Hope Spencer đóng cửa xe, khoanh tay dưới ngực, và dựa lưng vào chiếc Porsche bạc. Mặt trời chói chang đổ xuống từ bầu trời xanh trong vắt, nung nóng bờ vai trần và mái tóc của cô ngay tức khắc. Không có đến chút dấu hiệu nào của một làn gió chạm vào mặt hay lùa qua chiếc áo hai dây vải thun pha bông đang dính vào da cô. Tiếng vo vo đều đặn của côn trùng hòa điệu cùng tiếng nỉ non của một bài hát đồng quê người – đàn – ông – có – lỗi – với – tôi vọng ra từ ngôi nhà duy nhất bên kia con đường trải sỏi.
Ánh mắt Hope nheo lại và cặp kính Ray Bans của cô trượt xuống sống mũi.
Số 2 Timberline có màu nâu và xám, được thôi, màu nâu ở những nơi lớp sơn xám đã tróc ra.
Ngôi nhà giống như thứ gì đấy chạy ra từ phim Psycho (1) và tuyệt đối không có vẻ gì giống với ‘ngôi nhà mùa hè’ mà cô đã bị gạ gẫm để mong đợi. Đúng là, ‘sân vườn’ gần đây đã được cắt cỏ. Trong chu vi khoảng sáu mét quanh ngôi nhà và một lối đi dẫn xuống bãi biển đã được chặt và phát quang hết cỏ và hoa dại cao đến eo. Từ nơi cô đứng, mặt hồ mang vẻ pha trộn giữa ánh sáng và màu xanh lục sẫm. Ánh mặt trời xung đột với bóng râm và nhảy múa trên những ngọn sóng như những mảnh thiếc trôi nổi trên mặt nước. Một chiếc thuyền câu cá bằng nhôm buộc vào một cái cột màu hung, đang chòng chành với từng nhịp nhấp nhô của những con sóng dịu dàng.
(1) Một bộ phim rùng rợn ly kỳ của Mỹ.
Hope đẩy cặp kính râm lên và chuyển sự chú ý đến dãy núi Sawtooth gồ ghề sừng sững ở sân sau nhà. Khung cảnh giống y như những tấm bưu ảnh về vùng này mà sếp của cô đã đưa cho cô xem. Vẻ đẹp Mỹ. Những cây thông to, cao vút và những đỉnh núi granit vươn thẳng tắp và chạm đến bầu trời vô tận. Cô cho rằng làn gió thơm và tất cả vẻ hùng vĩ của dãy núi gây ra sự kính sợ trong hầu hết con người. Giống như Chúa đang ban phát lòng nhân từ. Như một trải nghiệm tôn giáo.
Hope tin tưởng những trải nghiệm tôn giáo cũng nhiều như cô tin vào chuyện nhìn thấy Người khổng lồ. Trong phạm vi công việc, cô biết quá nhiều để tin vào những truyền thuyết về những con người hoang dã lông lá, những bức tượng biết khóc hay những người quá khích hay dùng strychnine (2) .
(2) Một loại chất độc, dùng với liều lượng nhỏ có tác dụng kích thích thần kinh.
Cô không hề tin có người nhìn thấy Sasquatch (3) chạy lăng quăng trong rừng hay những người tuyên bố rằng họ nhìn thấy khuôn mặt của Chúa Jesus trong một chiếc bánh ngô.
(3) Một sinh vật khổng lồ giống người, mình đầy lông lá, đuợc tin là sinh sống ở Tây Bắc Mỹ và Canada.
Khỉ thật, một trong những bài báo thành công nhất của cô, ‘Hộp thiêng pháp điển (4) thất lạc được tìm thấy ở Tam giác quỷ Bemludas đã có được một số lượng người đọc khổng lồ và sinh ra thêm hai câu chuyện thành công tương đương nữa là:
(4) Vật thiêng của dân tộc Do Thái ngày xưa đuợc nhắc đến trong Kinh cựu ước đã thất lạc.
‘Vườn Eden (5) được tìm thấy ở Tam giác quỷ Bermudas và ‘Elvis (6) được tìm thấy đang sống trong vườn Eden của Tam giác quỷ Bermudas.
(5) Khu vườn được miêu tả trong Sách Sáng Thế là nơi người đàn ông đầu tiên Adam và vợ ông Eve sinh sống sau khi được chúa trời tạo ra.
(6) Elvis Presley: Ông vua nhạc Rock and Roll, một huyền thoại nhạc và điện ảnh của Mỹ.
Elvis và tam giác quỷ luôn là một tiếng vang lớn đối với độc giả của cô.
Nhưng khi Hope nhìn vào dãy núi đồ sộ và không gian rộng mở trước cô, cô chỉ cảm thấy nhỏ bé. Tầm thường. Cô đơn. Nỗi cô đơn mà cô nghĩ mình đã vượt qua. Nỗi cô đơn đe dọa sẽ vươn ra khỏi bầu không khí của vùng núi khô ráo và làm cô nghẹn thở nếu cô cho phép nó. Thứ duy nhất giữ cô khỏi cảm giác như người cuối cùng trên hành tinh này là tiếng bập bùng phát cáu của tiếng đàn ghita Hawai phát ra từ chiếc đài của người hàng xóm.
Hope túm lấy chiếc túi Bally từ trong xe và tiến vào lối đi bẩn thỉu gỗ ghề dẫn đến cửa ra vào chính. Sự thận trọng kìm chế từng bước đi của đôi giày ống hiệu Tony Lama. Cô hoàn thành việc xem xét. Rắn sống ở vùng này của đất nước. Rắn chuông.
Tay nhân viên quản lý nhà đất đã đảm bảo với cô rằng rắn chuông sống ở trong núi, và những gì cô nhìn thấy đặt số Hai Timberline đúng ngay vào Vùng Trung Tâm Của Rắn Chuông. Cô tự hỏi có phải Walter đã chủ tâm làm điều này để trả thù cô vì những phiền phức cô gây ra cho anh ta và tờ báo gần đây.
Một lớp bụi mịn bao phủ hiên nhà, và những bậc thềm cũ nát khẽ cọt kẹt bên dưới bàn chân cô, nhưng với sự nhẹ nhõm ghê gớm của cô, tấm gỗ có cảm giác chắc chắn. Nếu cô ngã lao qua hiên nhà, sẽ không ai nhớ đến cô trong vòng ba ngày. Thậm chí không ai nghĩ đến việc tìm cô cho đến khi hạn chót nộp bài của cô đã qua, và có lẽ ngay cả khi đến lúc đấy cũng không.
Không ai trong số CEO, chủ báo hay biên tập viên của cô, Walter Boucher vui vẻ gì lắm với cô tại thời điểm này. Kỳ nghỉ làm việc này là ý tưởng của họ.
Cô đã không viết được cái gì hay ho trong nhiều tháng nay và họ hăm hở thúc giục cô thu nhận thêm một số phong cảnh mới. Nơi nào đấy có thể gây cảm hứng cho những câu chuyện về Người khổng lồ và những bài báo về người ngoài hành tinh. Và tất nhiên, việc này còn là vì sự thất bại của cả loạt bài Micky – Yêu tinh phù thủy. Họ vẫn còn cằn nhằn về chuyện ấy.
Hope cắm chìa khóa vào nắm đấm cửa, rồi đẩy cửa mở. Cô không biết cái gì đang đợi mình, nhưng không có gì xảy ra. Không có một kẻ thần kinh cầm dao ăn mặc giống như mẹ hắn ta, không có ma quỷ, không có động vật hoang dã làm cô sợ phát khiếp. Không có gì. Chỉ có mùi vị của không khí hôi hám và bụi bặm, mặt trời phía sau lưng cô trải dài trên lối vào và thắp sáng căn phòng phía bên phải cô. Hope tìm thấy một cầu dao điện ngay bên trong cửa trước và bật nó lên. Chiếc đèn trần trên đầu kêu lên một tiếng rồi tỏa ánh sáng mờ mờ xuống những khoảng tối còn lại.
Cô bỏ cặp kính râm vào túi xách, để cửa mở để đề phòng, rồi tiến xa hơn vào trong ngôi nhà. Bên trái cô, một chiếc tủ búp phê nặng nề và một chiếc tủ bát chạm trổ choáng cả phòng bếp. Cả hai đều có thể cần đến sự trợ giúp của một lượng dầu chanh và nước tẩy rửa Windex. Một chiếc bàn dài chiếm gần hết không gian, một tờ báo Hunter’s Digest và một bó củi đã bị xô vào một bức tường. Một lớp bụi mịn bao phủ mọi thứ.
Trong khi phòng ăn mang đến ấn tượng một vẻ tao nhã hờ hững, phòng khách ở bên phải cô giống như một cái lều săn bắn:
đồ nội thất bằng gỗ và da rườm rà, một chiếc ti vi với ăng ten tai thỏ, một mảnh da gấu treo trên lò sưởi đá. Đứng trên mặt lò sưởi là một con linh miêu nhồi, răng và móng vuốt nhe ra.
Bàn uống nước và những chiếc bàn nhỏ để giữa ghế bành được tạo nên từ gạc nai và mặt kính. Và trên tường, những bộ gạc nai, và hàng tá đầu động vật ấn tượng khác treo trên những giá to được đóng đinh bên trên ván lát chân tường.
Hemingway sẽ thích nó, nhưng Hope nghĩ nó giống như một mối đe dọa đang chờ đợi nạn nhân. Cô có thể tưởng tượng ra việc đi qua căn phòng này vào buổi tối và đâm mình vào đấy.
Tiếng gót giày của cô vang vọng trong ngôi nhà vắng vẻ khi cô tiến vào nhà bếp. Trừ ba năm qua, Hope luôn sống với người nào đấy. Bố mẹ cô, bạn cùng phòng đại học, và sau đấy là chồng cũ của cô. Bây giờ cô đang sống cô đơn, và trong khi cô vẫn thích sống như thế hơn nhiều, lần đầu tiên trong một thời gian dài, cô ước gì cô có một anh chàng to cao vạm vỡ đi trước cô, che chở cho cô trước những thứ chưa biết. Một người đàn ông để cô có thể nép mình và trốn sau lưng. Một người đàn ông có kích thước của vị cảnh sát trưởng cô gặp trước đấy. Hope cao một mét bảy, và vị cảnh sát trưởng ấy dễ phải cao hơn cô mười lăm phân nữa – vai rộng, cơ bắp rắn chắc và không béo ở một chỗ nào.
Cô bước vào bếp và bật đèn. Thảm trải sàn, mặt quầy bếp và trang thiết bị mọi thứ đều là màu vàng ngoại trừ cái giá để chảo và nồi bằng sắt rèn treo trên bếp. Cô kéo cửa lò vi sóng mở ra và phát hiện một con chuột chết nằm sõng xoài trên chiếc đĩa. Cô từ bỏ, đóng sầm cửa lại, và cô lại nghĩ đến vị cảnh sát trưởng và tác dụng đôi khi cần thiết biết bao của một đàn ông.
Trước khi anh ta đeo kính râm vào, đôi mắt xanh lục sẫm của cảnh sát trưởng Taber đã quan sát cô từ một khuôn mặt thích hợp với màn ảnh bạc hơn là vùng hoang dã của Idaho.
Anh ta không phải một anh chàng xinh trai. Những anh chàng xinh trai đánh mất vẻ ngoài của mình ở tuổi trung niên, và không ai có thể nhầm cảnh sát trưởng với một cậu trai. Anh ta đúng là một người đàn ông, một hình dáng mạnh mẽ với một nụ cười có thể dễ dàng chuyển một từ không thành có, khiến một cô nàng yếu đuối đứng thẳng hơn một chút, ưỡn ngực ra trước một chút, và muốn giật tóc mình. Hope không xem mình là một cô nàng yếu đuối nhưng ngay cả cô cũng phải thừa nhận rằng cô đã điều chỉnh dáng đứng rất nhiều lần trong suốt cuộc hội thoại ngắn ngủi của họ.
Cô không biết mình mong đợi lực lượng luật pháp trông như thế nào ở phần này của thế giới. Có lẽ giống phó cảnh sát trưởng gầy như cây bút chì kia, hoặc có lẽ giống như Andy Frifhth (7) . Một gã nhà quê vụng về ‘nhút nhát’. Nhưng phía sau đôi mắt xanh lục và nụ cười thoải mái đó là một sự hiểu biết rành rành không bao giờ có thể nhầm lẫn với một gã quê mùa.
(7) Diễn viên, đạo diễn, nhà sản xuất, ca sĩ và nhà văn của Mỹ.
Hope đi qua phòng khách dẫn đến cầu thang lên tầng hai. Cô bật công tắc điện ở chân cầu thang, nhưng không có gì xảy ra. Đèn không sáng mà bóng đèn cũng không nổ. Cô đứng nhìn chăm chăm vào bóng tối bí hiểm của tầng hai một lúc, sau đấy cô buộc mình leo lên cầu thang tối tăm, trái tim cô đập thình thịnh trong tai.
Ánh sáng tràn vào hành lang từ bốn trong năm cánh cửa mở, và một mùi thoang thoảng đôi chút quen thuộc từ thời thơ ấu xâm nhập vào bầu không khí nóng, giống như một ký ức đã lãng quên từ lâu. Hope bước đến căn phòng thứ nhất và ngó vào bên trong. Những tấm rèm dày sụ đã khép lại để ngăn ánh sáng từ bên ngoài, nhưng cô có thể nhận thấy hình dáng chiếc giường và bàn trang điểm được phủ vải. Cô có thể thấy đường nét của một một cái tủ quần áo cũ, cửa đang để mở. Thứ mùi đó nặng lên, mang theo nó nhận thức về amoniac và hồi ức mang máng về mùa hè năm ’75 mùa hè đầu tiên và duy nhất cô đã tham gia trại hè Thám hiểm của các cô gái.
Hope với đến công tắc đèn cạnh cửa. Có những vết bẩn trên sàn nhà và vải che phủ giống bùn khô và cô nhận ra chúng là gì một tích tắc trước khi cô nghe thấy tiếng quang quác, tiếng móng vuốt sắc nhọn xoàn xoạt, và tiếng vỗ cánh từ bên trong tử quần áo.
Hai cái bóng lướt về phía cô, và giống như cô trở lại mười tuổi, đứng ở cửa cabin của Trại hè Piney Mountain, cô há miệng và thét lên. Nhưng không giống cái lần hai mươi lăm năm trước, cô quay quắt người và chạy trối chết. Lần này cô không chờ đến khi bị cánh dơi tát vào má hay những cái móng vuốt cào vào tóc cô.
Cô lao vù vù xuống cầu thang, qua bức tường đầy gạc nai, và ra khỏi cửa trước. Cô vẫn còn la hét khi cô nhảy xuống khỏi hiên nhà, bàn chân tiếp tục chuyển động ngay cả trước khi tiếp đất. Trái tim cô đập nhanh hơn cả đôi giày ống và cô không dừng lại cho đến khi an toàn trốn ở phía bên kia của ô tô. Ngực cô nhức nhối khi cô quỳ đầu gối trên đất bẩn, hít luồng không khí nóng bức vào phổi.
“Ôi Chúa tôi – Ôi Chúa tôi – Ôi Chúa tôi” cô thở hồng hộc và đặt bàn tay lên cổ mình. Cô nhìn thấy những đốm sáng trước mắt cô, và bên dưới những ngón tay cô cảm thấy mạch máu của mình đập với tốc độ báo động.
Hope hít một hơi thở sâu và gục đầu vào giữa đầu gối. Cô sẽ giết cái gã nhân viên quản lý nhà đất kia. Ngay khi cô lấy lại hơi thở, cô sẽ nhảy vào trong xe, lái đến Sun Valley và tàn sát hắn. Cô nghĩ đến khuôn mặt của gã, và cô nghe thấy tiếng cười – tiếng cười thực sự – lần đầu tiên.
Hope ngước mắt lên và liếc sang bên trái để thấy hai cậu bé đang gập đôi người ở đấy. Cả hai đều không mặc áo. Cả hai đều mặc quần soóc ni lông xanh da trời và đi ủng cao bồi nâu. Một đứa đang chỉ vào cô trong khi đứa còn lại đang cứng người như thể nó đang cố gắng không làm ướt quần mình. Chúng đã có một thời gian vui vẻ thực sự trước sự đau khổ của cô. Cô không quan tâm.
Cô thực sự có thể cảm thấy một cái gì đấy đang phình ra trong đầu cô và vượt trên cả cảm giác bẽ mặt.
“Cô cô cô.” Thằng bé chỉ vào cô lắp bắp trước khi ngã sụp xuống đường, cười ngặt nghẽo đến mức đôi vai xương xẩu của nó run bần bật.
Hope nhổm người lên vừa đủ để nhìn về phía ngôi nhà qua đuôi xe. “Các cháu có thấy dơi bay theo sau cô không?” Cô hỏi át tiếng cười chói lọi của chúng. Thằng bé cứng mình lắc đầu.
“Cháu chắc chứ?” Cô đứng lên, rồi phủ bụi đầu gối chiếc quần jeans.
“Chắc.” Thằng bé cười khanh khách và cuối cùng bỏ hai tay xuơng hai bên sườn. “Chỉ thấy cô bay ra.”.
Cô tìm đôi kính râm trong cái túi không còn ở trên vai. Cô đặt một bàn tay lên lông mày để che mắt và nhìn khắp khoảng sân bẩn thỉu. Không có cái túi Bally. Không kính râm. Không chìa khóa xe. Rõ ràng cô đã để rơi chiếc túi ở bên trong. Có lẽ ở tầng trên. Gần căn phòng có dơi.
“Các cậu bé có muốn kiếm vài đồng không?”.
Trước lời đề nghị về tiền bạc, thằng bé nằm trên đất đúng phắt dậy, mặc dù nó không thể kiềm chế nổi tiếng cười của mình. “Bao nhiêu?” Nó cố gắng hỏi.
“Năm đô la.”.
“Năm đô la!” Cậu bé đang kìm mình há hốc miệng. “Chia nhau hay mỗi người?”.
“Mỗi người.”.
“Wally, chúng ta có thể mua thêm một bó tên cho những khẩu súng.”.
Lần đầu tiên Hope nhìn thấy những khẩu súng màu vàng cam và những mũi tên cao su đồng màu nhét trong thắt lưng quần soóc của hai cậu nhóc.
“Ừ và kẹo nữa.” Wally nói thêm.
“Chúng cháu sẽ làm gì?”.
“Vào trong ngôi nhà kia và lấy cái túi của cô.”.
Nụ cười của chúng héo đi. “Trong ngôi nhà Donnelly á?”.
“Nó bị ma ám đấy.”
Hope quan sát những khuôn mặt đứng trước mình. Cậu bé tên Wally có mái tóc màu đỏ đồng và mặt đầy tàn nhang. Cậu bé kia nhìn cô từ đôi mắt xanh lục to và một khuôn mặt với những lọn tóc xoăn đen ngắn bao quanh. Nó bị mất một cái răng cửa, và một cái mới đang mọc hơi trồi lên. “Ma sống ở trong đấy.”.
Nó nói.
“Cô không nhìn thấy con ma nào!” Hope trấn an chúng và chuyển ánh mắt của cô đến cánh cửa trước vẫn đang mở rộng. “Chỉ có dơi. Các cháu có sợ dơi không? Cô sẽ hiểu nếu các cháu sợ.”.
“Cháu không sợ. Cậu sợ không, Adam?”.
“Không hề. Năm ngoái kho thóc của bà mình đã có dơi. Chúng không cắn người.” Có một khoảng lặng trước khi Adam hỏi bạn mình:
“Cậu có sợ ma không?”.
“Cậu sợ không?”.
“Mình không sợ nếu cậu không sợ.”.
“Ừ, mình không sợ nếu cậu không sợ. Và hơn nữa, chúng ta có những cậu bé này.”.
Hope chuyển sự chú ý của mình lại với những cậu bé và quan sát chúng nhét những mũi tên cao su vào khẩu súng nhựa. Cá nhân Hope thích một đoàn ma hơn là một con dơi.
Cô liếc từ cậu bé này sang cậu bé khác. “Các cháu bao nhiêu tuổi rồi?”.
“Bảy ạ.”.
“Tám ạ.”.
“Cậu chưa lên tám tuổi.”.
“Gần rồi. Sẽ tám tuổi trong đôi tháng nữa.”.
“Các cháu sẽ làm gì với những khẩu súng đồ chơi đó?” Cô hỏi.
“Để tự vệ.” Adam trả lời khi cậu bé liếm đuôi mũi tên.
“Đợi đã cô không nghĩ đấy là một ý hay.” Cô nói, nhưng chẳng có cậu nhóc nào nghe khi chúng đi qua sân. Cô theo chúng đến chân hiên nhà. Cô chưa bao giờ thực sự quanh quẩn với trẻ con, và cô nhận ra rằng có lẽ cô phải xin phép bố mẹ chúng trước khi cô sai chúng đi vào một ngôi nhà đầy dơi. “Có lẽ cô nên nói trước với mẹ cháu trước khi các cháu đi vào trong.”.
“Mẹ cháu sẽ không quan tâm đâu.” Wally nói với lại khi hai đứa trèo lên bậc thềm. “Hơn nữa, mẹ đang nói chuyện với dì Genevieve. Chắc phải vài tiếng đồng hồ nữa mẹ cháu mới nói chuyện xong.”.
“Không thể gọi điện cho bố cháu. Hôm nay bố cháu đang làm việc ở trên núi.” Adam nói thêm.
“Có thể lũ dơi đã bay đi từ lâu và chiếc túi của cô chỉ ở ngay bên trong cửa.”.
Hope biện hộ. Các cậu bé có thể không bị tấn công và chết vì bệnh dại. “Nếu các cháu sợ, cứ chạy ra. Đừng để tâm đến cái túi.”.
Chúng dừng lại trên ngưỡng cửa mở và quay lại nhìn cô. Wally thì thầm điều gì đó về ma, điều làm chúng hơi giật lùi lại. Sau đấy nó hỏi:
“Chiếc túi của cô trông như thế nào?”.
“Da màu ngà với những điểm nhấn bằng da cá sấu màu boóc đô.”.
“Gì ạ?”.
“Trắng và nâu đỏ.”.
Cô khoanh tay và quan sát các cậu bé – súng giương lên – từ từ tiến vào trong nhà. Cô lại đưa một tay lên để che mắt trước ánh mặt trời gay gắt và nhìn thấy chúng di chuyển sang bên trái trước và sau đấy men theo lối đi vào phòng khách. Chúng đi có lẽ được nửa phút trước khi chạy ra, chiếc túi của Hope trong bàn tay rỗi của Adam.
“Nó ở đâu thế?” Cô hỏi.
“Trong căn phòng lớn đầy gạc nai.” Cậu bé đưa cho cô chiếc túi và cô thò tay vào trong để lấy chiếc kính râm. Cô đeo nó vào, sau đó rút ra hai tờ năm đô la từ ví.
“Cám ơn rất nhiều.” Trong phạm vi công việc, Hope đã rút tiền ra đưa cho người giữ cổng, bác sĩ và những chú lùn. Nhưng đây là lần đầu tiên. Cô chưa bao giờ trả tiền công cho sự giúp đỡ của những đứa trẻ. “Các cháu là những cậu bé dũng cảm nhất mà cô biết.” Cô nói khi đưa tiền cho chúng. Đôi mắt chúng sáng lên và nụ cười biến thành đầy vẻ vụ lợi.
“Nếu cô cần bọn cháu làm bất kỳ việc gì khác, chúng cháu sẽ làm.” Wally đảm bảo với cô khi nó nhét súng vào thắt lưng quần soóc.
Sự vội vã của bữa tối chỉ vừa mới chậm lại lúc cảnh sát trưởng Dylan Taber bước vào quán Cà phê góc ấm áp. Lớp giấy màu trên cửa sổ cho phép một người có thể nhìn ra ngoài, nhưng ngoài đường nhìn vào, chúng trông giống như giấy gói bạc. Nếu mặt trời chiếu thẳng vào chúng ngay lúc đấy, chúng có thể đốt một cái lỗ qua giác mạc của bạn.
Trong cái máy hát tự động cạnh cửa ra vào, Loretta Lynn đang hát về nguồn cội Kentucky của mình trong khi Jerome Fernwood gọi lấy một đơn đặt hàng mang đi từ đằng sau lò nướng.
Mùi vị của nước sốt gà rán và cà phê tấn công giác quan của Dylan và làm bụng anh réo sôi sục. Anh cố gắng duy trì những bữa tối bằng đồ ăn nhanh tại nhà ở mức tối thiểu, nhưng hôm nay anh đã mệt mỏi và người đầy bụi bặm.
Điều cuối cùng anh muốn làm là nấu bữa tối, ngay cả với món xúc xích và mỳ ống trộn pho mát, món ăn yêu thích của Adam.
Xong nhiệm vụ, anh muốn ăn, tắm thật kỹ và ngã vào giường. Chuyện tắm táp sẽ dễ dàng hoàn thành, nhưng ngủ nghê phải đợi thêm nhiều giờ nữa. Adam đã chơi một trận bóng chày trong bốn mươi lăm phút, việc này luôn khiến thằng bé căng hết sức như một cuộn dây. Với sự phấn khích của trò chơi, con chó mới và một cái ‘hộp xinh xắn’ Adam đã mua vào buổi chiều cho bộ sưu tập những hòn đá đặc biệt của nó, Dylan nghi ngờ việc con trai mình có thể buồn ngủ trước mười một giờ.
Khi anh gặp Adam mới vừa rồi, con trai anh đã kể với anh một câu chuyện lạ lùng về dơi, ma và một phụ nữ đi ‘bốt thêu chim’ đã trả cho nó năm đô la để tìm túi cho cô ta. Nếu không phải Dylan đã gặp người đàn bà được nói đến rồi, có thể anh đã không tin câu chuyện của Adam. Adam có xu hướng dựng lên rất nhiều câu chuyện, nhưng ngay cả Adam cũng không thể bịa ra đôi bốt kia.
“Chào, Dylan,” Paris Fernwood nói với ra khi cô hấp tấp lao ra từ phía sau quầy, trên tay đầy những đĩa thức ăn.
“Chào, Paris,” Anh đáp lại và đưa tay lên chiếc mũ Stetson đen. Anh bỏ nó ra và lùa những ngón tay vào tóc. Khi anh đi đến một chiếc ghế trống, anh nói ‘chào’ với rất nhiều người.
“Anh muốn ăn gì, cảnh sát trưởng?,” Iona Osborn hỏi từ phía sau quầy.
“Như bình thường.” Anh ngồi xuống một chiếc ghế nhựa đỏ và đặt chiếc mũ lên đầu gối.
Iona vớ lấy một chiếc bút chì giấu trong búi tóc to cỡ mười gallon (8) lưa thưa sợi bạc trên đầu và viết món anh gọi. Sau đó bà kẹp nó vào một giá tròn gắn đơn đặt hàng bằng thép không rỉ. “Hai thịt rán và bơ gơ trộn phơ mát mang đi” bà hét lên, cho dù đầu bếp đứng ngay phía bên kia bức tường ngăn một nửa. “Một đầy đủ, một chỉ có sốt mayo”, bà thêm vào.
Không hề bở lỡ một nhịp đảo hay nhìn lên để xem ai đặt món, Jerome nói:
“Tôi sẽ làm xong ngay cho anh đây, cảnh sát trưởng.”.
“Tôi cám ơn.”.
Iona với lấy một cái chậu xám to và bắt đầu dọn sạch những chiếc đĩa và ly bẩn khỏi mặt quầy. “Thế anh có tìm thấy người đồng bằng ấy không?”.
Dylan không buồn hỏi làm thế nào mà người bồi bàn biết được công việc của cảnh sát. Ở Gospel, mọi người chỉ là biết mọi chuyện. Iona không chỉ có nét đặc sắc là có mái tóc dày nhất trong thị trấn, bà còn là người buôn chuyện giỏi nhất.
Ở Gospel, đấy là một thành tựu kha khá.
“Chúng tôi tìm thấy anh ta ở mặt đông thấp hơn của núi Regan. Anh ta nhìn thấy tuyết và quyết định chơi trò trượt tuyết.” Anh nói và móc một gót giày vào vòng tròn kim loại của chiếc ghế. “Trong chiếc quần soóc và giày tennis.”.
Iona bỏ chiếc cốc cuối cùng vào chiếc chậu xám và lấy một chiếc khăn lau bàn. “Người đồng bằng,” bà ấy cau có và lau mặt quầy. “Hầu hết bọn họ dạo chơi trong vùng hoang dã mà không có đến một bộ đồ sơ cứu.” Bà làm việc với một vết bẩn sốt cà chua và đi vào câu hỏi quan trọng. “À anh ta có bị gãy vỡ cái gì không? Melba cược là có một đống thứ gãy vỡ năm nay.”.
Tất nhiên, anh biết trò Đánh cược về những người đồng bằng. Anh không tham gia, nhưng anh cho rằng nó gần như là vô hại. “Vỡ mắt cá chân phải và rách vài sợi dây chằng ở đầu gối” anh trả lời. “Cũng là một tình huống tai nạn.”.
“Anh nói là mắt cá phải, phải không? Tôi cá là mắt cá phải bị bong gân Nhưng không nghĩ rằng tôi có thể tuyên bố vỡ mắt cá chân là bong gân.”.
“Không, tôi không nghĩ bà có thể” anh nói và quăng mũ lên mặt quầy đã lau sạch.
Cửa trước dẫn đến phòng ăn tối mở làm quả chuông buộc ở nắm đấm cửa reo lên. Loretta ngân lên nốt cuối cùng, một chiếc đĩa bị vỡ ở đâu đấy phía sau, Iona nghiêng người qua quầy và nói trong một tiếng thì thầm to. “Cô ta đã trở lại!”.
Dylan nhìn qua vai, và kia là MZBHAVN, đứng gần chiếc máy hát tự động, trông tươi mới như một quả đào. Cô ta đã thay chiếc quần jeans bó chặt sang một chiếc váy ngắn mùa hè với những sợi dây nhỏ, mái tóc buộc lên ở sau đầu và đôi giày ống đã được thay bằng một đôi xăng- đan bệt có dây vắt chéo qua bàn chân.
“Cô ta đã ở đây cả buổi trưa,” Iona thầm thì nói. “Đặt món sa lát bếp trưởng, nước sốt để riêng, và hỏi đủ kiểu câu hỏi.”.
“Kiểu câu hỏi gì?” Anh quay lại và nhìn cô Spencer bước qua anh, mắt nhìn thẳng, như thể cô ta không để tâm đến sự chú ý mà mình thu hút được. Qua mùi dầu mỡ nồng nặc và những đĩa thức ăn tối, anh có thể thề rằng anh có thể ngửi thấy mùi hương đào trên da cô ta. Mép váy rập dờn phía sau đùi khi cô ta đi đến một khoang ngồi ở phía sau. Cô ta đi qua chiếc ghế nhựa đỏ mòn vẹt để ngồi vào trong góc và với lấy một tờ thực đơn. Một lọn tóc vàng rơi xuống má, cô ta giơ một bàn tay lên và nhét nó vào sau tai.
“Cô ta muốn biết mọi thứ trong món sa lát của mình có tươi hay không và hỏi về những ngườì đàn ông sẵn sàng.”.
“Những người đàn ông sẵn sàng.” Cơn đói xoắn lại sâu trong bụng Dylan, và lần này anh không chắc nó có liên quan gì đến thức ăn hay không.
“Ừ, những anh chàng trẻ khỏe sẵn sàng dọn sạch ngôi nhà Donnelly. Ít nhất đấy là điều cô ta nói.”.
Anh quay lại với Iona. “Và bà không tin cô ta?”.
Đôi môi người hầu bàn mím lại với vẻ không tán thành. “Tôi đã gọi cho Ada ở nhà nghỉ, và chắc chắn, cô nàng này đã làm thủ tục thuê phòng ở đấy. Tôi đoán là cô ta đã thực hiện một cuộc gọi đường dài ở hành lang. Ada nói cô ta làm toáng lên, la hét, chửi thề và nói mãi về cỏ dại và bẩn thỉu. Và tôi đoán rằng ngôi nhà ấy có đầy dơi – anh biết thế mà, nhưng cô ta không nói ‘anh biết thế mà.’ Ada nói cô ta có một cái miệng thô tục và tính khí nóng nảy. Ada cũng nói người phụ nữ kia ngay lập tức hỏi về những người đàn ông sẵn sàng, thậm chí trước cả khi mực khô đi trên giấy tờ làm việc của Ada. Cô ta không đeo nhẫn cưới. Vì thế có thể cô ta đã ly dị, và cô ta bảo chúng tôi rằng nếu biết người nào muốn làm việc giúp cô ta, thì cô ta đang ở nhà nghỉ Sandman trong vài ngày.
Nghe như cô ta đang tìm cách đào bới mọi chuyện lên lần nữa.”
Điều Dylan cho là một trong những thứ vớ vẩn nhất mà anh từng nghe thấy gần đây, nhưng chuyện này không làm anh ngạc nhiên. Ngay cả sau năm năm, người dân trong thị trấn vẫn còn thích nói về cảnh sát trưởng Donnelly và những việc ông ta đã làm trong ngôi nhà cũ đấy. Những chi tiết ghê tởm về đời sống riêng tư của vị cảnh sát trưởng đã là cú sốc lớn nhất đánh vào thị trấn kể từ vụ động đất năm ’83. “Nghe như cô ta chỉ cần giúp dọn sạch phân dơi thôi”.
“Không có gì sai với việc ấy cả.”
Iona xô chiếc chậu vào bên dưới quầy, rồi khoanh tay trên bộ ngực đẫy đà.
“Cô ta đến từ California,” bà bồi bàn nói, như thể không cần phải giải thích gì hơn. Dù sao thì bà ta cũng giải thích thêm. “Ada nói rằng khi cô nàng kia ở trong nhà nghỉ, chiếc quần jeans đấy thực sự bó rất chặt. Không thể nhìn thấy đường lằn quần lót nào, vì thế chúng tôi cho rằng hiển nhiên cô ta đang mặc quần lót lọt khe, và lý do duy nhất để một phụ nữ phải mặc cái thứ không thoải mái đấy là để trình diễn cho đàn ông xem. Mọi người đều biết là không thể tin được gì ở những cô nàng California mà.”.
Dylan nhìn qua vai mình và quan sát Paris nhận đặt món của cô nàng tóc vàng, cô Spencer chỉ vào rất nhiều món trên thực đơn và bằng biểu hiện khó chịu của Paris, cô ta rõ ràng là thuộc phe những cô nàng phiền phức. Cô Spencer trông có vẻ nhiều rắc rối, đúng thế, nhưng không phải theo kiểu Iona nghĩ. Dylan nhấc gót giày và đứng lên. “Tôi cho rằng tốt hơn tôi đi hỏi cô ta về cái quần lót,” anh nói. “Không thể có một phụ nữ đi loanh quanh trong một chiếc quần lót lọt khe mà tôi không biết được.”.
“Cảnh sát trưởng, anh thật hư đốn.” Iona cười khúc khích như một thiếu nữ khi anh bước đi trên tấm thảm lót sàn đến khoang ngồi ở phía sau.
Khi cô Spencer không nhìn lên anh nói, “Này, xin chào nghe nói cô đã có một ngày vất vả.”.
Khi ấy cô ta mới ngước lên nhìn anh bằng đôi mắt xanh lơ trong nhất mà anh từng nhìn thấy. Màu xanh của hồ Sawtooth. Trong đến mức anh có thể nhìn thấy đáy.
“Anh đã nghe về phiền phức của tôi?”.
“Tôi đã nghe về mấy con dơi của cô.”.
“Tôi đoán là tin lành đồn xa.”.
Cô ta không hỏi anh có muốn ngồi xuống hay không, và anh cũng không đợi một lời mời. Anh ngồi vào chiếc ghế đối diện.
“Con trai tôi là một trong những cậu bé cô trả tiền để lấy túi.”.
Ánh mắt cô lướt qua mặt anh và nói “Vậy Adam chắc hẳn là con của anh.”.
“Phải, máam.” Anh ngả lưng vào chiếc ghế dài và khoanh tay trước ngực.
Biểu hiện của cô ta không cho thấy điều gì. Kín bưng hoàn toàn, người phụ nữ này đang rất bình tĩnh.
“Tôi hy vọng anh không thấy phiền vì tôi thuê con trai anh.”.
“Tôi không phiền gì, nhưng tôi nghĩ cô đã trả cho các cậu bé quá nhiều chỉ để lấy túi cho cô.” Anh làm cô ta hồi hộp nhưng điều ấy cũng không thực sự nói với anh điều gì. Phù hiệu của anh hầu như làm người khác hồi hộp. Có thể điều ấy có nghĩa là cô ta đã không thanh toán phí đỗ xe và không gì nữa. Nó cũng có thể là cô ta đang che giấu điều gì đấy, nhưng miễn là cô ta tránh xa khỏi rắc rối, cô ta có thể giữ được bí mật của mình. Chết tiệt, anh hiểu về những bí mật. Anh cũng có một bí mật lớn của riêng mình. “Tôi cũng nghe nói rằng cô đang tìm thuê mấy anh chàng trẻ tuổi để dọn dẹp ngôi nhà đấy.”.
“Tôi không xác định tuổi. Thành thật mà nói, tôi hoan nghênh cụ của anh nếu ông ấy có thể giết lũ dơi chết tiệt đấy cho tôi.”.
Dylan duỗi chân và chân anh chạm vào chân cô ta. Anh vượt qua giới hạn khoảng không riêng của cô ta, và như anh dự đoán, cô ta ngay lập rút chân lại và ngồi hơi thẳng hơn. Anh thậm chí không buồn giấu nụ cười của mình. “Dơi sẽ không cắn cô, cô Spencer.”.
“Tôi sẽ ghi nhận lời nói của anh về việc đấy, cảnh sát trưởng” cô nói, sau đấy liếc nhìn lên khi Paris đặt một ly trà chanh và một đĩa chanh cắt lát nhỏ trên bàn.
“Chúng không thể tươi hơn như thế này.” Đôi lông mày đậm của Paris kéo xuống che đôi mắt nâu. “Tôi vừa mới cắt chúng.”.
Khóe miệng của cô Spencer nhếch lên thành một nụ cười rất không thành thật. “Cám ơn.”.
Dylan đã lớn lên cùng với Paris. Đã cùng chơi Red Rover (9) và kickball (10) với cô ở trường phổ thông, học cùng với cô gần hết các lớp trong trường trung học, và nghe bài phát biểu chia tay của cô trong đêm tốt nghiệp. Anh có thể nói rằng anh hiểu cô rất rõ. Cô thường tỏ ra vui vẻ dễ chịu, nhưng bằng cách nào đó, MZBHAVN đã làm Paris phát cáu.
(9) Trò chơi này được chơi giữa hai đường kẻ tưởng tượng, thường cách nhau khoảng 10m. Hai đội xếp hàng dọc hai đường này và nắm tay nhau. Trò chơi bắt đầu khi một đội gọi “Red rover, Red rover, [cử tên của một người chơi của đội đối thủ] qua đây ngay.” Người được gọi ngay lập tức chạy đến để phá vỡ kết nối của đội gọi. Nếu không phá vỡ được, người chơi này sẽ phải tham gia vào đội đối phương. Còn ngược lại, sẽ được mang hai người bị phá vỡ kết nối đó về đội mình và tiếp tục chơi. Khi một đội chỉ còn một người chơi, người đó phải cố gắng và phá vỡ một liên kết. Nếu không thành công, thì coi như đội đối phương thắng cuộc.
(10) Một trò chơi tương tự bóng chày nhưng không có cầu thủ giao bóng, thay vào đấy quả bóng sẽ được đá đi từ khu vực sân của đội nhà.
“Cô Spencer đây là thành viên mới nhất của chúng ta,” anh nói. “Có vẻ như cô ấy sẽ ở lại trong ngôi nhà Donnelly.”.
“Tôi cũng nghe thế.”.
Lớn lên, anh luôn có cảm giác đôi chút thương hại Paris, và anh luôn cố gắng đối xử với cô thật tử tế. Cô có một mái tóc dài, đẹp mà thường được búi thành một búi. Nhút nhát, cô thường không nói nhiều, và trong khi một người đàn ông thỉnh thoảng có thể đánh giá cao tính cách đấy ở một người phụ nữ, cô lại không may mắn vì có dáng người giống như bố mình – Jerome:
cao, to xương với bàn tay như đàn ông. Một gã đàn ông có thể bỏ qua rất nhiều điểm thiếu sót về vẻ ngoài ở một người phụ nữ. Một cái mũi to và một đôi vai rộng của một hậu vệ là một chuyện, nhung bàn tay to và những ngón tay gân guốc lại là thứ mà một người đàn ông không thể lờ đi. Họ xếp những thứ đó cùng với một người có ria mép. Chỉ là một gã không thể bắt mình phấn khích khi hôn một cô nàng có râu ria, và hoàn toàn không có cách nào để hắn muốn nhìn xuống và thấy những bàn – tay – đàn – ông với đến cái quần Johnson của mình.
“Anh có muốn dùng gì trong khi đang đợi được không, Dylan?” cô hỏi.
“Không, cám ơn cưng. Anh chắc rằng đồ ăn của anh cũng sắp xong rồi.” Và việc mẹ Paris chỉ hơi nữ tính hơn bố cô một chút có thể cũng không có tác dụng gì.
Paris mỉm cười và đan tay trước bụng. “Anh có thích bánh mứt mâm xôi em mang qua hôm trước không?”.
Dylan ghét bất kỳ loại quả nào có những hạt nhỏ giắt vào răng anh. Adam vừa nhìn thấy chiếc bánh đã tuyên bố là nó đỏ như máu, và họ đã vứt nó đi.
“Adam và anh ăn nó với kem,” anh nói dối để khiến cô vui.
“Ngày mai em nghỉ làm và em sẽ làm vài cái bánh Amish. Em sẽ mang đến một cái.”.
“Thế thì thật tuyệt, Paris.”.
Mắt cô sáng lên. “Em đang chuẩn bị sẵn sàng cho hội chợ tháng tới.”.
“Em định thắng vài cái nơ xanh năm nay à?”.
“Tất nhiên.”.
“Paris đây,” anh nói, tập trung nhìn vào cô Spencer, “đoạt được số nơ xanh nhiều hơn bất kỳ phụ nữ nào trong hạt này.”.
Cô Spencer nâng ly trà lên môi. “Ồ, thật đáng nể,” cô lẩm bẩm trước khi uống một ngụm.
Lông mày Paris hạ xuống lần nữa. “Tôi phải nhận gọi món tiếp rồi,” cô nói và quay đi.
Dylan nghiêng đầu sang một bên và cười khoái trá. “Cô ở trong thị trấn chưa được hai mươi tư giờ, và tôi thấy cô đã kết bạn được rồi.”.
“Thị trấn này không hẳn là đã cử một Chiếc xe ngựa chào mừng.” Cô đặt ly xuống bàn và liếm khóe miệng. “Tất nhiên, có lẽ nó đã đến nhưng tôi không ở nhà. Tôi đang đứng ở hành lang của nhà nghỉ Sandman và bị hành hạ bởi một phụ nữ trong những cái lô cuốn tóc.”.
“Ada Dover à? Bà ấy làm gì?”.
Cô Spencer ngả người ra sau và thả lỏng một chút. “Bà ta thực sự cần đến toàn bộ lịch sử của gia đình tôi chỉ để cho tôi thuê một căn phòng. Bà ta muốn biết tôi có phạm phải tội ác gì không. Và khi tôi hỏi bà ta có cần mẫu nước tiểu hay không, bà ta nói với tôi rằng tôi có thể không quá xấu tính như thế nếu chiếc quần jeans của tôi không quá chặt.”.
Dylan nhớ chiếc quần jeans đó. Nó bó chặt, thì đúng thế nhưng rất nhiều phụ nữ trong thị trấn mặc quần jeans cao bồi Wrangler chỉ nhìn thôi đã thấy cực kỳ đau đớn. “Chuyện ấy có thể không phải vì cá nhân đâu. Ada thỉnh thoảng rất nghiêm túc trong công việc của mình. Cứ như là bà ấy đang cho thuê phòng ở Nhà Trắng ý.”.
“Hy vọng chiều mai tôi sẽ ra khỏi đấy.”.
Ánh mắt anh hạ xuống đôi môi đầy đặn của cô ta, và trong một phút ngắn ngủi anh cho phép mình tự hỏi liệu cô ta có vị ngon lành như cô ta trông như thế hay không. Anh tự hỏi ăn lớp son bóng láng đó từ miệng và vùi mũi anh vào tóc cô ta sẽ có cảm giác như thế nào. “Cô vẫn định ở lại trọn sáu tháng à?”.
“Tất nhiên.”.
Anh vẫn nghi ngờ việc cô ta có thể kéo dài nhiều hơn vài ngày, nhưng nếu cô ta định ở lại, anh cho rằng anh nên cho cô ta biết cô ta đang mắc vào cái gì.
“Vậy để tôi cho cô vài lời khuyên mà tôi chắc chắn rằng cô không muốn, và tôi cũng chắc chắn rằng cô sẽ không nghe theo.” Anh ngước mắt lên và đặt dấu chấm hết cho sự lang thang của đầu óc trước khi anh tự làm mình bẽ mặt. “Đây không phải là California. Mọi người ở đây không quan tâm cô đến từ Westwood hay South Central. Họ không quan tâm cô sở hữu một chiếc xe Merscedes hay một cái Buick cũ rích, và họ không quan tâm về việc cô đi mua sắm ở đâu. Nếu cô muốn xem một bộ phim, cô phải lái xe đến Sun Vaney, và trừ phi cô có chảo vệ tinh, cô chỉ có bốn kênh truyền hình.
Chúng tôi có hai cửa hàng tạp phẩm, ba nhà ga và hai nhà hàng. Cô đang ngồi trong một cái. Cái kia ở cuối phố, nhưng tôi khuyên cô không ăn ở Spuds & Suds. Năm ngoái họ đã bị đóng cửa hai lần vì vi phạm quy định về bảo vệ sức khỏe. Chúng tôi có hai nhà thờ khác nhau và một câu lạc bộ Bốn – H lớn.
Gospel cũng có năm quán bar và năm cửa hàng bán súng – và – dụng – cụ. Giờ thì, những gì tôi nói cho cô thấy vài điều chứ.”.
Cô lấy ly trà và đưa nó lên môi. “Điều gì, rằng tôi đã chuyển đến một thị trấn của những người Bốn – H nghiện rượu, vận chuyển súng và nhút nhát à?”.
“Ối, trời,” anh nói trong lúc lắc đầu. “Đấy là điều tôi sợ. Cô sẽ gây phiền phức thôi, đúng không?”.
“Tôi sao?” Cô đặt cái ly xuống và hồn nhiên đặt một bàn tay lên ngực. “Tôi thề với Chúa, anh thậm chí sẽ không biết tôi ở trong thị trấn.”.
“Không hiểu vì sao tôi lại nghi ngờ điều ấy.” Anh đứng lên và nhìn xuống cô. “Nếu cô cần giúp đỡ với ngôi nhà Donnelly đó, hãy hỏi các cậu bé nhà Aberdeen. Chúng sắp tròn mười tám tuổi và không làm việc gì trong mùa hè này. Chúng sống ngay đối diện với cô, bên kia đường Timbelline, nhưng hãy hỏi chúng trước buổi trưa nếu không chúng sẽ ra hồ chơi.”.
Hope ngước lên nhìn người đàn ông đang đứng cao hơn mình, nhìn vào đôi mắt xanh lục sâu thẳm và lọn tóc nâu rơi xuống trán anh ta thành một đường cong. Ánh sáng từ những cửa sổ làm ánh lên những sợi tóc vàng mà Hope sẽ cá bằng chiếc Porsche là màu vàng ấy là do ánh mặt trời chiếu lên chứ không phải do nhuộm. Quá tệ là anh ta không có khiếu hài hước, nhưng cô cho rằng với một người đàn ông giống như cảnh sát trưởng đây, khiếu hài hước là không cần thiết. “Cám ơn.”.
Anh ta mỉm cười và lần đầu tiên cô chú ý rằng trong khi anh ta chắc chắn có thể được phân vai trong một bộ phim Miền tây có kinh phí lớn, hàm răng anh ta không thẳng như những ngôi sao điện ảnh. Chúng đủ trắng, ừ, nhưng hơi chen lẫn nhau ở hàm dưới. “Và chúc may mắn, cô Spencer,” anh ta rề rà nói.
Cô đoán rằng ý của anh ta là cô cần may mắn để tìm được người đảm đương vấn đề về dơi và cô hy vọng mình không cần viện đến may mắn. Anh ta tiến ra phòng ăn ở phía trước và ánh mắt cô đi theo.
Chiếc áo sơ mi nâu vừa vặn ôm vào lưng và nhét bên trong chiếc quần nâu vàng với một sọc nâu chạy xuống hai bên chân. Chiếc quần đấy lẽ ra phải trông như một cơn ác mộng của thời trang, nhưng khi ở trên người anh ta nó dường như nhấn mạnh chế độ ăn uống chặt chẽ và đôi chân dài của anh ta. Anh ta có một khẩu súng lục treo ở hông, một đôi còng tay, và vô số những túi và hộp đạn da móc vào chiếc thắt lưng công vụ.
Ngay cả với tất cả những thứ đồ da và vũ khí đó, anh ta vẫn có thể di chuyển với phong thái thoải mái của một người đàn ông không vội vã đi đâu khác ngoại trừ nơi anh ta ngẫu nhiên đang ở. Anh ta toát lên vẻ tự tin và quyền lực của một người đàn ông có thể tự chăm sóc mình và người đàn bà nhỏ bé trong cuộc đời anh ta. Một món cocktail đầy nam tính mà vài phụ nữ có thể cảm thấy không thể cưỡng nổi. Không phải Hope.
Cô quan sát anh ta với lấy chiếc mũ cao bồi trên quầy với động tác uyển chuyển như khi anh ta cào tay vào tóc. Anh ta hất cái mũ lên đầu và nói chuyện với bà bồi bàn lớn tuổi hơn ở cạnh quầy thu tiền. Người đàn bà với mái tóc to bự chảng cười khúc khích như một cô gái, và Hope liếc mắt đi chỗ khác. Đã từng có thời gian trong cuộc đời mình, khi cô có lẽ cũng tan chảy một chút chỉ với nụ cười hơi không hoàn hảo của anh ta. Không còn nữa.
Cô nhìn cảnh sát trưởng một lần nữa và quan sát cô bồi bàn thô lỗ với bím tóc dài đưa cho anh ta một túi giấy. Phần nhà báo trong bộ óc của cô khuấy động với những câu hỏi. Cô chú ý đến sự vắng mặt của chiếc nhẫn cưới trên ngón tay của người đàn ông, không phải điều ấy có ý nghĩa quái quỷ gì, nhưng qua cuộc trò chuyện của anh ta với cô bồi bàn, Hope đoán là anh ta chưa kết hôn. Cô cũng có thể đánh bạo một dự đoán khá chắc chắn rằng cô bồi bàn này có ý với vị cảnh sát trưởng tốt bụng. Hope tự hỏi có phải họ có quan hệ hay không, nhưng cô nghi ngờ điều đó. Với chỉ vài phút mà cô quan sát họ, bất kỳ một cảm giác nào trên mức tình bạn dường như hoàn toàn là xuất phát từ một phía và khá lâm ly. Nếu cô hầu bàn tử tế hơn với Hope, cô có thể đã cảm thấy thương cho cô ta. Nhưng cô hầu bàn thì không hề tốt bụng, và Hope vốn đã có vấn đề của riêng mình.