Dòng Sông Kỳ Bí

Chương 24: Bộ tộc bị cấm đoán



Celeste ngồi bên cửa sổ quán cà phê Nate & Nancy trên đại lộ Buckingham đối diện với nhà của Jimmy trong khi Jimmy và Val Savage đỗ xe lại cách đó nửa dãy nhà rồi đi bộ về.

Nếu định hành động, thực sự hành động thì cô phải đứng dậy ngay lúc này và tiếp cận họ. Cô đứng dậy, hai chân lập cập, tay đập vào dưới mép bàn. Cô nhìn xuống tay mình. Tay cô cũng đang run lên bần bật, một vết trầy dài ngay phía dưới đốt xương của ngón cái. Cô đưa vết thương lên miệng thổi rồi đi về phía cửa. Cô vẫn chưa chắc liệu mình có thể làm được chuyện đó hay không, nói ra những lời mà cô đã chuẩn bị sáng nay trong phòng khách sạn. Cô quyết định chỉ nói với Jimmy những gì cô biết – những chi tiết xác thực về hành vi kỳ lạ của Dave kể từ sáng Chủ nhật mà không kết luận gì để Jimmy tự đưa ra phán xét của mình. Không có bộ quần áo Dave mặc đêm hôm đó thì tìm đến cảnh sát cũng chẳng ích gì. Cô tự nhủ. Cô nói vậy cũng là vì không tin rằng cảnh sát sẽ bảo vệ mình. Cô sống ở khu phố này và điều duy nhất bảo vệ cô khỏi những nguy hiểm ở đây chính là hàng xóm. Nếu như cô nói chuyện này cho Jimmy thì không chỉ anh mà cả anh em nhà Savage nữa cũng sẽ tạo ra một thành trì xung quanh cô mà Dave không bao giờ dám xâm phạm.

Cô ra khỏi cửa vừa lúc Jimmy và Val đặt chân lên bậc thềm. Cô giơ bàn tay đau của mình lên. Cô gọi tên Jimmy rồi bước xuống đại lộ, trông giống như một mụ điên – tóc rối bù, mắt thâm quầng và sưng lên vì sợ hãi.

“Jimmy, Val!”

Họ quay lại nhìn cô. Jimmy khẽ mỉm cười vẻ ngỡ ngàng khiến cô lại lần nữa nhận thấy nụ cười của anh thật cởi mở và dễ thương. Một nụ cười chân thật, tự nhiên, đầy sức cuốn hút. Giống như muốn nói rằng, tôi là một người bạn, Celeste, tôi có thể giúp gì cho cô không?

Cô đi tới vỉa hè và Val khẽ hôn lên má cô. “Chào em họ.”

“Chào anh Val.”

Jimmy cũng chạm nhẹ vào má cô nhưng cảm giác đó như thấm sâu vào trong da thịt cô, khiến cổ họng cô khẽ run lên.

“Annabeth tìm cô cả sáng nay. Gọi về nhà hay tới chỗ làm cũng đều không gặp,” Jimmy nói.

Celeste gật đầu. “Tôi… tôi, à…” Cô tránh ánh mắt hiếu kỳ của Val như thể soi mói cô. “Jimmy, tôi có thể nói chuyện riêng với anh một chút được không?”

“Dĩ nhiên rồi,” Jimmy nói, nụ cười ngỡ ngàng lúc trước lại trở về. Anh quay sang bảo Val. “Chúng ta sẽ bàn tiếp chuyện đó sau nhé?”

“Cậu đừng quên đấy. Em họ, gặp lại sau nhé.”

“Cảm ơn cậu, Val.”

Val đi vào trong nhà còn Jimmy ngồi xuống bậc cầu thang thứ ba và để dành một chỗ bên cạnh cho Celeste. Cô ngồi xuống, để bàn tay bị thương vào trong lòng và cố tìm ra từ ngữ để diễn đạt. Jimmy quan sát cô một lúc rồi dường như nhận ra sự căng thẳng tới không nói nên lời của cô.

Thế là anh nhẹ nhàng khơi mào. “Có biết hôm trước tôi nhớ lại chuyện gì không?”

Celeste lắc đầu.

“Tôi đứng cạnh cái cầu thang cũ trên đường Sydney. Có nhớ mấy bậc cầu thang mà chúng mình vẫn thường tới đó để ngồi xem phim từ khu chiếu bóng và hút thuốc đã đời?”

Celeste mỉm cười. “Lúc đó anh đang cặp kè với…”

“Ôi đừng nhắc tới chuyện đó.”

“… Jessica Lutzen với cơ thể không chê vào đâu được của cô ta, còn tôi thì hẹn hò với Duckie Cooper.”

“À, anh chàng Duckster. Chuyện gì đã xảy ra với cậu ta vậy?” Jimmy hỏi.

“Nghe nói cậu ấy ra nhập hải quân, bị nhiễm một thứ bệnh ngoài da kỳ quặc nào đó ở nước ngoài, hiện đang sống ở California.”

“Ra thế.” Jimmy hất cằm lên, ánh mắt xa xăm như trở về thời niên thiếu và Celeste đột nhiên thấy cử chỉ đó của anh giống hệt như mười tám năm trước. Khi đó tóc anh vàng hơn, con người cũng điên rồ hơn, là loại con trai trèo lên cột điện thoại trong lúc trời mưa bão khiến tất cả đám con gái đứng dưới sợ hãi cầu nguyện để cậu ta không rớt xuống. Thế nhưng ngay cả trong những giây phút điên rồ nhất, anh vẫn có một vẻ tĩnh lặng, những khoảng lặng đột ngột để đối chiếu bản thân, tạo ra một thứ cảm giác rằng anh đặc biệt thận trọng trong việc bảo vệ chính mình, ngay từ khi anh còn rất nhỏ.

Anh quay sang và vỗ nhẹ lên đầu gối cô. “Chuyện gì đã xảy ra thế hả đồ ngốc? Trông cô, hừm…”

“Cứ nói thẳng ra đi.”

“Gì cơ? À trông cô có vẻ hơi mệt mỏi, thế thôi.” Anh dựa lưng vào bậc cầu thang và thở dài. “Nhưng chúng ta lúc này ai chả mệt mỏi.”

“Tối qua tôi ngủ ở khách sạn với Michael.”

Jimmy nhìn chằm chằm về phía trước. “Ừ.”

“Tôi không biết nữa, Jim. Nhưng có lẽ tôi sẽ phải rời khỏi Dave.”

Cô nhận thấy nét mặt anh thay đổi, cằm hơi bạnh ra khiến cô đột nhiên có cảm giác Jimmy đã biết cô định nói gì.

“Cô rời khỏi Dave.” Anh nói, giọng đều đều, mắt vẫn nhìn ra đường.

“Đúng vậy. Anh ấy hành động, nói thế nào nhỉ… Gần đây anh ấy hành động rất kỳ quặc. Không còn là mình nữa. Anh ấy bắt đầu khiến tôi sợ.”

Jimmy quay sang cô với một nụ cười lạnh lẽo tới mức cô suýt nữa thì giơ tay tát vào mặt anh. Trong mắt anh, cô lại thấy hiện ra cậu bé điên rồ leo cột điện thoại trong mưa ngày ấy.

“Sao không kể từ đầu cho tôi nghe? Dave bắt đầu xử sự khác thường từ khi nào?”

“Anh đã biết rồi Jimmy?” Cô hỏi.

“Biết gì cơ?”

“Anh đã biết chuyện gì đó. Trông anh có vẻ không ngạc nhiên.”

Nụ cười lạnh lẽo dần tan biết, Jimmy ngồi hơi nhoài người về phía trước, hai tay siết lại trong lòng. “Tôi biết là cậu ta đã bị cảnh sát dẫn đi sáng nay. Tôi biết cậu ta có một chiếc xe nhập ngoại có khung trước bị móp phía ghế bên. Tôi biết câu chuyện cậu ta kể cho tôi về nguyên nhân bị thương ở tay không giống như cậu ta khai với cảnh sát. Và tôi biết cậu ta có gặp Katie vào cái đêm con bé bị sát hại nhưng cậu ta đã không nói với tôi cho tới khi cảnh sát hỏi han cậu ta về chuyện đó.” Anh xòe hai tay tồi nói tiếp. “Tôi không biết tất cả những chi tiết đó thực sự có ý nghĩa gì nhưng tôi băt đầu cảm thấy rối trí, đúng vậy.”

Trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, Celeste chợt cảm thấy thương xót chồng mình khi hình dung ra cảnh anh ngồi trong phòng xét hỏi, tay có lẽ bị còng vào bàn, ánh đèn dữ dội hắt thẳng lên khuôn mặt nhợt nhạt. Nhưng sau đó cô lại nhìn thấy Dave của đêm hôm trước, thò đầu vào cửa nghiêng ngó nhìn cô với một vẻ điên khùng, và nỗi sợ hãi lập tức lấn át lòng thương hại.

Cô hít một hơi thật sâu rồi phun chúng ra. “Dave đã trở về nhà vào lúc ba giờ sáng Chủ nhật, từ đầu tới chân đầy máu của người khác.”

Lời đã nói ra rồi. Những lời đó đã rời khỏi miệng cô và ra ngoài không khí. Chúng tạo nên một bức tường trước mặt cô và Jimmy rồi mọc ra một cái trần nhà và một bức tường khác phía sau lưng, khiến họ đột nhiên bị giam cầm trong một phòng giam nhỏ xíu được tạo ra chỉ bằng một câu nói. Những tiếng ồn ào trên đại lộ chợt tắt ngấm, cơn gió nhẹ biến mất, tất cả những gì Celeste có thể cảm nhận được chỉ còn lại mùi nước hoa của Jimmy và ánh mặt trời tháng Năm vàng ruộm trên bậc cầu thang dưới chân họ.

“Cậu ta nói chuyện gì đã xảy ra?” Jimmy nói giọng như bị ai bóp ngạt.

Cô kể cho anh nghe. Cô kể cho anh tất cả mọi chuyện, kể cả vụ ma cà rồng hút máu đêm hôm trước. Cô kể và nhận thấy mỗi từ phát ra từ miệng cô là thêm một lần anh muốn né tránh. Chúng thiêu đốt anh. Chúng xuyên vào da thịt anh như trăm ngàn mũi tên. Mắt và miệng anh co lại để chống đỡ, da mặt trân ra cho tới khi có thể nhìn thấy xương trồi lên, và người cô đột nhiên lạnh toát nghĩ tới hình ảnh anh nằm trong quan tài với những móng tay dài, nhọn hoắt, bộ hàm đang phân hủy, và trên sọ là mái tóc bằng rêu mốc phất phơ.

Và rồi nước mắt anh lặng lẽ rơi trên má khiến cô phải cố gắng cưỡng lại thôi thúc được kéo khuôn mặt anh dụi vào cổ mình để nước mắt lăn vào trong áo và trượt xuống lưng.

Nhưng cô tiếp tục nói vì cô biết nếu dừng lại cô sẽ không đủ can đảm tiếp tục, mà cô không thể im lặng vì cô cần phải nói với ai đó lý do khiến cô rời đi, tại sao cô phải chạy trốn khỏi người đàn ông mà cô thề thốt sẽ ở bên cạnh những lúc khó khăn hay hạnh phúc, người đàn ông là cha của con cô, người vẫn nói đùa với cô, dịu dàng cầm tay cô và cho cô mượn một bờ ngực vững chãi để ngủ thiếp. Một người đàn ông không bao giờ phàn nàn, không bao giờ đụng chân đụng tay với cô, một người chồng tốt, một người cha tuyệt vời. Cô cần phải nói với ai đó lòng cô bối rối tới mức nào khi người đàn ông đó đột nhiên biến mất như thể tấm mặt nạ bấy lâu nay đã rơi xuống để lộ ra một con quái vật đểu cáng đang ngấm ngầm theo dõi cô.

“Tôi vẫn không biết anh ấy đã làm gì, Jimmy. Tôi cũng không biết đó là máu của ai. Tôi hoàn toàn không biết. Tôi không thể kết luận điều gì. Là không biết. Nhưng lại rất sợ, rất sợ.” Cô kết luận.

Jimmy xoay người dựa lưng vào thành cầu thang bằng sắt uốn. Nước mắt trên mặt anh đã khô, miệng anh vẫn hơi há ra vẻ sửng sốt. Anh nhìn Celeste với ánh mắt như xuyên thủng qua người cô xuống lòng đường rồi tập trung vào một điểm xa xăm nào đó không ai có thể thấy được.

“Jimmy,” Celeste khẽ gọi nhưng anh phẩy tay ra hiệu cho cô im lặng rồi nhắm chặt mắt. Anh cúi đầu, mở miệng hít đầy không khí vào lồng ngực.

Cái buồng giam xung quanh họ biến mất, Celeste gật đầu chào Joan Hamilton vừa đi qua và ném cho họ cái nhìn vừa thông cảm vừa có chút ngờ vực. Âm thanh của đường phố ập về với tiếng còi xe, tiếng cửa lách cách, tiếng người gọi nhau từ xa vẳng lại.

Khi Celeste quay lại nhìn Jimmy thì anh đang nhìn cô chăm chú, trực diện. Hai mắt sáng, miệng mím lại, đầu gối tì trước ngực, hai tay vòng ra ôm lấy gối và cô cảm thấy trí tuệ sắc sảo và đầy tính hiếu chiến của anh đang vận động, bộ não anh bắt đầu làm việc với tốc độ và hiệu quả mà phần lớn mọi người có nghĩ cả đời cũng không bằng được.

“Quần áo anh ta mặc đã không còn nữa,” anh nói.

“Tôi đã kiểm tra lại. Đúng là không còn nữa.”

Anh tì cằm lên đầu gối và hỏi. “Nói thật nhé, cô thực sự sợ hãi tới mức nào?”

Celeste hắng giọng. “Jimmy, đêm qua tôi cứ tưởng là anh ấy sẽ cắn tôi. Cứ cắn mãi không tha.”

Jimmy khẽ nghiêng mặt, má trái tựa vào đầu gối và nhắm mắt lại. “Celeste này,” anh nói khẽ.

“Vâng?”

“Cô có nghĩ là Dave đã giết Katie?”

Celeste cảm thấy câu trả lời dội ngược lên trong cơ thể cô như cơn buồn nôn đêm hôm trước. Cô có cảm giác như bàn chân nóng giãy của nó đạp lên trái tim cô.

“Có,” cô nói.

Mắt Jimmy vụt mở ra.

“Jimmy? Xin Chúa hãy giúp con,” cô nói.

Sean nhìn Brendan Harris ở phía bên kia bàn. Thằng bé trông có vẻ bối rối, mệt mỏi và sợ hãi đúng như Sean mong muốn. Sáng nay, anh cử hai nhân viên cảnh sát đến nhà mang cậu ta tới đây rồi cứ để Brendan ngồi đó lo lắng không yên trong khi anh nhẩn nha làm việc trên máy vi tính, đọc kỹ tất cả những dữ liệu thu thập được về cha cậu ta, cố thình phớt lờ Brendan.

Anh quay trở lại nhìn vào màn hình máy tính và, để tăng thêm tính hiệu quả, dùng bút chì gõ gõ nút trượt màn hình rồi nói. “Hãy kể cho tôi nghe về cha cậu, Brendan?”

“Gì cơ?”

“Cha cậu. Raymond cha. Cậu có nhớ gì về ông ấy không?”

“Gần như không. Tôi chỉ mới… khoảng… sáu tuổi khi ông ấy bỏ nhà đi.”

“Vậy là cậu không nhớ gì về ông ấy cả.”

Brendan nhún vai. “Tôi có nhớ vài chuyện nho nhỏ. Ông ấy thường về nhà và hát trong lúc say rượu. Ông ấy có một lần đưa tôi tới công viên Canobie Lake và mua cho tôi một chiếc kẹo bông, tôi ăn được một nửa rồi nôn ra hết trên đu quay. Tôi nhớ là ông ấy thường xuyên không ở nhà. Tại sao ông lại hỏi thế?”

Sean lại quay ra nhìn màn hình máy tính. “Cậu còn nhớ gì nữa không?”

“Tôi không biết. Ông ấy lúc nào cũng bốc ra mùi bia Schilitz và kẹo bạc hà Dentyne. Ông ấy…”

Sean nghe thấy tiếng cười trong giọng của Brendan liền ngước lên nhìn cậu và bắt gặp một nụ cười nhẹ nhàng lướt trên mặt cậu. “Ông ấy sao cơ, Brendan?”

Brendan khẽ cựa quậy trong chiếc ghế, mắt nhìn vào một điểm xa xăm nào đó, không tồn tại trong căn phòng này, cũng không tồn tại ở thời điểm này. “Ông ấy thường mang theo rất nhiều tiền xu. Túi ông ấy trĩu xuống và phát ra tiếng động khi ông ấy bước đi. Lúc còn nhỏ, tôi thường ngồi trong phòng khách phía trước ngôi nhà. Không phải là nơi chúng tôi đang sống hiện nay. Đó là một ngôi nhà đẹp. Và tôi thường ngồi đó vào lúc năm giờ chiều, nhắm mắt lại chờ cho đến khi nghe thấy tiếng của ông ấy và những đồng xu vang lên trên phố. Rồi tôi nhảy bổ ra khỏi nhà để đón ông ấy và nếu như tôi có thể đoán được ông ấy có bao nhiêu đồng xu trong túi, chỉ cần đoán gần trúng thôi là ông ấy sẽ cho tôi hết.” Nụ cười trên mặt Brendan tươi hơn và cậu lắc lắc đầu bảo, “Mà ông ấy có rõ lắm tiền xu.”

“Thế còn súng thì sao? Cha cậu có một khẩu súng đúng không?”

Nụ cười cứng lại và Brendan nheo mắt nhìn Sean như thể không hiểu anh đang nói thứ tiếng gì. “Gì cơ?”

“Cha cậu có súng không?”

“Không.”

Sean gật đầu và nói. “Cậu trả lời có vẻ quá chắc chắn so với một đứa trẻ mới chỉ sáu tuổi lúc ông ấy rời đi.”

Connolly bước vào phòng làm việc với một chiếc hộp các tông. Anh ta bước về phía Sean và đặt chiếc hộp lên bàn của Whitey.

“Cái gì thế?” Sean hỏi.

“Một đống thứ,” Connolly nói và liếc về phía bên trong hộp. “Báo cáo của bên kỹ thuật giám định hiện trường, xét nghiệm đầu đạn, phân tích vân tay, băng ghi âm bên tổng đài 911, một đống.”

“Cậu vừa nói là dấu vân tay. Có tìm thấy gì không?”

“Chả trùng với ai trên máy tính.”

“Cậu đối chiếu với dữ liệu của cả liên bang chưa?”

“Cả Interpol cũng đối chiếu luôn rồi. Chả thấy gì. Chỉ có một dấu tay nguyên vẹn duy nhất lấy được từ cánh cửa. Đó là một ngón cái. Nếu đó là dấu tay của hung thủ thì hắn là một người thấp bé.”

“Thấp bé?”

“Đúng thế. Thấp bé. Mà người thấp bé thì đầy. Có sáu vân tay khá rõ ràng, nhưng chả trùng với ai trong dữ liệu của chúng ta hết.”

“Cậu đã nghe đoạn băng của tổng đài 911 chưa?”

“Chưa. Có cần không?”

“Connolly, cậu phải nắm rõ mọi thứ, bất cứ cái gì liên quan tới vụ án.”

Connolly gật đầu. “Anh sẽ nghe nó ư?”

“Đó chính là lý do vì sao chúng tôi cần cậu mang nó tới đây.” Sean nói rồi quay sang Bredan Harris. “Liên quan tới khẩu súng của cha cậu.”

“Cha tôi không có súng.”

“Thật sao?”

“Đúng thế.”

“Ôi thế chắc là chúng tôi được thông báo nhầm. Nhân tiện, Brendan, cậu có nói chuyện nhiều với cha mình không?”

Brendan lắc đầu. “Chả bao giờ. Ông ta bảo là ông ta ra ngoài uống rượu rồi lặn mất tăm để mẹ tôi và tôi lại mà bà ấy còn đang mang bầu nữa chứ.”

Sean gật gù như thể cảm thông với nỗi đau của cậu ta. “Nhưng mẹ cậu không bao giờ báo chồng mất tích.”

“Bởi vì ông ta không có mất tích,” Brendan nói, mắt có chút phẫn nộ. “Ông ta bảo với mẹ tôi là ông ta không yêu bà ấy. Rằng bà ấy lúc nào cũng chửi ông ta. Hai ngày sau, ông ta đi mất.”

“Bà ấy không bao giờ thử tìm kiếm hay liên lạc với ông ấy?”

“Không. Ông ta gửi tiền về nên chả việc gì phải nhức đầu.”

Sean nhấc bút ra khỏi bàn phím và đặt xuống bàn. Anh nhìn thấy Brendan Harris, cố đọc nét mặt của thằng bé nhưng không thấy gì ngoài giận dữ và tuyệt vọng.

“Ông ta gửi tiền về ư?”

Brendan gật đầu. “Mỗi tháng một lần, chính xác như đồng hồ.”

“Từ đâu?”

“Gì cơ?”

“Phong bì được gửi đi từ đâu?”

“New York.”

“Luôn là như vậy?”

“Vâng.”

“Là tiền mặt?”

“Vâng. Thường là năm trăm một tháng, Giáng sinh thì có nhiều hơn.”

“Ông ta có bao giờ viết gì trong thư không?”

“Không.”

“Thế làm sao mà cậu biết rằng đó là cha cậu?”

“Thế còn ai nữa muốn gửi tiền cho chúng tôi hằng tháng? Ông ta có lỗi. Mẹ tôi nói ông ta vẫn luôn xử sự như thế, làm những việc tồi tệ sau đó tỏ ra ăn năn tưởng rằng như thế có thể chuộc lại lỗi lầm của mình.”

“Tôi muốn nhìn thấy một trong những chiếc phong bì đó.”

“Mẹ tôi vứt đi hết rồi.”

“Chết tiệt.” Sean nói rồi xoay màn hình máy tính đi chỗ khác. Mọi tình tiết của vụ án này đều khiến anh muốn điên đầu. Dave Boyle là nghi phạm, Jimmy Marcus là cha của nạn nhân, người bị hại bằng chính khẩu súng của bố bạn trai mình. Ngoài ra còn một chi tiết nữa cũng khiến Sean đau đầu dù nó không trực tiếp liên quan tới vụ án.

“Brendan này, nếu cha cậu bỏ rơi gia đình lúc mẹ cậu mang thai tại sao bà ấy lại vẫn lấy tên ông ta đặt tên cho đứa bé?”

Brendan dè dặt nhìn quanh phòng. “Mẹ tôi đầu óc lúc nào cũng phải để đi đâu ấy. Ông hiểu chứ? Bà ấy đã cố gắng rất nhiều nhưng…”

“Hiểu rồi…”

“Bà ấy bảo gọi nó là Ray để nhắc nhở chính mình.”

“Nhắc nhở chuyện gì cơ?”

“Về đàn ông.” Cậu nhún vai. “Chỉ cần hở ra là họ lập tức tìm cách phản bội mình.”

“Nhưng tới khi phát hiện ra em trai của cậu bị câm, bà ấy phản ứng như thế nào?”

“Không vui,” Brendan nói và cười mỉa. “Nhưng ở khía cạnh nào đó lại chứng minh rằng bà ấy đúng. Ít nhất là trong đầu bà ấy nghĩ thế.” Cậu loay hoay chạm tay vào chiếc khay tài liệu trên mép bàn, nụ cười vụt tắt.

“Sao ông lại hỏi về chuyện cha tôi có súng hay không?”

Sean đột nhiên cảm thấy mệt mỏi vì cái trò dền dứ, cố phải tỏ ra lịch sự và thận trọng. “Cậu thừa biết là tại sao, nhóc.”

“Không. Tôi không biết.”

Sean chồm qua bàn, suýt thì không ngăn được mình lao vào bóp cổ thằng bé. “Khẩu súng giết chết bạn gái cậu, Brendan, chính là khẩu súng mà cha cậu sử dụng trong một vụ cướp cách đây mười tám năm. Cậu có gì muốn nói không?”

“Cha tôi không có súng,” cậu ta nói, nhưng Sean cảm thấy đầu óc Brendan bắt đầu hoạt động.

“Không có ư? Nói láo.” Anh đập mạnh xuống bàn khiến thằng bé giật này mình trên ghế. “Cậu cho là cậu yêu Katie Marcus? Để tôi nói cho cậu biết tôi yêu thứ gì nhé, Brendan. Tôi yêu tỉ lệ phá án của mình. Tôi yêu khả năng phá án trong vòng bảy mươi hai tiếng đồng hồ của mình. Mà cậu lại dám nói dối trước mặt tôi.”

“Không. Tôi không có.”

“Có, cậu đang lừa tôi, nhóc. Cậu có biết cha cậu là tên trộm không?”

“Ông ấy là công nhân lái tàu…”

“Hắn ta là một tên ăn cướp. Hắn ta làm việc với Jimmy Marcus lúc đó cũng là một tên trộm khét tiếng. Và giờ con gái của Jimmy bị giết bằng khẩu súng của cha cậu.”

“Cha tôi không có súng.”

“Mẹ kiếp!” Sean gầm lên khiến Connolly bật dậy đi về phía hai người bọn họ. “Mày định giở trò với ai hả nhóc, cho mày vào buồng giam mà giở trò nhé!”

Sean lấy chìa khóa từ thắt lưng và ném sang cho Connolly.

“Hãy nhốt thằng thối thây này lại.”

Bredan đứng dậy. “Nhưng tôi chẳng làm gì sai cả.”

Sean nhìn Connolly bước lại gần phía sau thằng bé, vẻ vô cùng căng thẳng.

“Cậu không có bằng chứng ngoại phạm, Brendan, cậu lại có quan hệ với nạn nhân, cô ấy lại bị bắn bằng chính khẩu súng của cha cậu. Tôi cứ giam cậu lại cho đến khi tìm được tình tiết mới. Nghỉ ngơi chút đi, suy nghĩ những điều cậu vừa mới nói với tôi đi.”

“Các ông không thể nhốt tôi.” Brendan nhìn Connolly phía sau lưng Sean. “Các ông không thể.”

Connolly nhình về phía Sean mắt mở to vẻ chờ đợi vì thằng bé nói đúng. Về lý thuyết, họ không thể nhốt nó lại trừ phi chính thức buộc tội nó. Mà họ không có gì để buộc tội thằng bé. Buộc tội người khác chỉ dựa trên nghi ngờ là đi ngược lại luật pháp.

Nhưng Brendan không hề biết được điều đó. Sean ném cho Connolly một cái nhìn kiểu, hoan nghênh cậu tới Đội điều tra án mạng, lính mới.

“Nếu cậu không nói gì với tôi ngay lúc này thì tôi sẽ nhốt cậu lại.”

Brendan mở miệng và Sean cảm thấy một phát hiện đen tối vừa xoẹt qua đầu cậu ta giống như một tia lửa điện. Nhưng rồi cậu ta ngậm miệng lại và lắc đầu. “Bị tình nghi vì tội mưu sát. Hãy tống nó vào buồng giam.” Sean bảo Connolly.

Dave trở về căn hộ trống trải của mình vào giữa buổi chiều và đi thẳng tới tủ lạnh lấy một lon bia. Từ sáng tới giờ anh chưa có gì vào bụng, dạ dày trống rỗng và đầy bọt khí, thật không thích hợp để uống bia nhưng anh lại muốn uống. Anh cần phải làm dịu đi cơn đau đầu nhức buốt, sự căng thẳng làm cổ anh cứng đờ và trái tim đập loạn trong lồng ngực.

Cơn đau nhẹ nhàng biến mất khi anh đi đi lại lại trong căn hộ trống trải. Celeste hẳn đã quay lại trong lúc anh vắng nhà rồi tới chỗ làm. Anh sẽ gọi điện đến tiệm Ozma xem liệu cô ấy có đang ở chỗ làm vừa cắt tóc vừa tán gẫu với các bà cô và cợt nhả với Paolo, anh chàng làm cùng ca với cô, tuy là một gã đồng tính nhưng không phải là hoàn toàn vô lại. Hay có lẽ anh sẽ tới trường đón Michael, vẫy thằng bé từ xa rồi ôm một cái rõ chặt, trên đường về hai cha con sẽ ghé quán làm một ly sô cô la sữa.

Nhưng Michael thì không có ở trường mà Celeste cũng không có ở chỗ làm. Chắc là họ đang trốn tránh anh, Dave ngồi bên bàn bếp uống cạn lon bia thứ hai và cảm thấy hiệu quả rõ rệt của nó đối với cơ thể mình, làm dịu đi mọi thứ, ngay cả không khi trước mắt anh cũng hơi lóng lánh và nhẹ nhàng xoay tròn.

Đấng lẽ anh phải kể cho Celeste mọi chuyện. Anh nên nói với vợ mình chuyện đã xảy ra ngay từ đầu. Đáng ra anh phải tin tưởng cô ấy. Trên đời này chẳng có mấy người vợ lúc nào cũng ủng hộ một người chồng vốn là cầu thủ bóng chày ở trường trung học, từng có quá khứ bị lạm dụng tình dục khi còn nhỏ và không có khả năng tim được một việc làm tử tế. Nhưng Celeste lại luôn ở bên cạnh anh. Chỉ nghĩ tới hình ảnh cô bên bồn rửa đêm hôm ấy, giặt rũ đám quần áo đó, nói rằng cô sẽ xử lý các vật chứng – Chúa ơi, cô ấy đúng là một người phụ nữ đặc biệt. Làm sao mà Dave lại không nhìn ra? Con người ta sao mà lại tới mức này, ở bên cạnh một người quá lâu tới không còn nhìn ra họ nữa?

Dave lấy lon bia thứ ba và cũng là lon bia cuối cùng ra khỏi tủ lạnh và tiếp tục đi lại trong căn hộ, trong lòng nặng trĩu thương yêu dành cho vợ và con trai. Anh những muốn cuộn người áp vào cơ thể trần trụi của vợ mình để cho cô vuốt tóc anh và bảo rằng anh đã nhớ cô tới nhường nào lúc chỉ có một mình trong căn phòng xét hỏi lạnh lẽo với chiếc ghế cọt kẹt sắp gãy. Trước đó anh cho rằng anh cần tới sự ấm áp của con người nhưng thực sự anh chỉ cần có sự ấm áp của Celeste mà thôi. Anh những muốn cuộn mình vào cơ thể cô, khiến cô mỉm cười, muốn hôn lên mí mắt, muốn vuốt ve lưng cô và tan chảy trong cô.

Vẫn còn chưa quá muộn, anh sẽ nói hết với cô khi cô trở về. Gần đây, đầu óc anh rõ ràng là bị chập mạch, mọi thứ đều đảo lộn. Lon bia này sẽ chẳng giúp gì được, nhưng anh cần nó cho tới khi em trở về. Và rồi anh sẽ bỏ bia. Anh sẽ bỏ nhậu nhẹt, sẽ đi học một lớp vi tính hay gì đó để kiếm một công việc văn phòng. Nếu xung đi lính vệ binh quốc gia sẽ được hoàn trả phí đào tạo, anh có thể làm việc đó. Anh có thể đi làm mỗi tháng một ngày cuối tuần và vài tuần lễ vào mùa hè để giúp đỡ gia đình. Vì gia đình mình, dù có phải đứng bằng đầu anh cũng nhất định làm được. Điều đó sẽ giúp anh lấy lại vóc dáng lúc trước, thoát khỏi cái bụng bia, thông suốt đầu óc. Và khi tìm được công việc văn phòng đó anh sẽ đưa chúng ta ra khỏi đây, ra khỏi khu vực có giá tiền thuê không ngừng leo thang với những toan tính xây dựng sân vận động và chỉnh trang đô thị này. Tại sao? Vì sớm muộn thì họ cũng đẩy chúng ta đi. Đẩy chúng ta đi để biến chỗ này thành một khu thanh lịch, một thế giới hàng hiệu của bọn họ, những người ngồi bàn luận về xây nhà nghỉ ở đâu trong những quán cà phê sành điệu hay trên lối đi của các siêu thị chuyên bán thực phẩm.

Tuy nhiên chúng ta sẽ chuyển đến một nơi tốt hơn, anh sẽ bảo với Celeste thế. Chúng ta sẽ đến một nơi trong lành để có thể nuôi dạy con trai của mình. Chúng ta sẽ bắt đầu lại từ đầu. Và anh sẽ kể cho em chuyện gì đã xảy ra, Celeste. Không phải chuyện hay ho gì nhưng không tệ như em nghĩ. Trong đầu anh có một vài suy nghĩ đáng sợ, không lành mạnh và có lẽ anh sẽ phải gặp bác sĩ tâm lý để được giúp đỡ. Anh có những ham muốn khiến bản thân anh thấy kinh tởm nhưng anh đang cố gắng, em yêu. Anh đang cố gắng trở thành một người tốt. Anh đang cố gắng chôn vùi Thằng Bé. Hay ít nhất thi cũng dạy cho nó biết thế nào là lòng trắc ẩn.

Có lẽ đó cũng chính là điều mà gã đàn ông trong chiếc xe Cadillac đó tìm kiếm – một chút vị tha. Nhưng Thằng Bé Trốn Thoát Khỏi Bầy Sói lại không chút lòng trắc ẩn nào vào đêm thứ Bảy đó. Nó có khẩu súng ấy ở trong tay và đã tấn công gã ngồi trong xe Cadillac qua cửa xe để mở. Dave nghe thấy tiếng xương gãy răng rắc khi thằng bé tóc đỏ lồm cồm bò dậy và vọt ra ngoài bằng của bên, đứng đó há mồm nhìn Dave liên tục nện vào đầu gã kia. Dave thò tay túm tóc lôi gã đó ra khỏi xe, nạn nhân hóa ra không hoàn toàn bất lực như hắn ra vẻ. Hắn giả vờ chết và rồi Dave chỉ kịp nhìn thấy lưỡi dao của hắn khi nó cắt xuyên qua áo cứa vào da thịt. Đó là một con dao bấm, lực đâm cũng không mạnh lắm nhưng đủ sắc để làm Dave bị thương trước khi thụi đầu gối vào cổ tay, ghim cánh tay gã kia vào cửa xe. Khi con dao rơi xuống đất, Dave đá nó vào trong gầm xe.

Thằng bé tóc đỏ trông vừa sợ hãi vừa phấn khích còn Dave lúc này đã điên rồ tới mất hết lý trí và bắt đầu dùng báng súng nện liên tục lên đỉnh đầu gã kia cho tới khi gãy cả báng súng. Gã kia lăn sấp xuống và Dave chồm lên lưng hắn, cảm nhận thấy hơi thở của con sói và sự căm hận của nó đối với gã đàn ông này, một tên biến thái, một tên lạm dụng trẻ em khốn nạn đáng chết. Dave túm lấy tóc tên khốn đó kéo ngược đầu hắn trở lại rồi bắt đầu đập xuống vệ đường. Liên hồi đập đầu hắn xuống vệ đường, khiến hắn tê liệt, tên khốn đó, gã Henry đó, George đó, ôi Chúa ơi và cả gã Dave đó, chính là gã Dave đó.

Chết đi, thằng khốn. Chết đi, chết đi, chết đi.

Thằng bé lúc này đã chạy mất. Dave quay đầu lại và nhận ra những từ ngữ đang tuôn ra khỏi miệng mình. “Chết đi, chết đi, chết đi.” Dave nhìn thằng bé chạy xuyên qua bãi đỗ xe và luống cuống đuổi theo, máu của gã kia chảy ròng ròng trên tay. Anh những muốn nói với thằng bé tóc đỏ là anh làm chuyện đó vì nó. Anh muốn cứu nó. Và anh sẽ che trở nó suốt đời nếu như nó muốn.

Anh đứng trong con hẻm phía sau quán bar, gần như hết hơi, biết là thằng bé đã chạy thoát, anh ngước lên nhìn bầu trời đêm và hỏi, “Tại sao?”

Tại sao lại sinh ra tôi? Tại sao lại gán cho tôi cuộc đời này? Tại sao lại gieo cho tôi căn bệnh đó, một căn bệnh mà tôi đặc biệt ghê tởm, hơn bất cứ ai khác? Tại sao lại gieo rắc trong đầu tôi những khoảnh khắc đẹp đẽ, dịu dàng và một tình yêu nóng lạnh thất thường đối với với vợ và con trai – và những ý niệm mơ hồ về cuộc đời khác đáng lẽ ra là của tôi nếu chiếc xe ô tô đó không rẽ xuống phố Gannon và bắt cóc tôi tới căn hầm đó? Tại sao?

Hãy làm ơn trả lời tôi. Xin người, xin người, hãy trả lời tôi.

Nhưng dĩ nhiên không ai đáp lại. Chẳng có gì ngoài sự im lặng và tiếng nước chảy trong ống máng cùng cơn mưa ngày càng nặng hạt.

Vài phút sau, anh bước ra khỏi con hẻm đó và tìm thấy người đàn ông kia đang nằm bên cạnh xe của hắn.

Chà, Dave nghĩ, mình đã giết hắn.

Nhưng rồi gã ta lại lật người sang một bên và thở như cá. Gã ta có mái tóc màu vàng, dáng người mảnh nhưng bụng phệ, to như một cái rổ. Dave cố nhớ lại gương mặt của gã trước khi bị anh thò tay qua cửa sổ dùng súng đập vào mặt. Anh chỉ nhớ rằng đôi môi của hắn ta dường như quá đỏ và quá dày.

Gương mặt đó giờ đã biến mất. Giống như bị gí vào cách quạt máy bay và Dave chợt cảm thấy buồn nôn khi nhìn thấy cái vật lầy nhầy máu kia đang cố hít lấy không khí, một cục thịt phập phồng.

Gã ta dường như không nhận ra Dave đang đứng đó. Gã nhổm dậy, quỳ trên đầu gối và bắt đầu bò. Gã bò về phía hàng cây đằng sau chiếc xe. Gã bò lên gờ đường phân cách, đặt tay lên hàng rào móc sắt chia cắt bãi đỗ xe với một công ti phế liệu. Dave cởi chiếc áo nỉ mỏng mặc bên ngoài áo lót, cuộn nó xung quanh khẩu súng và chậm rãi đi về phía sinh vật không còn khuôn mặt kia.

Sinh vật không còn khuôn mặt kia leo lên được nấc thứ hai trên hàng rào thì kiệt sức. Hắn ngã xuống, hơi lệch về phía bên phải cuối cùng ngồi dựa lưng vào hàng rào, hai chân choãi ra, nhìn Dave bước tới.

“Không,” hắn ta thì thào. “Không.”

Nhưng Dave có thể thấy rằng hắn không thực sự có ý đó. Hắn đã quá mệt mỏi với bộ dạng của mình lúc này, cũng giống như Dave vậy.

Thằng Bé quỳ xuống trước mặt gã kia và đặt khẩu súng bọc áo nỉ vào bụng gã, ngay dưới rốn, Dave đang trôi nổi ở phía trên, quan sát họ.

“Làm ơn,” gã kia rên rỉ.

“Suỵt,” Dave nói và Thằng Bé bóp cò.

Cơ thể của sinh vật không còn khuôn mặt kia lên cơn co giật cuối cùng, húc mạnh vào nách Dave rồi trút hơi thở cuối cùng, nghe giống như tiếng ấm nước réo trên bếp.

Thằng Bé bảo: Tốt rồi. Mải loay hoay nhét gã kia vào trong cốp xe của mình mãi Dave mới phát hiện ra rằng anh có thể dùng chính chiếc xe Cadillac của gã kia vào việc đó. Anh đã kéo cửa kính, tắt động cơ và lau chùi chỗ ngồi của lái xe cũng như những nơi mà anh đã chạm vào bằng chiếc áo nỉ. Nhưng việc quái gì phải lái chiếc Honda của mình đi khắp nơi với một thi thể ở trong cốp để tìm chỗ phi tang trong khi câu trả lời hiện ra ngay trước mắt.

Thế nên Dave lùi xe của mình lại bên chiếc Cadillac, mắt nhìn ra phía cửa bên của quán bar và không thấy có ai đi ra ngoài. Anh mở cốp xe mình rồi mở cốp xe chiếc Cadillac và kéo cái xác từ xe này sang xe kia. Anh đóng hai cốp xe lại, cuộn con dao bấm và khẩu súng vào trong chiếc áo nỉ, vứt nó lên ghế trước của chiếc Honda rồi đã nhanh chóng rời đi.

Anh vứt chiếc áo, con dao và khẩu súng từ trên cầu Roseclair Street xuống con kênh Penitentiary, và sau này mới biết rằng đúng vào thời điểm đó, Katie Marcus có lẽ đang hấp hối trong công viên phía dưới. Và rồi anh lái xe về nhà, tin rằng người ta sẽ nhanh chóng tìm thấy chiếc xe và thi thể ở trong đó.

Chủ nhật, anh lái xe đi qua quán Last Drop và thấy một chiếc xe khác đỗ bên cạnh chiếc Cadillac, còn lại bãi đỗ trống trơn. Nhưng rồi anh nhận ra chiếc xe kia vốn là của Reggie Damone, một trong những người pha chế rượu ở quán bar. Chiếc Cadillac lẻ loi nằm đó giống như một thứ đồ vật bị lãng quên, không có tội tình gì. Nhưng muộn hơn trong ngày, lúc anh quay trở lại thì chiếc xe đã biến mất khiến anh có cảm giác như vừa lên một cơn đau tim. Anh biết rằng anh không thể hỏi han mọi người về chiếc xe đó, kể cả những câu rất bình thường như, “Reggie này, nếu xe nào đỗ trong bãi của các anh quá lâu thì các anh có cẩu đi không?” Nhưng rồi anh nhận ra rằng cho dù chuyện gì xảy ra với chiếc xe đi nữa cũng không liên quan tới anh. Chẳng có gì liên quan tới anh ngoại trừ thằng bé tóc đỏ.

Nhưng rồi dần dần anh cũng tự ngộ ra rằng thằng bé kia dù có sợ hãi thật nhưng lại cũng cảm thấy khoái trá và hưng phấn khi chứng kiến việc đó. Nó đứng về phía Dave. Anh không cần phải lo về nó.

Và giờ thì cảnh sát cũng chẳng có gì trong tay. Họ không có lấy một nhân chứng. Cũng không có chứng cớ lấy từ xe của Dave, hay ít nhất nhất cũng không phải là loại chứng cớ có thể mang ra trước tòa. Thế nên Dave có thể thư giãn. Anh có thể nói chuyện với Celeste, thú nhận tất cả, không cần biết đến hậu quả như thế nào, anh sẽ để vợ anh định đoạt số phận của mình và hi vọng rằng cô sẽ chấp nhận anh như một người tuy có khiếm khuyết nhưng đang cố gắng thay đổi. Một người đàn ông tốt đã làm một việc xấu vì mục đích tốt. Một người đàn ông đã phải dùng đến phương pháp hắc ám nhất để kết liễu con ma hút máu trong linh hồn mình.

Mình sẽ không lái xe tới các công viên và bể bơi công cộng nữa, Dave tự nhủ và uống cạn lon bia thứ ba. Anh giơ chiếc vỏ lon rỗng lên trước mặt. Mình cũng cai luôn thứ này.

Nhưng không phải hôm nay. Vì hôm nay anh đã uống hết ba lon bia và Celeste thì không có dấu hiệu gì là sắp trở về. Có lẽ phải chờ đến mai. Cũng tốt thôi. Cho cả hai người bọn họ thêm không gian và thời gian để hàn gắn và sửa chữa. Cô ấy sẽ về nhà tìm thấy một người đàn ông mới, một Dave đã được cải thiện, không còn những điều những điều bí mật.

“Vì bí mật chính là thuốc độc,” anh nói to trong căn bếp nơi diễn ra cuộc mây mưa gần đây nhất của hai vợ chồng bọn họ. “Bí mật chính là những bức tường.” Và rồi anh mỉm cười kết luận. “Và mình cũng chẳng còn bia để uống.”

Anh cảm thấy dễ chịu, thậm chí là phấn khởi lúc rời khỏi nhà đi tới cửa hàng rượu Eagle Liquors. Đó là một ngày tuyệt vời, nắng tràn trề trên phố. Khi còn nhỏ, đường ray tàu hỏa thường chạy xuống tận đây, cắt phố Crescent ra làm đôi, khắp nơi mù mịt muội than, che kín cả bầu trời. Điều đó càng khiến cho người ta có cảm giác khu Hạ giống như bị khoác lên một chiếc áo tàng hình, cách biệt với phần còn lại của thế giới, ẩn náu bên dưới thế giới kia như một bộ tộc bị cấm đoán, tự lựa chọn cách sống của mình giống như trước đây đã lựa chọn ly khai với bên ngoài.

Nhưng ngay khi họ dỡ bỏ tuyến đường sắt ở đây, khu Hạ bắt đầu vươn mình trong ánh sáng và một thời gian ngắn họ cứ ngỡ rằng đó chính là một điềm tốt. Không còn muội than, chan chứa ánh nắng, da dẻ trông cũng khỏe khoắn hơn. Nhưng không còn chiếc áo khoác kia nữa, mọi người đều có thể nhìn thấy họ, ngưỡng mộ những ngôi nhà bằng gạch thô của họ, cảnh tượng đẹp đẽ của con kênh Penitentiary và các khu vực phụ cận trung tâm thành phố. Đột nhiên họ không còn là một bộ tộc sống ngầm nữa mà trở thành một khu bất động sản hấp dẫn hàng đầu.

Dave sẽ suy nghĩ tới nguyên nhân của sự thay đổi này khi trở về nhà với một két hơn mười hai lon bia và tìm ra một công thức. Hoặc anh có thể tìm thấy một quán bar dễ chịu nào đó, ngồi trong bóng tối của một ngày rực rỡ, gọi một suất bánh mỳ kẹp thịt, tán gẫu với người pha chế rượu xem hai người họ cộng lại có thể đoán ra thời điểm nào khu Hạ bắt đầu biến đổi trong khi cả thế giới không ngường quay cuồng xung quanh.

Có lẽ anh nên làm vậy. Hẳn rồi! Kiếm một cái ghế da tại một quầy bar bằng gỗ gụ để tiêu phí cả buổi chiều. Anh sẽ lên kế hoạch cho tương lai của mình. Tương lai của gia đình. Anh sẽ tìm mọi cách để chuộc lại các lỗi lầm của mình. Hiệu quả của ba lon bia mới kỳ diệu làm sao sau một ngày dài vất vả. Chúng dường như đang dắt tay anh leo lên con dốc về phía đại lộ Buckingham. Rồi thì thào bên tai. Này, có chúng tôi không phải là rất tuyệt sao? Không phải là rất tốt khi có thể giở sang một trang mới, rũ bỏ những bí mật đen tối, sẵn sàng xây dựng những ước hẹn mới với người thân và trở thành người đàn ông mà anh vẫn luôn mong ước? Sao lại không, viễn cảnh quả là mỹ mãn.

Và nhìn xem ai đang chờ chúng ta ở phía trước, nhàn rỗi trên góc phố bên trong chiếc xe thể thao bóng loáng của anh ta. Anh ta sao lại còn cười với chúng ta nữa kìa. Đó chính là anh Val Savage, đang cười cười từ phía đằng xa, vẫy chúng ta lại gần. Đi thôi. Tới chào anh ta một tiếng.

“Chà chà, anh chàng Dave Boyle,” Val nói khí Dave lại gần chiếc xe. “Súng đạn dạo này thế nào?”

“Vẫn chuẩn,” Dave trả lời và ngồi xổm xuống bên cạnh chiếc xe, tì khuỷu tay lên bậu cửa và nhìn vào Val ở phía trong. “Anh đang có kế hoạch gì thế?”

Val nhún vai. “Chả có gì, anh bạn. Đang tìm ai đó để uống bia, nhấm nháp một tí.”

Dave không tin nổi tai mình. Nhất là anh cũng đang có ý định đó. “Vậy sao?”

“Ừ. Cậu có thể đi làm với tôi vài ly, chọc một ván bi-a không hả Dave?”

“Dĩ nhiên rồi.”

Dave thực sự có chút ngạc nhiên. Anh có thể hòa thuận với Jimmy và Kevin, anh trai của Val, thậm chí cả với Chuck, nhưng chưa bao giờ thấy Val có biểu hiện gì với anh ngoài thái độ vô cùng lạnh nhạt. Chắc là vì Katie, anh đoán. Cái chết của cô bé đã mang họ xích lại gần nhau. Trong mất mát, họ trở nên đoàn kết, khi cùng phải chia sẻ một tấm thảm kịch, họ trở nên thân thiết.

“Chui vào đi,” Val nói. “Chúng ta sẽ tới một chỗ tôi biết phía bên kia thành phố. Một quán bar rất được do một người bạn của tôi làm chủ.”

“Phía bên kia thành phố?” Dave nhìn ngược lại con đường anh vừa đi tới. “Nhưng tôi phải về nhà sớm.”

“Được rồi, được rồi. Tôi sẽ chở cậu về nhà lúc nào cậu muốn. Đi thôi. Lên xe. Chúng ta sẽ đến làm một tối dành cho đàn ông giữa ban ngày.”

Dave mỉm cười và đi vòng ra phía trước mũi xe để ngồi vào ghế bên cạnh. Tối dành cho đàn ông giữa ban ngày. Chính xác. Anh và Val, tụ tập như những người bạn cũ. Và đó cũng chính là một đặc điểm tuyệt vời của khu Hạ, thứ mà anh sợ rằng đã mất – khi những cảm xúc và toàn bộ quá khứ bị quên lãng với thời gian thì khi bắt đầu có tuổi, bắt đầu nhận ra rằng mọi thứ đều thay đổi chỉ có một thứ vẫn còn nguyên vẹn như cũ, chính là những người đã cùng bạn lớn lên và khu phố nơi bạn sinh thành. Tình hàng xóm láng giềng muôn năm, Dave thầm nghĩ trong lúc mở cửa xe, cho dù chỉ là trong suy nghĩ.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.