Hành Trình Về Phương Đông

Chương 4: Thành phố linh thiêng



Rishikesh! Một tên gọi linh thiêng, thành phố của các vị thánh. Từ lâu nay người ta đã coi thành phố này như một thánh địa mà tất cả những kẻ cầu đạo đều phải đến để đắm mình trong bầu không khí thiêng liêng. Rishikesh nằm ở một vị trí đặc biệt và là cánh cửa vào rặng Hy Mã Lạp Sơn. Từ đó đi lên hướng Bắc là rặng núi hùng vĩ, chứa đựng những điều huyền bí. Phía nam là con sông Hằng, dòng sông thiêng của Ấn Giáo. Một người Ấn bất kể giai cấp, trí thức, đều ít nhất một lần trầm mình trong dòng nước này để đón nhận những ân phước mà dòng sông mang lại.

Ðúng như lời người Ấn bí mật thành Benares đã nói, khắp nơi đâu đâu cũng có các đạo sĩ và tín đồ hành hương. Có những đạo sĩ mình hạc, xương mai vừa đi vừa tụng niệm các câu thần chú. Có các đạo sĩ khổ hạnh chống gậy trầm tư bên dòng nước sông Hằng. Chen chúc bên các tín đồ huyên náo là các thuật sĩ quần áo sặc sỡ biểu diễn những trò lạ lùng. Một đạo sĩ to lớn, lực lưỡng, quấn khố bằng da cọp uốn mình trong tư thế Yoga bên cạnh một thuật sĩ gầy gò nằm lăn trên đất lâm râm cầu nguyện. Có các vị tăng sang sảng đọc kinh bên cạnh những giáo sĩ vừa đánh trống vừa nhẩy nhót, ca hát tên các vị thần. Có những tu sĩ thiền định trong những hang đá đục sâu vào núi, không màng thế sự bên cạnh những đạo sĩ râu tóc xồm xoàm, quấn mình trong những mãnh vải rách như một xác ướp. Có các tu sĩ nằm yên lặng, hơi thở thoi thóp như sắp chết bên cạnh những thuật sĩ say sưa gọi tên Thượng Ðế một cách ồn ào. Trong làn khói hương nghi ngút, các tín đồ hành hương chen vai thích cánh, trên mặt ai cũng một niềm thành kính rõ rệt. Phái đoàn cảm tưởng như đang lạc vào một thế giới lạ lùng, huyền ảo, với những nhân vật kỳ dị, khác thường.

Bác sĩ Kavir, giám đốc viện nghiên cứu Phạn Ngữ của chính phủ là một học giả nổi tiếng, có một kiến thức rộng và đã sống ở Rishikesh nhiều năm. Theo ông ta thì Rishikesh không còn là một thành phố của các bậc chân tu đạo hạnh như xưa mà là một nơi quy tụ rất nhiều thành phần hỗn tạp. Ða số là các đạo sĩ, tu sĩ nghèo nàn từ hình thức đến tinh thần. Họ góp nhặt vài phép tu, vài phương pháp dưỡng sinh, vài câu thần chú rồi kiếm ăn qua sự mê tín của dân chúng. Phần lớn những tu sĩ này đều là những kẻ thất bại ngoài đời, lười biếng, không chịu làm việc. Ðối với một quốc gia chậm tiến như Ấn Ðộ thì hình thức dễ nhất để có cơm ăn, áo mặc và một mái nhà là trở nên một tu sĩ, sống trên lòng sùng tín của dân chúng. Vì không có một tiêu chuẩn kiểm soát nào nên bất cứ ai cũng có thể trở thành tu sĩ, chỉ cần mặc áo tu sĩ, học thuộc vài câu kinh, vài hình thức lễ nghi, cúng tế là có thể tự xưng Ðạo Sĩ, Thánh Nhân được rồi. Chính các tu sĩ, đạo sĩ giả mạo này là những kẻ đã làm hoen ố danh dự tôn giáo, lợi dụng đức tin để làm chuyện sằng bậy, ích kỷ, cá nhân. Ðã thế, họ lại còn tụ tập phe nhóm, phong chức tước, ca tụng lẫn nhau và đả kích những tu sĩ không cùng phe nhóm.

Ðượn tin có phái đoàn ngoại quốc đến nghiên cứu nền minh triết cổ truyền, rất đông đạo sĩ, giáo sĩ tìm đến để tiết lộ những pháp môn huyền bí, dĩ nhiên với một giá biểu. Khi bị từ chối lập tức họ sụt giá như người mua bán. Một đạo sĩ đòi bán một cuốn sách bí truyền với giá 50 đồng tiền vàng, sau nhiều lần sụt giá y bằng lòng để lại cuốn sách với giá một bữa ăn. Một nhóm tu sĩ danh xưng trọng vọng, chức tước đầy người đòi đến thảo luận triết lý với phái đoàn. Khi nghe họ giới thiệu về thành tích và đạo quả đạt được, phái đoàn cực kỳ ngẫn ngơ vì toàn các bậc thần thánh gì đâu chứ không phải người. Ai cũng tu cả trăm năm đủ các phép thuật thần thông biến hóa. Tuy nhiên, khi một viên cảnh sát ở đâu bước vào thì các bậc “thần tiên” mặt mày lơ láo, kéo nhau bỏ chạy hết.

Quanh các chợ búa, có rất nhiều các tu sĩ khổ hạnh phô trương thân thể tàn phế bị hủy hoại như một công trình vĩ đại. Phái đoàn không hiểu họ có thể đạt đến điều gì ngoài ít xu lẻ mà khách bộ hành ném cho.

Một số các đạo sĩ sử dụng tà thuật công khai. Với một giá biểu, họ sẵn sàng làm bùa chú, thư phù, nguyền rủa một kẻ thù của bạn, đem đến cho bạn một cô gái đẹp hoặc giúp bạn thành công trên thương trường. Ðâu đâu cũng có các đạo sĩ rao bán bùa ngãi hoặc xưng là đấng này, đấng nọ. Một tu sĩ đến gặp phái đoàn xưng là hậu thân của đấng Krishna và đã từng là Phật Thích Ca trong một tiền kiếp. Bác sĩ Kavir nổi giận ra lệnh tống giam ngay tu sĩ này. Khi cảnh sát đến còng tay, tu sĩ thú nhận y chỉ là một học sinh thi rớt Tiểu Học, không sao kiếm được việc làm. Y đã lười biếng còn thích làm thầy kẻ khác nên làm gì một thời gian cũng gặp khó khăn. Sau cùng, y cạo đầu, mặc áo tu và tự xưng là đấng Krishna giáng thế, một số dân quê tin những lời tuyên bố của y. Họ quyên góp, xây cho y một ngôi đền. Y sống trên phẩm vật dâng cúng của tín đồ một cách ung dung chẳng tu hành gì hết. Ðã thế, y còn đòi hỏi này nọ, chê ngôi đền quá nhỏ bé không xứng với chức tước của y. Quen thói hống hách, lừa bịp, khi nghe tin có phái đoàn ngoại quốc đến thăm viếng, y dở trò bịp bợm để mong kiếm được món tiền nhỏ.

Lịch sử Ấn Ðộ cho thấy khi xưa Rishikesh là một thánh địa thiêng liêng, một nơi các tu sĩ thánh thiện đến để tu học. Sau này, khách hành hương quá đông, một số hành khất kéo nhau đến đây hành nghề. Thấy làm đạo sĩ coi bộ dễ kiếm ăn hơn nên nhiều hành khất đã “chuyển nghề” trở thành các đạo sư, giáo sĩ chuyên làm tiền các tín đồ ngây thơ nhẹ dạ.

Dĩ nhiên, Rishikesh vẫn còn các tu sĩ học thức, dành trọn đời cho việc đi tìm chân lý. Họ vẫn tu hành quanh đó không để ý đến sự kiện các tu sĩ giả lợi dụng sự có mặt của họ để mưu cầu lợi lộc. Ðó cũng là một nét đặc thù của nền văn hóa xứ này. Một người Âu Mỹ chắc chắn không thể chấp nhận sự kiện như thế, họ sẽ nhờ luật pháp can thiệp hoặc cảnh cáo những tu sĩ bất lương. Nhưng Ấn Giáo không có một tổ chức chặt chẽ như Thiên Chúa Giáo. Các giáo sĩ quan niệm có nhiều đường tu khác nhau, ai tu nấy chịu và những kẻ mạo danh, lợi dụng sẽ phải chịu hậu quả ở một kiếp sau.

Giáo sư Kavir cho biết theo thời gian, khi nền văn hoá suy đồi, cuộc sống trở nên khó khăn, các bậc tu sĩ thánh thiện mỗi ngày mỗi hiếm thì các đạo sĩ, thuật sĩ giả mạo nổi lên mỗi ngày một nhiều. Hàng ngàn người dốt nát, vô học đi lang thang với các chức tước rất lớn như Ðạo Sư (Guru), Giáo Sĩ (Yogi), Thánh Nhân (Bhagwan). Họ chỉ chờ những ngày hội, ngày lễ là xuất hiện quanh các đền, chùa lên mặt này nọ để quyên tiền. Dĩ nhiên họ là gáng nặng của xã hội vì chỉ thụ hưởng mà không làm lợi ích gì. Ðó cũng là lý do nhiều người Âu Mỹ đã coi thường gia tài văn hóa xứ Ấn. Xét cho cùng, một phần lỗi cũng là do sự tôn sùng tôn giáo quá mạnh của dân chúng. Họ không phân biệt một đạo sư tu hành chân chính, gìn giữ giới luật trang nghiêm với những kẻ bịp đời. Lòng sùng tín khiến họ trở nên ngây thơ, nhẹ dạ sẵn sàng làm theo sự mách bảo của các bậc tu hành. Một lý do nữa là sự ỷ lại vào sức mạnh thần quyền, đa số các tín đồ mải mê với sinh kế, không có thì giờ lo việc tinh thần nên họ ủy thác cho các giáo sĩ cầu nguyện giùm và đồng hóa việc giải thoát với việc trung thành vào một bậc giáo sĩ. Ða số các giáo sĩ lợi dụng vấn đề này tối đa, hứa hẹn sẽ chăm lo tinh thần giáo dân bằng cách cầu nguyện cho họ. Các giáo sĩ này tự hào đã tu hành đắc đạo, đã có thể nói chuyện trực tiếp với Thượng Ðế và là người trung gian giữa Trời và người. Họ sống trong các đền đài đẹp đẽ, hưởng thụ vật dân cúng và nhân danh Thượng Ðế để đòi hỏi này nọ. Người Á Châu bản tính không thích hoài nghi, chấp nhận việc các tu sĩ nói ra như ý muốn của Thượng Ðế và tuân theo triệt để. Cũng vì thế, các tài liệu tôn giáo Ấn Ðộ đã bị sửa đổi đi rất nhiều, không phân biệt điều có thật với những sự kiện huyền hoặc. Các tu sĩ tha hồ trích dẫn những câu nói bí ẩn và giảng ra theo ý nghĩa có lợi nhất cho họ. Xứ Ấn Ðộ phân biệt giai cấp rõ ràng, tu sĩ luôn đứng hàng đầu trên cả vua chúa, quý phái. Giai cấp tu sĩ không làn gì chỉ hưởng thụ và các giai cấp khác có bổn phận phải cung cấp các nhu cầu đòi hỏi cho tu sĩ. Cũng vì không làm gì, quá nhàn hạ, họ đâm ra chống báng, đả kích lẫn nhau. Mỗi người tự lập một giáo phái, môn phái, xưng hùng, xưng bá, giảng kinh điển theo quan niệm của mình từ cụ thể đến trừu tượng như Thời Gian Luận, Phương Hướng Luận, Ða Nguyên Luận… không ai chịu theo ai và còn tranh luận lung tung khiến các tín đồ không còn biết đâu mà tin.

Cũng vì xã hội nghèo đói, rối ren, tinh thần lại điên đảo bởi các tà thuyết nên từ bao năm nay, Ấn Ðộ không sao trở nên một quốc gia hùng cường, thịnh vượng như các xứ khác. Tuy thế, với gia tài minh triết lớn lao tiềm ẩn, vẫn có các bậc chân tu đạo hạnh, sống kín đáo để giữ cho ngọn lửa tâm linh luôn cháy sáng và vẫn có những người tha thiết mong cầu chân lý, sẵn sàng từ bỏ tất cả để đi tìm chân lý.

Sự kiện từ bỏ tất cả để đi tìm đạo cũng là một nét rất đặc biệt của Á Châu vì người Âu Mỹ khó có thể chấp nhận vấn đề từ bỏ của cải, vật chất để chạy theo một viễn ảnh trừu tượng, viễn vông, không thiết thực. Người Âu cả quyết rằng sự tìm kiếm chân lý là vô ích, hạnh phúc là hưởng thụ tất cả những gì cuộc đời có thể mang lại vì chết là hết. Tuy nhiên, vẫn có những người Âu đã tự đặt câu hỏi phải chăng chết là hết? Nếu như thế thì mục đích cuộc đời là gì? Tại sao chúng ta lại sinh ra để chết? Văn hóa Âu Tây đã không giải thích được vấn đề này một cách rốt ráo. Biết bao nhà triết học nổi danh đã nhứt óc về đề tài này nhưng đa số đều chỉ nói một cách quanh co, không đi đến một kết luận nào chắc chắn. Họ chỉ nói rằng có thể như thế này hay cũng có thể như thế khác mà thôi. Cho đến khi người Âu thực sự giao tiếp với người Á Châu thì họ bỗng bật ngửa vì tất cả những gì họ thắc mắc thì người Á đã có những câu trả lời từ nhiều ngàn năm trước.

Lịch sử đã ghi nhận có những người Âu đến viếng thăm Á Châu và say mê nền minh triết xứ này đến nỗi quên cả mục đích chính của chuyến đi. Ðiển hình là Ðại Ðế Alexandre xứ Hy Lạp, vị hoàng đế bách chiến, bách thắng đã chinh phục thế giới, dẹp tan Ai Cập, quét sạch Ba Tư mở rộng bờ cõi đến tận Ấn Ðộ Dương.

Khi đến Ấn Ðộ, ông là một kẻ chinh phục oai danh lừng lẫy nhưng khi trở về nước, ông đã trở nên một triết gia khiêm tốn, nhã nhặn. Hoàng Ðế Alexandre, học trò của hiền triết Aristotle đã bị các bậc hiền giả xứ Ấn chinh phục. Khi dẹp tan các đạo binh của Hoàng Ðế Ấn Ðộ, Alexandre cho mang tất cả những tướng chỉ huy xứ Ấn đến hạch hỏi. Ông Vua kiêu căng lớn tiếng “Thua trận như vậy, các người đã chịu phục ta chưa?”

Nếu là trường hợp các quốc gia khác, thì vua chúa đều quỳ mọp xin tha tội và xin thần phục trước sức mạnh của Hy Lạp. Nhà chỉ huy xứ Ấn đã dõng dạt trả lời: “Nhà ngươi chỉ là một kẻ vũ phu, tàn ác làm sao ta phục cho được. Ngươi có thể thắng bằng quân sự nhưng cai trị thế nào nổi dân của ta?” Alexandre nổi giận: “Ta đã cai trị toàn thể thế giới, có nước nào không phục tài ta, nơi nào làm phản ta giết trọn cả nước, ngươi không thấy các đại cường quốc như Ai Cập, Ba Tư còn xin thần phục huống chi Ấn Ðộ yếu đuối?” Vị chỉ huy xứ Ấn bật cười: “Chinh phục bằng sức mạnh quân sự thì dễ chứ chinh phục nhân tâm còn khó gấp trăm ngàn lần, một kẻ vũ phu như ngươi làm sao có thể cai trị được Ấn Ðộ?” Câu nói bất ngờ làm Ðại Ðế Alexadre giựt mình. Nên nhớ, ông là một hoàng đế văn võ toàn tài chứ không phải một kẻ chỉ ỷ vào sức mạnh. Từ nhỏ, ông đã được giáo dục bởi các bậc hiền triết Hy Lạp và năm 14 tuổi đã đem quân chinh phạt khắp Ðịa Trung Hải tạo các chiến công hiển hách. Ông theo học với triết gia Aristotle và lúc nào cũng có vài chục hiền giả chung quanh để thảo luận. Câu nói của vị tướng lãnh chỉ huy xứ Ấn làm ông suy nghĩ. Thay vì ra lệnh giết ngay viên tướng này để làm gương, ông đã không giận dữ lại còn mang ngay đề tài chinh phục nhân tâm ra thảo luận với y. Trong suốt lịch sử Âu Châu, chỉ có Alexandre là hoàng đế duy nhất đã tranh luận ôn tồn cho đến khi kẻ thù kính phục mới thôi.

Chi tiết cuộc thảo luận này ra sao không thấy lịch sử ghi chép nhưng chỉ ít lâu sau, Hoàng Ðế Alexandre đã cho mời các bậc hiền triết xứ Ấn đến thảo luận với các học giả Hy Lạp vẫn tháp tùng theo đoàn quân viễn chinh. Chỉ một thời gian ngắn, Alexandre nhận thấy các triết gia Hy Lạp không thể sánh kịp với các hiền giả Ấn Ðộ. Nhà vua bèn đổi thái độ, lấy lễ nghĩa đối xử với các vị này. Thay vì cai trị bằng sức mạnh như vẫn làm với các quốc gia khác, ông ghi nhận những lời khuyên của các bậc hiền triết, tôn trọng quyền lợi dân chúng xứ này.

Ðoàn quân viễn chinh ngưng lại không đi sâu vào nội địa xứ Ấn để ông có thì giờ học hỏi, đàm đạo với các bậc thánh nhân, hiền triết. Các cuộc thảo luận nhiều khi kéo dài đến cả tuần lễ, có khi cả tháng. Sau đó, ông đã ra lệnh rút binh trở về Hy Lạp vì giấc mộng bá vương không còn nữa. Ông dự định sẽ cải tổ lại guồng máy cai trị thế giới theo gương Ấn Ðộ. Tiếc thay, nhà vua lại chết sớm khi chưa đầy 30 tuổi. Một sử gia đã than: Nếu Alexandre sống lâu thêm ít năm nữa thì biết đâu lịch sử Tây Phương đã khác hẳn.

Trong các vị hiền triết nổi danh, Ramakrisna được coi như một vị Thánh của Ấn Giáo. Danh tiếng ông này đã vang sang tận Âu Châu. Phái đoàn tìm đến đức Mahayasa, môn đệ của ông này đang tu ở một ngôi đền gần đó.

Ngang qua một khoảng sân nhỏ đến một căn phòng kiến trúc kiểu xưa cổ kính, mọi người được mời ngồi xuống thảm. Khoảng vài phút sau, một tiếng chân người chậm rãi bước lại: đó là một ông lão khỏe mạnh, râu dài trắng phếu, dung mạo nghiêm trang và đôi mắt chói sáng tỏa ra một cái gì thánh thiện khiến mọi người có cảm giác rung động lạ thường.

Giáo sư Evans-Wentz lên tiếng bầy tỏ mục đích của phái đoàn, Mahayasa mỉm cười: “Ơn trên đã dẫn dắt các ông đến đây, các ông sẽ có dịp tiếp xúc nhiều với những bậc hiền triết xứ này. Ơn trên có một mục đích rõ ràng rồi các ông sẽ thấy.”

“Chúng tôi nghe nói nhiều về đạo sư Ramakrishna, ông có thể cho chúng tôi biết thêm về ngài không?”

“Tôi rất thích nói về ngài, ngài mất đã nửa thế kỷ rồi nhưng vẫn còn lưu lại nhiều kỷ niệm linh động trong lòng tôi. Tôi gặp ngài”

“Nhưng nếu người ta không tin, làm sao người ta có thể được cảm hóa?”

Ðức Mahayasa mỉm cười:

“Trước ảnh hưởng an lành tỏa ra từ con người thánh thiện của đức Ramakrishna dù có hoài nghi thế nào, người ta cũng thấy thanh thoát.”

Giáo sư Allen rụt rè:

“Chúng tôi được biết ngài rất ít học.”

“Ðúng thế, ngài là con người đơn giản, biết ít, học ít nhưng ngay cả những bậc học rộng, tài cao của Ấn Ðộ đều ngưỡng mộ ngài. Họ cúi đầu trước hào quang tâm linh của ngài. Ngài vẫn dạy rằng tiền bạc, chức tước, địa vị chẳng qua chỉ là phù vân, hư ảo trước các giá trị tâm linh…”

“Nhưng người Âu không thể hiểu tại sao những vua chúa, học giả nổi tiếng lại có thể cúi đầu trước một người không học hết bậc trung học…”

Ðức Mahayasa mỉm cười:

“Sở dĩ họ không hiểu được vì họ quan niệm đạo sư phải là người có bằng cấp, tốt nghiệp những đại học nổi tiếng, có tài ăn nói hấp dẫn. Quan niệm người Ấn không như vậy, một đạo sư không nhất thiết phải tốt nghiệp trường học chuyên môn, viết những sách vở cao siêu, mà ở những điều ngài khêu gợi, thức tỉnh tâm thức được cho mình, có gần ngài mới hiểu thế nào là bình an. Những ngày bên ngài tốt đẹp biết bao, ngài thường đắm mình trong những cơn thiền định sâu xa khiến chúng tôi có cảm tưởng như tiếp xúc với một vị Thánh hơn một người phàm. Tôi xin kể cho các ông về cảm tưởng của tôi: Tôi được giáo dục theo phương pháp Âu Tây, tôi rất tự đắc được học nhiều biết rộng hơn những người chung quanh. Khi đó tôi là giáo sư dạy Anh Ngữ cho trường Trung Học ở Calcutta, đức Ramakrishna tu ở đạo viện Dakshinewar cách đó không xa. Một hôm, tôi theo các bạn đến nghe ngài thuyết giảng, thực ra tôi có ý muốn biện luận với một vị được dân chúng coi là Thánh Nhân hơn là nghe giảng nhưng một sự lạ lùng đã xảy ra. Khi vừa nghe những lời nói của ngài, tôi thấy trong lòng rộn rã một cảm giác lạ lùng, yên tĩnh. Ngài không nói bằng ngôn ngữ thông thường, sử dụng các danh từ bóng bẩy như tôi nghĩ mà bằng tiếng nói của trái tim. Tôi say mê uống những lời giảng giản dị, chân thành như người khát nước lâu ngày, sau đó, tuần nào tôi cũng đến nghe giảng. Một thời gian sau, tôi được ngài thu nhận làm đệ tử, chính ngài khuyên tôi:

“Xem tướng, thầy biết con sẽ trở nên một tu sĩ (Yogi). Con hãy làm tròn công việc hàng ngày của mình với đời, nhưng tâm hồn lúc nào cũng tưởng nhớ đến Thượng Ðế.”

“Chúng tôi nghe nói về Ramakrishna ngay từ khi còn ở Âu Châu nhưng dư luận người Anh có lẽ không hiểu rõ về ngài ngoại trừ việc ngài là một người không có học…”

Mahayasa gật đầu mỉm cười:

“Theo sự hiểu biết của tôi, sở dĩ ngài không thích học vì bản tánh ngài thiên hẳn về vấn đề tâm linh. Một người như thế tất nhiên không để ý đến những từ chương, bằng cấp hay quyền quí, danh lợi. Năm ngài bắt đầu vào tuổi thanh niên một sự lạ xảy ra: Tuổi 16, 17 là lúc đứa trẻ thường bị khủng hoảng hoặc thay dổi tâm tính nhất là trên phương diện tình ái. Ðối với người cao thượng, đó là lúc mở màn cho một đời sống thật sự với sự phát triển các năng khiếu tâm linh siêu việt: sự mở màn ấy bắt đầu với sự hoảng hốt trước cái chết. Ða số con người ít nhiều cũng đã nghĩ đến sự chết nhưng họ chỉ nghĩ một lát rồi quên ngay ít ai chịu tìm hiểu sâu xa. Các bậc hiền triết thì khác, họ tận lực tìm hiểu thế nào là sự chết, đức Ramakrishna cũng phản ứng như vậy, ngài suy gẫm: Cái gì là Chết? Thể xác này chết nhưng còn tôi, tôi có chết không? Nếu tôi là thể xác này, tôi chết nhưng tôi có phải là thể xác này không? Nếu tôi không là thể xác này, tôi sẽ không chết nhưng làm sao tìm ra điều này? Chỉ có một cách là kinh nghiệm sự chết.

Sau đó, ngài quyết tâm tham thiền, suy gẫm về đề tài này, ngài tưởng tượng thân thể ngài đã chết, không còn thở, không còn cảm xúc. Với một ý chí mãnh liệt, ngài rút hết sinh lực ra khỏi thể xác và một ngày kia ngài thành công. Thân thể ngài cứng đơ, bất động như người chết nhưng ngay lúc đó một quyền lực khôn tả phát ra từ đáy lòng và tràn ngập tâm tư ngài. Chuyện gì xảy ra sau đó, không thấy ngài nói đến nhưng chúng ta có thể đoán ra, xuyên qua lời dạy bảo của ngài. Chúng ta có thể nghĩ rằng quyền lực ấy là cái mà ta gọi Ân Huệ và khi được mặc khải đó thì ta tiến sâu vào nguồn sống để hòa hợp với đấng vô cùng: ngài đã hợp nhất với chân ngã. Từ đó, ngài kinh nghiệm rằng chân ngã ngự sâu trong lòng nhưng ngài chưa kinh nghiệm được một chân lý khác: chân ngã là sự thật duy nhất, ngoài sự thật đó không có gì nữa cả. Khi tiến sâu vào nội tâm, ngài thấy sự bình an nhưng khi ngài tỉnh dậy ngài vẫn không thỏa mãn vì điều ngài mới đạt đến chỉ là sự bình an của các vị Thánh. Ngài ra tâm suy gẫm về cảm giác thiếu thốn này, thân thể ngài khi đó thường nóng hực kéo dài trong nhiều tháng.

Dĩ nhiên, những người chung quanh không hiểu và cho rằng ngài mắc bệnh. Ngài đắm mình trong trạng thái vô ngã rất lâu, không màng gì đến những việc chung quanh. Chú của ngài không hiểu nên thường trách mắng ngài lười biếng không chịu học hành. Một hôm, ngài nghe nói đến ngôi đền Dakshiniwar, danh từ này có một sức hấp dẫn lạ lùng thế là ngài quyết định đến đó. Ðến nơi, ngài bước ngay đến trước tượng Shiva và nói: “Hỡi cha, cha đã gọi, nay con đến với cha.” Ngay lúc đó các cảm giác nóng hực, thiếu thốn hoàn toàn biến mất. Ngài chứng nghiệm được một chân lý mới: cha ta và ta là một. Từ đó ngài không cần tĩnh tâm mới có cảm giác an lạc mà lúc nào cũng ở tràng thái này.

Ramakrishna bị rất nhiều thử thách. Bị trẻ con chọc phá và các tu sĩ khác dèm pha, gây hấn nhưng lòng ngài lúc nào cũng bình thản, lặng yên không một chút vọng động. Kinh Gita dạy rằng một khi đã đạt dến trạng thái vô ngã lòng người không còn bị xao động bởi các sự kiện bên ngoài dù khắc khe, đau khổ đến đâu. Một sự an lạc tràn ngập thân ngài lôi cuốn những người chung quanh khiến họ khâm phục, kính mến và số người này mỗi ngày một đông.

Một điều đặc biệt cần lưu ý là ngài không học hay đọc những sách vở gì về trạng thái vô ngã mà ngài đạt được lúc thanh xuân. Cũng không ai chỉ dẫn ngài về trạng thái siêu việt này. Nhưng mỗi khi tín đồ nhờ ngài giảng giải một đoạn kinh sách gì, ngài mới đọc và thông hiểu nó một cách đẽ dàng. Các sách vở đó rất ư khó hiểu, nhưng ngài chỉ đọc lướt qua đã quán triệt được ngay vì ngài dã chứng nghiệm được những điều nói trong sách đó. Ngài dạy đạo bằng sự lặng thinh hơn là lời nói, nhiều người đến với ngài để chất vấn nhưng khi vừa gặp ngài thì mọi thắc mắc tự nhiên tiêu tan như đã được phúc đáp. Nếu một câu hỏi đặt ra ngài thường trả lời một cách dịu dàng, vắn tắc, dễ hiểu. Ngài không viết sách như những đạo sư khác mà chỉ dạy đạo qua cữ chỉ yên lặng hay vài câu nói giản dị. Môn đệ của ngài đến từ khắp xứ và tùy theo căn cơ lãnh hội ít hay nhiều. Ý kiến của họ về ngài tuy khác nhau nhưng ai cũng nhìn nhận ngài là một đạo sư vào bậc nhất và hết sức kính mến ngài. Vì đã đạt trạng thái vô ngã, Ramakrishna không phân biệt giữa ngài và những người khác, giữa người giàu, kẻ nghèo hay nam nữ. Ðối với ngài tất cả đều bình đẳng tuyệt đối kể cả những loài thú cầm.”

“Vì Ramakrishna không hề để lại sách vở, giáo lý nên người Âu không hiểu tại sao ngài lại nổi tiếng như vậy? Ông có thể cho chúng tôi biết một chút về giáo lý của ngài không?”

Mahayasa mỉm cười:

“Sau khi ngài qua đời, nhiều đệ tử đã xuất gia để truyền bá giáo lý, riêng tôi vẫn còn là cư sĩ, hàng ngày tôi vẫn đi làm nhưng sống giữa cõi đời mà tôi không còn tùy thuộc vào đời. Tôi còn nhớ rõ một lần ngài đã dạy như sau: Chúng ta xông pha trong cuộc đời với ý niệm cho rằng ta có thể tìm hạnh phúc trong cõi đời và nhờ cõi đời. Cho đến lúc gần đất, xa trời, nhiều người cũng không buồn hỏi rằng ý niệm đó có đúng không? Thật sự là chúng ta chả bao giờ chịu ngừng lại để suy nghĩ, lúc nào chúng ta cũng nghĩ rằng mình gần đạt được những điều mình mong mỏi. Chúng ta chỉ chịu dừng chân khi nào bị cuộc đời hắt hủi, giày vò.

Ramakrishna cho rằng đó là việc dĩ nhiên và giải thích bằng giấc mộng: Trong giấc mộng, nếu ta chỉ gặp những điều thích thú, chúng ta vẫn mơ mộng mãi và chỉ giật mình, tỉnh giấc khi gặp những chuyện đau buồn. Một cuộc đời êm đẹp không tiện cho sự suy tư về các vấn đề quan trọng nhưng nếu là mộng thì chắc chắn cũng phải có lúc tỉnh.

Trong nhiều năm ròng rã, chúng ta cố tìm hạnh phúc và nhiều lần tưởng đã đạt được nó để hưởng một cách lâu bền, nhưng lần nào ta cũng thất vọng. Sau đó ta lại tiếp tục chạy theo ảo ảnh đó như trước. Nếu biết dừng chân suy nghĩ, ta sẽ thấy chúng ta đuổi theo hạnh phúc nhưng không hề biết đến bản chất thật sự của nó và không biết phải dùng phương tiện nào để đạt nó. Hãy thử tìm hiểu thế nào là hạnh phúc. Ai cũng biết đặc tính của hạnh phúc là Thường Hằng nghĩa là nó phải ở mãi với ta, suốt đời ta lúc nào cũng vui sướng, tươi tắn. Nhưng tất cả những gì cuộc đời mang lại cho ta đều là vô thường, chỉ có những khoái cảm nhất thời chứ có gì lâu bền đâu. Vì khoái cảm nhiều và đến với ta như dòng nước chảy, chúng ta tưởng nó là hạnh phúc và kết luận rằng bao giờ giòng khoái cảm đó còn tiếp tục đến với ta, chúng ta được hưởng hạnh phúc. Suy gẫm kỹ khoái cảm chẳng qua chỉ là phản ứng của lòng ta trước sự vật bên ngoài, nó lôi cuốn chúng ta. Các sự vật này khi thì tạo vui, lúc thì gây khổ, hơn nữa cùng một sự vật mà có thể tạo vui hay gây khổ tùy lúc bởi thế ta phải nhận thức rằng Hạnh Phúc không có ở sự vật bên ngoài. Nếu nó là sự vật bên ngoài, chúng ta phải càng có hạnh phúc khi càng có nhiều sự vật mới đúng chứ.

Thật sự, người giàu có, lắm sự vật chưa chắc đã hạnh phúc hơn kẻ nghèo. Nói cách khác, kẻ nghèo ít của cải chưa chắc thiếu hạnh phúc hơn người giàu. Tóm lại, chúng ta hấy rõ rằng mình theo đuổi hạnh phúc nhưng không biết thế nào là hạnh phúc và cũng chả biết phải dùng cách nào để đạt được nó.

Những người tìm hiểu một cách chân thành sớm muộn gì cũng thấy rằng hạnh phúc nằm ở ngay nội tâm ta. Các khoái cảm không có tính cách tư hữu mà chỉ là một tia nhỏ của hạnh phúc chân thật thuộc bản tính tự nhiên của con người và bị che lấp bởi vô minh. Một con chó gậm xương bị trầy miệng, chảy máu nó lại tưởng rằng máu phát xuất từ khúc xương, chúng ta cũng thế cứ tưởng sẽ được hạnh phúc khi chạy theo những vật ngoại giới.

Có lẽ các ông khó chấp nhận quan niệm này nhưng ít ra cũng tin rằng những nổi vui hay buồn tùy ở chúng ta nhiều hơn là sự vật bên ngoài. Dù sao, sự chấp nhận này chưa đủ đem lại cho ta hạnh phúc vì có hai nỗi de dọa: sự ham muốn và sợ hãi. Chúng ta càng ham muốn thì càng sợ hãi và càng sợ hãi lại càng đau khổ, thay vì diệt trừ những đe dọa này chúng ta lại quỵ lụy chúng. Khi ham muốn lên tiếng: Hãy đạt được vật dó đi rồi sẽ sung sướng thì chúng ta tin tưởng và tìm mọi cách đạt kỳ được vật đó, nếu chúng ta không đạt được thì chúng ta đau khổ mà nếu đạt được thì ham muốn lại thúc dục ta tìm đến một vật khác nữa. Thế mà chúng ta vẫn không thấy mình bị lừa gạt chút nào mới lạ, quả là ham muốn như lửa đỏ, càng cháy dữ khi càng đổ thêm dầu. Bao giờ chúng ta là nô lệ của dục vọng, chúng ta không sao đạt được hạnh phúc. Nếu đạt được lại sợ mất đi, càng có nhiều càng lo sợ nhiều, có đúng thế không?

Tóm lại, muốn có hạnh phúc thật sự phải vượt lên khỏi sợ hãi và ham muốn.”

Ðức Mahayasa im lặng như đắm chìm vào một quá khứ rồi tiếp tục:

“Ðến đây chúng ta cần được một vị thầy hướng dẫn thêm. Người này phải hiểu rõ hạnh phúc ở đâu, phải theo đường lối nào. Người này phải thắng được các đe dọa như sợ hãi, ham muốn và thật sự đạt được đến niềm hạnh phúc vô biên đó mới có đủ kinh nghiệm dìu dắt chúng ta. Như con bệnh phải đi tìm danh y thì kẻ cầu đạo cần một vị thầy. Ramakrishna chính là vị thầy mà tôi gặp. Kinh sách xưa xác nhận sự minh triết có thể giúp con người thoát khỏi khổ đau nhưng ta không thể tìm nó bằng lý luận hay trong sách vở. Trong quá khứ đã có những bậc đạo sư như Ðức Phật, Ðức Christ đã tìm được hạnh phúc và hướng dẫn những kẻ khác, sau khi các ngài tịch diệt môn đệ có trình bày giáo lý của các ngài trong kinh sách nhưng dù sao chăng nữa, kinh sách cũng có những khiếm khuyết, ngôn ngữ làm sao diễn tả hết được, làm sao bằng lời những vị đạo sư hãy còn sống bên cạnh chúng ta.

Ramakrishna đã dạy rằng nguyên nhân các đau khổ đều ở trong ta chứ không phải ở bên ngoài. Có người hỏi thế giới chúng ta đang sống có điều gì xấu xa không thì ngài đã trả lời rằng nó rất tốt đẹp, có xấu xa chăng là lòng người, vì con người đã hiểu sai nó. Công việc của chúng ta hiện nay là phải đi ngược dòng tìm cho ra sự sai lầm nguyên thủy để diệt trừ nó thì mọi việc sẽ tốt đẹp…

Phát giác và trừ tuyệt cái sai lầm căn bản là phương thuốc chánh, tất cả phương tiện khác đều chỉ là tạm bợ, nhiều lắm là chúng giúp ta tìm ra phương thuốc nói trên. Ðó là giá trị của các tôn giáo, các nghi lễ, tiếc thay tôn giáo hay gây sự chia rẽ, đôi khi còn làm cho tâm trí suy kém, cản trở bước tiến của giáo đồ.

Có người đã hỏi tại sao con người luôn luôn đau khổ, sợ hãi thì ngài trả lời rằng sự kiện đó là do lầm lạc phát sinh từ sự thiếu hiểu biết chính mình.

Có nhiều người họ biết mình rất rõ ràng hoặc lại cho rằng điều này không cần thiết vì trong đời sống hàng ngày đầy rẫy những phức tạp, điều ta cần khai thác là làm gì cho có lợi, kiếm được thật nhiều. Ðể khai thác, con người gán cho kiến thức một giá trị quá mức như bắt mọi người phải đến trường. Từ xưa đến nay nhân loại thu tập biết bao kiến thức nào là sử ký, địa dư, thiên văn, vật lý, triết học và siêu hình học nữa. Nếu những kiến thức này là sự hiểu biết đứng đắn thì nó phải đem lại hạnh phúc cho nhân loại chứ. Sự thật lại khác hẳn, chúng ta học cách chế ngự quyền lực thiên nhiên, đi ngược luật tạo hóa, khiến cho xã hội càng ngày càng đau khổ, bất mãn thêm. Sự chế ngự này, con đẻ của khoa học chỉ đem lại lợi ích cho một thiểu số thôi. Do đó, lắm kẻ giàu sang sung sướng nhưng vẫn không sao hạnh phúc được trước khổ đau của đa số. Tóm lại, khoa học đã tạo cho con người nhiều khó khăn hơn là giải quyết các điều kiện căn bản của cuộc sống.

Ðức Mahayasa nhìn mọi người trong phái đoàn rồi tiếp tục:

“Ðã có một giáo sư đại học hỏi Ramakrishna về bức tường vô minh mà khoa học không sao vượt qua được. Họ biết các vật vi tế như nguyên tử, điện tử nhưng đó cũng chỉ qua sự ức đoán thôi chứ không phải biết một cách trực tiếp. Họ cũng biết các vật vĩ đại như các giải thiên hà nhưng cũng chỉ ngưng ở đây thôi. Ngài đã trả lời rằng ngoại cảnh chỉ đưa con người tới chỗ vô minh mà thôi. Theo ngài, nếu nhân loại cố tìm tòi những gì khác hơn là bản chất con người thì những kiến thức ấy không phải sự hiểu biết thật sự. Lời nói này có vẻ làm giảm giá trị của khoa học nhưng nếu suy nghĩ kỹ ta thấy ngài rất có lý. Sự hiểu biết về khoa học hiện nay còn nhiều điểm đáng nghi, các khoa học gia vẫn còn bất đồng ý kiến về nhiều vấn đề. Sự bất đồng ý kiến này ít ai biết đến vì khi đa số bác học đồng ý về một chuyện gì thì quần chúng đã lên tiếng ủng hộ, do đó những người bất đồng ý kiến cũng phải im, dù có thể họ rất có lý và số đông đã sai.

Trong phạm vi khoa học cũng như triết học và tôn giáo, ý kiến thường sai biệt nhiều tùy tâm trí nhà bac học. Sự tìm hiểu chân lý bắt buộc một học giả phải có những đức tính cao quý vì tâm trí học giả có một ảnh hưởng to lớn trong sự tìm hiểu và sự hiểu biết chỉ có thể xem như một chánh kiến khi người tìm kiếm có đủ tư cách vì thế khoa học đã vấp nhiều lỗi lầm khó sửa. Sự thất bại của khoa học phát sinh từ một lầm lỗi nguyên thủy là các bác học tưởng mình đã biết mình hay không cần sự tự biết mình. Trong cả hai trường hợp, họ bắt đầu cuộc đi tìm với những thành kiến sai lầm về bản chất họ do đó, những điều họ tìm ra dù có giá trị vẫn bắt đầu từ những sai lầm căn bản, hậu quả là khoa học ngày nay đã đưa nhân loại đến những hố thẳm thay vì chân trời sáng lạng.

Một hôm có tín đồ đến hỏi Ramakrishna về các thần tượng mà họ không thích. Họ muốn ngài chấp nhận ý kiến của họ là không nên thờ Thượng Ðế dưới hình thức thần tượng. Một người hỏi ngài:

“Thượng Ðế có sắc tướng không?”

Ngài đáp:

“Ai nói rằng Thượng Ðế có sắc tướng?”

“Nếu Thượng Ðế không có sắc tướng thì tại sao lại thờ ngài trong các hình tượng làm gì?”

“Chúng ta hãy để Thượng Ðế sang một bên và xin anh cho tôi biết anh có sắc tướng không?”

“Dĩ nhiên là có chứ, hãy nhìn thân thể này…”

“Nhưng anh có phải cái xác thân đen xám, râu tóc xồm xoàm này không?”

“Dĩ nhiên tôi là xác thân này chớ còn gì nữa.”

“Trong lúc ngủ say, không mơ mộng, anh có phải là nó không?”

“Có chứ, vì khi thức dậy tôi thấy tôi đâu thay đổi gì.”

“Và rồi khi anh chết?”

“Thì tôi cũng còn là nó.”

“Vậy tại sao khi người ta hỏa thiêu nó, nó không nói nó không chịu đi và muốn ở lại nhà?”

Khi đó người này ý thức rằng mình đã sai và đáp rằng:

“Tôi không phải là thể xác này mà là sự sống trong nó.”

“Anh hãy suy gẫm kỹ điều này. Hồi nẫy anh nói rằng anh là thể xác này bây giờ anh lại nói rằng không phải. Cho mình là xác thân này là một lỗi lầm nguyên thủy. Bao giờ sự sai lầm này còn, dù anh nói Thượng Ðế có sắc tướng hay không cũng không ăn thua gì. Khi sự sai lầm được đánh tan thì mọi việc sẽ sáng tỏ. Tóm lại, theo Ramakrishna thì nguyên nhân của sợ hãi, dục vọng, ham muốn là do sai lầm đầu tiên: tự cho mình là xác thân này vì sợ hãi hay ham muốn đều bắt đầu từ thể xác này. Dĩ nhiên, rất nhiều người cũng đồng ý như thế và tin rằng con gười không phải thể xác mà là một sự sống trường cửu. Sách vở cũng nói như thế rất nhiều nhưng trong đời sống thực tế, họ có làm gì khác đâu. Lúc đầu họ nghĩ rằng nhờ kiến thức thu tập, hiểu biết các chân lý cao siêu họ sẽ khác người thường nhưng tại sao họ vẫn hành động y như họ là thể xác nầy vậy? Nếu xác thân họ nhỏ bé, họ cho rằng mình bé nhỏ. Nếu xác thân họ to lớn, đẹp đẽ họ cho rằng mình lớn đẹp. Nếu xác thân họ ốm đau, họ cho rằng mình bệnh hoạn. Nếu tư tưởng họ phong phú, họ cho rằng mình thông minh… Tóm lại, sự sợ hãi và dục vọng vẫn y như xưa, có thể lại còn gia tăng hơn vì họ hãnh diện về mình hiều hơn xưa. Nói một cách khác, sở dĩ họ làm thế vì chưa chứng nghiệm được con người thật của mình, sự sai lầm nguyên thủy vẫn còn tác động mạnh mẽ nơi họ. Kiến thức của họ chưa tạo một sự biến chuyển thật sự…

Ramakrishna đã dạy rằng kiến thức (về tâm linh) thu tập qua sách vở thường tai hại hơn là một người thất học, dốt nát. Những người kiến văn quảng bác, lịch thiệp, bằng cấp, danh vọng thường ích kỷ lại còn ngạo mạn, họ cho rằng mình biết nhiều, hiểu nhiều và không chịu tìm hiểu, thực hành đào sâu vào thêm nữa. Ðó là sự hiểu biết hời hợt qua sách vở chứ đâu đâu phải là một chứng nghiệm nội tâm. Sách vở chỉ là la bàn hướng dẫn chứ đâu phải minh triết thật sự. Sự thu tập kiến thức kiểu này tạo nên trình trạng hỗn độn trong triết lý và thần học. Các triết gia và nhà thần học đã thảo luận không ngừng về những vấn đề khó khăn như nguyên nhân đầu tiên, sự thật cuối cùng, bản chất thời gian, định mệnh con người, tự do, giải thoát v.v… và chả đạt đến một kết qủa gì hết. Các bậc hiền triết đứng bên ngoài cuộc thảo luận đó vì họ có lối giải quyết riêng, trái với các giải pháp trí thức. Thay vì thảo luận họ cố khám phá lấy sự thật và khi tìm ra sự thật, các vấn đề trên sẽ đương nhiên được giải quyết.”

Nói đến đây Ðức Mahayasa lặng yên chìm đắm trong một không khí êm đềm nào đó. Giáo sư Evanz-Wentz cố gắng:

“Nhưng con người không thể sống bằng đức tin mà còn phải thỏa mãn lý trí nữa chứ, đối với những người thiên về lý trí, không biết ngài nghĩ sao?”

Mahayasa mỉm cười:

“Nếu thầy tôi Ramakrishna còn sống có lẽ ngài sẽ khuyên ông nên cầu nguyện.”

“Tại sao như vậy?”

“Cầu nguyện là phương tiện cuối cùng của con người. Khi nào lý luận tỏ ra bất lực thì sự cầu nguyện sẽ bổ sung, phù trì, cứu độ.”

“Nhưng nếu tôi không thể cầu nguyện thì phải làm sao?”

Ðức Mahayasa nhìn giáo sư Wentz, ánh mắt ngài long lanh một niềm ưu ái:

“Ông nên tiếp xúc với các bậc chân tu, các vị này sẽ hướng dẫn tâm hồn ông lên cõi thiêng liêng và thức động các khả năng thiêng liêng nhất của ông. Có lẽ ông cần một vị thầy.”


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.