Yến đâm soạt sang một bên, Cung Bình Dã cả kinh, chỉ tưởng nàng chạy tới lấy mạng mình, trong lúc gấp gáp không
kịp vận khí hành công, đành liều chống đỡ. Nhưng chợt thấy ánh kiếm lóe
lên, mũi kiếm của Công Tôn Yến đã đâm soạt vào mặt y. Cung Bình Dã dùng
chưởng phải đẩy lên cổ tay nàng, chưởng trái móc lại, đó chính là thủ
pháp tay không đoạt binh khí, nào ngờ đường kiếm của Công Tôn Yến rất
nhanh, Cung Bình Dã chưa kịp đắc thủ vai đã trúng một kiếm. Công Tôn Yến phất chưởng trái, quát lên một tiếng:
“Tránh ra!” Lập tức trên
mặt Cung Bình Dã xuất hiện năm dấu ngón tay, còn người thì té ngửa xuống đất. Cung Bình Dã lạnh mình thầm kêu:
“Mạng ta đã xong?” Không
ngờ Công Tôn Yến không thèm để ý đến y, sau khi y ngã xuống đất nàng
tung người vọt qua người y chạy lên phía trên.
Công Tôn Yến cúi
người xuống nhìn, chỉ thấy bên dưới mây mù chặn lối, thoang thoảng hương hoa chứ không thấy Lệ Nam Tinh đâu. Tuy không nhìn thấy gì nhưng trong
đầu Công Tôn Yến lại hiện ra một bức tranh, tựa như bên dưới là chốn đào nguyên ngoài đời, Lệ Nam Tinh đang mỉm cười, giơ tay ôm lấy nàng.
Công Tôn Yến kêu lên:
“Lệ đại ca, chờ muội!” Ngay lúc này chỉ nghe Cung Bỉnh Phan kêu lớn:
“Tiểu thư! Đừng!” Nhưng đã muộn, Công Tôn Yến đã nhảy xuống vực.
Cung Bỉnh Phan vừa thấy cây xà diệp tiễn bắn lên thì lập tức phóng ngựa đuổi tới, không ngờ đã muộn một bước, y tận mắt chứng kiến Công Tôn Yến nhảy xuống vực tự sát, không thể cứu được nàng, bất đồ trong lòng cả giận, y phóng vút ra khỏi lưng ngựa, nửa chừng rút kiếm ra khỏi vỏ đâm như điện xẹt về phía Dương Hạo.
Dương Hạo kêu lên:
“Cung hương chủ, ông đã tận mắt chứng kiến Công Tôn cô nương đã tự nhảy xuống vực, không liên quan gì đến tôi!”.
Cung Bỉnh Phan quát rằng:
“Khốn kiếp, không phải tại ngươi, tiểu thư sao lại tìm đến cái chết?” Nói
chưa xong thì đã đánh ra ba mươi sáu kiếm! Trước lượt tấn công nhanh như gió của Cung Bỉnh Phan, Dương Hạo không thể nào vận công đành thấy
chiêu phá chiêu, thấy thức phá thức, tạm thời giữ được tính mạng.
Dương Hạo không thi triển được tuyệt kỹ Tu la âm sát công, cảm thấy lòng run
sợ, da đầu cứ mát rười rượi, tựa như mũi kiếm của đối phương cứ vạch qua vạch lại trước mặt y, có thể lấy mạng y bất cứ lúc nào. Dương Hạo sợ
đến nỗi hồn bay phách tán, vội vàng hô lên:
“Bình Dã, mau dùng Tu la âm sát công!”.
Cung Bình Dã cũng đã hoảng hồn, nhưng y biết nếu sư phụ chết dưới kiếm Cung
Bỉnh Phan, y cũng chẳng thoát. Miễn cưỡng thâu nhiếp tinh thần, ngưng tụ nội lực đứng sang một bên chờ đợi cơ hội đánh lén.
Cung Bỉnh Phan càng đánh càng nhanh, y chợt quát một tiếng:
“Trúng!” Rồi trở tay đâm lại một kiếm, Dương Hạo hụp người xuống, chỉ cảm thấy
da đầu mát rượi, một mảng tóc đã bị lưỡi kiếm chém rơi!
Cung Bỉnh Phan không giết được Dương Hạo, thầm kêu trong bụng:
“Đáng tiếc!” Đang định thi triển sát thủ chợt thấy một luồng gió lạnh thổi
tới, té ra Cung Bình Dã nấp sau một gốc cây đã lén đánh ra một đòn Tu la âm sát công.
Cung Bình Dã chỉ mới luyện được đến tầng thứ năm,
chưa đủ giết Cung Bỉnh Phan. Nhưng Cung Bỉnh Phan cũng không khỏi hơi
run run, kiếm chiêu chậm lại thành ra Dương Hạo mới qua cơn nguy cấp.
Cung Bỉnh Phan vận khí chuyển ba vòng đẩy hết khí hàn độc trong người, vừa
định triển khai thế công Cung Bình Dã đã kịp ngưng tụ được chân khí, lại phát ra một đòn Tu la âm sát công.
Cung Bỉnh Phan nổi cơn giận, quát lên:
“Hảo tiểu tử, ta đánh chết ngươi trước!”.
Nói đến chữ “chết” lập tức xoay người chuyển bước, nhảy bổ tới nơi Cung
Bình Dã nấp. Cung Bình Dã hoảng sợ đến nỗi hồn bay phách tán, muốn chạy
cũng không kịp nữa. Chỉ nghe một tiếng kêu thảm vang lên, khi kiếm quang cuộn tới y đã bị chặt thành hai đoạn.
Cung Bỉnh Phan tuy dễ dàng giết chết Cung Bình Đã nhưng đã tạo cơ hội cho Dương Hạo sử dụng Tu la âm sát công.
Cung Bỉnh Phan vừa xoay người chợt cảm thấy gió lạnh quét vào mặt, một luồng chưởng lực như dời núi lấp biển dồn tới.
Cung Bỉnh Phan quát lớn:
“Ta liều với ngươi!” Trong chưởng phong kiếm ảnh Dương Hạo kêu lớn một
tiếng, nhảy vọt ra sau mấy trượng, trên người đã trúng ba nhát kiếm!”.
Cung Bỉnh Phan đang định vận kiếm đâm tiếp, cổ tay chợt tê rần hầu như không nắm nổi kiếm nữa. Té ra ông ta đã bị trúng một đòn Tu la âm sát công,
máu trong người như ngưng tụ, các khớp cũng cứng đờ.
Dương Hạo dựa vào tảng đá thở hổn hển:
“Ngươi đến đây?” Y không biết Cung Bỉnh Phan bị thương như thế nào, không dám
mạo hiểm tấn công, nhưng cũng nghĩ rằng Cung Bỉnh Phan bị thương không
nhẹ, điểm mấu chốt lúc này là ai có thể cầm cự được lâu hơn cho nên y
quyết định lấy khỏe đợi mệt.
May mà Dương Hạo không dám mạo hiểm tấn công, Cung Bỉnh Phan phát giác không xong, lòng thầm nhủ:
“Xem ra hôm nay không thể trả thù, mình phải giữ lại mạng để về bẩm cáo với
đà chủ”. Rồi ông ta ngã lăn xuống dốc núi, con chiến mã thấy chủ nhân
lăn xuống lập tức chạy lên đón lấy. Cung Bỉnh Phan cố gắng vận khí ngồi
dậy nhảy lên lưng ngựa.
Dương Hạo lúc này mới biết Cung Bỉnh Phan bị thương nặng hơn mình, thầm hối hận lúc nãy đã nhát gan nên để ông ta chạy trốn. Nhưng y lập tức nghĩ:
“Y đã trúng Tu la âm sát công của mình, không thuốc nào chữa được, rốt cuộc cũng phát độc mà chết”.
Dương Hạo đã bị thương cũng không nhẹ, may mà không phải nội thương, sau khi
bôi thuốc kim sang vẫn có thể đi lại được. Y sợ nghĩa quân tìm tới cho
nên chỉ chạy cho xa chứ không dám quay đầu lại đuổi theo Cung Bỉnh Phan.
Quả đúng như Dương Hạo dự liệu, Cung Bỉnh Phan chạy được một đoạn cảm thấy
toàn thân lạnh buốt, càng lúc càng khó chịu, cuối cùng không cầm cự được rơi xuống lưng ngựa ngất đi.
Lại nói Sử Hồng Anh và Kim Trục Lưu cùng đi tìm Lệ Nam Tinh, hôm nay cũng đang đi trên con đường này, chợt
thấy có một nông phu đi về phía họ, nhìn họ rồi hỏi:
“Các người có phải từ Tây Xương đến hay không?” Kim Trục Lưu đáp:
“Đúng thế”.
Nông phu này nói:
“Nghĩa quân có còn ở Tây Xương không?” Kim Trục Lưu đáp:
“Ông tìm nghĩa quân làm gì?” Nông phu ấy nói:
“Không phải tôi tìm nghĩa quân mà Trương đại bá trong thôn của tôi nhờ tôi nhắn cho một người trong nghĩa quân”.
Kim Trục Lưu hỏi:
“Chúng tôi chính là nghĩa quân, không biết Trương đại bá tìm ai?” Nông phu ấy vui mừng:
“Té ra tôi đã đoán trúng. Trương đại bá nhờ tôi nhắn cho một người tên Kim
Trục Lưu, không biết huynh đài có quen không?” Kim Trục Lưu ngạc nhiên:
“Kim Trục Lưu chính là bằng hữu của tôi, ông có chuyện gì thì cứ nói với tôi rồi tôi sẽ chuyển lời lại.” Trong bụng chàng thầm nhủ:
“Không biết Trương đại bá nào lại quen mình?”.
Nông phu nói:
“Thật tốt còn gì bằng. Hôm qua Trương đại bá cứu một người, người này đã bị
trọng thương không thể cử động. Y bảo có quen một người tên Kim Trục Lưu trong nghĩa quân, nhờ Trương đại bá chuyển lời cho Kim Trục Lưu, bảo
Kim Trục Lưu đến gặp y. Trương đại bá có cháu nhỏ không đi được nên đã
nhờ tôi”.
Kim Trục Lưu vừa lo vừa mừng, chỉ nghĩ rằng người ấy chính là Lệ Nam Tinh, vội nói:
“Tôi sẽ đến ngay”.
Thế rồi nông phu ấy dắt hai người Kim, Sử đến nhà Trương đại bá. Kim Trục
Lưu bước vào nhìn chỉ thấy trên giường có một người đang nằm, nhưng đó
lại là Cung Bỉnh Phan. Kim Trục Lưu cả kinh:
“Cung huynh, sao thế?” Nông phu họ Trương buồn bã nói:
“E rằng người bằng hữu này đã sắp không xong, sáng hôm nay vừa mới hôn mê, bây giờ chân tay lại cứng đờ!”.
Kim Trục Lưu thử bắt mạch, thấy toàn thân y phát lạnh, nhưng mạch tức vẫn chưa dứt. Sử Hồng Anh hỏi nhỏ:
“Còn cứu được không?” Kim Trục Lưu đáp:
“Y đã bị trúng Tu la âm sát công, hàn độc đã xâm nhập vào phủ tạng, chỉ e không thể hồi phục lại võ công”.
Sử Hồng Anh vui mừng:
“Nói thế có thể giữ được mạng của ông ta, huynh hãy mau cứu ông ta?”.
Kim Trục Lưu thầm vận huyền công, đồn chân lực của bản thân thôi cung quá huyệt cho Cung Bỉnh Phan.
Nửa canh giờ sau, đỉnh đầu Kim Trục Lưu bốc khói trắng nghi ngút, mồ hôi đổ ròng ròng. Sắc mặt Cung Bỉnh Phan dần dần hồng trở lại cuối cùng từ từ
mở mắt. Ông già nông phu họ Trương mừng rỡ kêu lên:
“Sống rồi! sống rồi!”.
Cung Bỉnh Phan nhận ra Kim Trục Lưu, miệng nở nụ cười, khóe môi mấp máy, Kim Trục Lưu kề tai vào miệng ông ta, nghe ông ta nói:
“Thiếu hiệp đã đến, tôi có chuyện cần nhờ …”. Kim Trục Lưu nói:
“Cung huynh, huynh hãy nghỉ ngơi trước rồi nói”. Nụ cười trên mặt Cung Bỉnh Phan biến mất, giọng ông ta buồn bã:
“Tôi không khỏe được nữa, trừ phi thiếu hiệp có thuốc cải tử hoàn sinh. Làm
thế chỉ hao tổn công lực mà thôi. Thiếu hiệp hãy nghe tôi nói …”. Kim
Trục Lưa cười:
“Tôi đang có thuốc cải tử hồi sinh, ông đừng lo, hãy cứ nghỉ ngơi trước”.
Sử Hồng Anh kéo Kim Trục Lưu sang một bên, thì thầm hỏi:
“Huynh lấy thuốc ở đâu ra?” Khí hàn độc của Tu la âm sát công đã xâm nhập vào
ngũ tạng, dù Kim Trục Lưu có nội công giỏi đến mức nào cũng không thể
đẩy hết ra cho nên Sử Hồng Anh nửa tin nửa ngờ, tưởng rằng Kim Trục Lưu
nói như thế là để an ủi người bệnh.
Kim Trục Lưu cười:
“Không sai tí nào. Linh dược này là vật của nhà muội. Muội quên rồi ư?” Sử Hồng Anh ngạc nhiên:
“Vật gì?” Kim Trục Lưu cười:
“Muội đã quên món lễ vật đại ca của muội tặng cho Tát Phúc Đỉnh ư?” Lúc này Sử Hồng Anh mới vỡ lẽ:
“Ồ té ra là cây thiên niên hà thủ ô!”.
Kim Trục Lưu gật đầu:
“Huynh vốn định để cây hà thủ ô này cho muội, huynh vẫn đang mang theo bên
mình. May mà muội không bị thương cho nên chúng ta có thể dùng nó cứu
mạng Cung đại ca”.
Kim Trục Lưu lấy cây hà thủ ô chặt ra rồi
chưng thành trà cho Cung Bỉnh Phan uống. Một cây hà thủ ô có thể uống ba lần. Kim Trục Lưu bảo:
“Nếu không có gì thay đổi, ba ngày sau ông ta sẽ khỏe!”.
Cung Bỉnh Phan uống xong chén thuốc, sáng ngày thứ hai tinh thần có phần sảng khoái, nói chuyện cũng không còn mệt nhọc nữa.