Chín giờ sáng hôm sau, Hope hoàn thành bản thảo thô của câu chuyện người ngoài hành tinh. Cô nghĩ phần giới thiệu hơi có chút mơ hồ, và cô đã đợi cho đến khổ thứ ba mới chuyển hướng, nhưng cô nghĩ bài báo đã được xây dựng một cách thú vị.
Cô sáng tạo ra một thị trấn hoang dã có những người ngoài hành tinh bị rơi tàu cư ngụ, họ cải trang thành những người lập dị tỉnh lẻ, tầm thường. Trong thực tế, họ giết thời gian trong lúc chờ tàu mẹ đến đón bằng cách chơi xỏ khách du 1ịch và kiếm lợi trong những trò cá cược.
Cô đã làm việc với bài báo cho đến bình minh, khi cô hồi tưởng lại phác thảo đã được viết trong cái đầu đau nhức của cô. Cô đã uống rất nhiều Tylenol (1) với một cốc nước giã rượu pha cà phê và vẫn còn chưa tắm. Mái tóc cô được cuốn lại trên đỉnh đầu và giữ lại bằng hai chiếc bút Bic. Cô vẫn còn mặc bộ quần áo ngủ hình bò sữa và một đôi tất luộm thuộm. Cô nghĩ rằng cô có mùi kinh khủng, nhưng cô biết tốt hơn là đừng dừng lại khi cô đang có đà viết. Trong khi cô làm việc, cô không bao giờ trả lời điện thoại, và chỉ có hỏa hoạn dữ dội trong nhà mới có thể buộc cô mở cửa trước.
Cô email cho Walter ý tưởng về bài báo mới. Anh ta thích nó, nhưng muốn có những bức ảnh kèm theo câu chuyện. Những bức ảnh có thể tin được. Thế có nghĩa rằng Hope phải lôi chiếc Minolta và chớp vài tấm ảnh về vùng hoang dã.
Sau đấy, cô phải scan chúng vào máy vi tính và bổ sung chân dung của những người ngoài hành tính ăn mặc như dân địa phương. Chuyện này sẽ mất thời gian, nhưng không phải không thể. Và chắc chắn không khó như khi cô biến hình Yêu tinh phù thủy Micky thành một chân dung tương đối giống Hoàng tử Charles.
Khoảng chín giờ ba mươi, cuối cùng Hope cũng tạm nghỉ. Khi điện thoại kêu, cô nhấc ống nghe. Cuộc gọi đến từ Hazel Avery thuộc văn phòng cảnh sát trưởng, muốn biết khi nào cô định đến và điền vào bản tường trình của nạn nhân. Hope nhìn xuống mình và nói với người phụ nữ cho cô một giờ đồng hồ.
Không phải là cô đã quên cô cần phải đi đến văn phòng cảnh sát trưởng.
Chuyện cô muốn quên là chuyện lân cận đấy. Cô ước cô có thể quên toàn bộ buổi tối, bắt đầu từ giây phút cô đặt chân vào Buckhorn đến lúc Dylan Taber bước chân ra khỏi cửa nhà cô.
Hope bấm nút LƯU trên bàn phím và tạo một bản sao dự phòng câu chuyện về người ngoài hành tinh. Ừm, có lẽ không phải quên toàn bộ buổi tối, nhưng cô hiển nhiên nên rời khỏi quán bar sau khi cô đã nghe về Cuộc đánh cá về người đồng bằng và trước khi Emmett Barnes thả cái mông phiền phức của hắn vào khoang ngồi của cô. Phiền phức của cô bắt đầu ngay khi cô ngẩng lên từ những tờ giấy ăn cô đang viết vội vàng và nhìn thấy nụ cười nhăn nhở kiểu tôi – biết – cô – em – muốn – tôi của hắn.
Không, cô tự sửa mình, chúng bắt đầu từ lúc cô bắt đầu gọi một chầu đúp.
Nếu không phải câu chuyện người ngoài hành tinh đã làm cô quá phấn khích, cô sẽ chú ý hơn đến việc rượu đang tác động đến cô như thế nào. Nếu không phải vì chứng mơ hồ gây ra do bia, cô có thể đã xoay sở được với Emmett. Cô chắc chắn sẽ giữ lại bình luận về những người đàn ông lùn và của quý nhỏ cho riêng mình.
Cô cởi quần áo và bước đến vòi hoa sen. Nếu không phải trạng thái phấn khích do say mèm, cô chắc chắn sẽ giữ tay và miệng cách xa cảnh sát trưởng.
Cô để dòng nước nóng chạy qua người và không biết cuộc chạm trán nào tồi tệ hơn, cuộc chạm trán với Emmett hay Dylan. Một đáng sợ. Một bẽ mặt. Cô đã sai về Dylan. Anh đã không muốn cô như cách cô muốn anh. Anh đã không muốn nhức nhối vì cô. Anh muốn bước đi, và đấy chính xác là điều anh đã làm.
Với mùi vị của anh vẫn còn trên môi cô, cô nhìn anh bước ra khỏi cửa.
Tránh xa quán Buckhorn, anh nói. Không có những từ nuối tiếc. Không ‘Này, tôi ghét phải về.’ Không biện hộ khập khiễng. Không có gì.
Hope xả sạch tóc, sau đấy bước ra khỏi vòi hoa sen. Đã là một khoảng thời gian dài kể từ khi có một người đàn ông làm da cô râm ran. Một thời gian dài kể từ khi cô để một người đàn ông đến gần đủ để cô cảm thấy sức kéo ấm áp của anh ta sâu trong bụng cô. Một thời gian dài kể từ khi cô muốn cảm thấy một cơ thể to lớn, ấm áp bên cạnh cô.
Hope không tin vào tình dục không có tình yêu. Cô đã từng tin và làm như thế ở trường đại học. Bây giờ cô đã ba mươi lăm tuổi và biết rằng không có thứ gì giống như là tình dục vô nghĩa. Nếu tình dục là vô nghĩa, nó sẽ không khiến bạn đau đớn và trống rỗng vào buổi sáng. Và không có gì buồn hơn và cô đơn hơn vào buổi sáng sau tình một đêm. Không có gì dối trá hơn một người đàn bà tự nói với mình rằng chuyện ấy chả có vấn đề gì.
Nhưng tình dục đi cùng với tình yêu yêu cầu một mối quan hệ. Một mối quan hệ lại cần nỗ lực. Nó cần tin tưởng, và trong khi cô có thể nói với mình rằng đã đến lúc để thử lại lần nữa, cô vẫn chưa bao giờ có thể đặt mình vào vị trí để cho người khác đến gần. Một cách khôn ngoan, cô hiểu rằng hầu hết đàn ông đều không lừa gạt và có con với người bạn thân nhất của vợ mình, nhưng biết điều ấy ở trong đầu và biết ở trong trái tim là hai điều hoàn toàn khác hẳn.
Giũ đi những bình luận đen tối trong tâm hồn cô là gần như không thể. Sự chỉ trích nhìn ra từ đôi mắt cô và thấy những khiếm khuyết sâu trong cơ thể cô.
Kể từ khi bắt đầu dậy thì, Hope đã mắc phải chứng lạc nội mạc tử cung (2) và trong mùa xuân của năm học gần cuối của đại học, triệu chứng đã trở nên quá nặng và cô còn lại rất ít sự lựa chọn ngoài việc phẫu thuật. Ở tuổi hai mươi mốt, Hope đã trải qua một thủ thuật cắt bỏ tử cung hoàn toàn, giải thoát cô khỏi những cơn đau khủng khiếp. Tự do để hưởng thụ cuộc sống. Tự do để hưởng thụ những mối quan hệ với đàn ông. Chuyện đấy cũng khiến cô mất khả năng có con, nhưng việc mất khả năng sinh sản đã không tàn phá cô. Cô luôn nghĩ rằng cho đến khi đúng thời điểm, cô sẽ nhận nuôi một đứa trẻ cần cô. Sự vắng mặt của tử cung không hề khiến cô cảm thấy ít nữ tính hơn bất kỳ một phụ nữ nào khác.
Cho đến ngày chồng cô đã mang đến cho cô tờ đơn ly dị và cô biết rằng anh ta đã làm bố của một đứa trẻ với người khác. Tin tức ấy đã hạ nguc và san bằng lòng tự tin của cô. Giờ cô không chắc chắn về cái gì, nhất là đâu là nơi cô phù hợp trên thế giới này.
Hope lau khô nguời và chải những chỗ rối trên tóc. Ba năm trước cô nghĩ cô đã xử lý cuộc sống của mình khá tốt. Cô nghĩ cô đã nhấc mình dậy. Cô đã bắt đầu lại sự nghiệp, lấy một nửa tiền của Blaine và chiếc xe Porsche yêu quý của anh ta. Nhưng cô đã không xử lý được việc gì. Cô chỉ lẩn tránh việc đối diện với nó. Cô đã không nhấc mình dậy, cô chỉ hoạt động từ một vị trí bằng phẳng để không ai có thể hất cô ngã một lần nữa.
Tối qua cô đã để mình cảm nhận niềm đam mê lần nữa. Đã để nó nung nóng máu và đùa nghịch làn da cô.
Cô bước vào phòng ngủ và mở tủ quần áo. À, có lẽ để là một từ không đúng.
Quá nhiều bị động. Khi anh hôn cô không có gì gọi là để. Không có suy nghĩ gì về để, chỉ làm. Khi cô cảm thấy sức ép của môi anh và cảm giác vầng ngực rắn chắc của anh bên dưới bàn tay cô, ham muốn đã nắm quyền kiểm soát. Lần đầu tiên trong nhiều năm, cô đã không chạy trốn ham muốn. Cô đã đứng trong hơi ấm của nó, cảm nhận nó làm cô nóng lên với sức mãnh liệt của một chiếc đèn hàn. Ở thời điểm nào đấy, cô có thể đã dừng lại. Cô sẽ làm thế. Tất nhiên cô sẽ làm thế, nhưng anh đã dừng cô lại, làm việc ấy như thể đấy là việc dễ dàng nhất anh đã từng làm. Sau đấy, không hề liếc nhìn lại, anh bước ra khỏi nhà cô và ngay lúc này, Dylan là người cuối cùng trên thế giới này mà cô muốn nhìn thấy.
Có lẽ cô sẽ sẵn sàng để đối mặt với anh vào ngày mai. Hoặc tuần tới.
Trong một thị trấn nhỏ bé như thế này, cách duy nhất để tránh mặt anh là tự khóa mình ở trong nhà, nhưng cô sẽ không làm thế vì hai lý do rất hợp lý. Thứ nhất, cô muốn có sự giúp đỡ của anh để lấy những tài liệu cũ của cảnh sát, và thứ hai cô không định cho anh một lý do để cho rằng cô có chút xíu lăn tăn nào về tối hôm qua.
Khi Hope lục tủ quần áo, cô nói với mình rằng không phải cô đang tìm kiếm bộ trang phục hoàn hảo nhất để cảnh sát trưởng phải đau đớn âm thầm. Cô quyết định chọn bộ đồ mà cô miêu tả như là một sự xung đột giữa một cô gái thành phố và một cô nàng nông thôn. Cô mặc một chiếc váy xà rông màu ngọc lam ngắn và một chiếc áo hở vai có dây quàng qua cổ màu xanh lam, và đôi giày ống Tony Lama màu xanh lông công.
Đến lúc cô đi đến văn phòng cảnh sát trưởng, lớp trang điểm của cô trông hoàn toàn tự nhiên, mái tóc cô dày lên và đuôi tóc đung đưa nhè nhẹ như thể cô đã không phải uốn và xịt keo bắt chúng phải vào nếp.
Văn phòng cảnh sát trưởng Hạt Pearl nằm ở điểm giao của đường Mercy và Main, và ngoại trừ cửa hàng có biển quảng cáo “BẤM Và CHỤP – lấy ảnh trong một giờ,” tòa nhà chiếm cứ toàn bộ khoảng đất. Đá sa thạch bên ngoài tòa nhà đã lỗ chỗ với thời gian, và những chấn song sắt bao quanh cửa sổ sau nhà. Một bãi đỗ xe mới đã được bố trí ở phía đông và bên trong tòa nhà đã được xây mới hoàn toàn. Nó có mùi sơn và thảm mới,và ánh mặt trời tràn qua những khung cửa sổ rộng.
Nữ phó cảnh sát trưởng mặc một chiếc áo choàng màu be với một miếng đắp ngôi sao vàng trên ngực trái nhìn lên từ màn hình máy vi tính khi Hope tiến đến bàn thông tin. Bà ta đưa Hope qua cánh cửa kính đôi với một ngôi sao vàng to ở giữa và dòng chữ “Cảnh sát trưởng Dylan Taber” bên dưới. Bên trong văn phòng lại là một phụ nữ khác, ăn mặc như người thứ nhất. Mái tóc muối tiêu uốn của bà ta quá xoăn, và cái biển tên chỉ ra bà ta là Hazrl Avery đặt bên cạnh một Đức chúa Jesus nhựa. Chiếc bàn của bà ta đặt giữa phòng và chắn ngang một lối đi. Hope tự hỏi, có phải giống như Thánh Peter, bà ta đang bảo vệ hành lang khỏi sự tấn công của kẻ ngoại đạo.
“Cô hẳn là Hope Spencer,” Hazel thản nhiên nói khi Hope đi đến chỗ bà ta.
“Ada kể với tôi về đôi giày ống của cô.”.
Hope nhìn xuống chân mình. “Tôi mua chúng ở một cửa hàng giày dép miền Tây ở Malibu”.
“Ừ hử.” Hazel cài một chiếc bút bi vào kẹp hồ sơ giấy, sau đó đứng lên.
“Xin mời đi theo tôi”.
Hope đi theo Hazel qua đại sảnh đến căn phòng đầu tiên ở bên trái. Đối diện ngay với đại sảnh là văn phòng cảnh sát trưởng. Cánh cửa gỗ cứng hé mở, và tên của Dylan đuợc sơn màu đen và khắc trên nền vàng. Một luồng xốn xang bất ngờ hình thành trong bụng Hope, và cô giữ ánh mắt gắn vào hai đưòng gấp nếp phía sau chiếc áo sơ mi hồ bột của Hazel.
Khi đã vào trong phòng, người phụ nữ hướng dẫn Hope cách điền vào đơn tố giác và bảo cô miêu tả sự việc rõ ràng nhất có thể. Hope ngồi xuống một chiếc bàn sạch và nghiên cứu tờ đơn trước mặt mình. Có vài “sự kiện” nhất định của đêm hôm trước có chút mơ hồ. Một vài sự kiện khác cô ước gì mình có thể quên đi.
“Nếu cô có thắc mắc gì, tôi có thể trả lời cho cô.” Hazel nói thêm ngay trước khi bà ta bỏ đi, “Vì thế đừng làm phiền cảnh sát trưởng với chiếc váy khiêu khích của cô.”.
Chiếc váy khiêu khích? Hope tự hỏi không biết chiếc váy khiêu khích có liên quan gì đến huckuty buck, hay là quần áo của cô vừa mới bị xúc xiểm. Cô lắc đầu và ngồi xuống. Chính xác thì Hazel nghĩ cô đang định làm gì nhỉ?
Cô điền tên, địa chỉ và ngày, và trong khi vẫn còn đang nghiêng đầu trên kẹp tài liệu trước mặt cô, cô ngước ánh mắt đến cánh cửa hé mở bên kia đại sảnh và được nhìn thấy nửa cái bàn đen mạ crôm, nửa chiếc điện thoại và nửa cái màn hình vi tính. Sự chú ý của cô tập trung vào hai bàn tay lớn với những ngón tay dài đang gõ trên bàn phím. Chính là bàn tay to lớn đó đã cuốn quanh cổ tay cô và ghim chúng vào hai bên đầu cô. Cô thoáng nhìn thấy măng sét áo màu be và một đoạn dây da đồng hồ màu đen. Anh với lấy một chiếc bút, đặt cánh tay lên bàn, nguệch ngoạc viết gì đấy một cách vụng về và gò bó.
Dylan là người thuận tay trái. Anh nhấc ống nghe điện thoại lên và gõ gõ cái bút vào bàn. Cô có thể nghe thấy giọng nói mượt mà và tiếng cười sang sảng trầm ấm với vẻ hài lòng của anh.
Hope hướng sự chú ý của mình quay lại với tờ đơn nằm trước mặt và tập trung vào mọi việc đã xảy ra ở Buckhorn. Cô nhớ là mình đã đi vào, gọi bia và nghe lén. Cô đã quá phấn khích về ý tưởng cho một bài báo mới khiến thời gian trôi đi như bay. Emmett Barnes đã khăng khăng mua đồ uống cho cô và không xem “Không” là một câu trả lời. Hắn ta trở nên khó chịu. Cô thì lắm mồm. Sau đó vụ đánh nhau nổ ra, và cô nhảy lên mặt bàn để tránh đường. Điều tiếp theo mà cô nhớ là Dylan hùng hổ lao vào quán bar như cơn phẫn nộ của Chúa và bị đấm vào mặt. Cô nhớ anh đấm Emmett hai quả liên tiếp nhanh chóng và thả hắn rơi xuống sàn nhà. Sau đấy anh bước về phía cô và giúp cô xuống khỏi bàn.
Ánh mắt cô quay lại căn phòng đối diện với đại sảnh và chiếc bút đang gõ gõ. Anh đã chạm vào vùng bụng trần của cô với những ngón tay đấy. Anh đã chạm vào cô và hỏi cô có ổn không, và lần đầu tiên trong một thời gian dài, cô nhớ đến cảm giác được bảo vệ bởi một người đàn ông là như thế nào. Nhưng cảm giác ấy là không thực. Cô đã say xỉn, và anh đang làm công việc của mình.
Cô ký tên mình vào dưới cùng của bản tường trình với một nét chữ bay bướm và rời khỏi phòng. Cô đưa cho Hazel tập hồ sơ và quan sát bà ta lướt qua nó.
“Chúa giúp chúng ta,” Hazel nói và khép nó lại. “Nếu ủy viên công tố cần gì khác, anh ta sẽ liên lạc.”
Hope liếc nhìn hành lang vắng vẻ lần cuối trước khi ra về. Không hề nhìn lại, cô bước qua bàn thông tin và ra khỏi cửa trước. Nhưng khi cô đi xuống lối đi bên cạnh và vòng đến bãi đỗ xe, cô cảm thấy phần nào thất vọng. Cô đã mong đợi gì nhỉ? Một cuộc trò chuyện thân thiện? Một sự lặp lại của đêm qua? Cái gì đấy.
Một cánh cửa bên hông tòa nhà mở và cô ngoái lại nhìn. Dylan đứng ở đầu bậc thềm, ánh mắt anh hướng thẳng đến chiếc thắt lưng công vụ anh đang thắt ở eo. Không hề rời mắt khỏi anh, Hope đút chìa khóa xe vào trong ổ khóa và quan sát Dylan đi xuống những bậc thềm bê tông, đôi chân dài của anh khép lại khoảng cách giữa họ. Anh kẹp một loại micro nào đó lên cầu vai bên vai trái. Sự chú ý của anh quay lại với việc điều chỉnh chiếc thắt lưng và anh không chú ý đến cô. Cô không thể nhìn thấy mặt anh vì bóng tối tạo ra bởi chiếc mũ Stetson, nhưng anh có vẻ rất giống với lần đầu tiên cô nhìn thấy anh. Chiếc áo sơ mi vàng với những nếp nhăn thường thực dán vào ngực và vùng bụng phẳng. Ngôi sao trên một túi, biển tên trên túi khác. Chiếc quần vàng với những sọc nâu chạy dọc hai bên. Hope chưa bao giờ là người say mê một anh chàng trong bộ đồng phục, nhưng cô phải thừa nhận, Dylan khiến bộ đồng phục trông đẹp. Rồi thì, anh cũng làm chiếc quần Levis trông đẹp.
Bụng cô lại xốn xang theo cái kiểu kỳ lạ kia lần nữa, và cô tự nhắc mình rằng cô đã quên ăn. Cô đã làm việc và chưa ăn sáng. Thêm vào đấy, cô đã uống gần hết một bình cà phê. Hope mở cửa xe và anh chắc hẳn đã nghe thấy tiếng, bởi vì cuối cùng anh cũng nhìn lên.
Anh dừng lại bên cạnh chắn bùn trước bên trái xe và nhìn cô từ bên dưới vành mũ. Góc mắt anh sưng vù và có màu đen và xanh. “Chào, này, hôm nay cô cảm thấy thế nào?” anh hỏi.
“Tôi khỏe, nhưng anh trông không được tốt lắm.”.
“Cô nên gặp Emmett.”.
“Tệ lắm à?”.
“Hắn ta có được cái mình xứng đáng.” Dylan bước về phía cô, di chuyển đến gần cho đến khi chỉ có cánh cửa xe ngăn cách họ. Người đàn ông này không có vẻ gì là biết những quy tắc về khoảng cách riêng tư. “Tôi ngạc nhiên khi gặp cô trước buổi trưa đấy,” anh nói.
Hope nhìn vào đôi mắt xanh lục đang nhìn chăm chăm vào cô. Trở thành sự chú ý của ánh mắt chăm chú của anh khiến cô có hơi chút lúng túng, cô bám tay vào mép trên của cửa xe. “Tại sao, vì tôi đang làm việc?”.
“Không, bởi vì hậu quả của nồng độ cồn cao.”.
“Tôi không say đến thế.” Khi anh cứ nhìn chằm chằm vào cô, cô thú nhận với một cái nhún vai. “À, có lẽ một chút, nhưng tôi sẽ phải ngã gục trước bệ sứ trước khi chịu hậu quả của nồng độ cồn cao”.
“May mắn cho cô.” Anh đẩy chiếc mũ Stetson lên bằng ngón tay trỏ. “Hôm nay cô đang bận bịu làm gì thế? Bài báo về hệ thực vật và động vật cho tạp chí Tây bắc à?”.
“Thực ra, chiều nay tôi sẽ đi chụp vài bức ảnh vùng này”.
Ánh mắt anh trượt trên mặt trước chiếc áo đóng khung trong cửa xe của cô.
“Ăn mặc như thế kia?”.
“Tôi nghĩ tôi sẽ thay đồ.”.
Anh đặt bàn tay bên cạnh tay cô trên cánh cửa và từ từ đưa mắt trở lại với khuôn mặt cô. “Cô sẽ đi chụp ảnh ở đâu?”.
“Tôi vẫn chưa biết chắc. Sao thế?”.
“Vì tôi không muốn nhận được một cuộc gọi khác như tối qua.”.
“Anh đang nói tối qua là lỗi của tôi?”.
“Không. Tôi đang nói cô có tài năng gây rắc rối, và có lẽ cô chỉ nên ở gần nhà.” Bàn tay anh chạm vào phía ngoài của bàn tay cô và cô cảm thấy cái chạm của anh lan đến khuỷu tay cô.
Cô đứng thẳng hơn và cố gắng phớt lờ cảm giác ấy. “Có lẽ anh không nên nghĩ rằng anh có thể bảo tôi làm gì.”.
“Và có lẽ cô nên làm gì đấy với cái miệng thông minh.”.
Anh nghiêng lại gần hơn. “Tôi chưa bao giờ nói điều này với một phụ nữ, và nó chỉ là một ý kiến thôi.” Anh dừng lại, và cô nghĩ có thể anh sẽ hôn cô, nhưng anh không làm. “Có lẽ cô nên nghĩ đến việc trở thành một tay bợm rượu. Cô dễ thương hơn nhiều khi cô uống say.”.
“Cám ơn, cảnh sát trưởng. Nhưng trong tương lai, khi tôi cần ý kiến của anh, tôi sẽ hỏi.”.
“Thật ư?” Một nụ cười ranh mãnh chầm chậm cong trên miệng anh. “Cưng à, em sẽ hỏi tôi qua chiếc điện thoại bằng xương, hay tôi nên lên những kế hoạch khác?”.
Hope cảm thấy lông mày cô nhíu chặt lại. Cách nói đấy không chỉ xúc phạm mà còn trẻ con. Cô đã không nghe kiểu nói như thế kể từ khi còn học đại học, khi cô và bạn cô thường dùng nó để ám chỉ tình dục bằng miệng. Cô mở miệng để nói anh trưởng thành đi, để nói với anh rằng những người đàn ông thực sự không nói với phụ nữ như thế, rồi cô nhớ lại cuộc nói chuyện của họ một cách chi tiết đầy đủ trong tối qua về cô nàng ngực bự, tóc vàng hoe ở Buckhorn.
Cô tạo ra một tiếng rên rỉ dài trong đầu và nhanh chóng trèo vào trong xe.
“Anh nên lên những kế hoạch khác,” cô nói và cố gắng đóng cửa lại.
Dylan dễ dàng giữ nó lại. “Chỉ để đề phòng, cô có muốn có số của tôi không?”.
Cô kéo mạnh và cuối cùng anh cũng từ bỏ. Không nói một từ, cô khởi động chiếc Porsche và cho nó chạy lùi lại. Cô đã có số của anh và nó là 666 (3) .
Hope lái chiếc Porsche vào bãi đỗ xe phía sau Thư viện Công cộng Gospel. Cô đã không viết chuyện thực trong một thời gian, nhưng lúc bắt đầu cô luôn thích bắt đầu với những bài báo cũ. Kiểm tra và xem xem thư viện đã lưu trữ cái gì về cảnh sát trưởng quá cố Donnelly không gây hại gì. Shelly dường như ngần ngại nói về Hiram và Hope không quen ai khác trong thị trấn – trừ Dylan. Cô không thể hỏi anh bất cứ điều gì. Không phải bây giờ. Cô không muốn ở cạnh anh trong vòng một dặm, đừng nói đến trong một khoảng cách có thể nói chuyện. Không sau khi anh nói với cô rằng cô nên trởthành một tay bợm rượu. Và đặc biệt không phải sau cái kiểu cô đã làm mình bẽ mặt đêm hôm trước. Má cô vẫn còn bỏng rát khi cô nhớ cô đã nói những gì, đấy luôn luôn là vấn đề lớn nhất khi cô say và là lý do cô hiếm khi uống nhiều. Cô đã nghĩ khi đấy cô hài hước nhưng không phải thế.
Nếu cô muốn có thông tin, cô sẽ phải dựa phần lớn vào tài liệu của FBI. Để họ đồng ý phải mất một chút thời gian, và cô thậm chí còn chưa chắc chắn cô muốn viết một bài báo không được yêu cầu hay không. Công việc đấy có rất nhiều việc phải làm mà không có đảm bảo, và thậm chí nếu cô quyết định viết, cô cũng chưa biết cô sẽ sử dụng theo đường hướng nào – liệu cô có nên hướng đến một ấn phẩm chính thống như Time hay People hay không. Nhưng càng tìm hiểu về vị cảnh sát trưởng cũ, cô càng bị lôi cuốn. Ông ta đã bị phát giác như thế nào? Và chính xác ông ta đã biển thủ bao nhiêu tiền? Tối qua Dylan đã đề cập đến điều gì đấy về những cuốn băng ghi hình. Chúng có được lan truyền quanh thị trấn không? Chúng có cái gì, và ai đã xem chúng?
Tòa nhà của Thư viện Công cộng Gospel có kích thước bằng khoảng hai chiếc xe rơ moóc dính vào nhau từ đầu đến chân, và những ô cửa sổ nhỏ để lọt vào rất ít ánh sáng tự nhiên. Bên trong tòa nhà đầy rẫy những giá sách và bàn đọc, và chiếc bàn ở phía trước đã chất đầy sách. Regina Cladis đứng sau bàn, mái tóc trắng của bà là một cái nắp hoàn hảo trên chiếc đầu tròn. Bà ta đang xăm soi rất nhiều cuốn sách Goose Bumps đang để sát mặt, sau đấy đẩy cặp mắt kính hình chai Coca xuống mũi và quay đầu để nghiên cứu những bìa sách ở đuôi mắt.
“Rửa tay trước khi mở những cuốn sách này,” bà nhắc nhở ba cậu bé khi bà đẩy kính lên. “Bà không muốn có thêm những dấu tay đen trên sách đâu nhé.”.
Hope đợi cho đến khi những cậu bé bỏ đi với những cuốn sách trước khi đến gần bàn. Cô nhìn vào đôi mắt nâu to hơi láo liên của người thủ thư và nhận thấy là những tròng mắt của Regina to và mờ đục. Hope đoán rằng người đàn bà này phải đã bị mù, ít nhất là về mặt pháp lý. “Xin chào,” cô bắt đầu. “Tôi cần vài thông tin, và tôi đang hy vọng bà có thể giúp tôi.”.
“Cũng tùy. Tôi không thể sao chép dữ liệu quan trọng của thư viện cho bất kỳ ai không sống ở Hạt Pearl ít nhất là sáu tháng.”.
Hope đã đoán trước là thế. “Tôi không muốn sao chép dữ liệu thư viện. Tôi muốn đọc những bài báo về tin tức địa phương từ năm năm trước.”.
“Cô đặc biệt quan tâm đến chủ đề gì?”.
Hope không chắc chắn thị trấn này sẽ phản ứng như thế nào trước một người ngoài muốn chọc ngoáy vào việc của họ, vì thế cô hít một hơi dài và nhảy thẳng vào. “Bất kỳ thứ gì liên quan đến cảnh sát trưởng quá cố Donnelly.”.
Regina chớp mắt, xô kính xuống mũi, rồi quay đầu và nhìn Hope qua đuôi mắt. “Cô là cô nàng California sống ở ngôi nhà cũ của Minnie à?”.
Cái nhìn săm soi kỹ lưỡng đó biểu hiện nhiều hơn chỉ là một chút lúng túng, và Hope phải buộc mình không lùi lại. “Minnie nào?”.
“Minnie Donnelly. Bà ấy kết hôn với Hiram không – có – điểm – gì – tốt – đẹp đấy được hai lăm năm trước khi Chúa nhân từ gọi bà ấy về nhà.”.
“Bà Donnelly chết như thế nào?”.
‘Ung thư. Tử cung. Vài người nói rằng sự kiện ấy đẩy Hiram qua khỏi bờ vực, nhưng nếu cô hỏi tôi, hắn ta luôn là một kẻ đồi trụy. Khi còn học lớp ba, hắn ta đã cố gắng sờ mông tôi.”.
Hope đoán là cô không cần phải băn khoăn xem người ta có nói chuyện với cô nữa hay không.
Regina đẩy kính lên. “Cô muốn làm gì với những bài báo này?”.
“Tôi đang nghĩ đến việc viết một bài báo về cảnh sát trưởng cũ.”.
“Cô đã xuất bản cái gì chưa?”.
“Khá nhiều bài báo của tôi đã xuất hiện trên tạp chí,” Hope trả lời, điều này là thật, nhưng thời gian cô có bài viết xuất hiện trên những ấn phẩm chính thống cũng đã lâu rồi.
Regina mỉm cười và mắt bà ta thậm chí còn mở to hơn. “Tôi cũng là một nhà văn. Chủ yếu là sáng tác thơ. Có lẽ cô có thể xem qua tác phẩm của tôi.”.
Hope thầm rên rỉ. “Tôi không biết gì về thơ.”.
“Ồ, không sao. Tôi cũng viết một câu chuyện ngắn về con mèo của tôi – Jinks. Nó có thể hát cùng với Tom Jones bài ‘Có gì mới thế, anh mèo?’.”.
Âm thanh rên rỉ âm thầm của Hope biến thành một tiếng tắc nghẹn trong cổ họng. “Bà nói đùa.”.
“Thật đấy, nó thực sự có thể.” Regina quay lại một tủ đựng hồ sơ sau lưng.
Bà ta lấy một chiếc chìa khóa từ vòng chun buộc quanh cổ tay và, mò ổ khóa để mở một ngăn kéo hồ sơ. “Để xem nào,” bà ta nói. Khi bà ta đẩy kính lên đỉnh đầu. “Khi ấy phải là tháng Tám năm 95.” Bà ta thò mặt vào trong ngăn kéo và nghiên cứu hàng hoạt những chiếc hộp trắng nhỏ xếp sát nhau. Sau đó bà ta đứng thẳng lên và đưa cho Hope hai cuộn phim. “Máy chiếu ở đằng kia,” bà ta nói, chỉ vào một bức tường ở phía xa. “Phô – tô giá mười cen một bản. Cô có cần hướng dẫn sử dụng máy chiếu không?”.
Hope lắc đầu, rồi nhận ra có thể Regina không nhìn thấy “Không, cảm ơn bà”.
Tôi có rất nhiều kinh nghiệm với những thứ này.”
Hope mất gần một tiếng đồng hồ để phô – tô lại những bài báo. Cô không dành thời gian đọc chúng do cái màn hình xù xì của máy chiếu. Cô lướt qua phần lớn, và từ số ít những gì cô thấy, dường như cố cảnh sát trưởng đã mắc mưu với rất nhiều câu lạc bộ tôn sùng tình dục mà ông ta tìm thấy qua Intemet.
Trong thời gian vài năm, ông ta đã biển thủ bảy mươi nghìn đô la để hội họp với những thành viên khác. Ông ta gặp gỡ họ ở San Francisco, Portland và, Seattle, và đến cuối cùng, khẩu vị đối với những cô gái của ông ta ngày càng trẻ hơn và tốn kém hơn. Trong năm cuối cùng của cuộc đời, ông ta đã trở nên bất cẩn đến mức trả tiền cho vài người trong số họ để đến nhà. Điều Hope thấy đáng ngạc nhiên nhất là bất chấp tất cả những sự bất cẩn của ông ta, không ai trong thị trấn biết một điều gì cho đến khi xảy ra cái chết của ông ta. Hay là họ biết?
Một cái tên kéo sự chú ý của cô đến màn hình mờ mờ mỗi lần nó xuất hiện là Dylan. Lời nói của anh luôn được trích dẫn là:
“FBI đang điều tra vụ việc này.
Tôi không có thông tin gì vào thời điểm này.” May mắn thay cho những tay phóng viên, những viên phó cảnh sát trưởng khác không quá kín miệng như thế.
Khi Hope làm xong, cô lấy những bản phô tô từ máy Xerox và trả lại những cuộn phim. Khi cô lái xe đến đường Timberline thì đã vừa hết buổi trưa, nhưng cô chưa ở nhà được hai phút thì chuông cửa đã vang lên. Đấy là hàng xóm của cô, Shelly, và cô ấy đã có thứ gì đó trong đầu.
“Cô biết không,” Shelly bắt đầu, “Đến lúc này tôi đã không có người hàng xóm nào trong một thời gian dài, và tôi nghĩ tôi đang hy vọng chúng ta có thể là bạn.”.
Hope nhìn Shelly đứng trên hiên nhà cô, đầu cô ấy nghiêng sang một bên, một vài tia nắng chuyển tóc của cô ấy thành màu đồng. Cô không biết tại sao hàng xóm của mình lại tức tối như thế. “Chúng ta là bạn mà,” cô nói, mặc dù cô không nghĩ một bữa trưa tự động biến mọi người trở thành bạn bè.
“Thế tại sao Dylan phải kể với tôi về chuyện xảy ra với cô ở Buckhorn?”.
“Tôi không có thời gian để kể với chị,” Hope trả lời, ngay cả khi cô đang tự hỏi có phải Shelly đang thực sự tìm kiếm một tình bạn hay chỉ muốn có thông tin về những gì đã xảy ra đêm hôm trước. “Chị nói chuyện với Dylan khi nào?”.
“Sáng nay, khi cậu ấy thả Adam xuống đây. Cậu ấy là một ngườì rất cừ.
Emmett Barnes là một gã đáng sợ và cô có thể thực sự bị thương.”.
“Tôi biết, nhưng một người đàn ông tên là Hayden Dean đã can thiệp. Nếu không phải có ông ta, Emmett đã đánh tôi rồi.”.
“Có thể nhưng những gã họ Deans đó cũngkhông tốt hơn nhiều đâu, tin tôi đi.”.
“Thật ư? Tôi đã định thử và tìm nơi Hayden sống để xem hôm nay ông ta cảm thấy như thế nào.”.
Shelly lắc đầu. “Tránh xa những người đấy ra. Tôi nghĩ rằng Hayden là anh em con bác với Emmett.” Một bên lông mày đỏ nhướn lên. “Nếu cô hiểu ý tôi là gì.”.
Hope mỉm cười, không còn quan tâm xem Shelly muốn có bạn hay có thông tin nữa. Đã quá lâu rồi cô không nói chuyện phiếm với một phụ nữ khác, cô đã quên mất cô nhớ nó như thế nào. “Chị có muốn vào chơi không? Tôi nghĩ có lẽ tôi còn một lon Pepsi ăn kiêng.”.
“Ăn kiêng? Tôi có giống như cần ăn kiêng không?” cô hàng xóm trông giống như phải nằm xuống để kéo khóa quần Wrangler hỏi. “Tôi không ăn kiêng.”.
“Có lẽ tôi có trà nữa.”.
“Không cần đâu, cám ơn. Wally, Adam và tôi vừa mới đi xuống hồ để tổ chức một buổi pinic muộn. Sao cô không tham gia với chúng tôi?”.
Hope có một nghìn linh một việc phải làm. Hoàn thành câu chuyện người ngoài hành tinh, chụp ảnh quanh đây rửa ảnh ở hiệu ảnh lấy ảnh trong một giờ trong thị trấn, scan chúng vào máy tính, sau đó ghép vài người ngoài hành tinh vào những bức ảnh. Cô phải đọc qua những bài báo cô đã phô – tô ở thư viện, và cô phải quyết định xem có một câu chuyện ở đâu đấy hay không. Một câu chuyện đã không được kể trước đây.
Mắt cô cảm thấy nhức nhối, đầu óc cô mềm nhũn. Vài giờ nằm trên bãi biển, dọn trống đầu óc và buôn chuyện về bất kể thứ gì ngoài công việc nghe giống như thiên đường. “Được rồi,” cô nói. “Cho tôi mười phút.” Ngay khi Shelly đi về, Hope chạy lên tầng trên và cởi quần áo ra. Cô rửa mặt và cạo lông chân. Bộ đồ bơi một mảnh nhuộm hoa văn màu xanh lơ và xanh lục được thiết kế cắt cao trên hông, và cô thích nó bởi vì nó khiến chân cô trông dài hơn. Cô túm lấy một chiếc giỏ picnic cũ cô tìm thấy trong tủ bát đĩa và kiểm tra xem nó có mối mọt chết hay không. Chiếc giỏ sạch và cô ném vào đấy vài lon Pepsi ăn kiêng, nho, bánh quy giòn, pho mát xanh, và chiếc máy ảnh Minolta đang nằm trong bao đựng. Với một chiếc khăn tắm bãi biển vắt trên một vai, một đôi dép tông Nhật dưới chân và chiếc kính râm che mắt, cô tiến ra hồ.
Adam và Wally đã ở trong nước, trong khi Shelly thư giãn bên dưới bóng râm của những cây thông. Cô ấy ngồi trên bờ biển trong một chiếc ghế dài, uống Shasta Cola và nhai khoai tây vị bò nướng. Cô ấy mặc một chiếc áo dây in hình Hawai và một chiếc váy bơi đồng bộ.
“Chúng tôi mang dư sandwich đấy nếu cô thấy đói.” Shelly mời khi Hope ngồi vào chiếc ghế bên cạnh hàng xóm.
“Sandwich gì thế?”.
“Bơ đậu phộng và mứt, hoặc thịt xông khói và pho mát.”.
“Thịt xông khói và pho mát nghe có vẻ ngon.” Hope ngồi dạng chân trên chiếc ghế dài. Khung ghế kim loại làm ấm bên trong đùi cô khi cô đặt giỏ picnic giữa hai đầu gối.
“Tôi mang theo một ít hoa quả, pho mát và bánh quy giòn,” cô thêm vào khi cô mở chiếc giỏ.
“Đấy có phải là pho mát dạng phun không?”.
“Không, pho mát xanh.” Hope quệt pho mát lên một chiếc bánh quy, thả một quả nho lên trên cùng và cắn vào nó.
“Ơ … không, cám ơn.”.
Hope liếcnhìn Shelly, người đang quan sát cô như thể cô đang ăn lòng động vật. “Món này ngon lắm,” cô nói và đút phần còn lại của chiếc bánh vào miệng.
“Tôi sẽ công nhận lời cô nói là được rồi.”.
“Không thể nào. Tôi đã ăn đồ chị nấu, giờ chị phải ăn đồ của tôi.” Hope làm cho Shelly một cái bánh quy và đưa nó cho cô ấy.
“Đây là ý tưởng về nấu ăn của cô à?” Shelly trông có vẻ nghi ngờ, nhưng vẫn nhận.
“Trong những ngày này.”.
Shelly cắn chiếc bánh, rón rén nhai, sau đấy tuyên bố, “Này, cái này ngon hơn tôi nghĩ.”.
“Ngon hơn pho mát dạng phun à?”.
“Phải, nhưng vẫn không bằng vị thịt lợn xông khói.”.
Shelly giơ tay về phía chiếc giỏ của Hope và họ hoán đổi giỏ.
“Cô có thể ăn bất kể thứ gì trong đấy ngoài bơ đậu phộng và mứt nho,”.
Shelly nói với Hope khi cô lật dở những món ăn. “Nó là của Adam và thằng bé thực sự rất kén chọn về món mứt. Nó phải rất mịn, không có hạt hay bất kỳ thứ gì. Dylan đã phải làm riêng bánh sandwich cho nó.”.
Hope chọn một bánh mỳ trắng mềm kẹp thịt đùi lợn xông khói và pho mát cô đã không ăn từ khi là một đứa trẻ, và mấy khoanh khoai tây béo ngậy. “Mẹ Adam ở đâu?” cô hỏi như thể cô không muốn biết đến chết đi được.
“Hầu hết thời gian cô ta ở L.A,” Shelly trả lời khi cô đặt một quả nho lên một núi pho mát xanh. “Nhưng khi cô ta đến thăm Adam, họ đi đến nơi nào đó ở Montana.”.
“Việc này thật bất thường.” Hope bật nắp chai nước cam Shasta và đưa nó lên môi. “Thông thường bố là người đến thăm.”.
Shelly nhún vai. “Dylan là một ngườì bố tốt, và khi Adam cần ảnh hưởng của phụ nữ, thằng bé đến và ở với bà nội và bác ở Double T. Và, tất nhiên, rất nhiều thời gian thằng bé ở đây với tôi và Wally khi Dylan đi làm.” Shelly cắn chiếc bánh quy rồi hỏi, “Cô có con không?”.
“Không, không có.” Hope chờ đợi một cái cau mày khó hiểu làm nhăn lông mày của Shally hay cái vẻ ồ – cô – nàng – tội – nghiệp lướt qua trên mặt cô ấy.
Nhưng không có gì xảy ra.
“Cái thứ này gây nghiện,” Shelly nói khi làm cho mình một cái bánh quy khác.
Hope thả lỏng trên ghế và ăn bữa trưa của mình. Cô quan sát Wally và Adam chìm xuống nước, bàn tay thò trên mặt hồ. Bữa ăn giàu chất mỡ và béo, cô ăn thêm ba chiếc bánh quy Oreos và một mẩu cam thảo. Khi họ trao đổi lại những chiếc giỏ, trong giỏ của Hope đủ còn lại vài quả nho đáng thương vẫn còn cuống, hai lon Pepsi ăn kiêng và chiếc máy ảnh của cô. Cô bỏ chiếc Minolta ra khỏi vỏ và hướng nó về phía hai cậu bé đang lặn xuống bắt cá tuế bằng tay.
Hope không phải là một thợ chụp ảnh cừ, nhưng cô biết đủ để lấy được cảnh cần thiết. Cô tập trung ống kính và nháy.
“Cô đang chụp ảnh cho bài báo về hệ thực vật và động vật à?”.
Đột nhiên Hope không cảm thấy quá thoải mái trong việc nói dối Shelly.
“Ừ,” cô nói, điều ấy cũng không hẳn là một lời nới dối thực sự. Cô đang chụp ảnh khu vực này cho bài báo người ngoài hành tinh của cô. Cô chụp thêm nhiều bức nữa, sau đấy các cậu bé chạy lên bãi biển về phía họ và túm lấy mấy chiếc khăn bông.
Adam thò tay vào túi quần bơi và đưa cho Shelly rất nhiều hòn đá nhỏ. Cậu bé nói cô ấy có thể chọn hòn đặc biệt nhất.
“Chụp cho cháu một tấm đi, cô Hope,” Wally thúc giục khi nó gập hai cánh tay gầy như bút chì lại.
“Không, cháu cơ.” Adam đẩy Wally ra và tạo dáng như một vận động viên thể hình.
“Cô sẽ chụp cho mỗi đứa một tấm và đưa ảnh cho các cháu khi cô rửa xong.”.
Cô chụp được rất nhiều ảnh trước khi các cậu bé túm lấy bánh sandwich bơ đậu phụng và sô đa rồi tiếp tục đi tìm thêm ‘những hòn đá dễ thương’ ven bờ hồ.
“Lúc nào thì cô sẽ hoàn thành bài báo?” Shelly hỏi.
Hope mở miệng để liến thoắng một cái hạn cuối tưởng tượng, nhưng dừng lại. Họ đã chia sẻ giỏ đồ picnic. Cô đã uống sô đa cam và ăn bánh Oreos của Shelly, và cô không cảm thấy muốn nói dối thêm nữa. Shelly đã không đánh giá Hope khi cô ấy phát hiện ra rằng Hope không có đứa con nào. Có lẽ cô ấy sẽ không đánh giá nghề nghiệp của cô hoặc muốn thuật lại lần nhìn thấy Elvis.
“Ừm, nếu chị không lan tin, tôi sẽ nói với chị về việc tôi thực sự viết cho tờ báo nào.”.
Shelly ngồi thẳng hơn một chút và nghiêng về phía Hope. “Tôi có thể giữ bí mật.”.
“Thực ra tôi viết cho tờ Tin tức Vũ trụ Hàng tuần. Tôi nói dối về bài báo cho tạp chí Tây bắc.”.
“Cô nói dối? Vì sao?”.
“Vì mọi người gán mọi thứ cho những nhà báo báo lá cải. Kiểu như chúng tôi nhếch nhác và viết tin đồn nhảm.”.
“Cô không làm thế sao?”.
“Không. Tôi viết chuyện về những Người khổng lồ, người ngoài hành tinh và những người sống bên dưới đại dương trong Tam giác Bermuda.’ “Ừm … tờ báo khổ nhỏ trắng đen luôn bán cạnh tạp chí Enquirer đó à?”.
Hope đợi cho một con thuyền lướt qua trước khi cô chụp một tấm cảnh mặt hồ trong xanh. “Ừ.”.
“Cái tờ với Cậu bé Người dơi trên bìa à?”.
“Cậu bé Người dơi,” Hope cười chế giễu khi cô tập trung ống kính vào một cảnh ven hồ xa xa. Cô lấy cây cối làm điểm tập trung và làm mờ bãi biển cận cảnh. Một địa điểm hoàn hảo cho người ngoài hành tinh lôi thôi đi picnic.
“Đấy là tờ Tin tức Thế giới Hàng tuần. Họ không thể viết được một cái gì ra hồn. Những người đó hoàn toàn không có trí tưởng tượng.” Đối với cô, Cậu bé Người dơi là một trong những bài báo ngớ ngẩn hơn hẳn những bài cô đã đọc của đối thủ.
“Ồ! Kiến khổng lồ tấn công New York à?”.
“Trúng rồi.” “Ôi Chúa tôi! Cô viết câu chuyện ấy à?”.
Hope hạ máy ảnh xuống và nhìn vào cô hàng xóm. “Không, nhưng chuyện của tôi là những bài chính, và trong một khoảng thời gian tôi đã từng viết cho mục tư vấn đối – đáp dưới bút danh là Lacy Harte và Frank Rhodes.”.
“Cô là Lacy Harte phải không?”.
“Tôi vừa là Lacy vừa là Frank.”.
“Cô đùa à! Tôi luôn nghĩ hai người đấy là hai người khác hẳn. Ý tôi là, họ thật sự rất bất lịch sự với nhau.”.
“Lúc đầu tôi cũng có cảm giác kiểu như tinh thần phân liệt, nhung bây giờ tôi thích nó. Tôi cũng viết những bài báo chính dưới tên là Madilyn Wright.”.
“Có bài nào cô viết mà có thể tôi đã đọc không?”.
Hope cho máy ảnh vào lại trong bao, sau đó duỗi người trên ghế và ngẩng mặt về mặt trời. “Năm ngoái, loạt bài báo về Tam giác quỷ Bermuda của tôi trở nên thực sự nổi tiếng. Tôi tiếp tục với chuyện Micky – Yêu tinh phủ thủy.”.
“Ôi lạy Chúa! Tôi đã đọc vài chuyện về Micky – Yêu tinh phù thủy ấy. Bài báo ấy là của cô à?”.
” Phải.”.
“Mẹ chồng tôi đã mua những cuốn tạp chí đấy và đưa chúng cho tôi khi bà đọc xong.”.
Theo như Hope được biết, chỉ có ‘mẹ chồng’ mới mua báo lá cải. Mọi người đọc chúng, nhưng cô chưa bao giờ gặp ai thú nhận đã thực sự mua một tờ.
Giống như việc cố gắng tìm người thú nhận là họ đã bỏ phiếu cho Nixon.
Nhưng số lượng đặt báo dài hạn của tờ Tin tức Vũ trụ Hàng tuần trên toàn thế giới vào khoảng mười nghìn. Có rất nhiều độc giả trung thành, và không phải tất cả bọn họ đều là mẹ chồng.
“Tôi thật sự thích đoạn Micky tự biến đổi thành RuPaul.”.
Câu chuyện đó đã trở thành bài báo cuối cùng về yêu tinh và sự khởi đầu rắc rối của cô. “Anh ta ghét câu chuyện đấy.” Khi anh ta đọc nó, anh ta đe dọa sẽ kiện Hope, biên tập viên của cô, chủ tịch hội đồng quản trị và giám đốc điều hành của tờ báo.
“Yêu tinh Micky là một người thật á?”.
“Anh ta không phải là một yêu tinh, anh ta là một người lùn. Tên thật của anh ta là Myron Lambardo, nhưng anh ta cũng được biết đến là Myron – Máy nghiền. Tôi gặp anh ta ở Vegas khi tôi đến đấy nghiên cứu một bài báo về Elvis.
Khi ấy, anh ta làm việc trong một tầng hầm nhỏ của một quán bar, đấu vật với phụ nữ trong một cái bể bơi nhỏ bằng nhựa đầy bùn.” Cô trả tiền cho anh ta để được phép chụp ảnh anh ta, và cô đảm bảo để anh ta ký vào một biên bản cho phép xuất bản những bức ảnh đấy. “Lúc đầu anh ta thực sự thích những câu chuyện ấy. Anh ta gây dựng được phần lớn danh tiếng trong mười lăm phút và xoay sở được vài trận đấu vật cao giá hơn với tư cách là Micky. Anh ta thường gọi và để lại lời nhắn trên điện thoại làm việc của tôi, kể với tôi anh ta thích chúng như thế nào. Sau đấy tôi viết bài RuPaul và anh ta nghĩ nó khiến anh ta có vẻ đồng tính. Anh ta nói tôi lợi dụngvà sỉ nhục anh ta, như thể những phụ nữ dìm anh ta xuống bùn còn có phẩm giá hơn nhiều.”.
“Khi Myron phát hiện ra rằng anh ta đã ký cam kết từ bỏ quyền lợi của mình,” Hope tiếp tục, “Anh ta bắt đầu gọi điện và đe dọa tôi. Anh ta muốn tôi biến hình anh ta thành ai đấy đáng mặt nam nhi đại trượng phu như kiểu Arnold Schwarzenegger. Khi tôi không đáp lại những đe dọa, anh ta tìm thấy nơi tôi sống và xuất hiện ở cửa nhà tôi. Anh ta quấy nhiễu tôi và không chịu để tôi yên, và tôi đã phải kiện anh ta ra tòa và xin được lệnh hạn chế đối với anh ta.”.
Shelly quăng chân sang bên kia ghế. “Cô bị yêu tinh Micky tấn công?”.
“Myron Lambardo.”.
“Hắn ta có làm cô bị thương không?”.
“Không, anh ta chỉ đe dọa làm ‘bia mộ’ cho tôi thôi.”.
“Nhưng cô lớn hơn hắn.”.
“Ừ, nhưng anh ta là một gã trâu nhỏ. Anh ta đấu vật để kiếm sống.”.
Mắt Shelly to lên và cô ấy đưa một bàn tay lên miệng. Hope nghĩ cô đã làm cô hàng xóm sốc đến mức không nói lên lời, cho đến khi Shelly nổ ra một tràng cười kích động.
Wally và Adam quay lại và nhìn Shelly như thể cô ấy là kẻ dở hơi. “Cái gì buồn cười thế, mẹ?” Wally gọi với.
Shelly lắc đầu và những cậu bé chuyển sự chú ý sang Hope, như thể cô có câu trả lời.
Hope nhún vai. Cô có thể nói gì? Vài người đúng là những kẻ dở hơi rành rành. Thỉnh thoảng cô tự hỏi có phải cô là người tỉnh táo duy nhất trong thế giới điên khùng này.
— —— —— ——–
(1) Nhãn hiệu thuốc giảm đau, hạ sốt phổ biến của Bắc Mỹ.
(2) Là tình trạng mô có chứa các tuyến nội mạc tử cung và chất đệm điển hình xuất hiện ở nhiều vị trí bên ngoài tử cung trong khung chậu hoặc ở một số vùng khác của cơ thể.
(3) Trong quyển cuối cùng của bộ kinh Tân ước, thường gọi là sách Khải huyền, con số 666 được cho là dấu ấn đáng sợ của quỷ Sa – tăng. Nhiều tôn giáo và nền văn hóa khác cũng xem con số này là xui xẻo, chỉ mang lại tai họa.