Đây không phải lần đầu tiên Bliss Llewellyn mơ thấy những hình ảnh này. Trong mơ, lúc nào cô cũng có cảm giác lạnh giá, ẩm ướt và khó thở. Những giấc mơ trước đây của cô đều như vậy, nhưng riêng lần này, cô có cảm giác nó chân thực hơn bao giờ hết. Người Bliss lạnh cóng, run lên từng cơn; rồi khi mở mắt ra đối diện với màn đêm đen đặc, cô cảm nhận được sự hiện diện của một ai đó khác nữa trong bóng tối. Một bàn tay nắm lấy cánh tay cô, kéo cô tiến lên phía trước, cứ như thế hướng về phía ánh sáng cho tới khi xuyên thủng làn nước lạnh giá. Ùm! Bliss ho sặc sụa, đoạn thở hổn hển rồi nhìn ra xa xung quanh. Không phải là mơ. Là hiện thực. Cô đang nổi lênh đênh giữa một hồ nước. – Bắm chắc vào, cô còn yếu lắm. Tôi sẽ đưa cô vào bờ. – Một giọng nói trầm thấp vang lên bên tai cô, ẩn chứa sự dịu dàng và bình tĩnh. Bliss cố gắng xoay đầu lại để nhìn mặt người nọ nhưng ngay lập tức bị anh ta chặn lại.
– Đừng cử động, cũng đừng ngoái ra phía sau, chỉ tập trung hướng về bờ thôi.
Bliss gật đầu khiến những giọt nước đọng trên mái tóc chảy xuống mắt cô. Cô vẫn còn ho vì sặc nước và cảm thấy buồn nôn khủng khiếp. Hai cánh tay và đôi chân cô mỏi rã rời mặc dù không hề có dòng nước nào cản trở họ. Mặt hồ phẳng lặng không một gợn sóng. Trông nó thậm chí còn không giống một cái hồ. Mắt Bliss dần điều chỉnh trong bóng tối, cô nhận ra mình đang ở Công viên Trung tâm, giữa hồ nước nhân tạo trong công viên, nơi mà mùa hè năm ngoái, trước khi nhập học vào Duchesne, ba mẹ đã đưa cô và em gái đến cửa hàng nhà bè ăn tối. Vào giờ này thì chẳng còn con thuyền nào trên hồ. Lúc này đã gần cuối tháng Mười Một rồi nên chẳng còn mấy ai ra hồ chơi. Trên mặt đất đã bắt đầu xuất hiện sương giá, và lần đầu tiên trong suốt tối hôm đó, Bliss cảm nhận được cái lạnh tràn cả vào trong tĩnh mạch mình. Người cô bắt đầu run lên như cầy sấy. – Sẽ ổn thôi. Máu cô sẽ nóng lại nhanh thôi, đừng lo. Ma cà rồng không bao giờ chết vì lạnh đâu. – Giọng nói đó lại vang lên. Bliss Llewellyn đến từ Texas. Đó luôn là thông tin đầu tiên cô tiết lộ mỗi khi làm quen với một ai đó. “Tôi đến từ Texas”. Cứ như thể xác định được cô đến từ đâu sẽ giải thích được tất cả mọi điều về cô: từ âm điệu giọng nói, mái tóc xoăn dày tới những chiếc khuyên tai dát kim cương năm cara. Đó cũng là cách gợi cô nhớ về quê nhà yêu dấu và cuộc sống trước đây của mình, một cuộc sống dường như cách xa cả thế kỷ so với cuộc sống hiện tại của cô trong vai một trong những cô nàng đỏm dáng nhất New York.
Ở Texas, Bliss luôn luôn nổi bật. Cô cao tầm một mét bảy bảy (cộng thêm cả mái tóc dày, cô dễ cao đến hơn mét tám), dáng người săn chắc, và dường như không bao giờ biết đến nỗi sợ hãi là gì. Cô là thành viên đội cổ động duy nhất có thể thực hiện được cú nhào lộn tiếp đất từ trên đỉnh tháp năm mươi người chồng lên mà vẫn an toàn hạ cánh xuống sân cỏ mềm mượt. Trước khi phát hiện ra mình là một ma cà rồng và sở hữu những sức mạnh phi thường, Bliss luôn nghĩ rằng những gì cô có được là nhờ may mắn cộng với việc chăm chỉ luyện tập.
Bliss sống với gia đình tại một biệt thự sang trọng có cổng rào xung quanh ở khu ngoại ô riêng biệt của thành phố Houston. Hàng ngày cô đến trường bằng chiếc Cadillac cổ có thể bỏ mui của ông cô. Một chiếc xe cổ chính hãng với cặp sừng trâu gắn trên nắp capo. Nhưng ba cô vốn sinh trưởng tại Manhattan, và sau khi đã trở thành chính trị gia số một của Houston, ông đột nhiên tranh cử chiếc ghế Thượng nghị sĩ đang trống của New York. Ông đắc cử và gia đình cô chuyển về Manhattan.
Việc thích nghi với cuộc sống phù hoa tại “Big Apple” (Quả táo lớn)10 sau khi đã sống cả tuổi thơ tại Houston thực sự khó khăn đối với Bliss. Cô cảm thấy không thoải mái trong những câu lạc bộ đêm sang trọng và cả những buổi party đình đám mà Mimi Force, người bạn thân luôn cho mình là trung tâm mà cô mới làm quen khi chuyển đến đây, đã kéo cô vào. Chỉ cần đưa cho Bliss một chai Boone, một vài người bạn gái, một đĩa DVD phim “The Notebook” (Nhật Ký) là đủ làm cô hạnh phúc rồi. Cô không thích tụ tập tại những câu lạc bộ, mang theo mình cái cảm giác chỉ là phông nền cho người khác trong khi nhìn nhân vật chính Mimi Force chìm trong những cuộc vui tưng bừng. Nhưng cuộc đời cô bỗng như rẽ sang một ngã khác khi cô gặp Dylan Ward, một chàng trai mắt đen với khuôn mặt buồn bã nhưng lại luôn có những biểu lộ chan chứa tình cảm và… vô cùng quyến rũ. Chính tại con hẻm nhỏ dưới khu Lower East Side một đêm cách đây vài tháng, cậu đã bắt chuyện với cô khi giúp cô châm điếu thuốc lá. Cũng như cô, Dylan là một thành phần “ngoài rìa” tại trường Duchesne, nhưng theo một hướng khác. Cậu là một kẻ nổi loạn tách biệt với các học sinh khác, khuôn mặt lúc nào cũng sưng sỉa ủ rũ, và chỉ chơi chung với đám bạn kém cỏi – Oliver Hazard-Perry và Schuyler Van Alen, hai học sinh mờ nhạt nhất trong khối. Đối với Bliss, Dylan còn hơn cả một người bạn; cậu là đồng minh, thậm chí có thể coi là bạn trai của cô. Cô đỏ mặt khi nhớ lại những nụ
10 Big Apple: tên lóng chỉ thành phố New York hôn sâu, ngọt ngào cậu trao cô. Ôi! Giá như cái đêm ấy tại nhà cô, ba cô không xuất hiện. Giá như… Giá như Dylan đừng chết. Nhưng cậu đã bị biến đổi, trở thành một Máu Bạc điên cuồng, khát máu và rồi lại bị chính những kẻ biến đổi cậu giết chết khi cố quay lại cảnh báo cho cô… Đôi mắt Bliss lấp lánh những giọt nước mắt mỗi khi nhớ lại cảnh cô tìm thấy chiếc áo khoác ngoài của cậu nhàu nhĩ trên sàn phòng tắm nhà cô. Chiếc áo thấm đẫm toàn một màu đỏ của máu. Bliss đã từng nghĩ rằng đó là lần cuối cùng cô nhìn thấy Dylan, vậy mà… chàng trai đã cứu cô… cái giọng trầm thấp như rót vào tai cô nghe sao mà thân thương đến vậy. Cô không dám hy vọng, cô cũng không muốn tin vào một điều không có thực. Cô bấu víu vào người thanh niên khi anh ta kéo cô vào bờ.
Đây không phải là lần đầu Blis thấy mỉnh tỉnh dậy ở một nơi xa lạ, và gần như lúc nào cũng trong trạng thái nguy hiểm. Chỉ mới tuần trước cô tỉnh giấc và nhận ra mình đang nằm chênh vênh bên mép tầng cao nhất của Bảo tàng Cloisters, mãi tận khu Công viên Fort Tryon. Thậm chí chân trái cô lúc đó đã chới với ngoài không trung. Bliss tỉnh dậy vừa kịp lúc lăn ngược trở lại, tự cứu mình khỏi cú rơi kinh hoàng. Bliss nhận ra có lẽ cô cũng không thể chết kể cả có rơi từ độ cao đó xuống chăng nữa, nhiều lắm chỉ xây xước vài chỗ là cùng, rồi cô tự hỏi không lẽ trong tiềm thức cô muốn tự sát? Vậy thì cách nào mới thành công đối với một người bất tử như cô? Còn hôm nay thì cô lại tỉnh dậy ở giữa một cái hồ. Những cơn mất ý thức tạm thời, những ác mộng mà lúc nào cô cũng thấy hình ảnh ai đó đang đuổi bám theo mình, và rồi tỉnh dậy thấy mình lúc thì ở đây, lúc lại ở kia ngày, sự việc ngày một trở nên tồi tệ hơn. Chúng bắt đầu từ năm ngoái khiến Bliss sợ hãi tột cùng, kèm theo là những cơn đau đầu như búa bổ do bị ám ảnh bởi những hình ảnh đáng sợ về đôi mắt đỏ ngầu, những cái răng sáng bóng, sắc nhọn với con ngươi màu bạc… và cả những cảnh cô chạy dọc những hành lang dài vô tận trong khi con quái thú bám sát đằng sau, hơi thở hôi hám càng lúc càng gần, đoạn tóm lấy cô, giữ chặt cô trên sàn nhà nơi nó sẽ nuốt sống linh hồn cô. Dừng lại ngay, cô ra lệnh cho bản thân. Tại sao phải nghĩ về những chuyện đó lúc này? Những hình ảnh ghê rợn ngay lập tức biến mất nhưng con quái thú hay dù nó là bất cứ cái gì chăng nữa cũng đã làm tổ trong trí tưởng tượng của cô mất rồi. Không phải ba cô đã nói rồi sao? Rằng những cơn ác mộng đơn giản chỉ là một phần của quá trình biến đổi? Bliss mới mười lăm tuổi, cái tuổi mà kí ức của ma cà rồng bắt đầu hồi phục, cái tuổi mà Máu Xanh bắt đầu nhận ra nhân dạng thực sự của họ từ trước khi họ bắt đầu cuộc hành trình bất tử trên trái đất này.
Bliss cố gắng nhớ lại tất cả mọi chuyện đã xảy ra trong ngày hôm đó, xem có một chút manh mối nào giải thích lý do tại sao cô lại bất tỉnh trong hồ nước ở Công viên Trung tâm hay không. Buổi sáng cô vẫn tới trường như thường lệ, rồi sau đó tham gia buổi họp hàng tuần tẻ nhạt của Ủy Ban. Ủy Ban đáng ra có nhiệm vụ dạy dỗ cô cũng như tất cả những ma cà rồng mới cách kiểm soát và sử dụng các siêu giác quan của họ, nhưng trong suốt hai tháng qua, tất cả những gì bọn họ làm là lên kế hoạch chuẩn bị cho cái bữa tiệc quý tộc ấy. Mẹ kế của Bliss, BobiAnne, cũng tham gia buổi họp và đã làm cô xấu hổ vì cái giọng chói tai, bộ đồ lòe loẹt, từ đầu tới chân đâu đâu cũng thấy cái mác hiệu Vuitton của bà. Bliss không biết là hãng này lại còn sản xuất cả những bộ quần áo đồng màu với những cái túi xách nâu đặc trưng nữa cơ đấy. Cô nghĩ trông mẹ kế cô nhìn như thể một cái vali di động to đùng, sáng choang những màu nâu và vàng.
Khi buổi họp kết thúc, nhân ngày ba cô được nghỉ ở nhà nên cả gia đình đi ăn tối tại nhà hàng Le Cirque mới khai trương tại một trong những khu sang trọng nhất của tòa nhà One Beacon Court. Trong nhà hàng xuất hiện đầy các nhân vật quyền lực và giàu có. Thượng nghị sĩ Llewellyn dành cả buổi tối cho việc bắt tay với những vị tai to mặt lớn khác: Thị trưởng, biên tập viên truyền hình, diễn viên, và một Thượng nghĩ sĩ khác của New York. Lúc ngồi vào bàn, Bliss gọi món pate gan tái, rồi sung sướng thưởng thức lớp mứt quả lý gai phủ bên trên chiếc gan rưới đầy kem tươi ngậy. Sau bữa ăn, họ đến nhà hát xem opera. Ngồi tại một lô VIP dành riêng cho gia đình, cả nhà cô theo dõi sản phẩm mới nhất của Met Production: vở Orfeo ed Euridice11. Bliss rất thích câu chuyện tình bất hạnh về Orpheus, người đã dám xuống tận Địa ngục để cứu người vợ yêu dấu, Eurydice, nhưng rồi tới phút cuối chàng vẫn mất nàng. Tuy yêu thích câu chuyện là vậy nhưng giọng hát thống thiết và sang sảng đã đánh gục Bliss, đưa cô chìm vào giấc ngủ. Và trong mơ, cô thấy mình đang ở Địa ngục đầy nước của Hades.
Đó cũng chính là nơi hồi tưởng của cô kết thúc. Không biết lúc này gia đình cô có còn trong nhà hát hay không? Cô nhớ lại hình ảnh ba cô ngồi như một bức tượng thần cứng nhắc mà uy nghiêm, hai tay ông khum lại dưới cằm, chăm chú theo dõi vở diễn trong khi mẹ kế cô nhăn mặt và ngáp dài, còn đứa em gái, Jordan, thì chỉ ngồi lặng lẽ, hát nhẩm theo từng lời của vở kịch. Jordan mới chỉ mười một tuổi nhưng là một tín đồ cuồng nhiệt nhất của opera, ít ra đối với Bliss thì có vẻ là vậy.
11 Tên tiếng Pháp của “Orpheus và Eurydice” – cặp vợ chồng trong thần thoại Hy Lạp. Khi người vợ yêu Eurydice chết, Orpheus đã dùng tiếng đàn lyre để cảm hóa thần Chết Hades và vợ ông là Persephone. Hades đồng ý cho Eurydice được hồi sinh với điều kiện trên đường về dương gian, Orpheus không được ngoái đầu lại nhìn vợ đi đằng sau. Tuy nhiên trên đường về, khi không nghe được tiếng bước chân và hơi thở của vợ đã quay lại nhìn. Và Eurydice bị kéo lại âm phủ. Orpheus đuổi theo nhưng người lái đò sông Styx không chở chàng nữa dù chàng quỳ trong 7 ngày 7 đêm. Khi về dương gian, Orpheus buồn chán và không thiết tha với bất cứ cô gái nào. Trong một đêm lễ hội chàng đã bị những kẻ say rượu đánh chết và quẳng xác xuống sông. Cho tới lúc đó mà người ta vẫn nghe thấy tiếng đàn tha thiết, yêu thương của chàng.
Giờ thì họ đang tiến gần tới chiếc cầu nơi những con thuyền neo đậu. Bàn tay chắc chắn của người lạ mặt kéo cô lên chiếc thang gần chân cầu. Bliss bị trượt chân nhưng vẫn đi được. Cho dù đó là ai đi nữa thì ít nhất anh ta cũng đúng ở một điểm: dòng máu ma cà rồng trong cô đang dần lấy lại sức nóng, và chỉ sau ít phút, Bliss thậm chí còn không nhận ra nhiệt độ ngoài trời lúc này chỉ trên dưới năm độ. Nếu là người bình thường thì giờ này cô đã chết cóng và chìm nghỉm trong hồ nước lạnh rồi.
Bliss nhìn xuống bộ quần áo ướt như chuột lột. Cô vẫn mặc bộ đồ đó từ lúc đi ăn tối và xem opera. Chiếc váy hiệu Temperley bằng vải sa-tanh với những đường thêu tinh tế giờ chỉ như một đống nùi sũng nước. Với một bộ đồ chỉ được phép giặt khô thì đây đúng là thảm họa của thảm họa. Đôi giày da cao năm phân hiệu Balenciaga giờ cũng còn đúng một chiếc. Chiếc thứ hai chắc đã nằm sâu dưới đáy hồ rồi. Bliss bối rối nhìn vào tờ giới thiệu chương trình của vở opera mà cô vẫn giữ chặt trong tay, đoạn thả nó rơi nhẹ nhàng xuống nền đất. – Cám ơn anh… – Cô nói, quay lại phía sau để nhìn cho rõ khuân mặt của ân nhân. Nhưng chẳng có gì đằng sau cô, ngoài làn nước xanh yên bình nơi mặt hồ nhân tạo. Chàng trai lạ mặt đã biến mất.
Mục Lưu Trữ tờ New York Herald.
Số ra ngày 1 tháng 10 năm 1870.
SỰ BIẾN MẤT BÍ ẨN CỦA MAGGIE STANFORD
Con gái rượu của ông trùm dầu khí đã biến mất trong một đêm vũ hội. Liệu có phải một cuộc bắt cóc? Cảnh sát New York đang đặt ra nhiều nghi vấn trước sự biến mất bí ẩn của cô gái mười sáu tuổi Maggie Stanford. Theo một số nguồn tin cho biết, cách đây ba tuần có người đã nhìn thấy cô Stanford đi ra từ dinh thự của Đô đốc Hải quân Thomas Vanderbilt, số 800 Đại lộ Số Năm, nơi lúc đó đang diễn ra vũ hội thường niên Patrician; và kể từ đó không ai còn nhìn thấy cô nữa. Quý cô Maggie Stanford là con gái của ông bà Tiberius Stanford, ngụ tại Newport. Các thám tử đang làm việc hết sức khẩn trương nhằm làm rõ vụ việc trên nhưng cho tới giờ vẫn chưa tìm ra manh mối nào.
Việc quý cô Stanford mất tích đã được báo lại tại đồn cảnh sát số 10 vào hôm thứ Sáu, ngày 22 tháng Tám vừa qua. Tối hôm đó, theo lời kể của mẹ nạn nhân, bà Dorothea Stanford – một phụ nữ có tiếng trong giới thượng lưu, cô Maggie vừa được giới thiệu tại vũ hội Patrician và là người mở đầu vũ hội với điệu cađri dành cho bốn nguời. Maggie là người khá trầm tính. Cô nặng bốn mươi ba ký, thân hình mảnh mai, xinh xắn, theo lời những người trong gia đình, Maggie có tính cách rất ôn hòa. Cô có mái tóc đỏ sẫm, mắt xanh lục bảo và khuân mặt thanh tú, yêu kiều. Cũng trong buổi tối vũ hội hôm đó, cô đã tuyên bố chính thức đính hôn với Ngài Alfred Burlington, Bá tước vùng Devonshire. Theo bà Stanford, con gái bà có khả năng đã bị bắt cóc hoặc bị dụ dỗ bởi những kẻ thuộc thế lực đen. Gia đình Stanford treo thưởng cho bất cứ ai tìm được thông tin nào giúp ích việc giải cứu con gái họ. Ông Tiburus Stanford chính là người sáng lập ra hãng dầu khí Stanford Oil, một trong những tập đoàn hùng mạnh nhất nước Mỹ.