Thời gian chậm rãi trôi đi, tuy Mục Quý nhân thỉnh thoảng không kìm được mà tới Cảnh Xuân điện náo loạn, thế nhưng rốt cuộc cũng không gây ra cơn phong ba nào lớn nữa, chẳng qua chỉ khiến mấy cuộc chuyện trò trong lúc rỗi rãi của mọi người trong cung có thêm đề tài. Tôi vừa nắm quyền hiệp trợ quản lý lục cung nên việc gì cũng phải cẩn thận, thêm vào đó năm mới sắp tới, việc trong tay có rất nhiều, lần nào cũng phải thương nghị với Đoan Phi và Kính Phi, đã thế còn phải chăm sóc cho hai đứa bé mới sinh, thực sự là bận rộn vô cùng. Hiện giờ người bầu bạn với Huyền Lăng nhiều nhất là Hồ Chiêu nghi, My Trang và Diễm Quý nhân, kế tới là Chu Dung hoa và Dư Dung nương tử, tiếp nữa thì là mấy người Trinh Quý tần. Hoàng hậu cười nói rằng mình rốt cuộc cũng có thể nhàn nhã mấy buổi, thường ngày chỉ kêu Triệu Dung hoa đi bầu bạn với thánh giá, do đó Triệu Dung hoa tuy thất sủng đã lâu nhưng vì thường xuyên gặp mặt, lại thêm là người cũ trong cung, hiểu được tính tình Huyền Lăng, hầu hạ hết sức chu đáo, thế là dần đắc sủng trở lại. Ngày Hai mươi lăm tháng Chạp, Hoàng hậu đề nghị phong Triệu thị làm Tiệp dư, tôi cũng thuận nước dong thuyền xin phong Dung hoa Chu Bội làm Tiệp dư, Đức nghi Lưu Lệnh Nhàn thì vì lúc trước đã ở bên giúp đỡ Trinh Quý tần sinh nở nên cũng được thăng làm Dung hoa chính tứ phẩm. Kể từ đó Chu Bội lại càng chăm tới Nhu Nghi điện hơn, mà vì nàng ta vốn thông minh, lanh lợi nên lại càng được Huyền Lăng sủng ái hơn trước.
Ngày Ba mươi Tết, bữa tiệc mừng năm mới được tổ chức tại Trọng Hoa điện, hoàng cung náo nhiệt vô cùng, vì vừa có hai vị hoàng tử chào đời nên khắp nơi đều được trang hoàng rạng rỡ, hết sức xa hoa. Lúc ban ngày các đoàn kịch không ngừng diễn những trò tạp kỹ như tung hứng, nuốt dao, phun lửa, điều khiển sư tử hổ báo, phi đao, khiến các phi tần cung nữ vốn quanh năm phải sống trong chốn thâm cung vui vẻ cười vang không ngớt. Khi hoàng hôn đến, những khúc nhạc sôi nổi lần lượt được tấu lên, các vũ cơ tưng bừng nhảy múa theo điệu nhạc, bầu không khí ngợp trong sự mừng vui.
Trận tuyết lớn rơi suốt ba ngày ba đêm đã dừng, nhưng ngoài cửa sổ, thế giới vẫn ngợp trong một màu trắng bát ngát mênh mang. Những lùm cây ngoài điện đều bị tuyết phủ dày, trên cành cây có rất nhiều nhũ băng chĩa mũi nhọn xuống đất, ánh đèn lồng từ khắp nơi chiếu đến khiến chúng lại càng thêm rực rỡ, long lanh, tạo nên một thế giới vô cùng hư ảo.
Trong một đêm tưng bừng như vậy, chắc bất cứ ai cũng chẳng thể buồn thương.
Rượu được vài tuần, tôi đã thoáng có chút men say, khuôn mặt hơi ửng đỏ, người ngả về phía trước, vừa khẽ nhấp rượu nho trong chén vừa như vô tình như hữu ý dừng ánh mắt lại trên người Huyền Lăng lúc này đang nói chuyện với Triệu Tiệp dư. Giữa ánh đèn rực rỡ, muôn vàn tia sáng dường như đều tập trung trên bộ quần áo hoa lệ của Hoàng hậu, thế nhưng vẻ trống vắng của một nữ tử đã ở vào độ tuổi xế chiều và không còn được sủng ái vẫn không thể nào giấu nổi, khiến người ta bất giác phải thầm cảm thán sự vô tình của thời gian.
Trong điện trải đầy thảm gấm đỏ tươi, bên trên dọc ngang bàn ghế. Huyền Lăng giờ đang ngồi uống rượu trò chuyện với Kỳ Sơn Vương, Kỳ Sơn Vương trước nay vốn chẳng có sở thích gì, chỉ ưa nuôi những cơ thiếp xinh đẹp trong nhà, người cùng tới hôm nay là một vị trắc phi cực kỳ trẻ trung, xinh đẹp. Huyền Thanh và Huyền Phần ngồi ở dãy ghế phía bên trái thì đang tươi cười trò chuyện với nhau, ngón tay y chậm rãi gõ xuống bàn theo điệu nhạc, khí độ ung dung, tao nhã. Sau lưng y là mấy cành mai đỏ khẳng khiu, vừa khéo làm tôn lên chiếc áo khoác lông xanh biếc.
Ngụm rượu chảy vào trong cổ họng truyền tới một mùi thơm nồng đậm, tôi ngồi bên cạnh Huyền Lăng, vô tình đón gặp ánh mắt quan tâm của y từ xa chiếu tới, bất giác thầm hổ thẹn, vội vàng cúi đầu xuống. Trong điện lúc này trưng đầy hoa mai đỏ, hương thơm lẫn trong hơi ấm truyền đi lại càng khiến lòng người mê say. Sau một khoảnh khắc ngẩn ngơ, tôi bất chợt nhớ tới những bông mai xanh nơi Tiêu Nhàn quán, năm nay chẳng biết chúng có còn nở hoa nữa không? Một cảnh tượng đẹp như thế, cho dù chỉ được sở hữu trong khoảnh khắc thì con người ta cũng đủ thỏa mãn rồi.
Tôi ngoảnh đầu qua một bên, sợ rằng sự ấm áp ngày xưa sẽ tràn lên làm con tim tôi không còn tỉnh táo. Rượu được nửa hồi, nơi đuôi mắt mọi người lúc này đều đã mang theo mấy phần xuân ý, Hoàng hậu bám vào tay Tiễn Thu, chậm rãi đi tới trước cửa đại điện, chăm chú nhìn ra xa một chút rồi ngoảnh đầu lại, khẽ mỉm cười. “Hoàng thượng, tuyết lớn vừa ngừng rơi, phong cảnh bên ngoài bây giờ thực không tệ chút nào.”
Hồ Chiêu nghi rót rượu đưa tới bên môi Huyền Lăng, mắt sáng lung linh, cười tươi làm nũng: “Biểu ca, bên ngoài trời lạnh, muội sợ lắm!” Hồ Chiêu nghi vốn là hạng nữ tử không cần điểm tô gì cũng xinh đẹp sẵn, hôm nay lại cẩn thận trang điểm một phen, thực là diễm lệ tuyệt trần, so với Hoàng hậu thì hơn nhiều lắm.
Hoàng hậu cúi đầu nhấp một ngụm rượu, đem đổ nửa chén rượu còn lại xuống đất, khi ngoảnh đầu nhìn Huyền Lăng trong mắt đã rơm rớm ánh lệ, đoạn chậm rãi thở dài. “Tuyết đông vẫn hệt như xưa, chẳng biết hoa mai trong Ỷ Mai viên bây giờ liệu chăng có còn diễm lệ?”
Huyền Lăng vốn đã định đồng ý với Hồ Chiêu nghi, nhưng nghe thấy lời này chén rượu trong tay bất giác hơi run rẩy, nét cười bên khóe miệng cũng lập tức tan biến chẳng còn, thần sắc đượm một vẻ cô quạnh, buồn thương.”
Ngưỡng Thuận nghi thất sủng đã một thời gian, đang muốn tìm thời cơ nịnh nọt Huyền Lăng mà không được, lúc này liền đánh bạo bước lên phía trước, tươi cười nói: “Hoa mai trong Ỷ Mai viên dù đẹp đến đâu đi chăng nữa thì cũng chỉ có vậy thôi, bên ngoài trời lạnh, Hoàng thượng muốn ngắm thì cứ kêu người đi hái về là được rồi, dù sao long thể cũng là quan trọng nhất.” Nàng ta cầm một chén rượu đưa tới trước mặt Huyền Lăng, ân cần nói: “Mời Hoàng thượng uống cạn chén này cho ấm người.”
Huyền Lăng nghe nàng ta nói vậy, trong mắt ánh lên mấy tia lạnh lùng, chẳng buồn đưa mắt liếc nhìn nàng ta. “Sao nàng biết hoa mai trong Ỷ Mai viên không đẹp?”
Ngưỡng Thuận nghi chẳng hiểu ra sao, chỉ đành cười trừ, đáp: “Thần thiếp thấy những gốc mai bây giờ đến lá cũng chẳng có, nhìn cứ trơ trọi, còn chẳng đẹp được bằng hoa thủy tiên.”
Huyền Lăng đón lấy chén rượu trong tay nàng ta, vung tay một cái, nguyên một chén rượu nho đầy bị hất cả vào mặt Ngưỡng Thuận nghi, tức thì từ đầu tóc, mặt mũi đến quần áo của nàng ta đều dính đầy rượu nho màu tím, trông nhếch nhác, thảm hại vô cùng, khuôn mặt thì đã tái nhợt đi vì sợ hãi. Đột nhiên xảy ra biến cố này, mọi người trong điện không kìm được đưa mắt nhìn nhau, không ai dám nói gì. Tôi vô tình bắt gặp ánh mắt của Hồ Chiêu nghi, rồi cả hai đồng thời để lộ vẻ thấu hiểu.
Ngưỡng Thuận nghi còn chưa rõ nguyên cớ vì đâu, chỉ biết vội vã quỳ rạp xuống khấu đầu lia lịa. Giọng nói lạnh lùng tựa như băng giá của Huyền Lăng đột ngột vang lên giữa Trọng Hoa điện, bên trong không có một chút nhiệt độ nào: “Ngưỡng thị mắc tội đại bất kính, phế bỏ ngôi vị, cho đến Hoa phòng trồng hoa thủy tiên.”
Mục Quý nhân vốn giao hảo với Ngưỡng Thuận nghi, thấy nàng ta đột nhiên mắc tội như thế thì vội quỳ xuống cầu xin giúp: “Hoàng thượng bớt giận, thần thiếp nghĩ Ngưỡng Thuận nghi không cố ý đâu. Hôm nay là ngày mừng, mong Hoàng thượng tha thứ cho tỷ ấy một lần.”
Huyền Lăng hơi nhướng mày lên, lạnh lùng nói: “Trẫm đã phế bỏ ngôi vị của cô ta rồi, nàng còn gọi cô ta là Thuận nghi nữa sao?”
Mục Quý nhân cả kinh, sắc mặt tái đi mấy phần, gượng cười, nói: “Thần thiếp không dám. Ngưỡng tỷ tỷ tuy có lỗi, nhưng mong Hoàng thượng hãy nể tình tỷ ấy thường ngày hết lòng hầu hạ mà xử phạt nhẹ tay.”
Huyền Lăng lặng im trong khoảnh khắc, ánh mắt băng giá lướt qua khuôn mặt đang tái nhợt đi vì sợ hãi của Ngưỡng thị. “Được rồi, nếu ả tiện tỳ này có thể trồng ra hoa thủy tiên giữa mùa hè, trẫm sẽ miễn tội cho cô ta.”
Thủy tiên vốn là hoa của mùa đông, giữa hè làm sao mà trồng ra nổi. Ngưỡng thị nghe thấy lời này thì biết là không thể vãn hồi, lập tức bất tỉnh nhân sự, bị người ta kéo ra khỏi Trọng Hoa điện.
Tôi lặng lẽ nhìn Ngưỡng thị bị kéo ra ngoài, bất giác thầm thở dài buồn bã, nàng ta của ngày hôm nay cũng vô tri như tôi năm nào. Nghĩ tới đây tôi có chút không đành lòng, bèn lén dặn dò Cận Tịch: “Chiếu cố cô ta một chút, đừng để cô ta phải chịu khổ nhiều quá.”
Hoàng hậu làm như chẳng hề nhìn thấy những việc vừa xảy ra, vẫn tươi cười đoan trang, nền nã, thế nhưng từ trong giọng nói lại toát ra đầy vẻ thê lương: “Ngày đó Hoàng thượng và tỷ tỷ tự tay trồng xuống mấy gốc mai quý trong Ỷ Mai viên, bây giờ mùa đông lại tới, thần thiếp thực sự rất nhớ tỷ tỷ.”
Huyền Lăng lặng lẽ gật đầu, đứng dậy đi tới bên cạnh Hoàng hậu, dắt tay nàng ta, nói: “Đi thôi!” Y chợt dừng lại, đưa mắt nhìn qua phía Tiễn Thu bên cạnh Hoàng hậu. “Tay Hoàng hậu lạnh quá, ngươi đi lấy một chiếc áo choàng tới đây.” Tiễn Thu vội vàng chạy đi mang một chiếc áo choàng gấm thêu hoa tới khoác lên người cho Hoàng hậu. Huyền Lăng ân cần nói: “Trời đang lạnh thế này, nàng cũng phải chú ý giữ gìn thân thể mới được.”
Hoàng hậu nở một nụ cười cảm kích, cất giọng dịu dàng: “Đa tạ Hoàng thượng quan tâm!”
Huyền Lăng sánh vai cùng đi với Hoàng hậu, nhưng vừa đi được hai bước thì chợt quay sang vẫy tay với tôi, cất lời cảm thán: “Ỷ Mai viên cũng là nơi mà trẫm và Hoàn Hoàn gặp mặt lần đầu, người cũ thì đã đi rồi, nhưng nàng lại vẫn còn ở ngay trước mắt, đi cùng trẫm luôn nào.” Chờ tôi đi tới liền cũng nắm lấy bàn tay tôi.
Hồ Chiêu nghi hơi đảo mắt một chút, lập tức cười tươi. “Hoa mai trong Ỷ Mai viên là do Hoàng thượng và tiên Hoàng hậu cùng trồng, chắc những cây mai khác trên thế gian này đều không thể nào so sánh, thần thiếp cũng muốn được ngắm thử một phen.”
Huyền Lăng gật đầu, nói: “Nàng có lòng như vậy quả đúng là hiếm có.” Thế rồi liền kêu các phi tần khác đi cùng luôn, cả một đoàn người rầm rộ cùng tiến về phía Ỷ Mai viên.
Tuyết vừa rơi mấy ngày liền nên đường rất khó đi, các phi tần thường ngày đã quen sống trong nhung lụa, bây giờ lại không ngồi kiệu, thành ra ai nấy đều cảm thấy khó chịu vô cùng, nhưng vì sợ gặp tai họa như Ngưỡng thị nên không dám ho he gì, chỉ biết cắm đầu mà đi, trong lòng thì ngấm ngầm kêu khổ.
Đi được chừng nửa canh giờ, tất thảy mọi người đều vừa lạnh vừa mệt, duy có Huyền Lăng và Hoàng hậu là vẫn cực kỳ hào hứng, thần thái không thay đổi chút nào.
Lúc này tuyết lớn vừa ngừng rơi, hoa mai khắp vườn nở rộ, khung cảnh ngợp trong hai màu đỏ trắng, vương vất hương thầm. Những cành mai bị tuyết đè cong xuống, nhưng vẫn ngạo nghễ vươn mình, những bông mai đỏ rực như lửa nổi bật lên giữa nền tuyết trắng, toát ra một vẻ yêu kiều, diễm lệ vô song.
Tử Áo Thành phồn hoa náo nhiệt ngày xưa nay đã bị tuyết phủ dày, toát ra một vẻ thoáng đãng và cô quạnh, thỉnh thoảng lại có làn gió lạnh căm thổi tới làm cho tuyết đậu trên cành mai rơi xuống lả tả.
Huyền Lăng khẽ thở dài một tiếng, âu yếm đưa mắt nhìn tôi. “Nếu gió đông hiểu ý, xin đừng hại đến hoa. Ngày đó trẫm và nàng đã nên duyên ở chính nơi này.”
Tôi cười e thẹn. “Thì ra Hoàng thượng vẫn còn nhớ.”
Y vẫn còn nhớ, tôi cũng làm sao mà quên được. Không chỉ có y, ngay tới Huyền Thanh… Tôi cố đè nén nỗi xúc động muốn ngoảnh đầu lại nhìn y, chẳng hề động đậy chút nào. Nếu thời gian có thể trôi ngược, tôi thà rằng mình chưa từng đến nơi này, chưa từng quen biết người trước mắt, mãi mãi làm một Quý nhân nho nhỏ vì cáo bệnh mà không được sủng ái trong Đường Lê cung, như thế cuộc đời tôi sẽ có thể trôi qua trong bình lặng, không phải trải qua những cơn phong ba làm người ta đau đến nhói lòng.
Hoàng hậu hơi ngước mắt lên, cất tiếng ngâm khe khẽ: “Mấy nhành mai ngậm tuyết, trơ ngọn xiết thanh cao. Hương mang đầy ý vị, mặc gió lạnh thổi vào. Khẳng khiu cành xuôi ngược, nhìn như bệnh tựa sầu. Nếu gió đông hiểu ý, xin đừng hại đến hoa.” Nàng ta hơi dừng một chút, chăm chú nhìn Huyền Lăng. “Hoàng thượng còn nhớ không? Hồi mới vào cung, tỷ tỷ vẫn thường ngâm bàiMai hoa này của Thôi Đạo Vinh.”
Tôi bất giác ngẩn ngơ, thì ra ngay đến một chút ký ức ấm áp sót lại từ thuở ban sơ gặp mặt kia cũng chỉ là giả dối, ẩn đằng sau đó còn có một duyên cớ thế này. Thế nhưng chỉ sau khoảnh khắc tôi đã khẽ cười tự giễu, trong lòng Huyền Lăng tôi chẳng qua chỉ là cái bóng của nàng ta, đã hiểu được điều này rồi, hà tất phải tính toán quá nhiều làm gì nữa? Thế là tôi bèn đưa mắt liếc nhìn Huyền Lăng, cất giọng nhẹ nhàng: “Thì ra Thuần Nguyên Hoàng hậu cũng giống như thần thiếp, đều vô cùng tán thưởng cái sự thanh cao, thuần khiết của hoa mai.”
Trong mắt thoáng lộ vẻ áy náy và an ủi, y khẽ nắm lấy bàn tay tôi, lại ngoảnh đầu qua nhìn Hoàng hậu, hờ hững nói: “Chẳng qua chỉ có mấy ngày đầu là như vậy thôi, Nhu Tắc lúc đó mới vào cung, gặp hoàn cảnh mới nên khó tránh khỏi có chút buồn bã. Kỳ thực nàng ấy tính tình ngây thơ, trong sáng, không hề có nhiều tâm tư phiền muộn như vậy.”
Tôi bình thản cười, vừa định nói thì chợt nghe thấy có tiếng nhạc du dương chậm rãi vang lên.
Từ trong mảnh rừng mai mé đông, một nữ tử vận xiêm y màu vàng nhạt vừa nhảy múa vừa tha thướt bước ra, trên váy áo đính đầy những viên đá quý tỏa sáng lấp lánh. Kết hợp với bộ đồ lộng lẫy đó của nàng ta là mái tóc được búi lại gọn gàng, bên trên cài đầy những món đồ trang sức châu ngọc. Theo mỗi bước nhảy của nàng ta, những dải tua đính trên mấy món đồ trang sức trên đầu không ngừng lay động, ngoài ra xung quanh nàng ta còn có một vài bông tuyết và mấy cánh hoa mai lất phất tung bay, hoàn toàn hòa theo điệu nhạc, tạo nên một khung cảnh đẹp đẽ vô cùng.
Ánh mắt Huyền Lăng lập tức bị hấp dẫn, lộ vẻ si mê. Mọi người nhìn mà vừa kinh hãi vừa ngơ ngẩn, nữ tử đó đột nhiên xoay người lộ làn thu ba lóng lánh, cặp mặt sáng rực như hút đi hồn phách của người ta. Trong các phi tần đã có người không kìm được ngạc nhiên hô lên: “An Quý tần!”
Khuôn mặt nhỏ nhắn của nữ tử đó phơn phớt hồng tựa như một cánh hoa đào, ngợp đầy sắc xuân. Từ trên người nàng ta tỏa ra từng làn hương thơm nồng đậm, cánh mũi Huyền Lăng bất giác hơi hấp háy, ánh mắt lộ vẻ mê say, bất tri bất giác buông bàn tay tôi ra.
Tôi lặng lẽ lùi về phía sau một bước, đưa tay với lấy một cành mai trắng, kéo nó tới trước mũi khẽ hít vào một hơi, lập tức cảm thấy có một làn hương thơm lạnh lẽo thấm vào tận trong tim phổi. Mùi thơm của hoa mai trong Ỷ Mai viên vẫn giống hệt năm xưa, điệu múa của An Lăng Dung tuy rằng đẹp, thế nhưng so với Thuần Nguyên Hoàng hậu năm nào chắc hẳn là còn thua kém rất nhiều.
Đang lúc tôi suy nghĩ vẩn vơ, Hồ Chiêu nghi vốn đứng sau lưng tôi hiển nhiên đã tức giận tột cùng, liền “hừ” lạnh một tiếng, thấp giọng hậm hực nói: “Đồ lẳng lơ!”
Nghe thấy lời này tôi bèn nhẹ nhàng cất tiếng: “Chiêu nghi từng nghe nói tới bốn chữ “Đông Sơn tái khởi” chưa?” Hơi dừng một chút, tôi đưa mắt nhìn thần sắc say mê của Huyền Lăng, thở dài than: “Cứ nhìn tình hình trước mắt, e là chúng ta chẳng thể ngăn cản được nữa rồi.”
Hồ Chiêu nghi cố đè nén cơn tức giận, hai bàn tay nắm chặt, thấp giọng nói: “Chỉ tại ta ngày đó mềm lòng!” Rồi lại hờ hững cười lạnh. “Khi đó cô ta đau ốm tiều tụy như thể chỉ còn một hơi thở, nếu không như vậy làm sao mà có được cái vẻ lẳng lơ, quyến rũ của ngày hôm nay! Bụng dạ cô ta đúng là sâu thật!”
Tôi khẽ thở dài một tiếng, buồn bã than: “Ta tuổi tác lớn dần, lại vướng bận vì con cái, chẳng qua chỉ có cái tiếng Thục phi mà thôi. An Quý tần xưa nay vốn được lòng Hoàng hậu, chắc hẳn sau này sẽ đắc sủng vô cùng.”
Hồ Chiêu nghi hơi nhướng đôi mày liễu, lạnh lùng nói: “Thục phi thực khiêm tốn quá rồi. Vả chăng Tử Áo Thành này lớn như vậy, có nhiều người như vậy, ta không tin không có người nào đè nén được cô ta!”
Bên cạnh, Huyền Lăng đang mặt mày đờ đẫn, Hoàng hậu vẫn hết sức nghiêm túc, đoan trang, thần thái không có lấy một tia sơ hở nào. Tôi lòng thầm giá lạnh, múa điệu vũ Kinh Hồng do Thuần Nguyên Hoàng hậu sáng tác ở ngay Ỷ Mai viên – nơi ân ái giữa Huyền Lăng và Thuần Nguyên Hoàng hậu, quả nhiên là một mưu kế kín kẽ vô cùng.
An Lăng Dung múa xong liền đứng im một chỗ, nền tuyết trắng phau lại càng làm tôn lên những viên châu ngọc lóng lánh trên người nàng ta. Nhìn nàng ta lúc này hệt như vừa chui ra từ dưới tuyết, tuy không quá diễm lệ nhưng lại toát ra một vẻ yếu đuối, nhu mì khiến người ta rất dễ sinh lòng xót thương.
An Lăng Dung cứ đứng lặng im như thế, bên khóe miệng thấp thoáng một nét cười như có như không. Huyền Lăng ngẩn ngơ một hồi lâu, rồi vẫy vẫy tay với nàng ta. “Lại đây!”
Trong giọng nói của y thấp thoáng một tia nghẹn ngào mà nếu không nghe kĩ thì khó lòng phát giác, tôi ngoảnh mặt nhìn qua, thấy sắc mặt Hồ Chiêu nghi lúc này đã tái đi nhiều. Quay lại nhìn thân hình yểu điệu của An Lăng Dung, tự nơi đáy lòng tôi thầm thở dài một tiếng, bên khóe miệng thì lộ ra một tia cười lạnh.
An Lăng Dung thướt tha quỳ xuống, giọng nói tuy réo rắt nhưng vẫn mang theo một tia khàn khàn rất rõ ràng: “Hoàng thượng vạn phúc kim an. Thần thiếp đã lâu rồi chưa được gặp Hoàng thượng, thấy Hoàng thượng vẫn khỏe mạnh như xưa, thần thiếp rốt cuộc đã có thể yên lòng rồi.”
Huyền Lăng đỡ nàng ta đứng dậy. “Giọng của nàng vẫn chưa khôi phục được ư?”
Nàng ta nở một nụ cười buồn hụt hẫng, ánh mắt thoáng liếc qua chỗ Hồ Chiêu nghi, rốt cuộc vẫn để lộ mấy tia khác lạ. “Cổ họng thần thiếp bị tổn thương quá nặng, sợ là không thể khỏi được nữa.”
“Tay nàng lạnh quá!” Huyền Lăng nắm lấy bàn tay nàng ta. “Người còn chưa khỏe mà sao lại ăn mặc mỏng manh thế này?” Rồi y bèn ngoảnh đầu lại dặn dò Lý Trường: “Đi lấy áo lông chồn của trẫm lại đây.”
Chiếc áo lông chồn đen nhánh được khoác lên tấm thân gầy guộc của nàng ta, khiến khuôn mặt nàng ta trông lại càng thêm nõn nà, trắng bóng. Nơi cổ áo còn có một lớp lông mềm mại, mỗi khi nàng ta hít thở hay nói chuyện, những sợi lông lại khẽ lay động phớt qua má nàng ta, hết sức động lòng người.
Nàng ta gật đầu một cái, cặp thu ba lóng lánh như sao giữa màn đêm đen. “Thần thiếp không có phúc hầu hạ Hoàng thượng, ấy là thần thiếp thất đức. Tất thảy đều là lỗi của thần thiếp, Hoàng thượng trừng phạt như vậy cũng là lẽ thường. Hôm nay có thể dâng điệu múa này lên khiến Hoàng thượng nở nụ cười, ấy đã là vận may ba kiếp của thần thiếp. Thần thiếp vốn không được tùy tiện ra khỏi cửa, nay điệu múa đã xong, xin Hoàng thượng giáng tội, thần thiếp quyết không dám oán hận điều gì.” Dứt lời lại định quỳ xuống.
Huyền Lăng khẽ thở dài một tiếng, đưa tay ngăn nàng ta lại. “Trời đang rét lạnh, nàng cẩn thận kẻo bị ốm đấy!” Y thoáng lộ vẻ ngẩn ngơ. “Đáng tiếc giọng hát của nàng…”
An Lăng Dung cúi đầu không nói, Hoàng hậu lại dịu dàng cất tiếng: “Tỷ tỷ từ nhỏ đã có giọng hát như tiếng nhạc trên trời, Hoàng thượng còn nhớ không? Có một năm tỷ tỷ bị nhiễm phong hàn nên mất giọng, cũng giống như An Quý tần bây giờ vậy.”
Huyền Lăng ngẩn ra, ánh mắt nhìn về phía An Lăng Dung chứa chan tình ý. “Phải rồi, năm đó còn là nàng tự tay kê đơn sắc thuốc cho nàng ấy, sau đó thì trẫm bón thuốc cho nàng ấy từng thìa, nhờ thế bệnh tình của nàng ấy mới dần thuyên giảm.”
“Hoàng thượng thương yêu tỷ tỷ, mỗi lần tỷ tỷ uống thuốc đều là Hoàng thượng tự tay bón cho, thần thiếp thực sự rất cảm động.” Trong mắt Hoàng hậu thoáng qua một tia lạnh lẽo tựa băng hàn, thế nhưng chỉ sau khoảnh khắc đã lại khôi phục vẻ ôn tồn, thân thiết thường ngày. “Việc trên đời nhiều lúc chính là như vậy, mất cái này rồi lại được cái kia. An Quý tần tuy giờ đã vỡ giọng, thế nhưng điệu vũ Kinh Hồng vừa rồi quả thực là tuyệt diệu vô cùng.”
Huyền Lăng nghe thấy lời này thì không kìm được nói: “Tư thế thì đúng là có giống, nhưng Nhu Tắc khi múa điệu này không bao giờ ăn mặc xa hoa, cũng không đeo đồ trang sức châu ngọc, chỉ vận một bộ đồ trắng muốt như tuyết, hoàn toàn là lấy ý để giành phần hơn, hai bên không thể đem ra so sánh với nhau được.”
Kính Phi sau khi ra ngoài vẫn luôn im lặng, lúc này mới chậm rãi cười, nói: “Ngày đó Thục phi cũng từng múa điệu Kinh Hồng ở Phù Lệ điện, quả thực là cực kỳ yểu điệu, thướt tha.”
Huyền Lăng chăm chú nhìn tôi một lát, sau đó mới khoan thai nói: “Hoàn Hoàn tự đi theo một lối riêng, tuy cũng có cái thần vận Kinh Hồng, thế nhưng bước múa hơi nghiêng về phong cách của Mai Phi, có thể nói là mỗi người mỗi vẻ.” Tôi và y nhìn nhau cười khẽ, không nói gì thêm.
An Lăng Dung vội vàng khom người, mặt đầy nét cung kính. “Thần thiếp làm sao dám so sánh với tiên Hoàng hậu, cũng không dám so với Thục phi tỷ tỷ. Điệu múa của tiên Hoàng hậu tất nhiên giống như phượng hoàng trên trời, thần thiếp chẳng qua chỉ là hạng phàm tục dưới đất, quyết không dám có chút mạo phạm nào.”
Thấy Huyền Lăng lộ vẻ hết sức tán đồng, Hoàng hậu cười tủm tỉm, nói: “Ngươi đúng là rất hiểu chuyện đấy!” Dứt lời liền nhìn nàng ta chăm chú. “Điệu múa cũng có được chút thần vận của tiên Hoàng hậu năm xưa, chắc đã phải tốn mấy năm công sức rồi đúng không?”
An Lăng Dung nhìn tôi cười khẽ, khiêm tốn nói: “Chuyện này kỳ thực còn phải cảm ơn Thục phi tỷ tỷ. Năm xưa tỷ tỷ múa điệu Kinh Hồng chẳng khác gì người trời, thần thiếp trước giờ vốn giao hảo với tỷ tỷ, đâm ra lòng thầm mê mẩn không thôi, đồng thời còn vì điệu vũ đó mà hết sức ngưỡng mộ Thuần Nguyên Hoàng hậu, thế là bèn đi thỉnh giáo các vị vũ sư trong cung, sau mấy năm trời rèn luyện rốt cuộc cũng có được chút thành tựu nhỏ.”
Hoàng hậu nở một nụ cười đầy thâm ý, khẽ gật đầu, quay sang nói với Huyền Lăng: “An Quý tần dụng tâm vất vả như vậy, quả là tấm gương cho các phi tần.”
An Lăng Dung tỏ ra hết sức rụt rè, chừng như không thể nhận nổi lời khen đó của Hoàng hậu. “Có thể phân ưu cho Hoàng thượng, dù phải chịu khổ chịu mệt thế nào thần thiếp cũng đều nguyện lòng.” Dứt lời bèn ngoảnh đầu nhìn tôi, cất lời thành khẩn: “Tỷ tỷ sau khi sinh xong người còn mỏi mệt, giờ lại phải hiệp trợ Hoàng hậu quản lý lục cung, khi rảnh rỗi nhớ phải nghỉ ngơi tĩnh dưỡng cho tốt, đừng lao tâm lao lực quá kẻo làm tổn thương đến thân thể.” Sau đó lại quay sang phía Huyền Lăng, nói tiếp: “Thần thiếp tự biết mình có tội, không dám ở đây thêm nữa, xin phép cáo lui.”
Nơi đáy lòng trào lên cảm giác chán ghét, tôi nhìn chằm chằm vào nàng ta. “Khiến muội muội phải nhọc lòng rồi. Hôm nay thấy muội muội múa điệu Kinh Hồng này, bản cung thực là vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ.”
Huyền Lăng hơi cụp mắt, thoáng trầm ngâm một chút, giọng nói bất giác mang theo mấy tia âu yếm, dịu dàng: “Hôm nay Trọng Hoa điện đang có ca múa rất hay, Chiêu viện hãy qua xem cùng trẫm luôn đi.”
Vừa nghe thấy lời này, An Lăng Dung lập tức tuôn trào lệ nóng, các phi tần khác không ai là không biến sắc. Tôi dù biết An Lăng Dung sau khi múa điệu Kinh Hồng nhất định sẽ Đông Sơn tái khởi, nhưng không ngờ Huyền Lăng lại bất chấp chuyện cũ, lập tức phong nàng ta làm Chiêu viện tòng nhị phẩm, còn là trong đêm trừ tịch, bất giác ngây người. Tôi khẽ nắm lấy bàn tay giá lạnh của Hoán Bích, vừa là nói với muội ấy cũng là nói với mình. “Bất kể thế nào, hãy nín nhịn!”
Lý Trường dõng dạc đáp “dạ”, rồi bèn lớn tiếng nói: “An nương nương quả đúng là song hỷ lâm môn, hôm nay là ngày trừ tịch, nương nương còn được tấn phong nữa.” Y ngó quanh bốn phía, ánh mắt mang theo nét cười sâu sắc nhìn lướt qua các phi tần. “Các vị nương nương nói xem có đúng vậy không?”
Hồ Chiêu nghi không sao kìm nén được nữa, bước lên trước một bước, nói: “Hoàng thượng, cô ta là người chẳng lành, thực sự không nên tấn phong!”
Lúc này Huyền Lăng đã kéo An Lăng Dung qua một bên, cất giọng rủ rỉ rất mực dịu dàng: “Sao nàng lại tới Ỷ Mai viên thế?”
An Lăng Dung tựa người vào lòng Huyền Lăng, ra vẻ yểu điệu. “Thần thiếp biết Hoàng thượng một dạ tình sâu với tiên Hoàng hậu, do đó mới tới nơi này thăm viếng. Hơn nữa thần thiếp cũng rất nhớ Hoàng thượng, tuy tuyết lớn vừa dừng, nhưng thần thiếp đoán Hoàng thượng rất trọng tình xưa, có lẽ sẽ tới Ỷ Mai viên, thần thiếp chỉ cần được nhìn Hoàng thượng từ xa là đã thỏa lòng lắm rồi.”
Hai người âu yếm chuyện trò, chẳng để ý gì tới Hồ Chiêu nghi. Hồ Chiêu nghi mặt đỏ tía tai cơ hồ muốn rỉ máu, không kìm được lớn tiếng gọi: “Biểu ca!”
Huyền Lăng tới lúc này mới chịu ngoảnh đầu lại, khẽ cười nói: “Thục phi và Yến Nghi hiện giờ đều đã bình an sinh được hoàng tử, nàng đã nói như vậy…” Y hơi dừng một chút, quay qua nhìn An Lăng Dung. “Dung Nhi, trước khi Thục viện sinh nở, nàng đừng tới Đường Lê cung của nàng ta nữa là được rồi.”
An Lăng Dung thoáng lộ ra vẻ ấm ức. “Thần thiếp xin vâng theo ý chỉ của Hoàng thượng, có điều thần thiếp và Thục viện tỷ tỷ vào cung cùng ngày, xưa nay vẫn luôn giao hảo, vậy mà lại không thể tự mình đi chăm sóc, thực thấy thẹn với lòng.”
Hoàng hậu mỉm cười nhắc nhở: “Chiêu viện thuộc hàng tòng nhị phẩm, Hoàng thượng nên chọn ngày lành cử hành lễ sắc phong để Chiêu viện được danh chính ngôn thuận.”
Huyền Lăng ôm An Lăng Dung dần đi xa, chỉ để lại một câu nói vang lên trong gió: “Ngày mùng Một tháng Hai chính là ngày lành.”
Tôi theo mọi người trở lại Trọng Hoa điện, thấy hai người kia ân ân ái ái liền thấy hơi khó chịu, lấy cớ phải chăm sóc hai đứa bé mà cáo từ rời đi. Cuộc ca múa đêm ấy diễn ra tới lúc nào mới dứt tôi không hề hay biết, khi trở lại Nhu Nghi điện, Hoán Bích đi thắp hương, hai tay run lẩy bẩy, đôi bờ môi mím chặt, đốt mấy lần mà que hương vẫn không chịu cháy.
Tôi sai người đóng cửa điện, chỉ giữ Cận Tịch lại, rồi bước tới, đặt tay lên vai Hoán Bích, khẽ nói: “Ta biết là muội rất căm hận!”
Đôi bờ vai Hoán Bích run rẩy không ngừng, rốt cuộc đã rơi nước mắt. “Tiểu thư thực là mềm lòng quá, ngày đó nên giết chết cô ta mới phải!” Muội ấy vừa khóc vừa nhìn tôi, nói tiếp: “Sớm biết thế này, việc gì phải tìm cách giày vò hành hạ cô ta cho rắc rối, cứ kết liễu tính mạng cô ta luôn là gọn nhẹ nhất!”
Nỗi căm phẫn không ngớt trào dâng làm lồng ngực tôi bất giác nhói đau. “Ngày đó cô ta thất sủng chịu nhục, nhưng ta lại không thừa cơ ra tay, muội có biết là vì sao không?”
Hoán Bích nghẹn ngào nói: “Tiểu thư tất nhiên có thể mượn tay người khác rồi.”
Tôi buồn bã ngồi xuống, kéo tay muội ấy, khẽ nói: “Ta muốn khiến cô ta sống không bằng chết, thứ nhất là vì không cho phép cô ta chết dễ dàng như thế, thứ hai là ta không thể giết cô ta được.” Tôi hơi dừng một chút, chậm rãi nói tiếp: “Không phải ta không muốn, mà dùng sức của ta bây giờ thì còn chưa làm nổi việc đó. Cô ta tuy thất sủng nhưng Kỳ Tần lại chẳng ra gì, Hoàng hậu còn chưa coi cô ta là con cờ bỏ đi, sau khi cô ta thất sủng, Cận Tịch từng nhìn thấy Tiễn Thu ra vào Cảnh Xuân điện lúc nửa đêm hai lần. Nếu ta không kìm nén được mà ra tay, ắt sẽ bị người ta nắm thóp, từ đó vĩnh viễn chẳng thể trở mình.”
Hoán Bích im lặng một hồi lâu, cuối cùng khẽ thở dài, đồng thời ngưng khóc. Đầu ngón tay muội ấy dần ấm lại, tôi cất giọng vừa kiên định vừa dịu dàng: “Muội yên tâm. Ta không thể ngăn cản cô ta đắc sủng trở lại, nhưng sau này quyết không buông tha cho cô ta.”