Em Làm Ơn Im Đi, Được Không?

Chương 15



Myers ngồi xuống.

“Năm nay chúng tôi quyết định không gửi tấm thiệp nào,” Paula nói. “Lúc cần gửi thì tôi không sắp xếp công việc được, còn gửi vào giờ chót thì có vẻ chẳng có ý nghĩa gì.”

“Bà dùng thêm tách trà nữa chứ bà Myers?”

Morgan nói, bây giờ ông đang đứng trước mặt chị, tay để lên cốc của chị. “Bà sẽ nêu gương cho chồng bà đó.”

“Trà ngon lắm,” Paula nói. “Ấm cả người.”

“Đúng rồi,” Morgan nói. “Ấm cả người. Nói đúng rồi. Em, em có nghe bà Myers nói không? Ấm cả người. Như thế là rất tốt. Ông Myers à,” Morgan nói và chờ đợi. “Ông tham gia cùng chúng tôi chứ?”

“Thôi được,” Myers nói và để cho Morgan lấy cốc.

Con chó bắt đầu gừ gừ và cào cào cánh cửa.

“Cái con chó đó. Tôi không biết nó ăn phải cái quái gì nữa,” Morgan nói. Ông ta đi ra bếp và lần này Myers nghe rõ tiếng ông Morgan rủa xả khi nện cái ấm nước vào bếp lò.

***

Bà Morgan hát thầm trong miệng. Bà nhặt một gói quà đang được bao nửa chừng, cắt một đoạn băng keo và bắt đầu dán giấy lại.

Myers châm một điếu thuốc. Anh thả que diêm xuống miếng lót cốc. Anh nhìn đồng hồ đeo tay.

Bà Morgan ngẩng đầu lên. “Hình như có tiếng hát,” bà nói. Bà lắng nghe. Bà đứng dậy đi ra cửa sổ đằng trước. “Có người hát này, Edgar!” bà gọi.

Myers và Paula đến bên cửa sổ.

“Đã bao năm rồi tôi chưa từng thấy những người đi hát mừng Giáng sinh,” bà Morgan nói.

“Cái gì đó?” Morgan hỏi. Ông ta cầm khay cốc. “Cái gì đó? Có chuyện gì hả?”

“Không có chuyện gì hết, anh à. Là những người hát mừng Giáng sinh. Họ ở đằng kia, bên kia đường,” bà Morgan nói.

“Bà Myers,” Morgan nói, chìa khay ra. “Ông Myers. Em.”

“Cám ơn,” Paula nói.

“Muchas gracias [1] .” Myers nói.

[1] :Tiếng Tây Ban Nha trong nguyên bản: Cám ơn nhiều.

Morgan để khay xuống rồi quay lại cửa sổ mang theo cốc của mình. Một đám thanh thiếu niên tụ tập trên lối đi trước căn nhà bên kia đường, có cả trai và gái, và một cậu bé cao hơn, già đặn hơn mặc áo khoác dài, quấn khăn quàng cổ dày. Myers có thể nhận ra các khuôn mặt ở cửa sổ nhà bên kia – nhà Ardrey – và khi đám trẻ hát xong, Jack Ardrey ra cửa đưa gì đó cho cậu bé lớn hơn kia. Cả đám xuống đường, ánh đèn pin lấp loáng, rồi dừng lại trước một ngôi nhà khác.

“Bọn chúng không đến đây đâu,” lát sau bà Morgan nói.

“Cái gì? Tại sao bọn chúng không đến đây?” Morgan nói và ngoảnh sang vợ. “Nói cái gì ngớ ngẩn vậy. Tại sao chúng không tới đây?”

“Em chỉ biết là chúng sẽ không đến,” bà Morgan nói.

“Còn anh thì nói chúng sẽ đến,” Morgan nói. “Bà Myers, đám hát đó sẽ đến đây hay không? Bà nghĩ sao? Liệu chúng có quay lại để mang phúc lành cho nhà này không? Chúng tôi để tùy ông bà đấy.”

Paula ép sát hơn vào khung cửa sổ. Nhưng đám hát đã đi xa tận cuối đường. Chị không trả lời.

“Hừ, giờ thì những nhộn nhịp đó đã qua rồi,” Morgan nói và đi lại ghế của mình. Ông ta ngồi xuống, cau mày, bắt đầu nhồi tẩu.

Myers và Paula quay lại sofa. Cuối cùng bà Morgan cũng rời cửa sổ. Bà ngồi xuống. Bà mỉm cười nhìn vào trong cốc. Rồi bà đặt cốc xuống và bắt đầu khóc.

Morgan đưa khăn tay cho vợ. Ông ta nhìn Myers. Bây giờ Morgan bắt đầu nện tay vào thành ghế. Myers nhích chân. Paula nhìn vào ví cố tìm một điếu thuốc. “Thấy ông bà đã gây ra những gì chưa?” Morgan nói, mắt nhìn chằm chằm vào cái gì đó trên tấm thảm gần giày của Myers.

Myers gắng gượng.

“Edgar, mang thêm đồ uống cho họ,” bà Morgan vừa nói vừa chậm mắt. Bà lấy khăn tay lau mũi. “Em muốn họ nghe câu chuyện về bà Attenborough. Ông Myers viết văn. Em nghĩ ông ấy sẽ cảm kích câu chuyện này. Bọn em sẽ chờ anh quay lại trước khi bắt đầu câu chuyện.”

***

Morgan vơ mấy cái cốc. Ông ta mang cốc vào bếp. Myers nghe tiếng bát đĩa va lách cách, tiếng cánh cửa tủ bếp đóng sầm. Bà Morgan nhìn Myers mỉm cười yếu ớt.

“Chúng tôi phải về,” Myers nói. “Chúng tôi phải về. Paula, lấy áo khoác đi.”

“Không, không, chúng tôi năn nỉ đấy, ông Myers,” bà Morgan nói. “Chúng tôi muốn ông nghe chuyện bà Attenborough, bà Attenborough tội nghiệp. Có thể bà cũng cảm kích chuyện này, bà Myers à. Đây là dịp để bà xem đầu óc chồng bà xử lý chất liệu thô như thế nào.”

Morgan quay lại đưa thức uống nóng ra. Ông nhanh chóng ngồi xuống.

“Anh kể cho họ nghe chuyện bà Attenborough đi,” bà Morgan nói.

“Cái con chó đó suýt cắn đứt giò tôi,” Myers nói và ngay lập tức ngạc nhiên về lời nói của mình. Anh đặt cốc xuống.

“Ôi, thôi nào, làm gì tệ thế,” Morgan nói. “Tôi thấy mà.”

“Bà thấy nhà văn chưa,” bà Morgan nói với Paula. “Họ ưa phóng đại.”

“Quyền lực của ngòi bút và đại loại thế,” Morgan nói.

“Chính thế,” bà Morgan nói. “Bẻ ngòi bút của mình thành lưỡi cày, ông Myers ạ.”

“Chúng ta sẽ để bà Morgan kể câu chuyện về bà Attenborough,” Morgan nói, phớt lờ Myers lúc đó đã đứng dậy. “Bà Morgan có quan hệ mật thiết với sự vụ này. Tôi đã kể cho ông bà nghe chuyện anh chàng bất ngờ bị ném một hộp xúp vào mặt.” Morgan cười khùng khục. “Chúng ta sẽ để bà Morgan kể chuyện này.”

“Anh kể đi. Và ông Myers, ông nghe cho kỹ nhé,” bà Morgan nói.

“Chúng tôi phải về,” Myers nói. “Paula, đi nào.”

“Chuyện nói về sự trung thực,” bà Morgan nói.

“Thì cứ nói về sự trung thực,” Myers nói. Rồi anh nói, “Paula, em có đi không?”

“Tôi muốn ông bà nghe chuyện này,” Morgan nói, cao giọng. “Ông bà sẽ xúc phạm bà Morgan, ông bà sẽ xúc phạm cả hai chúng tôi, nếu không lắng nghe câu chuyện này.” Ông Morgan nghiến tẩu.

“Myers, xin anh,” Paula lo lắng nói. “Em muốn nghe chuyện. Rồi mình về, Myers? Xin anh đấy, ngồi xuống một vài phút nữa thôi.”

Myers nhìn chị. Chị nhúc nhích mấy ngón tay, như ra hiệu với anh. Anh lưỡng lự, rồi ngồi xuống cạnh chị.

Bà Morgan bắt đầu. “Một chiều nọ ở Munich, Edgar và tôi đến thăm Bảo tàng Dortmunder. Mùa thu năm ấy có triển lãm phái Bauhaus, và Edgar nói thây kệ, hãy nghỉ làm một ngày – dạo đó anh ấy đang làm nghiên cứu – thây kệ, hãy nghỉ làm một ngày. Chúng tôi bắt xe điện đi băng qua Munich để đến viện bảo tàng. Suốt nhiều tiếng đồng hồ, chúng tôi xem triển lãm và thăm lại một số phòng tranh để bày tỏ sự kính trọng đối với vài họa sĩ mà chúng tôi yêu thích trong số những bậc thầy xưa. Ngay lúc chúng tôi định đi khỏi, tôi vào phòng vệ sinh nữ. Tôi bỏ quên xắc ở đó. Trong ví có séc hằng tháng của Edgar bên nhà mới gửi qua hôm trước và một trăm hai mươi đô la tiền mặt mà tôi định sẽ nộp vào ngân hàng cùng với tấm séc. Giấy tờ tùy thân tôi cũng bỏ trong xắc. Mãi đến khi về tới nhà tôi mới nhớ cái xắc. Edgar ngay lập tức gọi điện cho ban quản lý bảo tàng. Nhưng trong lúc anh ấy đang nói chuyện tôi thấy một chiếc taxi dừng lại trước cửa. Một phụ nữ tóc bạc ăn vận lịch lãm bước ra. Đó là một phụ nữ to con mang theo hai chiếc xắc. Tôi gọi Edgar rồi ra cửa. Người phụ nữ tự giới thiệu mình là bà Attenborough, đưa xắc cho tôi, giải thích rằng bà ta cũng đi bảo tàng chiều hôm ấy và lúc vào nhà vệ sinh bà để ý thấy cái túi xắc trong thùng rác. Dĩ nhiên bà đã mở xắc để tìm xem chủ là ai. Có giấy tờ tùy thân trong đó nên bà tìm được địa chỉ chúng tôi. Ngay lập tức bà ra khỏi bảo tàng bắt taxi đến để đích thân giao chiếc xắc. Tấm séc của Edgar còn đó, nhưng tiền, một trăm hai mươi đô, không còn. Dù vậy tôi vẫn rất biết ơn vì những thứ khác còn nguyên vẹn. Lúc đó gần bốn giờ và chúng tôi bảo bà ở lại uống trà. Bà ngồi xuống và trong chốc lát bắt đầu kể về mình. Bà sinh ra lớn lên ở Úc, lấy chồng khi còn trẻ, có ba người con, đều là trai, chồng mất, và vẫn sống ở Úc với hai con trai. Họ nuôi cừu, có hơn hai mươi mẫu đất để chăn cừu, và thuê người chăn cừu hay cắt lông cừu hay làm những việc khác cho họ tùy mùa trong năm. Khi bà tới nhà chúng tôi ở Munich, bà đang trên đường từ Anh về Úc, bà đã đi thăm con trai út của bà, một luật sư, ở Anh. Bà đang trên đường quay lại Úc thì gặp chúng tôi,” bà Morgan nói. “Bà đang đi tham quan nhiều nơi trên thế giới. Bà ghé nhiều nơi trong hành trình của mình.”

“Vào điểm chính đi em,” Morgan nói.

“Vâng. Rồi chuyện diễn ra thế này, ông Myers à. Đột nhiên, sau khi chúng tôi chuyện trò vui vẻ trong chừng một tiếng đồng hồ, sau khi người phụ nữ đó kể chúng tôi nghe về cuộc đời đầy mạo hiểm của bà ở Úc, bà đứng dậy đi về. Ngay khi bắt đầu đưa cốc cho tôi, miệng bà chợt há hốc, cốc rơi xuống, bà ngã ra sofa và chết. Chết. Ngay trong phòng khách chúng tôi. Đó là khoảnh khắc sốc nhất trong đời chúng tôi.”

Morgan gật đầu khẳng định.

“Ôi Chúa,” Paula nói.

“Định mệnh gửi bà ta tới chết trên sofa trong phòng khách nhà chúng tôi ở Đức,” bà Morgan nói.

Myers phá ra cười, “Định mệnh… gửi… bà ta… tới… chết…. trong… phòng khách… nhà… ông bà?” anh nói đứt quãng.

“Buồn cười hả, ngài?” Morgan nói. “Ngài thấy chuyện đó buồn cười thật à?”

Myers gật đầu. Anh không ngớt cười. Anh lau mắt lên ống tay áo. “Tôi thành thật xin lỗi,” anh nói. “Tôi không nhịn được. Cái câu đó ‘Định mệnh gửi bà ta tới chết tên sofa trong phòng khách nhà chúng tôi ở Đức.’ Xin lỗi. Chuyện đó xảy ra khi nào?” anh cố nói. “Tôi muốn biết sau đó chuyện gì xảy ra.”

“Ông Myers, chúng tôi không biết phải làm gì,” bà Morgan nói. “Sốc kinh khủng. Edgar bắt mạch bà ta, nhưng chẳng có dấu hiệu gì của sự sống. Và bà ấy bắt đầu đổi màu. Cả tay và mặt bà ấy trở nên xám ngoét. Edgar ra chỗ điện thoại để gọi ai đó. Rồi anh ấy nói, ‘Mở xắc bà ấy xem bà ấy ở đâu.’ Tôi lấy ví của bà ta ra mà luôn tránh nhìn cái vật tội nghiệp trên ghế sofa đó. Hãy tưởng tượng sự ngạc nhiên và hoang mang toàn diện của tôi, hoang mang cùng cực, khi thứ đầu tiên tôi thấy bên trong xắc là một trăm hai mươi đô la của tôi, vẫn còn kẹp bằng kẹp giấy. Chưa bao giờ tôi kinh ngạc như thế.”

“Và thất vọng,” Morgan nói. “Đừng quên điều đó. Thất vọng não nề.”

Myers cười khùng khục.

“Nếu ông thực sự là nhà văn, như ông tự xưng, ông Myers, thì ông sẽ không cười,” Morgan đứng dậy nói. “Ông sẽ không dám cuời! Ông sẽ cố mà hiểu. Ông sẽ rúc sâu vào trái tim của linh hồn tội nghiệp đó và cố mà hiểu. Nhưng ông không phải là nhà văn, thưa ngài.”

Myers không ngớt cười khùng khục.

Morgan đập tay lên bàn uống trà khiến những chiếc cốc tưng lên trên miếng lót. “Câu chuyện thực thụ nằm ngay đây, trong căn nhà này, trong chính cái phòng khách này, và đã đến lúc nó phải được kể! Câu chuyện thực sự ở ngay đây, ông Myers!,” Morgan nói. Ông đi đi lại lại trên những tờ giấy gói quà rực rỡ đuợc trải ra và bây giờ vương vãi trên thảm. Ông dừng lại ném cho Myers một cái nhìn, lúc đó Myers đang ôm trán và cười rung bần bật.

“Hãy xem xét khả năng này, ông Myers!,” Morgan gào lên. “Hãyxem xét! Một người bạn – tạm gọi là ông X – là bạn của… của ông bà Y, cũng là bạn của ông bà Z. Không may ông bà Y và ông bà Z không biết nhau. Tôi nói không may vì nếu họ đã biết nhau thì đã không có câu chuyện này vì nó sẽ không bao giờ xảy ra. Giờ thì, ông X biết rằng ông bà Y chuẩn bị đi Đức một năm và cần ai đó ở nhà họ trong thời gian đi vắng. Ông bà Z đang tìm nơi ở phù hợp, và ông X bảo họ rằng ông biết một chỗ. Nhưng trước khi ông X giới thiệu ông bà Z với ông bà Y, ông bà Y phải đi sớm hơn dự định. Ông X, với tư cách là bạn được ông bà Y ủy thác cho bất kỳ ai thuê nhà tùy ý ông ấy, bao gồm cả ông bà Y… ý tôi là Z. Rồi, ông bà .. Z dọn vào nhà mang theo một con mèo mà sau này ông bà Y nghe được trong một lá thư từ ông X. Ông bà Z mang một con mèo vào nhà mặc dù điều kiện cho thuê nhà đã quy định rõ cấm nuôi mèo hay bất cứ con vật nào khác vì bà Y bị suyễn. Câu chuyện thực thụ, thưa ông Myers, nằm trong tình huống mà tôi vừa mô tả. Ông bà Z… ý tôi là ông bà Y dọn vào nhà của vợ chồng Z, xâm phạm căn nhà của vợ chồng Z, nếu sự thật cần được kể ra. Ngủ trên giường vợ chồng Z là một chuyện, nhung mở khóa tủ riêng của vợ chồng Z và sử dụng ga gối, phá hoại những đồ đạc tìm thấy trong đó là đi ngược lại với tinh thần và văn bản hợp đồng cho thuê. Và cũng cái cặp này, vợ chồng Z, mở những hộp dụng cụ nhà bếp dán nhãn ‘Đừng Mở.’ Và làm vỡ đĩa trong khi trong cùng hợp đồng thuê đó nêu rõ, nêu rõ rằng họ không được phép sử dụng đồ đạc của chủ nhân, đồ đạc riêng của vợ chồng Z, tôi nhấn mạnh riêng.”

Môi Morgan trắng bệch. Ông ta tiếp tục đi đi lại lại trên giấy, thỉnh thoảng dừng lại nhìn Myers và phát ra những tiếng bập môi nho nhỏ.

“Còn đồ đạc trong nhà tắm nữa, anh – đừng quên đồ đạc trong nhà tắm,” bà Morgan nói. “Sử dụng chăn màn của vợ chồng Z là tệ lắm rồi, họ còn mó đến những thứ trong nhà tắm và ngó nghiêng nhũng đồ vật riêng tư cất trong tầng áp mái, phải biết đâu là giới hạn chứ.”

“Đó là câu chuyện thực thụ ông Myers ạ,” Morgan nói. Ồng ta cố nhồi tẩu. Tay ông run run khiến thuốc lá vung ra thảm. “Đó là câu chuyện thực sự chờ được viết ra.”

“Và không cần phải Tolstoy mới kể được,” bà Morgan nói.

“Không cần Tolstoy,” Morgan nói.

***

Myers cười ha hả. Anh và Paula đứng dậy cùng lúc và tiến ra cửa. “Chúc ngủ ngon,” Myers vui vẻ nói.

Morgan đứng sau lưng anh. “Nếu ngài thực sự là nhà văn, thưa ngài, ngài sẽ viết câu chuyện đó ngay mà không câu nệ.”

Myers chỉ cười. Anh chạm vào nắm đấm cửa.

“Một việc khác,” Morgan nói, “tôi không định mang chuyện này ra, nhưng do cách cư xử của ông ở đây tối nay, tôi muổn nói cho ông biết tôi mất bộ hai đĩa ‘Jazz at the Philharmonic’. Mấy đĩa đó có giá trị tình cảm to lớn. Tôi mua chúng năm 1955. Và bây giờ tôi yêu cầu ông nói tôi nghe chuyện gì đã xảy ra với những đĩa đó!”

“Nói cho ngay, Edgar,” bà Morgan nói trong khi đang giúp Paula mặc áo khoác, “từ sau khi anh kiểm các đĩa nhạc, anh đã thừa nhận anh không thể nhớ ra lần cuối cùng anh nhìn thấy mấy đĩa đó là khi nào.”

“Nhưng bây giờ anh chắc chắn về việc đó,” Morgan nói. “Anh tin chắc anh nhìn thấy mấy đĩa đó ngay truớc khi ta lên đường, và bây giờ, bây giờ, anh muốn ông nhà văn này bảo anh chính xác ông ta biết chúng ở đâu. Ông Myers?”

Nhung Myers đã ra bên ngoài, và, nắm tay vợ, anh vội vã dẫn vợ đi xuống chỗ đậu xe. Họ làm con Buzzy ngạc nhiên. Con chó kêu ẳng như là sợ hãi rồi nhảy sang một bên.

“Tôi yêu cầu được biết về chuyện này!” ông Morgan gọi. “Tôi chờ nghe đây, thưa ngài!”

Myers đỡ Paula vào xe rồi bắt đầu nổ máy. Anh nhìn cặp kia ở cổng lần nữa. Bà Morgan vẫy tay, rồi bà và Edgar Morgan quay vào nhà và đóng cửa.

Myers đánh xe khỏi lề đường.

“Mấy người đó điên rồi,” Paula nói.

Myers vỗ lên tay vợ.

“Họ đáng sợ,” chị nói.

Anh không trả lời. Giọng chị đến với anh dường như từ nơi nào xa xôi. Anh cứ lái xe. Tuyết lùa vào kính. Anh im lặng quan sát đường. Anh thực sự ở cuối một câu chuyện.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.