Em Ở Đâu

Chương 1



Nó được sinh ra vào ngày 14 tháng Chín năm 1974, lúc 8 giờ sáng, tại vị trí 15.30 độ vĩ bắc, 65 độ kinh tây. Chiếc nôi của nó đặt tại hòn đảo nhỏ ở ngoài khơi Honduras. Chẳng ai chú ý đến sự ra đời của nó. Trong sổ trực, nó mang số 734.

Hai ngày đầu tiên sau khi chào đời, mọi người hoàn toàn thờ ơ trước sự phát triển rất đỗi bình thường của nó. Các thông số trên máy theo dõi tình trạng phát triển của nó đều rất ổn định nên không có lý do gì để người ta phải quan tâm đặc biệt. Người ta theo dõi nó bình thường như với tất cả những trường hợp tương tự khác.

Cứ sáu giờ một lần, người ta đến ghi lại các thông số về sự phát triển của nó đúng như quy trình hiện hành. Nhưng sang ngày 16 tháng Chín, vào lúc 14 giờ, các kết quả phân tích bắt đầu thu hút sự quan tâm của một nhóm các nhà khoa học Guadeloupe. Người ta lo lắng vì sự phát triển của nó có vẻ như đang chệch ra khỏi quy luật thông thường.

Buổi tối, trưởng nhóm phụ trách theo dõi tình hình không che giấu nổi sự lo lắng của mình và ngay lập tức liên lạc với các đồng nghiệp người Mỹ. Điều gì đó quan trọng đang xảy ra. Sự phát triển bất thường của đứa bé này đang làm cho cả nhân loại phải quan tâm lo lắng. Là sự kết hợp giữa cái nóng và cái lạnh, tính khí đáng sợ của nó đang bắt đầu bộc lộ.

Ngược lại với chị gái Élaine, sinh ra vào tháng Tư cùng năm đó và chỉ sống được vỏn vẹn mười một ngày vì không hội đủ sức mạnh để lớn lên, nó đang mạnh dần với tốc độ đáng báo động và chỉ sau hai ngày đã đạt đến một sức vóc đáng lo ngại. Sang ngày thứ ba, nó bắt đầu chuyển động hỗn loạn theo khắp các hướng. Nó xoay quanh chính mình, càng ngày càng bộc lộ sức sống mãnh liệt và xem ra chưa quyết định được là sẽ đi theo hướng cụ thể nào.

Vào lúc hai giờ sáng, đêm ngày 16 rạng sáng ngày 17 tháng Chín, dưới ánh sáng rọi từ chiếc đèn nê-ông duy nhất kêu o o trong phòng, giáo sư Huc đang nghiêng người trên chiếc bàn đầy những tờ kết quả khảo sát với những cột dãy số và những vạch biểu đồ dễ khiến người ta nhầm tưởng là những đường biểu diễn điện tâm đồ. Trước diễn tiến như vậy, ông quyết định phải nhanh chóng đặt tên cho nó, như thể điều đó có thể giúp xua đuổi mối hiểm họa đang dần lộ nguyên hình. Cứ xem những chuyển biến đáng sợ đang diễn ra là đủ hiểu chắc chắn nó sẽ không chỉ dừng ở đó. Người ta đã chọn tên cho nó trước cả khi nó được tạo thành: nó sẽ mang tên Fifi. Nó đã đi vào lịch sử ngày 17 tháng Chín năm 1974, lúc 8 giờ sáng, khi vượt qua giới hạn tốc độ 120km/h.

Những nhà khí tượng học của Viện nghiên cứu bão Pointe-à-Pitre và các đồng nghiệp của họ ở Trung tâm phòng chống bão quốc gia Miami đã chính thức xếp hạng nó ở cấp độ 1 trên thang đo Saffir Simpson. Những ngày sau đó, nó sẽ còn tiếp tục mạnh hơn, nhanh chóng chuyển sang cấp độ hai trước sự bàng hoàng của tất cả các giáo sư đang theo dõi. Lúc 14 giờ, Fifi bắt đầu tạo thành những trận gió thổi với tốc độ 138km/h, và ngay tối đó, nó lướt đi với tốc độ 150km/h.

Nhưng điều khiến cho người ta lo lắng nhất là nó đang chuyển hướng một cách vô cùng nguy hiểm. Hiện giờ nó đang nằm ở vị trí 16.30 độ vĩ bắc, 81.70 độ kinh tây. Người ta bắt đầu gửi đi báo động tối khẩn cấp. Ngày 18 tháng Chín, vào lúc 2 giờ sáng, nó tiến gần bờ biểnHonduras, từng đợt cuồng phong quét qua bờ Bắc với tốc độ gần 240km/h.

Sân bay Newark. Chiếc taxi vừa thả cô xuống bên vỉa hè và nhanh chóng lẫn vào đám xe cộ hỗn loạn trên đường. Cô nhìn theo chiếc taxi đang mất hút đằng xa. Chiếc balô vải màu xanh lá cây kếch xù đặt dưới chân nặng gần như hơn cả trọng lượng của cô. Cô nhấc túi lên, nhăn mặt và cố sức giữ nó trên vai.

Cô bước qua cánh cửa tự động của trạm số 1, băng qua khu sảnh rộng và bước xuông vài bậc thang. Bên tay phải cô là một chiếc cầu thang hình xoắn ốc. Bất chấp chiếc túi đang đè nặng trên lưng, cô vẫn leo lên từng bậc thang và bước những bước cả quyết dọc theo hành lang.

Cô đứng bất động phía trước mặt tiền của quán bar đang ngập chìm trong ánh sáng màng vàng cam và nhìn xuyên qua cửa kính. Một đám khoảng chục người đàn ông đang ngồi xung quanh quầy bar, vừa nhấm nháp từng ngụm bia vừa ồn ào bàn luận về những kết quả trận đấu đang hiện ra trên màn hình tivi treo phía trên đầu họ. Đẩy cánh cửa gỗ trang trí kiểu mắt bò với những ô rộng, cô bước vào, phóng tầm mắt qua những dãy bàn màu xanh đó.

Cô nhìn thấy anh. Anh ngồi tận cuối phòng, lưng xoay lại tấm vách kính nhìn ra khu vực đường băng. Một tờ báo gấp lại để trên một góc bàn, anh đang tựa cầm lên bàn tay phải, tay trái hững hờ cầm cây bút chì vẽ hình một khuôn mặt lên trên tấm khăn giấy trải bàn.

Cô vẫn chưa nhìn được rõ đôi mắt anh nhưng dường như ánh mắt ấy đang mất hút phía xa trên con đường rải nhựa có những vạch màu vàng, nơi những chiếc máy bay lăn bánh đang chuẩn bị cất cánh. Cô ngập ngừng rồi đi vòng theo lối đi bên phải để khẽ tiến gần đến chỗ anh.

Cô đi ngang qua chiếc tủ lạnh kêu rù rì, sải một bước nhanh nhưng thật êm đến sát bên anh. Cô đưa tay lùa vào tóc chàng trai đang đợi cô và âu yếm xoa tóc anh rối tung lên. Trên chiếc khăn giấy trải bàn có đột lỗ, bức chân dung mà anh đang vẽ chính là hình cô.

– Em để anh đợi có lâu không? Cô hỏi.

– Không, em đến gần như đúng giờ. Bây giờ em mới sắp sửa bắt anh phải đợi đây.

– Anh ngồi đây lâu chưa?

– Anh hoàn toàn không để ý. Trông em đẹp quá! Em ngồi xuống đi.

Cô mỉm cười và nhìn đồng hồ.

– Máy bay của em sẽ cát cánh trong một tiếng nữa.

– Anh sẽ làm bất kỳ điều gì để em bị lỡ chuyến bay ấy, để em không bao giờ bay nữa!

– Vậy thì em sẽ đi khỏi đây ngay lập tức! Cô vừa nói vừa ngồi xuống.

– Thôi, anh hứa, anh không nói như vậy nữa. Anh có mang đến cho em một cái này.

Anh đặt lên bàn một chiếc túi nhỏ bằng nhựa dẻo màu đen và lấy ngón trỏ đẩy nó về phía cô. Cô nghiêng đầu, đó là cách riêng của cô để hỏi “Cái gì thế?” Và vì anh hiểu rõ từng điệu bộ dù nhỏ nhất trên gương mặt cô, ánh mắt anh dường như đang trả lời “Mở ra đi, em sẽ thấy.” Đó là một cuốn album hình nhỏ.

Anh bắt đầu lật từng trang. Trên bức hình đầu tiên, một bức đen trắng, hai đứa bé hai tuổi đứng đối diện nhìn nhau, đứa này tựa vào vai đứa kia.

– Đó là tấm hình xưa nhất của chúng ta mà anh tìm thấy được, anh nói.

Anh lật qua trang khác, tiếp tục bình luận:

– Đây là anh và em, vào một mùa Noel mà anh không còn nhớ là năm nào nữa, chỉ biết rằng khi đó chúng ta còn chưa lên mười.Anh nghĩ chính vào năm đó, anh đã tặng cho em cái mặt dây chuyền của anh.

Susan luồn tay vào giữa ngực, kéo sợi dây chuyền mảnh với mặt tròn mang hình thánh Tê-rê-sa ra. Sợi dây này lúc nào cô cũng mang bên mình, không bao giờ rời xa. Thêm một vài trang nữa, rồi cô ngắt lời anh và đến lượt mình bắt đầu bình luận.

– Hình này là lúc chúng mình mười ba tuổi, trong vườn nhà ba mẹ anh, em vừa hôn anh xong. Đó là nụ hôn đầu tiên của chúng ta. Anh nói “Ôi ghê quá” lúc em định đưa lưỡi vào miệng anh. Và hình này là hai năm sau, khi đó, đến lượt em thấy thật kinh khủng khi anh muốn chúng ta ngủ với nhau.

Lật qua trang khác, Philip dành lại quyền nói và chỉ vào một tấm hình khác.

– Và một năm sau đó, vào cuối buổi tiệc hôm ấy, nếu anh nhớ chính xác, em không cảm thấy điều đó là kinh khủng chút nào nữa.

Cứ thế, mỗi trang album đều đánh dấu một thời khắc riêng của quãng thời gian tuổi thơ mà cô và anh đã cùng nhau chia sẻ bao điều bí mật. Cô ngăn anh lại.

– Anh đã bỏ cách sáu tháng rồi, sao không có tấm hình nào về đám tang bố mẹ em? Ấy thế mà đó lại là lúc em thấy anh hấp dẫn nhất!

– Đừng có tỏ ra hài hước kiểu điên khùng như thế, Susan!

– Em có đùa đâu. Đó là lần đầu tiên em cảm thấy anh mạnh mẽ hơn em, lúc đó em cảm thấy thật sự an tâm. Anh biết không, em sẽ không bao giờ quên được…

– Thôi đi nào…

– …rằng chính anh là người đã đi tìm lại chiếc nhẫn cưới của mẹ trong đêm thức canh bên quan tài ba mẹ…

– Thôi nào, chúng ta chuyển đề tài được chưa?

– Chính anh là người mỗi năm nhắc em nhớ lại những sự kiện ấy. Anh bao giờ cũng chu đáo, luôn ở bên và ân cần chăm sóc em, mỗi năm, vào tuần tưởng nhớ đến tai nạn đã xảy ra.

– Chúng ta chuyển sang chuyện khác được chưa vậy?

– Tiếp tục đi anh, tiếp tục làm cho chúng ta già đi nào, lật sang những trang khác đi anh.

Anh nhìn cô, lặng im bất động, có một bóng tối đang chùm lên đôi mắt cô. Cô nhìn anh mỉm cười và nói tiếp:

– Em biết rằng em thật ích kỉ khi để anh ra tận sân bay này tiễn em.

– Susan, tại sao em làm vậy?

– Bởi vì “làm vậy” có nghĩa là em đang đi đến tận cùng những giấc mơ của mình. Em không muốn kết thúc cuộc đời như ba mẹ em, Philip. Em đã thấy, cả đời mình họ chỉ làm một việc là trả tiền nợ ngân hàng, và để làm gì chứ? Để cả hai kết thúc cuộc đời mình tại một gốc cây, trong chiếc xe hơi đẹp đẽ mà họ vừa mua. Cả cuộc đời của họ chỉ xuất hiện trong hai giây ngắn ngủi của chương trình tin tức buổi tối, còn em thì đang ngồi xem trước cái tivi đắt tiền mà thậm chí ba mẹ em còn chưa bắt đầu trả nợ. Em không phán xét bất cứ ai hay bất cứ cái gì, Philip, nhưng em, em muốn làm điều gì đó khác, và chăm sóc cho người khác là một lí do thực sự để em cảm thấy mình đang sống.

Anh nhìn cô, cảm thấy chới với, ngưỡng mộ sự quyết tâm của cô. Từ khi tai nạn xảy ra, cô không còn thực sự là cô của ngày xưa nữa, dường như những ngày tháng cứ chen chúc thi nhau chạy đến ngưỡng cửa của đêm giao thừa, giống như những lá bài mà người ta thảy xuống hai lá một để chia cho nhanh hơn.

Ngay bây giờ, trông Susan đã không có vẻ gì của một cô gái mới hai mươi mốt tuổi, trừ khi cô cười, và cô vẫn rất hay cười. Kết thúc những năm học trườngJunior College[1], nhận bằng Associate of Arts[2] trong tay, cô đã đầu quân cho tổ chức Peace Corps, một tổ chức nhân đạo chuyên gửi thanh niên tình nguyện sang hỗ trợ nhân đạo ở nước ngoài.

– Trong chưa đầy một giờ nữa, cô sẽ ra đi làm việc ở Honduras trong suốt hai năm dài. Ở nơi cách New York vài ngàn cây số ấy, cô sẽ bước sang hẳn phía bên kia của tấm gương thế giới.

— —— —— —-

[1] Trong hệ thống giáo dục của Mỹ, tương đương với trường trung cấp – ND

[2] Trong hệ thống giáo dục của Mỹ, bằng do hệ thống trườngJunior College hoặc một số trường khác cấp, thường chương trình học kéo dài hai năm – ND

Trong khu vịnh Puerto Castilla và vịn Puerto Cortes, vài người mới trước đó định ra bãi cát nằm ngủ ngoài trời đã phải từ bỏ ý định. Cuối giờ chiều, gió bắt đầu nổi lên và thổi rất mạnh. Dân làng không hề tỏ ra lo lắng. Đây không phải là lần đầu tiên, cũng không phải là lần cuối cùng một cơn bão nhiệt đới xuất hiện, xứ sở đã quen với những trận mưa vẫn xảy ra thường xuyên vào mùa này.

Ngày có vẻ tối đi nhanh hơn, lũ chim vội vã sải cánh bay tìm nơi trú ẩn. Dấu hiệu của điềm chẳng lành. Vào nửa đêm, cát trên bãi bốc lên, tạo thành một đám bụi mù cách mặt đất vài centimet. Sóng biển bắt đầu cuộn lên rất nhanh, và bây giờ, vài người í ới gọi nhau đi cột lại dây neo tàu đã chìm hút không còn nghe rõ nữa.

Theo nhịp của những tia chớp đang xé tan bầu trời đêm, sóng biển cuồn cuộn dâng lên khiến cho những chiếc ụ nổi trên biển lắc lư một cách đáng sợ, những chiếc xuồng xô đập vào nhau trong tiếng gỗ cọ xát nơi mạn xuồng.

Vào 2 giờ 15 phút, chiếc tàu chở hàng San Andrea, dài 35 mét, bị sóng nhấc bổng lên rồi quăng xuống đập vào đá ngầm, dọc mạn tàu bị xé toạc. Chỉ trong vòng tám phút, nó đã bị nhận chìm.

Cùng lúc đó, tại El Golason, sân bay nhỏ của thành phố La Caibe, chiếc trực thăng DC3 màu xám bạc đậu trước cửa kho hàng bất thần cất cánh và ngay sau đó lại hạ cánh dưới chân đài điều khiển không lưu, không có một người phi công nào trong khoang lái. Hai cánh quạt bị bẻ gập, phần cánh đuôi gẫy làm đôi. Vài phút sau, chiếc xe tải chở nhiên liệu đậu gần đó bị lật nghiêng và bắt đầu trượt trên mặt đất. Một chùm tia lửa bắn vào thùng xăng.

= 0 =

Philip cầm lấy tay Susan, lật lên và nhẹ nhàng vuốt ve lòng bàn tay.

– Anh sẽ nhớ em biết bao, Susan.

– Em cũng vậy… em sẽ nhớ anh vô cùng, anh biết không!

– Anh tự hào về em, dù anh rất ghét em bỏ lại anh ở đây như thế này.

– Thôi nào anh, mình đã hứa với nhau là hôm nay sẽ không có nước mắt mà.

– Đừng đòi hỏi ở anh điều không thể!

Ngả người vào nhau, họ cùng chia sẻ nỗi buồn của xa cách và cảm giác hạnh phúc vì đã ở bên nhau suốt mười chín năm, chia sẻ bao buồn vui, bao điều bí mật. Mười chín năm, gần như là toàn bộ khoảng thời gian sống của hai người.

– Em sẽ thường xuyên cho anh biết tin của em chứ? Anh hỏi với vẻ mặt của một cậu bé.

– Không!

– Em sẽ viết thư cho anh chứ?

– Em có thể ăn một ly kem được không?

Anh quay người lại và gọi người phục vụ. Khi người phục vụ đến gần, anh gọi hai viên kem vani phủ socola nóng rắc những lát hạnh nhân, rồi rưới đẫm lên trên một lớp caramen lỏng. Đây là món tráng miệng yêu thích nhất của cô, nhưng li kem phải được trình bày chính xác theo thứ tự mô tả.

– Còn anh?

– Anh sẽ viết thư cho em ngay sau khi anh có được địa chỉ của em ở đó.

– Không, ý em là anh đã quyết định mình sẽ làm gì chưa?

– Hai năm ở trường Cooper Union[3] và sau đó anh sẽ thử tìm kiếm cơ hội của mình ở một công ty quảng cáo lớn.

– Vậy là anh đã không thay đổi ý định. Mà em nói cái gì ngốc thế nhỉ, anh có thay đổi ý định bao giờ đâu.

– Thế còn em, em thì đang thay đổi chắc?

– Philip, chắc chắn anh sẽ cùng đi với em nếu em đề nghị anh làm điều đó, bởi vì đó không phải là cuộc sống của anh. Còn em, em không ở lại bởi vì nơi này không phải dành cho em, bởi vậy anh đừng có làm cái vẻ mặt đó nữa được không?

Susan nhấm nháp từng muỗng kem với vẻ ngon lành, thỉnh thoảng cô múc đầy muỗng và đưa đến miệng Philip. Anh ngoan ngoãn để cô đút kem. Cô vét đáy ly kem, cố gom hết những hạt hạnh nhân cuối cùng còn sót lại dính vào thành ly. Chiếc đồng hồ lớn treo trên bức tường đối diện điểm chuông báo hiệu đã đến 5 giờ. Đó là một buổi chiều mùa thu. Một phút im lặng kì lạ nối tiếp; cô rời sống mũi nãy giờ vẫn tì sát vào cửa kính, nghiêng người trên bàn để quàng tay quanh cổ Philip, thì thầm vào tai anh:

– Em đang sợ đây, anh biết không?

Philip đẩy cô ra xa một chút để nhìn thấy rõ mặt cô.

– Anh cũng vậy

— —— —— ——–

[3] Trường Mỹ thuật ở New York

3 giờ sáng, tại Puerto Lempira, đợt sóng đầu tiên cao 9 mét cuốn phăng con đê trên đường đi của nó, mang theo hàng tấn đất và đá về phía bến cảng giờ đã bị cào xé nham nhở. Chiếc cần cẩu oằn mình trước sức mạnh của gió, khi đổ xuống, cái cần trục của nó cắt đứt đôi chiếc cầu vận chuyển công-ten-nơ Rio Platano. Chiếc cầu chìm nghỉm trong những cơn sóng cuồn cuộn. Thỉnh thoảng còn nhìn thấy mũi cầu nhô cao hướng lên trời giữa những đợt sóng; khuya hơn chút nữa nó biến mất hẳn và không bao giờ người ta thấy dấu vết của nó nữa.

Ở vùng này, nơi mà lượng mưa trung bình hàng năm là 3 mét nước, những người sống sót sau những đợt càn quét đầu tiên của cơn bảo Fifi đang cố tìm chỗ ẩn náu phía sâu trong đất liền rồi cũng mất tích. Những con sông đang ngủ bỗng bị đánh thức vào giữa đêm, hung hăng rời khỏi giường cuốn theo những con người ấy và tất cả những gì nằm trên đường đi của chúng.

Tất cả các thành phố nằm trong thung lũng đều biến mất khi bị nhận chìm dưới dòng nước lũ cuồn cuộn mang theo những khúc cây nhọn sắc, những mảng thân cầu gẫy, những mảng đường và nhà bị sập.

Trong vùng Limon, toàn bộ những ngôi làng bám trên sườn núi Amapala, núi Piedra Blanca, núi Biscuampo Grande, núi La Jigua và núi Capiro trượt theo hàng khối đất đổ về phía những thung lũng đã ngập chìm trong nước. Vài người may mắn bám được vào những gốc cây còn trụ lại cũng bỏ mạng trong vài giờ sau đó.

2 giờ 52 phút, đợt sóng thứ ba thẳng tay quất mạnh vào quận Atlantida, toàn bộ dải bờ biển nơi này bị một lưỡi dao dài hơn 11 mét chém ngang. Hàng triệu tấn nước tràn về hai thành phố La Ceiba và Tela, lao phăng phăng qua những con phố nhỏ mà khoảng cách hẹp chỉ càng làm tăng thêm sức công phá của dòng thác nước.

Những ngôi nhà nằm ngay bên hai bờ nước là những nạn nhân đầu tiên, chúng lung lay rồi đổ sập trong dòng nước, nên nhà nện bằng đất nhanh chóng tan ra trong dòng thác. Mái tôn bị nhấc bổng lên trước khi quật mạnh xuống đất, cứa đứt đôi những nạn nhân đầu tiên trong cơn càn quét tàn khốc của thiên nhiên.

= 0 =

Đôi mắt của Philip hướng về phía bộ ngực căng tròn với những đường cong đầy khiêu khích của cô. Susan nhận thấy ánh mắt ấy, mở một nút áo và lấy ra chiếc mặt dây chuyền mạ vàng.

– Em chẳng gặp phải chuyện gì đâu, em đã có cái mặt dây chuyền may mắn này của anh và em sẽ không bao giờ rời xa nó. Nó đã một lần cứu em, chính nhờ nó mà ngày hôm ấy em đã không lên xe đi cùng bố mẹ.

– Em đã nhắc đi nhắc lại điều đó cả trăm lần rồi, Susan, đừng có nói chuyện đó ngay trước khi lên máy bay được không em?

– Dù sao đi nữa, cô nói và bỏ trở lại chiếc mặt dây chuyền trên cổ mình, khi có nó, sẽ chẳng có gì nguy hiểm xảy đến với em.

Đó là một vật kết ước. Một mùa hè, cả hai muốn nhận nhau làm anh em ruột thịt. Kế hoạch của hai đứa trẻ đã được nghiên cứu một cách tỉ mỉ. Trong giờ ra chơi, trên chiếc ghế băng sân trường, hai đứa trẻ cắm cúi nghiên cứu kĩ lưỡng một cuốn sách về thổ dân da đỏ mượn ở thư viện. Kết luận được rút ra, phương pháp thực hiện đã rõ. Phải trao máu cho nhau, phải lấy dao cắt đâu đó trên cơ thể. Susan đã lén lấy trộm chiếc dao đi săn của ba để trong phòng làm việc và hai đứa chui vào trốn trong căn lều của Philip. Cậu bé đưa một ngón tay ra và cố nhắm nghiền mắt lại, nhưng khi dao kề đến gần, nó cảm thấy chóng mặt. Với cách này, cô bé cũng chẳng thấy thoải mái chút nào, thế nên cả hai lại tiếp tục vùi đầu nghiên cứu những cuốn sách về thổ dân da đỏ để tìm một cách giải quyết khác: “Một linh vật thiêng liêng được trao tặng sẽ là vật chứng cho sự gắn kết trọn đời của hai tâm hồn”, trang 236 của cuốn tài liệu nói vậy.

Sau khi kiểm tra lại lần cuối để hiểu chính xác nghĩa của từ “vật trao tặng”, hai đứa trẻ cùng thấy hài lòng và thống nhất chọn phương pháp này. Trong buổi lễ long trọng được tiến hành, hai đứa cùng đọc lên vài bài thơ của thổ dân I-rô-qua và người Si-u, và Philip đeo lên cổ Susan chiếc dây chuyền kết ước. Cô bé không bao giờ chịu rời xa nó nữa, ngay cả khi mẹ cô muốn cô tháo nó ra để đi ngủ.

Susan mỉm cười, khiến hai gò má nhô cao.

– Anh xách giúp em cái túi được không? Nó nặng đến cả tấn, em muốn đi thay đồ, em sẽ chết mất vì nóng khi đến nơi.

– Nhưng em đang mặc áo sơ mi rồi mà!

Cô đã đứng dậy và nắm tay anh kéo đi theo, ra hiệu cho người phục vụ đứng nơi quầy bar giũ chỗ cho hai người. Anh phục vụ gật đầu ra hiệu đồng ý, căn phòng hầu như không có khách. Philip đặt chiếc túi ngay cửa phòng vệ sinh, Susan đứng sát trước mặt anh.

– Anh vào chứ? Em đã nói là nó rất nặng mà.

– Anh cũng muốn vậy, nhưng nơi này trên nguyên tắc là dành riêng cho phụ nữ hay sao ấy?

– Thì sao nào? Bây giờ anh sợ vào toelet để rình trộm em rồi sao? Như thế này có phức tạp hơn cái vách ngăn trong phòng vệ sinh trường trung học hay khó khăn hơn cái cửa áp mái của phòng vệ sinh nhà anh không? Vào đi!

Cô kéo anh về phía mình, không cho anh một sự chọn lựa nào khác ngoài việc đi theo cô; anh cảm thấy đỡ hơn khi chỉ có một buồng vệ sinh duy nhất. Cô vịn vào vai anh, tháo chiếc giầy bên chân trái và nhắm thẳng bóng đèn gắn trên trần. Ngay lần đầu tiên cô đã nhắm trúng đích, bóng đèn hình bát úp nổ tung kêu một tiếng khô gọn.

Trong ánh sáng mờ của chiếc đèn nê-ôn duy nhất gắn phía trên tấm gương, cô tựa người vào chiếc bồn rửa mặt, vòng tay ôm lấy anh và gắn đôi môi của mình vào môi anh. Sau một nụ hôn dài hơn bất cứ nụ hôn nào khác trên đời, cô ghé sát miệng vào tai anh, sự nồng nhiệt của giọng nói thì thầm truyền run rẩy sang tai anh, kết thúc bằng những rung động khó tả chạy dọc sống lưng.

– Em đã có chiếc mặt dây chuyền của anh luôn nằm trên ngực em ngay cả trước khi nó bắt đầu nhú lên, em muốn làn da của anh mãi nắm giữ ký ức về hai bầu ngực ấy. Em sẽ ra đi nhưng em muốn sẽ mãi mãi là nỗi ám ảnh của anh chừng nào em còn tồn tại trên đời, để mãi mãi anh không thể thuộc về ai khác.

– Em thật là quá hoang tưởng đấy!

Nửa vòng tròn màu xanh trên tay khóa cửa chuyển sang màu đỏ.

– Anh im đi và tiếp tục nào, em muốn xem anh đã tiến bộ thế nào rồi.

Một lúc lâu sau, hai người ra khỏi phòng và trở lại bàn, dưới ánh mắt dò xét của người phục vụ quầy bar đang vừa liếc nhìn họ vừa tiếp tục công việc chùi ly của mình.

Philip lại cầm bàn tay Susan, đặt trong lòng bàn tay mình, nhưng anh có cảm giác như cô đã ở một nơi khác.

= 0 =

Xa hơn về phía Bắc, ngay của ngõ thung lũng Sula, những dòng nước lũ đã dâng cao cuộn xiết hơn, xóa sổ tất cả những gì nằm trên đường đi của nó trong một thứ tiếng gầm thét át hết mọi tiếng động khác. Xe hơi, gia súc, đò gạch vữa đổ nát, một thứ hỗn độn thỉnh thoảng bất chợt xuất hiện giữa lòng vòng xoáy của cơn lốc bùn, và có những lúc từ vòng xoáy đó trồi lên một mớ kinh hoàng những tay chân người rách tướp. Chẳng có gì có thể chống cự lại được,các cột điện, xe tải, cầu, nhà máy cũng bị bốc lên khỏi mặt đất và cuốn đi trong cái mớ hỗn hợp tạo thành từ nhiều nguồn sức mạnh siêu nhiên này.

Chỉ trong vài giờ, thung lũng đã chỉ còn là một cái hồ rộng. Nhiều năm sau đó, những người lớn tuổi kể lại rằng chính vẻ đẹp của cảnh vật nơi này đã giữ chân cơn bão Fifi ở lại trong hai ngày; hai ngày đủ để gây ra cái chết của mười nghìn đàn ông, đàn bà và trẻ em, bỏ lại gần sáu trăm nghìn người không nhà cửa và lương thực. Chỉ trong vòng bốn mươi tám tiếng, đất nước nhỏ bé, với diện tích chỉ bằng bang New York, nằm gọn giữa Nicaragua, Guatemala và Salvador này đã bị tàn phá tan hoang bởi một sức mạnh tương đương với ba quả bom hạt nhân gộp lại.

– Susan, em sẽ ở lại đó bao lâu?

– Em phải đi đây, em phải lên máy bay đây, anh muốn ở lại đây à?

Anh đứng lên không trả lời, để lại một đola trên bàn. Cô dấn bước ra lối hành lang rồi lại quay người dán mặt vào ô kính nhìn về phía chiếc bàn trống nơi họ vừa ngồi. Cô cố hết sức kìm nỗi xúc động đang trào lên trong lòng và nói thật nhanh:

– Thế nhé, sau hai năm nữa khi em trở lại, anh sẽ đợi em ở đây, sẽ hơi giống như chúng ta đang lén gặp lại nhau. Em sẽ kể cho anh nghe tất cả những gì em đã làm và anh cũng vậy, anh kể em nghe tất cả những gì anh đã làm, và chúng ta sẽ ngồi đúng tại chiếc bàn này bới vì nó sẽ thuộc về chúng ta; và nếu như sau này em đã trở thành Florence Nightingale[4] của thời hiện đại và anh, một họa sĩ nổi tiếng, một ngày nào đó, người ta sẽ gắn ở đây một tấm bảng đồng nhỏ viết tên của hai chúng ta.

Nơi cửa lên máy bay, cô giải thích với anh rằng cô sẽ không quay đầu lại, cô không muốn nhìn thấy khuôn mặt sầu não của anh, cô muốn mang theo mình nụ cười của anh; cô cũng không muốn phải đối diện với sự vắng mặt của bố mẹ cô, chính điều đó đã khiến bố mẹ Philip không đến sân bay.

Anh quàng tay ôm lấy cô và thì thầm: “Nhớ chăm sóc cho mình, em nhé!” Cô vùi đầu vào ngực anh để đánh cắp một chút mùi hương của anh, và để lại trên cơ thể anh thêm một chút mùi của cô.

Cô đưa vé cho cô tiếp viên, ôm hôn Philip lần cuối, hít một hơi đầy lồng ngực và phồng má lên để bộ mặt hề vui nhộn này sẽ là hình ảnh sau rốt cô để lại cho anh.

Cô bước xuống thật nhanh những bậc thang dẫn về phía lối đi, chạy hết quãng đường dài với hai hàng nhân viên phục vụ mặt đất đứng hai bên, leo lên những bậc thang và chui ào vào chiếc phi cơ.

Philip quay trở lại quầy bar và ngồi vào đúng chiếc bàn lúc nãy. Bên phía khu vực máy bay đậu, loạt động cơ của chiếc Douglas bắt đầu gầm lên, nhả ra từng cột khói xám. Hai chiếc cánh quạt máy bay xoay một vòng ngược chiều kim đồng hồ, rồi chầm chậm quay hai vòng theo chiều ngược lại trước khi quay tít và trở nên vô hình.

Máy bay quay một vòng để hướng ra phía đường băng và chầm chậm lăn bánh. Tới cuối đường băng, nó dừng lại vài phút, chỉnh lại cho đúng vị trí để chuẩn bị cất cánh. Những chiếc bánh xe máy bay vừa vặn che lấp những vệt sơn trắng trên đường băng giờ đây lại một lần nữa nằm im bất động, cái càng hạ cánh gấp lại. Hai bên lề đường những ngọn cỏ cao mà chiếc máy bay dường như đang chào tạm biệt nằm xuống đất.

Cửa kính của quán bar rung lên trước sự tăng tốc của các động cơ, hàng cánh phụ chào các khán giả một lần cuối và chiếc phi cơ bắt đầu lăn bánh. Vận tốc tăng rất nhanh, chiếc máy bay nhanh chóng đạt đến tốc độ cần thiết và Philip nhìn thấy đuôi máy bay nâng lên, rồi những chiếc bánh rời khỏi mặt đất. Chiếc DC3 nhanh chóng tăng độ cao, nghiêng mình chuyển hướng bay về phía bên trái rồi mất hút sau những lớp mây mỏng đằng xa.

Anh còn ngồi đó, mắt đau đáu nhìn về phía bầu trời trong giây lát, rồi đưa mắt nhìn sang chiếc ghế mà cô ngồi vài phút trước đó. Một cảm giác cô đơn tột cùng xâm chiếm anh. Anh đứng dậy và rời khỏi nơi đo, hai tay đút trong túi.

— —— —— —— ——–

[4] Florence Nightingale là người Anh (1820-1910), được tôn vinh như một nhân vật tiêu biểu trong lĩnh vực chăm sóc y tế vì những hoạt động tích cực của cô – ND


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.