Gabrielle quỳ xuống cạnh chiếc ghế tựa bằng da cũ của ông nội cô và xoa dầu gừng nóng vào đôi tay nhức mỏi của ông. Các khớp tay của Franklin Breelove bị sưng tấy, các ngón tay biến dạng vì bệnh viêm khớp. Bài massage nhẹ hàng ngày dường như mang lại cho ông đôi chút nhẹ nhõm.
“Thế nào hở ông?” cô hỏi, nhìn vào khuôn mặt nhăn nheo của ông, đôi mắt màu xanh lục nhợt nhạt, và hàng lông mày trắng rậm rạp.
Ông chậm chạp uốn cong các ngón tay hết mức có thể. “Tốt hơn rồi,” ông nói dứt khoát và vỗ lên đầu Gabrielle như thể cô là chú chó săn nhỏ chân vòng kiềng già nua của ông, Molly. “Cháu là một cô bé ngoan.” Bàn tay ông trượt xuống vai tới bắp tay cô, và mắt ông khép lại. Ông ngày càng làm thế thường xuyên hơn. Đêm qua ông đã ngủ gục giữa bữa ăn, chiếc nĩa lửng lơ trước môi. Ông đã bảy mươi tám tuổi và chứng ngủ rũ của ông đang trở nên tệ đến mức ông chỉ mặc pyjama. Mỗi buổi sáng ông thay một bộ mới sạch sẽ trước khi hướng xuống hành lang vào phòng đọc sách. Nhượng bộ duy nhất cho ngày của ông là đôi giày da trên chân.
Theo những gì Gabrielle có thể nhớ được, ông cô đã làm việc trong phòng đọc sách tới tận trưa, rồi tối muộn, làm những việc mà cô đã không rõ lắm cho tới gần đây. Khi còn bé cô bị dẫn dụ tin rằng ông là một nhà đầu tư liều lĩnh. Nhưng từ khi cô về nhà cô đã chặn các cuộc gọi từ những người muốn dặt năm trăm hoặc hai nghìn đô cho những tay ưa thích như Eddie Sharkey “Cá mập” hoặc Greasey Dan Muldoon. Giờ thì cô nghi ngờ ông là nhà cá độ.
Ngồi xuống gót chân, Gabrielle nhẹ nhàng xoa bóp bàn tay xương xẩu của ông. Phần lớn cuộc đời cô, ông cũng là hình bóng người cha. Ông lúc nào cũng lộc cộc và gắt gỏng và ông không quan tâm đến mọi người, trẻ con, hay thú cưng nhà khác. Nhưng nếu bạn thuộc về ông, ông sẽ dời cả thiên đường và mặt đất để làm bạn hạnh phúc.
Gabrielle đứng dậy và đi ra khỏi căn phòng vẫn luôn có múi sách, da, và ám đầy xì gà tẩu – những mùi hương dễ chịu và thân quen giúp chữa lành trí óc – cơ thể – tinh thần cô kể từ buổi tối một tháng trước khi mẹ và di Yolanda của cô đón cô trên hiên sau nhà cô và lái lên phía bắc bốn giờ liên tục đến nhà ông cô. Lúc này đâycái đêm đó dường như xa vời vợi, vậy mà cô vẫn nhớ nó như thể nó mới xảy ra ngày hôm qua. Cô có thể tai hiện màu sắc áo phông của Joe và vẻ trống không trên mặt anh. Cô có nhớ mùi hương hoa hồng ở sân sau của cô, và cả những cơn gió lạnh tốc qua đôi bờ má ẩm ướt của cô khi cô ngồi ở ghế hành khách trên chiếc Toyota của mẹ cô. Cô nhớ bộ lông mềm mại của Beezer trong các ngón tay cô, tiếng gừ gừ đều đặn của con mèo trong tai cô, âm thanh giọng mẹ cô, bảo cô rằng tim cô rồi sẽ lành lại và cuộc đời cô rồi sẽ trở nên tốt đẹp hơn.
Cô đi dọc hành lang dài tới căn phòng khách mà cô đã chuyển thành phòng vẽ của mình. Hàng chồng hộp và sọt chứa tinh dầu lẫn nến thơm chất đầy cạnh tường, chặn hết ánh nắng mặt trời tháng Chín. Cô vẫn giữ cho mình bận rộn kể từ cái ngày cô đến đây chỉ với một túi quần áo và tinh dầu. Cô ném mình vào công việc, giữ đầu óc bận bịu, cho bản thân thi thoảng quên đi rằng trái tim cô đã tan nát.
Từ ngày cô đến sống với ông nội, cô đã về Boise chỉ một lần để ký vào các giấy tờ chào bán Anomaly. Cô đã thăm Francis, và đảm bảo chắc chắn rằng bãi cỏ của mình sẽ được cắt dọn. Cô đã đặt hệ thống tưới cây của mình hoạt động lúc bốn giờ mỗi sáng, để cô không cần lo lắng chuyện cây cỏ của cô sẽ chết, nhưng cô cần thuê dịch vụ làm vườn để cắt cỏ. Khoảng thời gian cô ở trong thị trấn, cô đã thu thập thư từ, lau chùi hang lớp bụi khỏi đồ gỗ, và kiểm tra thư thoại trong máy trả lời tự động.
Chẳng có một lời nào từ một người mà cô muốn được nghe nhất. Một lần cô nghĩ mình đã nghe thấy tiếng vẹt quác quác, nhưng rồi đoạn ghi âm lại đầy những tiếng chuông điện thoại reo lên từ xa và cô gạt nó đi như là một trò nghịch ngợm hoặc một người bán hàng qua điện thoại.
Cô không nghe gì từ Joe hoặc gặp lại anh kể từ buổi tối anh đứng trên hiên nhà cô và bảo cô rằng cô đã nhầm tình dục thành tình yêu. Buổi tối cô bảo anh rằng cô yêu anh và anh lùi bước khỏi cô như thể cô bị bệnh truyền nhiễm. Cảm giác nhức nhối trong tim cô cứ kéo dài không ngừng nghỉ, ở cùng cô khi cô thức dậy mỗi buổi sáng và cả khi cô lên giường mỗi buổi tối. Thậm chí trong giấc ngủ cô cũng không thể thoát khỏi ký ức về anh. Anh đến với cô trong các giấc mơ của cô, như anh vẫn luôn thế. Nhưng giờ đây khi cô thức dậy, cô cảm thấy trống rỗng, cô đơn, và không hề có thôi thúc muốn vẽ anh. Cô chưa cầm đến một cây cọ nào kể từ ngày anh xộc vào nhà cô tìm bức Monet của ông Hilard.
Gabrielle vào phòng khách và đi đến chỗ bàn làm việc nơi đặt tất cả lọ tinh dầu và các lọ dầu nền của cô. (Dầu nền, dầu dẫn hay dầu chuyển là loại dầu thực vật được sử dụng để vận chuyển các tinh dầu tinh chất vào sâu trong làn da. Dầu tinh chất là loại dầu được cô đọng từ thành phần hữu hiệu của thực vật nên không thể bôi trực tiếp lên da. Để hấp thụ thành phần của tinh dầu nguyên chất thong qua da phải sử dụng bằng cách pha trộn với dầu nền mang tinh chất thực vật 100%. Massage bằng dầu nền sẽ giúp tinh dầu nguyên chất thẩm thấu vào da một cách hiệu quả. Ngoài ra nó còn cung cấp các dưỡng chất cho da, giúp da mềm mại, mịn màng. Dầu nền còn được dung để dưỡng tóc giúp tóc mềm mượt tự nhiên, tránh chẻ ngọn, khô cứng. Nuôi dưỡng và tái tạo làn da của bạn). Các khoảng tối trong căn phòng được kéo lên để chống lại những tia sáng mặt trời phá hoại, nhưng Gabrielle cũng không cần phải nhìn để chọn được một lọ nhỏ gỗ đàn hương. Cô bỏ nắp ra và giữ nó gần mũi. Ngay lập tức hình ảnh của anh tràn ngập đầu cô. Hình ảnh khuôn mặt anh, đôi mắt nóng bỏng, đói khát của anh nhìn cô dưới hàng my lim dim, môi anh ẩm ướt vì hôn miệng cô.
Cũng như ngày hôm qua, và hôm kia, cảm giác đau khổ cuồn cuộn chảy qua cô trước khi vặn nắp lọ dầu lại và đặt nó lên bàn. Không, cô vẫn không thoát được anh. Vẫn chưa. Nó vẫn đau, nhưng có lẽ ngày mai sẽ tốt hơn. Có lẽ ngày mai cô sẽ chẳng cảm thấy gì nữa. Có lẽ ngày mai cô sẽ sẵn sàng quay lại nhà cô ở Boise và đối diện với cuộc đời cô một lần nữa.
“Mẹ có thư của con này,” mẹ cô nói khi bà lướt vào phòng khách. Claire Breedove có một giỏ thảo mộc và hoa tươi mát treo trên một khuỷu tay và một phong bì màu vàng lớn trong tay. Bà mặc bộ váy thêu Mexico rực rỡ với một cái khăn choàng khoác lên trên để tránh cái giá lạnh buổi sáng sớm và một vòng cổ gồm nhiều búp bê ủ rũ để tránh rủi ro. Một lúc nào đó trong chuyến đi tới Mexico bà đã trở thành người bản xứ và không bao giờ quay trở lại như trước nữa. Mái tóc tết dài màu nâu đỏ lửng lơ trên đầu gối và có vài đường sọc xám. “Sáng nay mẹ đã nhận được một dấu hiệu mạnh mẽ. Một điều gì đó tốt đẹp sắp xảy ra,” Claire dự đoán. “Yolanda tìm thấy một con bướm chúa trên hoa loa kèn, và con biết điều đó có ý nghĩa gì rồi đấy.”
Không, Gabrielle không biết nhìn thấy một con bướm trong vườn có nghĩa gì, ngoài sự thật rằng nó đang đói và đang tìm thức ăn. Kể từ khi mẹ cô định sẵn cho cô một người tình da nâu nồng nàn, các dự đoán tâm linh của bà là một chủ đề đau đớn. Gabrielle không hỏi them về bướm.
Đằng nào Claire cũng tiết lộ khi bà đưa phong thư cho Gabrielle. “Hôm nay con sẽ nghe được tin tốt. Bướm chúa luôn mang đến tin tốt.”
Cô nhận ra nét chữ của Francis khi lấy gói hang từ mẹ cô và xé nó ra. Bên trong là hóa đơn điện nước hàng ngày cho ngôi nhà ở Boise của Gabrielle và nhiều thư chào hàng linh tinh khác nhau. Hai bức thư khiến cô chú ý ngay lập tức. Bức đầu tiên là một phong bì thư với địa chỉ hoàn lại của ông bà Hilard in ở mặt sau. Bức thứ hai là từ nhà tù bang Idaho. Cô không cần nhìn địa chỉ cũng biết ai gửi bức thư này. Cô nhận ra nét chữ của anh. Kevin.
Trong vài giây không phòng vệ, cảm giác vui sướng tràn ngập cô, như thể cô vừa nghe tin từ một người bạn cũ. Rồi cũng nhanh như vậy, cảm giác tức giận và một dấu chấm đen buồn bã thay thế niềm vui sướng.
Cô đã không nói chuyện với Kevin từ trước vụ bắt giam anh ta, nhưng qua luật sư của mình cô biết được rằng ba ngày sau vụ bắt bớ của Kevin, anh ta đã đạt được một thỏa thuận với văn phòng công tố. Anh ta líu lo như loài chim hoàng yến nổi tiếng, đưa ra thông tin, danh tính và mặc cả nài nỉ đổi lấy việc giảm tội danh chống lại anh ta. Anh ta kể tên tất cả các nhà sưu tập và buôn lậu mà anh ta từng môi giới giao dịch, và anh ta nêu tên lũ trộm anh ta đã dùng để thực hiện vụ trộm nhà Hilard. Theo như Ronald Lowman, Kevin đã thuê anh em nhà Tongan những kẻ đang được tại ngoại nhờ đóng tiền bảo lãnh và chờ phiên tòa xử vài vụ trộm nhà dân mà mới đây chúng bị buộc tội thực hiện.
Nhờ hợp tác, Kevin được tuyên năm năm trong tù nhưng sẽ được ra sau hai năm.
Cô đưa cho mẹ cô phong bì thư từ nhà Hilard. “Mẹ có thể đọc nó nếu mẹ thấy thích,” cô nói, rồi lấy bức thư của mình và đi qua hành lang vào phòng ăn sáng. Cô ngồi xuống một cái ghế dài có đệm, và tay cô run run khi cô mở lớp phong bì dày. Một bức thư bốn trang viết trên giấy nhà tù rơi ra, và cô đọc lướt những dòng chữ nghiêng nghiêng nhờ ánh sáng đang tràn qua cửa sổ.
Gabe thân mến,
Nếu em đang đọc bức thư này vậy thì có hy vọng rằng em sẽ cho anh cơ hội biện hộ cho bản thân và những hành động của anh. Đầu tiên hãy để anh nói rằng anh vô cùng xin lỗi vì nỗi đau mà anh chắc hẳn đã gây ra. Anh không bao giờ có ý định, cũng như anh không bao giờ tưởng tượng đến, rằng công việc kinh doanh khác của anh sẽ lại ảnh hưởng tiêu cực đến em.
Gabrielle dừng lại. Công việc kinh doanh ư? Đó là cách anh ta gọi việc buôn lậu các bức tranh và đồ cổ ăn cắp sao? Cô lắc đầu và quay sự chú ý về lại bức thư. Anh ta nói về tình bạn của họ, và cô có ý nghĩa nhiều với anh ta như thế nào và cả những quãng thời gian tốt đẹp mà họ đã cùng chia sẻ. Cô đang gần như bắt đầu thấy tiếc cho anh ta thì bức thư rẽ sang một hướng mới không chút hối hận.
Anh biết rằng có rất nhiều người xem hành động của anh là tội phạm, và có thể họ đã đúng. Nhận và bán đồ ăn cắp là phạm luật, nhưng tội ác THỰC SỰ của anh là đã muốn quá nhiều. Anh đã muốn những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Và vì điều đó anh đang phải nhận một án phạt khắc nghiệt hơn cả những tên bị kết án hành hung. Những tên đánh đập vợ và lạm dụng con cái còn có án phạt nhẹ hơn anh. Mục đích anh chỉ ra điều này là đặt vào đúng cảnh, các tội của anh dường như thực sự nhỏ xíu khi so sánh. Ai bị đau nào? Những người giàu có được bảo hiểm ư?
Gabrielle thả bức thư xuống đùi. Ai bị đau nào? Anh ta thực sự nghiêm túc sao? Ánh mắt cô nhanh chóng lướt qua phần còn lại của bức thư đầy những lời lý giải và bào chữa. Anh ta đã gọi Joe bằng vài cái tên hạn chế, hy vọng rằng cô đủ thong minh để nhận thấy Joe chỉ dung cô để tiếp cận anh ta, và hy vọng rằng đến giờ cô đã đá Joe rồi. Gabrielle ngạc nhiên khi anh ta không biết về sự dính líu của cô, và cho tới cuối bức thư anh ta còn thực sự đề nghị cô viết lại cho anh ta như thể họ vẫn là bạn. Cô gạt phăng ý đó đi, và với bức thư trong tay, cô lại đi vào phòng khách.
“Trong phong bì của con có gì vậy?” Claire hỏi từ nơi bà đang đứng ở bàn làm việc, trộn oải hương và hồng tươi bằng cối chày.
“Một bức thư từ Kevin. Anh ta muốn con biết rằng anh ta thấy tiếc, và rằng anh ta không thực sự tội lỗi đến thế. Và bên cạnh đó, anh ta chỉ ăn trộm của người giàu.” Cô dừng lại để thả bức thư vào sọt rác. “Con đoán là con bướm đã bảo mẹ rằng hôm nay con sẽ nghe được tin tốt chất đầy cái thư đó.”
Mẹ cô nhìn cô theo cái cách bình thản, điềm tĩnh mà bà có. Phán xét rõ rang, và Gabrielle cảm thấy như cô vừa hất cẳng một đứa trẻ được yêu thương yêu hòa bình.
Cô đoán là mình có như thế thật, nhưng dạo gần đây cô dường như không thể chặn mình lại. Cô cứ mở miệng và tất cả cơn tức giận cô có trong linh hồn đều trào ra.
Chỉ mới tuần trước cô Yolanda của cô đang say sưa với chủ đề ưa thích nhất của mình, Frank Sinatra, và Gabrielle đã càu cạu, “Sinatra như dở hơi ấy, và người duy nhất không nghĩ như vậy là những phụ nữ vẽ lên lông mày của họ.”
Gabrielle đã ngay lập tức xin lỗi bà cô, và Yolanda dường như đã chấp nhận và quên điều đó đi, nhưng một giờ sau cô lại tình cờ chấp nhận một cái ống lấy nước sốt gà tây từ cửa hang IGA.
Gabrielle không phải là chính mình một chút nào nữa, nhưng cô cũng không còn có lý trí thực sự rõ ràng của riêng bản thân mình. Thường thì cô luôn biết rõ mọi việc, nhưng bị làm tan nát cả long tin lẫn trái tim bởi hai người đàn ông khác nhau trong cùng một ngày đã giáng cho niềm tin của cô với chính bản thân và thế giới của mình một đòn đau đớn.
“Ngày hôm nay vẫn chưa qua mà,” Claira nói và chỉ cái chày vào phong thư nhỏ trên bàn. “Nhà Hilard sẽ có một bữa tiệc. Thiệp mời nói rằng họ muốn tất cả những ai có liên quan đến việc thu hồi bức tranh của họ đến.”
“Con không thể đi đâu.” Chỉ ý nghĩ nhìn thấy Joe thôi cũng khiến dạ dày cô nhộn nhạo hết cả lên, như thể cô vừa nuốt con bướm thần bí từ vườn mẹ cô xuống.
“Con không thể trốn ở đây mãi được.”
“Con có trốn gì đâu.”
“Con đang né tránh cuộc đời mình.”
Tất nhiên là cô đang né tránh cuộc đời rồi. Cuộc đời cô là một lỗ đen tăm tối, trải dài trước mặt cô và trống không. Cô đã ngồi thiền và cố hình dung cuộc đời cô không có Joe, nhưng cô không thể. Cô đã luôn rất quả quyết trong cuộc đời không gò bó của mình. Nếu có thứ gì đó không ổn cô sẽ quay người lại và tiến sang một hướng mới. Nhưng lần đầu tiên, tất cả những nơi mà cô quay sang dường như đều tệ hơn nơi cô đang đứng.
“Con có rắc rối với việc khép lại quá khứ.”
Gabrielle nhặt một nhánh bạc hà lên và xoắn nó giữa các ngón tay.
“Có lẽ con nên viết cho Kevin một bức thư. Rồi con nên nghĩ về việc đi đến bữa tiệc nhà Hilard. Con cần đương đầu với người đàn ông đã làm con vô cùng đau đớn và khiến con giận dữ điên cuồng.”
“Con không giận dữ đến mức đó.”
Claire chỉ nhìn không chớp.
“Được rồi, con hơi giận dữ đấy.”
Cô gạt ngay ý nghĩ viết thư cho Kevin ra khỏi đầu, nhưng có lẽ mẹ cô nói đúng. Có lẽ cô nên đương đầu với anh để cô có thể tiếp tục đi tới. Nhưng không phải Joe. Cô chưa sẵn sàng để gặp Joe, để nhìn vào đôi mắt nâu quen thuộc của anh và thấy chẳng có gì nhìn lại cô.
Khi cô đến ở với ông cô một tháng trước, cô, mẹ cô, và cô Yolanda đã trò chuyện về Kevin, nhưng chủ yếu là cô nói về cảm xúc của cô dành cho Joe. Dù vậy cô đã không đề cập đến việc Joe là phần dương của cô, cũng như không có ý định đấy. Dẫu sao mẹ cô cũng biết.
Mẹ cô tin rằng nửa kia của linh hồn à định mệnh bện vào nhau không thể chia cách. Gabrielle muốn tin rằng mẹ cô đã sai. Mẹ cô, Claire đã đối phó với nỗi mất mát người chồng bằng cách thay đổi hoàn toàn cuộc sống của mình. Gabrielle không muốn thay đổi cuộc sống của cô. Cô muốn cuộc đời cũ của mình quay lại, hay ít nhất cũng giống cũ nhiều hết mức có thể.
Nhưng có lẽ mẹ cô đã đúng về một việc. Có lẽ đã đến lúc về nhà. Đến lúc khép lại quá khứ. Đến lúc thu nhặt những mảnh vụn cuộc sống và sống tiếp cuộc sống của cô.
Joe nhét băng vào đầu xem băng và ấn nút bật. Tiếng bánh răng chuyển động vo vo lách cách lấp đầy căn phòng thẩm vấn yên tĩnh khi anh dựa hông vào bàn và khoanh tay ngang ngực. Đoạn phim lập lòe và lóe lên, rồi mặt Gabrielle tràn ngập màn hình tivi.
“Bản thân tôi cũng là một nghệ sĩ,” cô nói, và nghe thấy giọng cô sau một tháng cũng giống như cảm thấy ánh nắng chiếu trên mặt anh sau một mùa đông đằng đẵng lạnh lẽo. Nó tràn qua tất cả những kẽ nứt và chỗ rạn và làm anh ấm lên từ trong ra ngoài.
“Vậy thì cô có hiểu được việc ông Hillard khá nóng lòng muốn lấy lại nó” giọng của chính anh vang lên từ bên ngoài máy quay.
“Tôi cũng hình dung là thế.” Đôi mắt màu xanh lục to tròn của cô ngập đầy bối rối và sợ hãi. Anh không nhớ là cô lại trông khiếp đảm và cố gắng mạnh mẽ để không thể hiện nó ra đến thế kia. Giờ anh nhìn thấy điều đó bởi vì anh biết cô quá rõ.
“Cô đã từng nhìn thấy hay gặp gỡ người đàn ông này chưa?” anh hỏi. “Tên hắn ta là Sal Katzinger.”
Cô cúi đầu xuống và nhìn mấy bức ảnh trước khi đẩy chúng lại qua bàn. “Không. Tôi không nghĩ là mình từng gặp anh ta.”
“Cô có bao giờ nghe đến tên hắn ta được đối tác làm ăn của cô Kevin Carter đề cập đến chưa?” Đại úy Luchetti hỏi.
“Kevin? Kevin thì có liên quan gì với người đàn ông trong bức ảnh này?”
Đại úy giải thích mối quan hệ giữa Catzinger và Kevin cùng sự dính líu đáng nghi ngờ của họ trong vụ trộm bức Monet của nhà Hillard. Joe nhìn ánh mắt Gabrielle đảo qua đảo lại giữa Luchetti và chính anh, và mọi cảm xúc có thể tưởng tượng được đều ở ngay đó trên khuôn mặt xinh đẹp của cô. Anh quan sát cô nhét tóc ra sau tai và nheo nheo mắt khi cô biện hộ dữ dội cho người đàn ông không xứng đáng với tình bạn của cô. “Tôi chắc chắn sẽ biết nếu anh ấy buôn bán đồ cổ ăn cắp. Chúng tôi làm việc cùng nhau hầu như mỗi ngày, và tôi sẽ biết nếu anh ấy đang che giấu một bí mật như thế.”
“Bằng cách nào?” đại úy hỏi.
Joe nhận ra ánh mắt cô trao cho Luchetti. Đó là ánh mắt cô dành riêng cho những kẻ ngu ngốc. “Chỉ biết thôi.”
“Còn lý do nào khác không?”
“Có, anh ấy thuộc cung bảo bình.”
“Trời đất quỷ thần ơi,” Joe nghe thấy mình rên lên. Anh nghe thấy cơn cáu tiết của mình và lắng nghe lời giải thích của cô về việc Lincoln cũng thuộc cung Bảo Bình, và lần này anh bật cười. Cô chắc chắn đã khiến đầu anh quay mòng mòng ngày hôm đó. Rồi gần như tất cả mọi ngày sau đó nữa. Anh tặc lưỡi khi cô giải thích về quãng thời gian cô ăn cắp một thanh kẹo nhưng cảm thấy tồi tệ đến nỗi cô thực sự đã không tận hưởng nó quá nhiều. Rồi anh nhìn cô che mặt bằng cả hai tay, và tiếng cười của anh tắt ngóm. Khi cô ngước lên, những giọt nước mắt đong đầy trong đôi mắt xanh và làm ướt đẫm hàng lông my dưới của cô. Cô chùi chúng đi và nhìn vào camera. Ánh mắt cô vừa trách móc vừa đau đớn, anh cảm thấy như vừa bị gậy tuần tra đánh thẳng vào bụng vậy.
“Khỉ thật,” anh nói vọng trong căn phòng trống không và ấn nút đẩy băng ra. Anh đáng lẽ không nên xem nó. Đến giờ anh đã tránh xem nó được một tháng, và anh đã đúng. Nhìn thấy mặt cô và nghe được giọng nói của cô lại lôi tất cả lên bề mặt. Tất cả những hỗn loạn, bối rối, và khao khát.
Anh cầm lấy cuộn băng và về nhà. Anh cần tắm táp nhanh, rồi qua nhà cha mẹ anh nhân dịp sinh nhật sáu mươi tư của cha anh. Trên đường tới đó anh định dừng lại và đón Ann.
Dạo gần đây anh vẫn dành thời gian với Ann. Chủ yếu là trong cửa hàng ăn của cô. Anh ghé qua để ăn sáng, và vài lần khi anh không thể rời khỏi bàn làm việc, cô mang bữa trưa đến cho anh. Và họ sẽ nói chuyện. Chậc, cô sẽ nói chuyện.
Đến giờ anh đã hẹn hò cô được 2 lần, và lần cuối cùng anh đưa cô về nhà anh đã hôn cô. Nhưng có gì đó cảm giác không đúng, và anh đã chấm dứt nụ hôn đó gần như trước cả khi nó kịp bắt đầu.
Vấn đề không phải là Ann. Mà là anh. Cô gần như là tất cả mọi thứ mà anh luôn tìm kiếm trong một người phụ nữ. Tất cả mọi thứ mà anh đã nghĩ là mình mong muốn. Cô xinh xắn, thông minh, một đầu bếp giỏi giang, và cô sẽ trở thành một người mẹ tuyệt vời cho các con anh. Chỉ là cô nhàn nhạt đến mức anh không thể chịu nổi. Và điều đó thực sự cũng không phải là lỗi của cô. Không phải lỗi của cô khi mà nhìn cô anh lại ước cô sẽ nói gì đó kỳ quái đến mức làm tóc sau gáy anh dựng đứng. Thứ gì đó khiến anh loạng choạng trên gót chân và khiến anh nhìn mọi thứ trong một ánh sáng hoàn toàn mới. Gabrielle đã gây ra điều đó với anh. Cô đã hủy hoại cách anh nhìn những gì anh mong muốn. Cô đảo ngược nó hoàn toàn, và cả cuộc đời lẫn tương lai anh đều không còn quá mức rõ rang với anh nữa. Anh không thể rũ bỏ cảm giác rằng mình chỉ đang chuyển động theo quán tính. Rằng anh đang đứng nhầm chỗ, nhưng nếu anh cứ đúng đó đủ lâu, chờ đợi đủ dài, thì tất cả mọi thứ sẽ lại trôi đi và đời anh sẽ quay lại nhịp sống xưa cũ, quen thuộc.
Anh vẫn đang chờ đợi tối hôm đó. Khi mà anh đáng lẽ nên có một quãng thời gian tuyệt vời với gia đình mình, thì anh lại không thể. Thay vào đó, anh đứng đơn độc trong bếp nhìn chằm chằm ra khoảng sân sau và nghĩ về cuốn băng thẩm vấn của Gabrielle.
Anh vẫn có thể nghe thấy giọng nói khiếp sợ của cô khi cô được đề nghị kiểm tra lời nói dối. Nếu anh nhắm mắt lại anh có thể nhìn thấy khuốn mặt xinh đẹp và mái tóc hoang dại của cô. Nếu anh thả mình anh có thể tưởng tượng ra sự ve vuốt từ bàn tay cô và hương vị của miệng cô. Và khi anh tưởng tượng cơ thể cô ấn sát vào anh, anh có thể hồi tưởng lại hương thơm làn da cô, và việc cô không có trong thị trấn hẳn là một điều cực kỳ tốt.
Tất nhiên là anh biết cô ở đâu. Anh đã biết sau khi cô bỏ đi hai ngày. Anh đã thử liên lạc với cô một lần nhưng cô không ở nhà, và anh không để lại lời nhắn. Đến giờ chắc cô phải ghét anh lắm, và anh không trách cứ gì cô. Không phải sau cái buổi tối cuối cùng đó trên hiên nhà cô, khi cô bảo anh rằng cô yêu anh và anh thì bảo cô rằng cô bị rối loạn. Có lẽ anh đã xử lí mọi thứ một cách thật tồi tệ, nhưng đúng đặc trưng Gabriell, tuyên bố của cô đã làm anh choáng váng sững sờ. Thốt ra vào lúc như thế. Cứ như từ trên trời rơi xuống vào một trong những đêm tồi tệ nhất của cuộc đời anh. Nếu anh có thể quay lại và xử trí mọi thứ khác đi, anh sẽ làm. Anh khá chắc chắn rằng những ngày này mình là một trong những người kém ưa thích nhất của cô.
Mẹ anh đi qua cửa sau, và cánh cửa đóng sập lại phía sau bà. “Đến lúc ăn bánh rồi.”
“Được rồi ạ.” Anh chuyển trọng lượng sang một chân và nhìn Ann trò chuyện với các chị anh. Họ chắc đang kể cho cô về khoảng thời gian anh đốt lũ Barbie của họ trên lửa. Các cháu trai, cháu gái của anh chạy vòng vòng quanh khoảng sân lớn, trêu chọc nhau với những khẩu súng phun nước, hét toáng lên trên cuống phổi. Ann vừa khít trong đó, như anh đã đoán.
“Chuyện gì xảy ra với cô gái trong công viên vậy?” mẹ anh hỏi.
Anh không cần phải hỏi cô gái nào. “Cô ấy chỉ là bạn thôi.”
“Hmm.” Bà lôi một hộp nến ra và cắm chúng vào cái bánh sô cô la. “Tất nhiên, cô ấy trông không giống bạn bè đâu.” Joe không đáp lại, và mẹ anh tiếp tục đúng như anh biết bà sẽ làm thế “Con không nhìn Ann theo cách con nhìn cô ấy.”
“Cách nào vậy ạ?”
“Như là con có thể nhìn cô ấy suốt cả quãng đời còn lại của mình.”
° ° °
Về mặt nào đó nhà tù bang Idaho gợi cho Gabrielle nhớ lại chút ít về trường cấp ba. Có lẽ là sàn gạch lấm tấm hoặc ghế nhựa. Hay có lẽ là mùi nước tẩy gỗ thông hoặc những cơ thể đầy mồ hôi. Nhưng không như trường cấp ba, căn phong rộng lớn nơi cô ngồi đầy phụ nữ, trẻ em và một cảm giác tuyệt vọng ngột ngạt đến mức nó ép chặt xuống trên lồng ngực cô.
Cô khép tay trong lòng và chờ đợi như số phụ nữ còn lại. Vài lần trong tuần qua cô đã cố viết thư cho Kevin, nhưng mỗi lần cô lại dừng lại trước khi viết được nhiều hơn đôi ba dòng. Cô cần gặp anh ta. Cô muốn nhìn thấy khuôn mặt anh ta khi cô hỏi anh ta những câu hỏi mà cô cần câu trả lời.
Cánh cửa bên trái cô bật mở, và những người đàn ông trong quần jean xanh nhà tù và áo sơ mi xanh y xì nhau xếp hàng đi vào phòng. Kevin đứng thứ ba từ dưới lên, và vào giây phút anh ta thấy cô, anh ta dừng lại trước khi đi tiếp vào khu vực viếng thăm. Gabrielle đứng dậy và nhìn anh ta đi về phía cô. Đôi mắt xanh dương quen thuộc thận trọng, màu đỏ xuất hiện trên cổ và má anh ta.
“Anh ngạc nhiên là em muốn gặp anh,” anh ta nói. “Anh không có nhiều người đến thăm cho lắm.”
Gabrielle ngồi xuống, và anh ta ngồi đối diện cô bên kia bàn, “Gia đình anh không đến gặp anh à?”
Anh ta ngước lên nhìn trần nhà và nhún vai. “Vài chị gái anh, nhưng đằng nào anh cũng không hào hứng mấy khi gặp họ.”
Cô nghĩ đến China và bạn thân Nancy của cô ta. “Không cô bạn gái nào sao?”
“Em đang đùa phải không?” Anh ta quay ánh mắt lại với cô, và lông mày anh ta nhăn nhó lại. “Anh không muốn có bất kỳ ai nhìn thấy anh như thế này. Anh suýt thì không đồng ý gặp em, nhưng anh đoán em chắc phải có vài câu hỏi, và anh nợ em từng ấy.”
“Thực ra thì, em chỉ có một câu hỏi thôi.” Cô hít một hơi thật sâu. “Anh đã cố tình chọn em làm đối tác kinh doanh để dùng em làm lá chắn à?”
Anh ta ngồi tựa lưng vào ghế. “Gì thế? Em đã nói chuyện với anh bạn Joe của em rồi đấy à?”
Câu hỏi và sự tức giận phía sau của anh ta làm cô ngạc nhiên.
“Cái ngày anh bị bắt, hắn đã đến và nói anh đã lợi dụng em. Hắn thực sự có dũng khí để đóng vai tức giận vì điều đó nữa chứ. Rồi ngày hôm sau hắn tới nhà giam của anh, và nổi khùng lên với anh về cách anh lợi dụng em. Không đáng buồn cười sao chứ, đặc biệt là khi hắn dùng em để tiếp cận anh?”
Trong một giây cô cân nhắc đến việc nói cho anh ta nghe sự thực về Joe và bản thân cô cũng như phần của cô trong vụ bắt bớ anh ta, nhưng cuối cùng cô không nói. Cô cho là bởi cô không có năng lượng mà thảo luận điều đó, và giờ thì điều đó cũng chẳng quan trọng. Mà cô cũng chẳng cảm thấy mình nợ nần gì anh ta hết. “Anh đã không trả lời câu hỏi của em,” cô nhắc nhở anh ta. “Anh đã cố tình chọn em làm đối tác kinh doanh để dùng em làm lá chắn à?”
Kevin nghiêng đầu sang một bên và nghiên cứu cô một lúc. “Phải. Lúc đầu, nhưng em thông minh hơn anh vốn nghĩ, và cũng tinh ý hơn nữa. Nên cuối cùng anh không làm được gì nhiều từ cửa hàng như anh lên kế hoạch ban đầu.”
Cô không biết cô chờ đợi cảm thấy gì. Tức giận, đau đớn, phản bội, có lẽ mỗi thứ một ít, nhưng chủ yếu cô thấy nhẹ nhõm. Giờ thì cô có thể đi tiếp cuộc đời mình rồi. Già dặn hơn chút ít, khôn ngoan hơn chút đỉnh. Và bớt tin tưởng đi nhiều, nhờ có người đàn ông đang ngồi đối diện cô bên kia bàn đây.
“Thực ra thì anh đang nghĩ đến việc hoàn toàn đi theo luật cho đến khi lũ cảnh sát thọc mũi vào đời anh.”
“Ý anh là sau khi anh có tiền từ việc bán bức Monet của nhà Hillard sao?”
Anh ta rướn người về phía trước và lắc đầu. “Đừng rỉ một giột nước mắt nào cho những người đó. Họ giàu có và được bảo hiểm.”
“Điều đó làm cho mọi việc đều đúng sao?”
Anh ta nhún vai không chút ăn năn. “Họ đáng lẽ không nên có một bức tranh đắt tiền như vậy trong một ngôi nhà với hệ thống chuông báo động tồi tệ đến thế.”
Tràng cười sửng sốt thoát ra khỏi môi cô. Không có giải trình nào với những hành vi của chính anh ta, và thậm chí trong một xã hội thường đổ lỗi ung thư phổi cho các công ty thuốc lá và cái chết vì súng cho những nhà sản xuất súng, thì việc đổ cho nhà Hillard tội trộm bức tranh của chính họ cũng vượt quá đỉnh cao nhất của trí óc thông thường mà chuyển sang tâm thần rồi. Nhưng phần đáng kinh hãi thực sự là rằng trước đây cô chưa bao giờ thấy được điều đó.
“Anh cần giúp đỡ về tâm thần đi,” cô nói khi đứng dậy.
“Bởi vì anh không cảm thấy tồi tệ khi một đám người giàu có bị trộm đồ nghệ thuật và đồ cổ sao?”
Cô có thể giải thích cho anh ta, nhưng cô đoán là lời lẽ của mình cũng như nước đổ là khoai thôi, và chỉ là cô cũng không thèm quan tâm nữa.
“Và em cũng không thoát ra tồi tệ cho lắm. Chính phủ lấy đi mọi thứ mà anh sở hữu, nhưng em được giữ lại cửa hàng để xử trí tùy ý em. Như anh đã nói, không tệ”
Gabrielle lấy chum chìa khóa ra khỏi túi váy của cô, “Làm ơn đừng viết thư cho em hay cố liên lạc với em theo bất kỳ cách nào hết.”
Khi cô bước qua cổng nhà tù một cảm giác tự do vốn chẳng có gì liên quan đến dây xích và chấn xong mà cô đã bỏ lại phía sau lướt nhẹ qua xương sống cô. Cô đã khép lại một phần của quá khứ, giờ thì cô đã sẵn sàng để bắt đầu tương lai. Sẵn sang chuyển sang một hướng mới và xem xem cuộc đời sẽ đưa cô tới đâu.
Cô luôn hối tiếc việc mất Anomaly. Cô yêu cửa hàng của cô và cô đã làm việc chăm chỉ để nó được thành công, nhưng cô có một ý tưởng mới đang sục sôi trong não, nó đánh thức cô dậy mỗi đêm và khiến cô phải vớ lấy ngay một tờ giấy ghi chép. Lần đầu tiên trong một khoảng thời gian dài, cô thấy phấn khởi và nạp đầy năng lượng tích cực. Số phận của cô đã chuyển sang một hướng tốt đẹp hơn, và cũng đã đến lúc rồi. Cô đã phát chán những hình phạt chồng chất vì những hành động xấu trong quá khứ rồi.
Nghĩ về cuộc đời mới của cô đưa ý nghĩ cô xoay quanh Joe Shanahan. Cô thậm chí còn không cố lừa gạt bản thân mình nữa. Cô sẽ không bao giờ hoàn toàn vượt qua những cảm xúc của mình đối với anh, nhưng mỗi ngày lại trở nên dễ dàng hơn chút đỉnh. Cô có thể nhìn vào các bức vẽ anh trong phòng tranh của cô mà không cảm thấy như thể trái tim cô bị xé khỏi lồng ngực nữa. Đôi lúc cô vẫn cảm thấy hơi trống rỗng nhưng cơn đau đã vơi đi. Giờ cô có thể đi qua nhiều giờ liền mà không nghĩ về anh. Cô cho là vào giờ này sang năm, cô sẽ gần như sẵn sàng để tìm kiếm một nửa kia mới.