Sáng thứ Hai, Celeste ở trong bếp với em họ của mình, Annabeth, trong lúc khách khứa tới chật cả nhà để chia buồn. Annabeth đứng cạnh bếp, tập trung vào việc nấu nướng. Jimmy vừa tắm xong, thò đầu vào bếp hỏi xem họ có cần giúp đỡ gì không.
Khi còn nhỏ, Celeste và Annabeth giống như hai chị em gái hơn là họ hàng. Annabeth là đứa con gái duy nhất trong một gia đình toàn con trai còn Celeste là đứa con duy nhất của một cặp vợ chồng xung khắc nên hai đứa suốt ngày cặp kè với nhau, hồi trung học hầu như đêm nào cũng nói chuyện điện thoại tới khuya. Nhưng điều đó dần dần thay đổi theo năm tháng khi tình cảm giữa mẹ Celeste và cha Annabeth ngày càng trở nên xa cách, từ thân ái thành lạnh nhạt và cuối cùng là thù ghét. Và mặc dù không xảy ra một sự kiện cụ thể nào, sự xung khắc giữa người em trai và chị gái kia dần dần ảnh hưởng tới con gái của họ, cho tới khi Celeste và Annabeth chỉ còn thỉnh thoảng gặp nhau trong những dịp đặc biệt như đám cưới, lễ đầy tháng, lễ rửa tội, đôi khi vào dịp Giáng sinh hay Phục sinh. Celeste là người thấy đau lòng hơn cả trước sự thay đổi vô duyên vô cớ đó, khi nhận ra rằng một mối quan hệ tưởng chừng không gì có thể chia cắt nổi có thể tuột khỏi tay một cách dễ dàng như vậy chỉ vì thời gian, những rối ren trong gia đình và sự trưởng thành.
Tuy nhiên mọi chuyện cũng bắt đầu được cải thiện kể từ khi mẹ cô mất. Mùa hè năm ngoái, cô và Dave cùng Annabeth và Jimmy đã làm một bữa barbecue ngoài trời, mùa đông thì đã ra ngoài ăn tối và uống nước hai lần. Sau mỗi lần như vậy, mọi người lại nói chuyện với nhau thoải mái hơn một chút và Celeste cảm thấy mười năm xa cách lạ lùng kia dần dần biến mất vì một nguyên nhân có tên là Rosemary.
Annabeth đã ở bên cạnh cô khi Rosemary qua đời, Trong suốt ba ngày, sáng nào cô ấy cũng tới và ở lại đến tối. Cô nấu nướng và giúp đỡ việc tổ chức tang lễ rồi ngồi với Celeste trong lúc Celeste khóc than mẹ mình, người chưa bao giờ thể hiện chút tình yêu nào với con gái nhưng dù sao cũng là mẹ của cô.
Và bây giờ Celeste tới đây vì Annabeth, mặc dù ý tưởng tương trợ một người bản lĩnh và đầy nghị lực như Annabeth đối với cô cũng như phần lớn những người quen biết họ thật là lạ lẫm.
Nhưng cô vẫn đứng đó bên cạnh em họ của mình trong lúc cô ấy nấu nướng, giúp cô lấy đồ trong tủ lạnh và trả lời các cuộc điện thoại gọi đến.
Và bây giờ là Jimmy, chưa đầy hai mươi tư tiếng sau khi biết tin con gái mình mất, đang hỏi vợ mình xem có cần giúp đỡ gì không. Tóc anh vẫn còn ướt, gần như chưa chải, áo vẫn còn ẩm, dính vào ngực. Anh để chân trần, mắt sưng lên vì đau buồn và thiếu ngủ khiến Celeste chỉ có thể nghĩ tới một điều, Chúa ơi, còn chính anh thì sao? Anh có bao giờ nghĩ cho bản thân mình không?
Tất cả những người khác đang đứng chật trong nhà lúc này – trong phòng khách, phòng ăn, ở hành lang chỗ cửa ra vào, xếp áo khoác của họ thành chồng trên giường trong phòng của Nadine và Sara – đều đang trông đợi ở Jimmy như thể trong đầu họ không hề nghĩ tới việc họ đến đây là để an ủi anh. Như thể duy chỉ có anh giải thích được cho họ về trò đùa nghiệt ngã này, xoa nhẹ nỗi thống khổ trong lòng họ, nâng họ lên khi cơn sốc đầu tiên trôi qua, khi cơ thể họ chùng xuống vì đau đớn. Thứ tư chất thủ lĩnh toát ra từ con người Jimmy là một cái gì đó bẩm sinh mà Celeste vẫn tự hỏi không hiểu anh có nhận thức được hay không, về gánh nặng mà nó mang lại, nhất là vào những thời điểm như thế này.
“Có chuyện gì vậy?” Annabeth nói, mắt không rời khỏi miếng thịt hun khói trên chảo rán.
“Em có cần gì không?” Jimmy hỏi. “Anh có thể trông bếp một lát nếu em muốn.”
Annabeth nhìn cái bếp, nở một nụ cười yếu ớt rồi lắc đầu. “Không. Em không sao.”
Jimmy nhìn sang Celeste như muốn hỏi: Cô ấy ổn thật chứ?
Celeste gật đầu. “Mọi chuyện đều đâu vào đấy cả,Jim.”
Jimmy lại nhìn sang vợ mình và Celeste có thể cảm thấy một nỗi đau đớn dịu dàng, sâu thẳm trong cái nhìn đó. Như một giọt nước mắt đau thương lại bứt ra khỏi trái tim của Jimmy và rơi trong lồng ngực. Anh vươn tới, dùng ngón trỏ gạt đi những dòng mồ hôi đang túa ra trên má vợ và Annabeth bảo anh, “Đừng làm vậy.”
“Nhìn anh này,” Jimmy thì thầm.
Celeste những muốn rời khỏi đây ngay lập tức nhưng sợ rằng hành động của mình sẽ làm hỏng cái không khí vốn dĩ rất mong manh giữa hai người bọn họ.
“Em không thể,” Annabeth nói. “Jimmy, nếu nhìn anh bây giờ, em sẽ mất hết can đảm và em không thể làm vậy với tất cả những người đang có mặt ở đây. Xin anh đấy,”
Jimmy khẽ tránh ra. “Được thôi, em yêu, được thôi.”
Annabeth thì thào, đầu cúi xuống. “Em chỉ không muốn suy sụp thêm một lần nữa.”
“Anh hiểu.”
Trong giây phút đó, Celeste có cảm giác như hai người bọn họ đang trần trụi trước mặt cô, như thể cô đang chứng kiến hành động thân mật giữa một người đàn ông và vợ anh ta, cứ như đang ở đó nhìn hai người họ làm tình.
Cánh cửa ở phía cuối hành lang bật mở và cha của Annabeth, Theo Savage, bước vào trong nhà với hai két bia vác trên vai. Ông là một người khổng lồ, hồng hào, trông giống như một con gấu Kodiak nhưng lại mang vẻ duyên dáng của một vũ công khi ông xuất hiện trong hành lang chật hẹp với hai két bia trên đôi vai rộng lớn. Celeste vẫn luôn ngạc nhiên vì một người to lớn như ông lại có thể sinh ra những đứa con trai còi cọc như thế, ngoại trừ Kevin và Chuck là hai người duy nhất thừa hưởng được một chút chiều cao và vóc dáng lực lưỡng của ông, Annabeth là người duy nhất có được vẻ duyên dáng của ông.
“Chú ý sau lưng, Jim,” Theo nói và Jimmy bước ra khỏi ngưỡng cửa để Theo đảo một vòng duyên dáng rồi đi vào bếp. Ông khẽ hôn nhẹ lên má Celeste và khẽ hỏi, “Cháu thế nào, cháu yêu?” rồi đặt hai két bia lên bàn bếp và vòng tay ôm ngang lưng con gái mình, tì cằm lên vai cô.
“Con chịu được chứ, con gái?”
“Con đang cố, bố ạ.” Annabeth nói.
Ông khẽ hôn lên gáy cô. “Ôi con gái của ta” rồi quay sang Jimmy bảo. “Anh có cái thùng lạnh nào không để cho chúng vào.”
Trong khi hai người đàn ông xếp bia vào thùng đá trong bếp thì Celeste bắt đầu mở đám đồ ăn mà bạn bè và người thân mang tới sáng nay. Rất nhiều thứ – bánh mì soda kiểu Allen, bánh nướng, bánh sừng bò, bánh ga tô, bánh ngọt và ba đĩa xa lát khoai tây khác nhau. Những túi bánh mì tròn, những khay bánh ngọt, thịt băm viên kiểu Thụy Điển trong một cái nồi bự chảng, hai khúc giăm bông chín, một con gà tây to đùng gói trong giấy bạc. Annabeth không cần phải nấu nướng gì nữa, tất cả bọn họ đều biết vậy, nhưng cũng đều hiểu cô cần nấu nướng. Vậy nên cô rán thịt hun khói, xúc xích và hai chảo trứng chưng đầy ắp. Celeste bày tất cả thức ăn lên một chiếc bàn kê sát tường phòng ăn. Cô tự hỏi không hiểu tất cả chỗ thức ăn này là một cố gắng nhằm an ủi những người thân yêu hay ẩn chứa một hy vọng rằng chúng ta có thể nuốt trôi sự đau buồn, đưa nó xuống họng và rũ sạch nó đi với Coca-Cola, rượu, cà phê và trà cho tới khi tất cả đều no căng ra và chỉ muốn đi ngủ. Đây là việc mà người ta vẫn hay làm trong những buổi tụ tập vì có chuyện buồn – vào đêm trước tang lễ, trong lễ tưởng niệm và trong những dịp như thế này người ta ăn, uống và chuyện trò cho tới khi không thể ăn, uống hay trò chuyện được nữa.
Cô nhìn thấy Dave trong đám đông ở phòng khách. Anh ngồi cạnh Kevin Savage trên ghế sofa, cả hai đang nói chuyện nhưng không ai có vẻ hứng thú hay thoải mái, lại đều chúi về phía trước như muốn thi xem ai ngã xuống đất trước. Celeste chợt thấy thưong xót chồng mình – vì sự lạc lõng, dù không rõ nét nhưng dai dẳng vẫn đeo bám lấy anh, nhất là trong đám đông này. Tất cả bọn họ đều biết anh. Đều biết chuyện đã xảy ra với anh khi còn nhỏ và cho dù họ có thể chấp nhận điều đó và không phán xét anh (hoặc có đi chăng nữa) thì Dave cũng không thể nào thả lỏng hết mình và cảm thấy hoàn toàn thoải mái khi ở cạnh những người biết rõ anh như lòng bàn tay. Mỗi khi anh và Celeste ra ngoài với các đồng nghiệp hoặc bạn bè ở nơi khác, Dave sẽ trở nên tự tin, ung dung thư thái, đối đáp sắc sảo, hài hước, vô cùng dễ chịu. (Các bạn cô và chồng họ ở tiệm hớt tóc Ozma’s Hair Design đều rất thích Dave.) Nhưng ở đây, nơi anh sinh ra và lớn lên, anh luôn có cái vẻ bị chậm mất nửa câu trong mỗi cuộc chuyện trò, lỡ mất nửa nhịp sau bước chân của mọi người, là người cuối cùng bật cười sau mỗi câu chuyện vui.
Cô cố đón lấy ánh mắt của anh và nở một nụ cười để anh biết rằng chừng nào cô còn ở đây thì anh không hoàn toàn bị cô lập. Nhưng một đám người tiến tới chỗ cửa vòm ngăn cách phòng ăn với phòng khách khiến cô không nhìn thấy anh nữa.
Thường thì đám đông lại hay khiến người ta nhớ ra rằng mình đã dành quá ít thời gian cho người thân yêu đang sống bên cạnh mình. Cả tuần vừa rồi, cô không mấy khi nhìn thấy Dave ngoài buổi tối thứ Bảy trên sàn bếp sau khi anh suýt bị cướp. Và rồi cô cũng gần như không thấy anh đâu kể từ ngày hôm qua khi Theo Savage gọi điện tới vào lúc sáu giờ và bảo, “Này, cháu gái, ta có một tin buồn. Katie mất rồi.”
Phản ứng đầu tiên của Celeste là, “Không. Cậu nói gì vậy cậu Theo?”
“Cháu yêu này, ta rất đau lòng vì phải thông báo với cháu tin này. Nhưng đúng là thế. Con bé bị người ta sát hại.”
“Bị sát hại.”
“Trong công viên Pen.”
Celeste quay sang nhìn chiếc vô tuyến trên bếp, trong bản tin sáu giờ người ta vẫn đang tường thuật trực tiếp một chiếc máy bay phản lực ghi hình các nhân viên cảnh sát tập trung ở đầu bên kia bãi chiếu bóng, phóng viên cho biết tên của nạn nhân vẫn được giữ kín nhưng xác nhận thi thể của một phụ nữ trẻ đã được tìm thấy.
Không thể là Katie. Không thể nào.
Celeste bảo với Theo là cô sẽ tới nhà Annabeth ngay lập tức và từ lúc đó tới giờ cô luôn túc trực ở đây ngoại trừ từ lúc ba tới sáu giờ sáng cô có quay về nhà chợp mắt một chút.
Thế nhưng cô vẫn không thể nào tin rằng đây là sự thật. Ngay cả khi đã khóc chán chê với Annabeth, Nadine và Sara. Ngay cả khi phải giữ chặt Annabeth trên sàn nhà khi em họ cô lên chứng động kinh co giật suốt năm phút đồng hồ. Ngay cả khi cô nhìn thấy Jimmy đứng trong bóng tối căn phòng của Katie, và áp lên mặt chiếc gối của con gái anh. Nhưng anh không khóc, không nói lẩm nhẩm một mình cũng không tạo ra bất cứ tiếng động nào. Chỉ là đứng đó với chiếc gối áp vào mặt và hít thở hương thơm trên tóc, trên má của con gái anh còn đọng lại đó, hết lần này tới lần khác. Hít vào, thở ra. Hít vào, thở ra…
Sau tất cả những chuyện đó, đầu óc cô vẫn không thể hoàn toàn chấp nhận sự kiện này. Cô có cảm giác như Katie sẽ bước qua cánh cửa này bất cứ lúc nào, lao vào trong bếp, bốc trộm một miếng thịt hun khói trên đĩa. Katie không thể chết. Không thể nào.
Có lẽ bởi vì nó liên quan tới một ý nghĩ hết sức vô lý vẫn bám chặt trong đầu cô khi cô nhìn thấy chiếc xe của Katie trên bản tin và nghĩ tới, một cách vô lý: máu và Dave.
Và rồi cô cảm nhận được Dave đang ở phía bên kia đám đông trong phòng khách. Cô cảm thấy sự lạc lõng của anh và cô biết chồng mình là một người tốt. Có vài nhược điểm nhưng tốt. Cô yêu anh và nếu như cô yêu anh thì anh hẳn là người tốt và nếu anh là người tốt thì vết máu trên xe ô tô của Katie sẽ chẳng liên quan gì tới vết máu cô giặt sạch khỏi quần áo của Dave đêm thứ Bảy. Và rồi Katie hẳn vẫn còn sống. Vì mọi khả năng khác đều thật là đáng sợ.
Một sự lo lắng vô lý. Hoàn toàn vô lý. Celeste đột nhiên cảm thấy vững dạ hơn khi bước xuống bếp lấy thêm thức ăn. Thiếu điều thì cô đâm sầm vào Jimmy và cậu Theo, hai người bọn họ đang kéo một thùng đá lớn từ sàn bếp ra phòng ăn. May mà Theo xoay người tránh kịp, vội kêu lên, “Cậu phải cận thận với con bé này nhé. Cứ như là lựu đạn ấy.”
Celeste e dè mỉm cười, kiểu cười mà cậu Theo muốn nhìn thấy ở phụ nữ, rồi vội nuốt trôi cái cảm giác vẫn thường xuất hiện khi cậu Theo nhìn cô, cảm giác xuất hiện hồi cô mười hai tuổi, rằng những tia nhìn của ông cậu hình như dừng lại hơi quá lâu.
Hai người đàn ông xoay xở đẩy chiếc thùng đá ngoại cỡ đi qua chỗ cô, trông họ đúng là một cặp kỳ lạ: Theo ngoại cỡ, hồng hào khỏe mạnh từ cơ thể cho tới tiếng nói còn Jimmy thì trầm lặng, trắng trẻo và cả người không có một chút mỡ thừa nào, lúc nào trông anh cũng như vừa ra khỏi trại huấn luyện của quân đội. Hai người rẽ đám đông đứng ở gần cửa ra vào để kéo thùng đá tới cạnh chiếc bàn ăn dựa vào tường và Celeste để ý thấy mọi người trong phòng đều quay ra nhìn hai người họ đặt nó dưới gầm bàn như thể đột nhiên gánh nặng trên vai họ không phải là chiếc thùng đá ngoại cỡ bằng nhựa đỏ kia mà là đứa con gái Jimmy sẽ phải chôn cất trong tuần này, đứa con gái đã mang họ tới đây với nhau, ăn uống và chờ đợi xem họ có đủ can đảm để nhắc tới tên nó hay không.
Nhìn họ cùng xếp đá vào trong thùng rồi sát cánh đi qua đám đông trong phòng khách và phòng ăn – Jimmy vẻ mặt kín đáo nhưng vẫn dừng lại cảm ơn từng vị khách một cách nhã nhặn, gần như nồng hậu, dùng cả hai tay siết chặt tay khách thay lời cảm tạ bên cạnh Theo với vẻ hiên ngang, hùng hổ thường ngày – mọi người bắt đầu bình luận về mối quan hệ ngày càng trở nên khăng khít giữa hai người bọn họ, trông giống hệt như hai cha con vậy.
Chẳng ai nghĩ tới điều đó khi Jimmy mới cưới Annabeth. Theo vốn không phải là loại người thân thiện. Đó là một con sâu rượu và một kẻ hay gây sự, ngoài công việc chính là trực tổng đài taxi ban đêm ông còn làm vệ sĩ tại các quán rượu để tăng thêm thu nhập, một công việc mà ông rất tâm đắc. Ông là một người thích giao du, dễ cười, nhưng trong cái bắt tay hăng hái của ông luôn có sự thách thức, trong tiếng cười khúc khích luôn có vẻ đe dọa.
Jimmy thì trái lại, từ khi ra khỏi nhà tù Deer Island anh luôn có vẻ trầm lặng và nghiêm nghị. Anh cũng là một người thân thiện, nhưng kín đáo, ở những nơi hội họp thường đứng khuất một chỗ. Anh là loại người mà khi lên tiếng người khác sẽ lắng nghe. Chỉ vì anh rất ít nói khiến người khác gần như tò mò không biết lúc nào anh sẽ mở miệng hay rốt cuộc anh có mở miệng hay không.
Theo là một người thú vị nhưng không đặc biệt dễ chịu. Jimmy thì dễ chịu nhưng lại không đặc biệt thú vị. Chả ai ngờ được hai người bọn họ có thể trở thành bạn bè. Nhưng hôm nay, Theo đi theo coi chừng Jimmy như thể sẵn sàng dang tay ra đỡ nếu Jimmy có gục xuống còn Jimmy lại thỉnh thoảng ghé vào tai Theo nói gì đó trước khi đi tiếp. Như hai người tri kỷ, mọi người nhận xét. Đúng là trông họ giống như hai người tri kỷ.
Tới buổi trưa – thật ra thì mới mười một giờ, nhưng ở nhiều nơi trên thế giới đã là buổi trưa – thì phần lớn mọi người lúc tới không mang theo cà phê và bánh ngọt mà thay vào đó là rượu và thịt. Khi tủ lạnh đã chật cứng, Jimmy và Theo Savage đi kiếm thêm đá và thùng giữ lạnh ở căn hộ trên tầng ba nơi Val ở cùng Chuck, Kevin và vợ của Nick, Elaine, người lúc nào cũng mặc đồ đen không rõ là vì bà ta muốn coi mình như góa phụ cho tới khi Nick ra tù hay vì bà ta chỉ thích mỗi màu đen như một số người nói.
Theo và Jimmy tìm thấy hai thùng giữ lạnh trong tủ bếp bên cạnh máy sấy và mấy túi đá trong ngăn lạnh. Họ đổ đá vào thùng, vứt túi ni lông vào sọt rác và chuẩn bị ra khỏi bếp thì Theo bảo, “Này chờ chút, Jim.”
Jimmy nhìn cha vợ của mình.
Theo gật gù chỉ vào một cái ghế và bảo, “Ngồi nghỉ chút đi.”
Jimmy làm theo. Hắn đặt chiếc thùng lạnh xuống bên cạnh và ngồi xuống chờ Theo đi vào trọng tâm vấn đề. Theo Savage đã nuôi dạy bảy đứa trẻ trong chính căn hộ này, một căn hộ nhỏ, ba buồng ngủ, sàn dốc, các đường ống thì cũ kỹ kêu ầm ĩ. Theo có lần bảo với Jimmy rằng điều đó cũng có nghĩa là suốt quãng đời còn lại ông sẽ không cần cảm thấy có lỗi với bất cứ ai vì bất cứ chuyện gì. “Bảy đứa con,” ông nói với Jimmy, “đứa sau cách đứa trước không quá hai năm, tất cả đều la hét, phá phách, lớn lên trong căn hộ thảm hại này. Người ta nói về niềm vui sướng của những bậc làm cha làm mẹ có con nhỏ. Nhưng ta đi làm về, nghe thấy thứ âm thanh hỗn loạn đó lại phải bỏ đi. Đếch hiểu vui sướng ở chỗ nào. Ta chả thấy vui mừng gì. Chỉ thấy đau đầu. Tá hỏa tam tinh.”
Jimmy có nghe Annabeth kể về những cơn đau đầu của bố cô lúc đi làm về khiến ông thường chỉ nán lại đủ thời gian để ăn bữa tối rồi lại ra ngoài. Và chính Theo cũng thú nhận với Jimmy rằng ông chẳng mấy khi chú ý tới việc dạy dỗ con cái. Ông có phần lớn là con trai mà con trai thì theo ông vô cùng đơn giản – chỉ cần dạy chúng biết đánh nhau, biết chơi bóng là được. Cần âu yếm, nũng nịu thì tới chỗ mẹ, cần xin tiền, mượn xe hay cần người trả tiền bảo lãnh khỏi trại giam thì hỏi cha. Nếu là con gái thì chiều thật lực, ông bảo với Jimmy thế.
“Bố thật nói thế sao?” Annabeth hỏi khi nghe Jimmy kể lại.
Theo làm cha kiểu gì Jimmy cũng chẳng quan tâm nếu như ông không tìm mọi cách đem phương pháp ấy ra so sánh với phương pháp làm cha mẹ của Jimmy và Annabeth, rồi mỉm cười, tỏ ý không muốn làm mếch lòng họ nhưng lại bảo nếu là ông thì sẽ không thể chấp nhận một đứa trẻ con xử sự như thế.
Jimmy thường chỉ gật đầu, cảm ơn, rồi phớt lờ ông đi.
Lúc này đây, Jimmy nhận ra cái vẻ muốn truyền đạt kinh nghiệm của người đi trước hiện lên trong ánh mắt Theo khi ông ngồi xuống chiếc ghế trước mặt hắn và nhìn xuống sàn nhà, đoạn nở một nụ cười buồn bã khi nghe thấy tiếng bước chân và tiếng người nói lao xao vang lên từ căn hộ phía dưới. “Dường như chỉ có những dịp cưới xin, tang lễ thế này mới gặp được bạn bè và người thân, Jim nhỉ?”
“Đúng vậy,” Jimmy trả lời, vẫn đang cố gắng thoát khỏi cái cảm giác đeo đẳng lấy hắn từ bốn giờ ngày hôm qua rằng con người thực của hắn vẫn còn đang lơ lửng ngoài thân xác này, đang hoang mang lạc lối giữa không trung, loay hoay tìm đường để trở về với thân xác của mình trước khi trở nên quá mệt mỏi với trạng thái lơ lửng này và rơi tõm vào tâm đen của trái đất như một viên đá.
Theo đặt tay lên đầu gối mình và nhìn Jimmy cho tới khi hắn ngẩng đầu lên và nhìn lại. “Anh cầm cự được chứ?”
Jimmy nhún vai. “Con vẫn chưa hoàn toàn chấp nhận được nó.”
“Khi chấp nhận được rồi thì sẽ đau đớn lắm đấy.”
“Con biết.”
“Đau chết đi được. Ta có thể đảm bảo với con như vậy.”
Jimmy lại nhún vai, bụng sôi lên một thứ cảm giác giống như là giận dữ. Đây là thứ hắn cần vào lúc này ư, một bài giáo huấn về nỗi đau của Theo Savage. Thật là ngớ ngẩn.
Theo cúi người về phía trước. “Khi Janey của ta qua đời, xin Chúa phù hộ cho linh hồn bà ấy, ta đã không gượng dậy nổi trong suốt sáu tháng trời. Mới hôm trước bà ấy còn ở đây, người vợ xinh đẹp của ta mà hôm sau thì sao? Đã mất rồi.”
Ông búng tay một cái rồi nói tiếp. “Ngày hôm đó, Chúa lại có thêm một thiên thần còn ta mất đi một vị thánh. Nhưng ơn Chúa, lúc đó lũ trẻ đều đã lớn hết rồi. Thế nên ta mới có thể cho phép mình để tang bà ấy trong vòng sáu tháng. Một hành động xa xỉ. Nhưng con rể, con thì không làm thế được.”
Theo lại ngửa người ra sau, dựa lưng vào ghế và Jimmy lại thấy bụng sôi lên. Janey Savage mất cách đây mười năm và Theo mượn rượu giải sầu trong suốt một thời gian dài, không phải sáu tháng mà có lẽ tới hai năm. Thật ra rượu mới chính là bạn đồng hành trong suốt cuộc đời Theo, nhưng chỉ được công khai thừa nhận sau cái chết của Janey. Khi bà còn sống, ông cũng chẳng quan tâm tới bà nhiều hơn một miếng bánh mì cũ.
Jimmy nhân nhượng với Theo vì hắn phải làm vậy – ông chính là cha vợ của hắn. Nhìn bên ngoài, trông họ giống như bạn bè. Mà có lẽ Theo cũng nghĩ vậy. Năm tháng cũng biến đổi Theo thành một người thích thể hiện tình cảm dạt dào với con gái và hết sức cưng chiều các cháu ngoại. Nhưng không phán xét một người dựa trên quá khứ lỗi lầm của họ là một chuyện, chấp nhận lời khuyên của họ lại là chuyện khác.
“Vậy, anh hiểu ta nói gì chứ?” Theo nói. “Anh nhất định không được để đau thương biến thành một thứ đặc ân, Jim, khiến anh né tránh trách nhiệm đối với gia đình.”
“Trách nhiệm đối với gia đình con á?” Jimmy nói,
“Chính thế. Anh biết đấy, anh phải quan tâm tới con gái và các cháu ta. Chúng mới là ưu tiên hàng đầu của anh bây giờ.”
“Vâng,” Jimmy nói. “Bố cho là con sẽ quên mất điều đó sao?”
“Ta không nói là con sẽ quên, Jim. Mà là có thể. Thế thôi.”
Jimmy nhìn chằm chằm vào xương bánh chè bên trái của bố vợ và tưởng tượng nó nổ tung ngay ra trước mắt mình, bê bết máu.
“Bố này.”
“Ừ, Jim.”
Jimmy lại hình dung đến lượt xương bánh chè bên phải của bố vợ nổ tung rồi tới hai khuỷu tay cũng chịu chung số phận.
“Chuyện này có thể bàn sau không ạ?”
“Chả có lúc nào phù hợp hơn lúc này.” Theo cười to nhưng trong điệu cười lại có ý cảnh cáo.
“Ngày mai chẳng hạn.” Jimmy rời mắt khỏi khuỷu tay bên trái của Theo và nhìn vào mắt bố vợ. “Ý con là ngày mai cũng được mà, phải không ạ?”
“Anh không nghe tôi nói là chả lúc nào phù hợp hơn lúc này à, Jimmy?”
Theo bắt đầu bực mình. Ông ta là một người lực lưỡng, tính tình nóng nảy hung bạo khiến nhiều người sợ hãi. Lâu rồi thành quen, thấy mọi người trên phố nhìn mình run sợ ông ta lại tưởng nhầm là vì kính trọng. “Theo ta thì thật ra chả có lúc nào là lý tưởng để đề cập tới chuyện này cả. Đúng không? Thế nên cứ càng sớm càng tốt.”
“Đúng thế,” Jimmy nói. “Đúng là như bố nói, không lúc nào như lúc này. Phải không?”
“Đúng vậy. Con rể ngoan.” Theo vỗ vỗ vào đầu gối Jimmy và đứng dậy. “Anh sẽ vượt qua chuyện này thôi. Anh sẽ phải tiến về phía trước. Trong lòng đau đớn nhưng vẫn phải đi về phía trước. Vì anh là một người đàn ông. Tôi có nói với Annabeth trong đêm tân hôn của hai đứa, có nhớ không? Tôi nói rằng, ‘Con gái, con đã tìm thấy cho mình một người đàn ông đích thực. Một người hoàn hảo. Một tay vô địch. Một anh chàng mà…’ ”
“Như khi người ta nhét nó vào trong một cái túi,” Jimmy nói.
“Cái gì cơ?” Theo nhìn hắn.
“Đó là dáng vẻ của Katie khi con tới nhận diện con bé trong nhà xác đêm qua. Giống như ai đó đã nhét nó vào trong một cái túi rồi lấy ống sắt nện.”
“Được rồi, được rồi, đừng để chuyện đó…”
“Thậm chí không thể phân biệt được nó thuộc chủng tộc nào nữa. Là người da đen, người Puerto Rico như mẹ nó hay là người Ả rập? Nhưng không phải là người da trắng.” Jimmy nhìn xuống tay mình đang siết chặt giữa hai đầu gối, quan sát những vết ố trên sàn bếp, một vết màu nâu cạnh chân trái của hắn và một vệt màu mù tạt cạnh chân bàn. “Janey ra đi trong giấc ngủ của bà. Con rất tôn trọng bố, nhưng phải thừa nhận rằng chuyện đó giống như mẹ đi ngủ rồi không bao giờ trở dậy nữa. Một cách thanh thản.”
“Anh không cần phải lôi Janey vào đây. Được không?”
“Nhưng con gái con thì sao? Nó bị người ta sát hại. Thật là có chút khác biệt.”
Trong giây lát, căn bếp trở nên yên tĩnh, chỉ nghe thấy tiếng rì rào của sự im lặng, thứ âm thanh mà người ta vẫn thường bắt gặp ở một căn hộ trống trải phía trên một căn hộ chật ních người. Jimmy tự hỏi không hiểu Theo có đần độn tới mức tiếp tục lải nhải với hắn. Nói đi, Theo, nói thêm vài lời ngu ngốc nữa đi. Tôi đang ở trong cái tâm trạng sôi sùng sục chỉ muốn trút hết lên người khác đây.
“Nghe này, ta hiểu,” Theo nói và Jimmy buột ra một tiếng thở dài ngao ngán. “Ta hiểu chứ. Nhưng, Jim, anh không cần thiết phải…”
“Gì cơ?” Jimmy cắt ngang. “Con không cần thiết phải sao cơ? Ai đó gí súng vào con gái con và bắn vỡ gáy nó mà bố lại muốn con phải sắp xếp lại thứ tự ưu tiên đối với nỗi thương đau của mình ư? Có phải là bố muốn vậy không? Con nói không sai đấy chứ, bố định đứng đây để đóng vai cha đạo sao?”
Theo nhìn xuống chân, thở phì phò, hai tay nắm chặt lại như tư thế chuẩn bị ra quyền.
“Ta không nghĩ là ta lại xứng đáng bị đối xử như thế.”
Jimmy đứng dậy và đặt chiếc ghế lại gần bàn bếp. Hắn nhấc một thùng giữ lạnh để trên sàn lên và bảo, “Giờ chúng ta có thể xuống dưới được chưa, Theo?”
“Dĩ nhiên rồi,” Theo nói. Ông đứng dậy, chẳng thèm xếp ghế vào chỗ cũ, rồi nhấc cái thùng giữ lạnh kia lên. “Thôi được rồi, được rồi. Nói chuyện với anh không chọn ngày nào lại chọn sáng nay, đúng là một ý kiến tồi. Anh vẫn chưa sẵn sàng. Nhưng…”
“Theo? Bỏ đi. Đừng nói gì cả. Chỉ thế thôi có được không?”
Jimmy bê thùng lạnh lên và bắt đầu bước xuống cầu thang. Hắn băn khoăn không biết có làm mếch lòng Theo hay không nhưng rồi quyết định chẳng hơi đâu mà để ý tới chuyện đó. Ngay lúc này đây họ đang tiến hành giải phẫu tử thi của Katie. Jimmy nhớ tới mùi chiếc nôi của con bé hồi nhỏ trong khi tại phòng xét nghiệm pháp y người ta đang bày ra xung quanh nó những chiếc dao mổ, kẹp banh ngực và cưa xương.
Sau đó, khi khách khứa bắt đầu thưa dần, Jimmy đi ra hiên sau và ngồi dưới đám quần áo đang bay phần phật trên dây phơi từ chiều thứ Bảy. Hắn ngồi đó dưới ánh mặt trời ấm áp, hai chiếc ống quần vải bông chéo của Nadine đung đưa trên đầu. Annabeth và hai đứa con gái của hắn đã khóc cả đêm qua, cả căn hộ chìm trong tiếng nức nở của họ và Jimmy đã tưởng rằng mình cũng sẽ rơi nước mắt bất cứ lúc nào. Nhưng hắn không hề khóc. Hắn la hét như điên trên ngọn đồi đó khi nhìn thấy ánh mắt của Sean Devine báo hiệu rằng con gái hắn đã chết. La hét tới lạc cả giọng. Nhưng ngoài hành động đó ra hắn chẳng còn cảm giác nào khác. Nên giờ hắn tới đây ngồi và sẵn sàng để rơi nưóc mắt.
Hắn tự tra tấn mình với những hình ảnh Katie hồi còn bé, Katie phía bên kia chiếc bàn sứt sẹo ở nhà tù Deer Island, Katie khóc tới khi thiếp đi trong tay hắn sáu tháng sau khi hắn ra tù, hỏi bố khi nào mẹ trở về. Katie bé bỏng nghịch nước bắn tung tóe trong bồn tắm, Katie tám tuổi đã biết đi xe đạp đến trường. Hắn nhìn thấy Katie mỉm cười, Katie bĩu môi giận dỗi, Katie nhăn mặt vì giận dữ hay bối rối vì được bố giúp bày bàn ăn. Rồi hắn nhìn thấy một Katie lớn hơn ngồi trên chiếc xích đu ở sân sau với Diane và Eve chờ một ngày mùa hè dông dài trôi qua, cả ba đứa trông đều lóng ngóng trước ngưỡng cửa tuổi dậy thì, ngực và chân phát triển quá nhanh. Hắn thấy Katie nằm sấp trên giường với Sara và Nadine bò trên người. Hắn nhìn thấy con bé trong trang phục dạ hội ở trường trung học. Nhìn thấy con bé ngồi bên cạnh hắn trong chiếc xe Grand Marquis, cằm hơi rung rung khi cua xe tránh khỏi vỉa hè trong ngày đầu học lái. Nhìn thấy con bé la hét, hờn dỗi, cãi lại hắn trong những năm ở tuổi mới lớn mà không hiểu tại sao lại thấy thân thương hơn cả những hình ảnh lúc tươi tỉnh, dễ thương.
Hắn liên tục nhìn thấy con bé nhưng hắn không thể khóc.
Rồi nước mắt sẽ tới thôi, một giọng nói bình tĩnh vang lên trong đầu hắn. Ngươi vẫn còn đang trong cơn sốc.
Nhưng cơn sốc đã trôi qua, hắn đáp lại. Từ lúc Theo gây sự ở trên gác.
Và khi cơn sốc qua đi, sẽ xuất hiện một thứ cảm xúc.
Thứ cảm xúc đó tôi đã cảm nhận được rồi.
Là thương tiếc, giọng nói kia bảo. Là phiền muộn.
Nhưng đó không phải là thương tiếc. Cũng không phải là phiền muộn. Mà là giận dữ.
Ngươi cũng sẽ cảm thấy có chút giận dữ. Nhưng rồi người sẽ vượt qua.
Nhưng tôi lại không muốn vượt qua.