Người dịch: Nguyễn Bá Long
Nhà xuất bản: NXB Văn học
Shared by: CCG –
Khẩu súng săn của Pepper Scarboro mang hiệu Remington, cỡ nòng 12 được mua ở một cửa hàng cầm đồ ở Lucedale năm Pepper mười sáu tuổi, quá trẻ để có thể mua từ một đại lý chính thức. Với giá hai trăm đôla, theo mẹ Pepper, thì đó là tài sản mà đứa con trai mình yêu quý nhất. Cảnh sát trưởng Sweeney và cảnh sát trưởng Tatum, của quận Greene, đã tìm thấy khẩu súng săn đó, cùng với một cái túi ngủ đã rất cũ và một chiếc lều nhỏ, một tuần sau cái chết của Patrick, khi họ đang kiểm kê lại các vật dụng trong ngôi nhà đi săn của hắn. Trudy đã đồng ý cho phép có cuộc lục soát này, một sự cho phép mà bản thân nó đã là vấn đề bởi ả ta không có quyền sở hữu đối với ngôi nhà đó. Bất kỳ toan tính nào nhằm dùng khẩu súng, cái túi ngủ và chiếc lều như những bằng chứng trong vụ án giết người của Patrick đều sẽ vấp phải sự phản kháng quyết liệt, bởi lẽ chúng đã được tìm thấy trong một cuộc lục soát không có giấy phép. Một lập luận có thể được đưa ra, rằng không phải là các viên cảnh sát trưởng này tìm các bằng chứng vì lẽ là vào lúc đó chưa có vụ tội phạm nào cả. Họ chỉ đơn thuần thu thập các vật dụng của Patrick để trao lại cho gia đình của hắn.
Trudy không muốn nhận cái túi ngủ và chiếc lều kia, bởi tin rằng chúng không phải là của Patrick. Trước đó ả ta chưa hề bao giờ nhìn thấy chúng. Đó là đồ rẻ tiền, không phải những thứ mà Patrick thường mua. Vả lại, hắn không thích ngủ lều. Hắn đã có ngôi nhà đi săn kia để ngủ. Sweeney dán mấy mẩu giấy đánh dấu lên đó rồi quẳng chúng vào kho tang vật, bởi vì cũng chẳng còn có chỗ nào khác. Ông ta dự tính cứ để đó chừng một hoặc hai năm, rồi bán chúng trong đợt bán những thứ đồ vô chủ hàng năm của cảnh sát trưởng. Sáu tuần lễ sau, Neldene Crouch òa khóc khi chị ta đứng trước bộ đồ dã ngoại của Pepper, con trai mình.
Khẩu súng săn lại được xử lý theo một cách khác. Nó được tìm thấy dưới gầm giường, cùng với chiếc lều và cái túi ngủ kia, trong căn phòng mà Patrick thường ngủ. Theo ý kiến của Sweeney thì ai đó đã vội vã nhét chúng vào đấy. Tính tò mò ở ông ta lập tức bị khơi dậy do sự hiện diện của khẩu súng. Bản thân cũng là một người ưa săn bắn, ông ta biết không có người đi săn khôn ngoan nào lại để khẩu súng săn trong một ngôi nhà đi săn ở nơi hẻo lánh, để bọn trộm cắp có thể tiện tay vớ được. Không có một thứ gì có giá trị lại được để lại trong một ngôi nhà đi săn ở những khu vực như vậy. Ông ta đã kiểm tra nó một cách kỹ lưỡng ngay tại chỗ, và nhận ra rằng số súng đã bị đục đi. Đó là một khẩu súng bị đánh cắp. Sweeney trao đổi ý kiến với cảnh sát trưởng Tatum, và họ quyết định rằng ít nhất thì cũng phải mang nó đi kiểm tra dấu vân tay. Họ chắc rằng việc đó cũng chẳng mang lại điều gì, thế nhưng cả hai đều là những cảnh sát từng trải và kiên nhẫn.
Sau này, sau nhiều lời hứa hẹn về sự miễn tố, tay chủ tiệm cầm đồ ở Lucedale mới thú nhận rằng lão ta đã bán khẩu súng đó cho Pepper.
Sweeney và Ted Grimshaw, phụ trách điều tra của quận Harrison, lịch sự gõ cửa phòng Patrick trong bệnh viện, và bước vào sau khi có lời mời. Sweeney đã gọi điện trước để báo cho Patrick về chuyến thăm cùng mục đích của họ. Đây chỉ là những phép tắc thông thường vì các thủ tục tạm giữ đối với Patrick còn chưa được làm một cách thích hợp.
Họ chụp ảnh hắn trong lúc hắn ngồi trên ghế, mặc chiếc áo phông và quần soóc thể thao, mái tóc bù xù và mặt mũi khó đăm đăm. Tay hắn cầm cái biển trên có những con số đăng ký mà họ mang tới. Họ lấy dấu tay hắn – Grimshaw làm, còn Sweeney hỏi han này nọ. Ông hỏi hắn một vài câu về Pepper Scarboro, thế nhưng Patrick nhanh chóng nhắc ông ta rằng hắn có luật sư, và luật sư của hắn phải có mặt trong bất kỳ một cuộc thẩm vấn nào. Hơn nữa, hắn cũng không có gì để nói cho dù có hay không có mặt luật sư.
Họ cảm ơn hắn và bỏ đi. Cutter và một chuyên gia vân tay của FBI từ Jackson đến đang đợi ở Phòng Lanigan trong nhà tù. Vào lúc tìm thấy, người ta thu được từ khẩu súng săn cỡ nòng 12 của Pepper hơn một chục dấu vân tay còn nguyên vẹn, có thể sử dụng được vào việc điều tra. Những dấu vân tay này là do Grimshaw lấy, cất vào trong két, và giờ đây được bày ra trên mặt bàn. Khẩu súng săn kia được đặt ở trên giá, cạnh chiếc lều và cái túi ngủ, cùng chiếc giày, những tấm ảnh và vài tang chứng hiếm hoi khác sẽ được dùng để chống lại Patrick.
Họ uống cà phê với những cái cốc làm bằng chất dẻo và tán gẫu về chuyện câu cá trong khi tay chuyên gia vân tay so sánh những dấu vân tay cũ và mới bằng một cái kính lúp. Công việc đó đã không mất mấy thời gian.
“Một số những vân tay này hoàn toàn trùng nhau,” anh ta nói, vẫn cắm cúi với cái kính. “Trên khẩu súng đó đầy dấu vân tay của Lanigan.”
Chắc chắn đó là tin mừng, họ nghĩ. Vấn đề là phải làm gì bây giờ ?
oOo
Patrick đòi có một căn phòng khác cho tất cả các cuộc gặp từ nay trở đi với luật sư của hắn, và bác sĩ Hayani đã nhanh chóng dàn xếp giúp chuyện này. Anh ta cũng đề nghị được có một xe lăn dùng cho việc đưa hắn xuống căn phòng đó ở tầng trệt. Một cô y tá đẩy xe, ngang qua hai cảnh sát ngồi hiền lành ngoài hành lang ngay trước cửa phòng hắn, ngang qua nhân viên đặc biệt Brent Myers, để vào thang máy. Một cảnh sát bám theo sau.
Đó là phòng hội chẩn của các bác sĩ. Bệnh viện nhỏ và căn phòng cũng hiếm khi được dùng tới. Sandy đã đặt mua cái thiết bị chống nghe trộm mà Patrick đề cập, thế nhưng phải mất một vài ngày nữa nó mới được gửi tới.
“Phải thúc bách mới được,” Patrick nói.
“Nào, Patrick. Chắc chắn là anh không nghĩ rằng họ đã cài rệp vào căn phòng này rồi. Cho tới cách đây một tiếng thì chẳng có ai nghĩ tới chuyện chúng ta sẽ sử dụng nó.”
“Thận trọng không bao giờ thừa.” Patrick đứng dậy khỏi xe lăn rồi đi quanh chiếc bàn họp dài và Sandy nhận ra rằng hắn không hề khập khiễng chút nào.
“Này, Patrick, tôi nghĩ rằng anh hãy cố bình tâm một chút. Tôi biết anh vừa trải qua cuộc sống lẩn lút trong một thời gian dài. Anh đã phải lo sợ, luôn cảnh giác với mọi thứ, tôi biết tất cả những điều đó. Nhưng những ngày đó đã qua rồi. Hãy bình tâm.”
“Họ vẫn còn ở bên ngoài kia, anh có hiểu không ? Họ đã có tôi, nhưng chưa có tiền. Và tiền là chuyện quan trọng hơn nhiều. Đừng quên điều đó, Sandy. Họ sẽ không thôi đâu cho đến khi có được chỗ tiền đó.”
“Vậy thì ai có khả năng sẽ nghe trộm chúng ta ở đây ? Kẻ tốt hay người xấu ? cảnh sát hay bọn bất lương ?”
“Những người mất tiền đã bỏ ra cả một đống của để cố tìm lại cho bằng được.”
“Làm sao anh biết ?”
Patrick chỉ nhún vai như thể lại đến lúc phải giở bài với nhau.
“Họ là ai ?” Sandy hỏi, và sau đó là một khoảng im lặng kéo dài, giống như những khi Leah muốn thay đổi để tài.
“Ngồi xuống đi,” Patrick nói. Họ ngồi đối diện nhau. Sandy lấy ra cặp hồ sơ dày cộm mà Leah đã trao cho anh cách đó bốn tiếng đồng hồ; cặp hồ sơ về những chuyện bẩn thỉu của Trudy.
Patrick nhận ra nó ngay tức khắc. “Anh gặp cô ấy bao giờ thế ?” Hắn vội vã hỏi.
“Sáng nay. Cô ấy không sao cả, gửi lời thăm, nói rằng chưa hề có ai bám theo, và yêu cầu tôi chuyển cái này.” Anh đẩy cái phong bì ngang mặt bàn và Patrick chộp lấy, bóc vội, rút ra một bức thư dài ba trang. Hắn đọc thư, từng chữ một, quên khuấy hẳn người bạn luật sư ngồi bên.
Sandy xem lướt qua cặp hồ sơ và dừng lại chỗ những tấm ảnh chụp Trudy lõa lồ ngả ngớn bên bể bơi cạnh gã đĩ đực của ả. Anh rất muốn được dí hình ngay vào mặt tay luật sư của ả ở Mobile. Họ đã hẹn một cuộc gặp sau ba giờ nữa.
Patrick đọc xong bức thư, gấp nó lại cẩn thận, và đặt trở lại vào phong bì. “Tôi có một lá thư khác cho cô ấy,” hắn nói, rồi liếc ngang mặt bàn và thấy những tấm ảnh. “Chụp khá đấy chứ hả ?”
“Đáng kinh ngạc. Tôi chưa bao giờ thấy nhiều bằng chứng thế này trong một vụ ly dị cả.”
“Hừm, có quá nhiều chuyện. Chúng tôi cưới nhau được gần hai năm thì lần đầu tiên tôi chạm trán với người chồng trước của cô ta, hoàn toàn tình cờ. Đó là một bữa tiệc ở New Orleans. Chúng tôi đã uống vài ly, và anh ta nói chuyện với tôi về Lance. Chính gã là con mèo đực trong những tấm hình kia.”
“Leah đã giải thích.”
“Lúc đó Trudy đã chửa to rồi, bởi vậy tôi không nói gì. Cuộc hôn nhân dần dần trở nên tồi tệ, và chúng tôi hy vọng là đứa con sẽ làm cho mọi chuyện đâu vào đấy. Cô ta có một khả năng lừa dối đáng kinh ngạc. Tôi cũng quyết định chiều theo, vào vai một người cha đầy hãnh diện và đại loại thế, nhưng một năm sau đó thì tôi bắt đầu thu thập chứng cứ. Tôi không biết là khi nào thì sẽ cần đến chúng, nhưng tôi biết là cuộc hôn nhân này đã kết thúc. Tôi rời khỏi thành phố bất kỳ khi nào có cơ hội – công việc, đi săn, đi câu, đi nghỉ cuối tuần với đám bạn bè, bất kể. Cô ta dường như chẳng bao giờ phiền lòng gì hết.”
“Tôi sẽ gặp luật sư của chị ta vào lúc năm giờ chiều nay.”
“Tốt. Anh sẽ có một trận ra trò. Niềm ao ước của bất kỳ một luật sư nào khác đấy. Dọa dẫm đủ thứ, nhưng kết thúc với một dàn xếp. Cô ta phải cam kết từ bỏ mọi quyền, Sandy. Cô ta không có phần gì trong tài sản của tôi cả.”
“Khi nào thì chúng ta nói chuyện về tài sản của anh?”
“Sắp thôi, tôi hứa đấy. Nhưng còn có việc cấp bách hơn.”
Sandy lấy tập giấy mà lúc nào cũng mang theo bên mình ra và sẵn sàng ghi chép.
“Lance là một gã đê tiện. Gã lớn lên trong các quán bar ở Point Cadet, chưa bao giờ học hết phổ thông trung học, và đã ở tù ba năm vì tội buôn ma túy. Một kẻ hư hỏng. Gã có bạn bè trong thế giới ngầm. Gã biết những kẻ sẵn sàng làm bất kỳ việc gì vì tiền. Có một tập hồ sơ dầy nữa, về gã. Tôi cho rằng Leah chưa đưa cho anh.”
“Chưa. Chỉ có tập này.”
“Lần sau hãy hỏi cô ấy. Tôi đã thu thập mọi chuyện về Lance trong một năm trời, cũng vẫn do cùng một tay thám tử tư. Lance là một kẻ tầm thường, nhưng nguy hiểm vì gã có bạn bè. Và Trudy thì có tiền. Chúng ta không biết là cô ta còn lại bao nhiêu, nhưng hẳn là chưa thể tiêu hết đâu.”
“Và anh nghĩ rằng có thể gã sẽ chơi anh chăng ?”
“Có khả năng. Hãy nghĩ về chuyện đó, Sandy. Lúc này thì Trudy là người duy nhất vẫn muốn tôi phải chết. Như vậy, cô ta sẽ giữ được số tiền còn lại, và không còn lo ngại về chuyện cái hãng bảo hiểm kia sẽ thu lại những gì mà hiện giờ cô ta đang có. Tôi biết cô ta. Tiền và cuộc sống ăn chơi là tất cả.”
“Nhưng làm sao gã có thể…”
“Có thể, Sandy. Hãy tin tôi. Đó là việc có thể làm được.”
Hắn nói điều đó với sự bảo đảm chắc nịch như của một kẻ đã từng giết người, từng bị lương tâm cắn rứt, và trong một giây, Sandy thấy lạnh cả người.
“Đó là việc có thể làm được, thậm chí dễ dàng,” hắn nói tới lần thứ ba, cặp mắt hắn bừng bừng và những vết nhăn quanh mắt nhíu lại.
“Thôi được, vậy tôi phải làm gì ? Ngồi với đám cảnh sát ngoài hành lang ư ?”
“Việc là tùy ở mình thôi, Sandy.”
“Tôi nghe đây.”
“Thứ nhất, anh nói với luật sư của cô ta rằng văn phòng của anh mới nhận được một nguồn tin nặc danh, rằng Lance đang tìm kiếm một kẻ đâm thuê chém mướn. Hãy nói vậy vào cuối cuộc gặp của anh hôm nay. Lúc đó thì ông ta đã choáng rồi, và sẽ tin vào mọi điều anh nói. Hãy nói rằng anh đang tính báo cho cảnh sát chuyện đó. Chắc chắn là ông ta sẽ phải gọi thân chủ của mình, và cô ta sẽ chối phắt. Thế nhưng uy tín của cô ta sẽ bị tổn thương. Cô ta sẽ chùn lại trước cái ý nghĩ rằng đã có người nghi ngờ là cô ta và Lance đang mưu toan giết người. Rồi sau đó, anh hãy gặp cảnh sát trưởng và FBI, cũng với cùng câu chuyện như vậy. Nói với họ vì sao anh phải lo ngại về sự an toàn của tôi. Đòi họ phải răn đe Trudy và Lance về những tin đồn đó. Tôi rất biết cô ta, Sandy. Cô ta sẽ hy sinh Lance để giữ lại được tiền. Song nếu cảnh sát đã nghi ngờ thì cô ta chắc chắn sẽ từ bỏ âm mưu đó.”
“Chắc anh cũng đã nghĩ trước về chuyện này rồi. Còn gì nữa không ?”
“Còn. Việc sau cùng anh phải làm là tiết lộ chuyện này cho báo chí. Anh cần phải tìm lấy một phóng viên…”
“Việc đó không khó.”
“Một người mà anh có thể tin cậy.”
“Cái này thì lại khó đấy.”
“Không hẳn là không có. Tôi cũng hay đọc báo, và có thể có vài cái tên cho anh. Hãy kiểm tra lại. Tìm một người mà anh thấy thích. Bảo anh ta đăng những tin đồn đó, nhưng không phải là theo yêu cầu của chúng ta, đổi lại anh sẽ cho anh ta biết trước tiên những tin thật nhất, mới nhất. Đó là cách làm của đám báo chí. Bảo anh ta là cảnh sát trưởng đang điều tra những tin tức về việc một người vợ đang toan tính thuê sát thủ để hòng giữ lại những đồng tiền bất hợp pháp. Anh ta sẽ bập vào ngay. Anh ta sẽ không phải tìm hiểu tính xác thực của tin này. Trời đất, họ đăng tin đồn suốt ấy mà.”
Sandy kết thúc các ghi chép và kinh ngạc trước sự chuẩn bị của anh bạn cũ. Anh gấp giấy tờ lại, gõ gõ cây bút, và hỏi, “Anh có bao nhiêu những thứ này ?”
“Những thứ rác rưởi này ấy hả ?”
“Phải.”
“Tôi đoán chừng hơn hai chục cân. Chúng được cất giữ trong một cái kho nhỏ ở Mobile kể từ khi tôi biệt tích.”
“Còn gì ở đó ?”
“Còn những thứ rác rưởi khác.”
“Về ai ?”
“Những bạn làm ăn cũ của tôi. Và những kẻ khác nữa. Chúng ta sẽ dùng đến sau.”
“Bao giờ vậy ?”
“Sắp thôi, Sandy.”
oOo
Luật sư của Trudy, J.Murray Riddleton, là một người đàn ông sáu mươi tuổi, to khỏe, hoạt bát, chuyên về hai lĩnh vực: những vụ ly hôn dơ dáy và những khuyên nhủ về tài chính nhằm lừa gạt chính phủ. Có thể thấy ở lão nhiều nét tương phản; thành đạt nhưng ăn mặc rất tồi tàn, thông minh nhưng có vẻ mặt chất phác, tươi cười nhưng độc ác, nói năng ôn hòa nhưng lời lẽ sắc bén. Cái văn phòng lớn của lão ở trung tâm Mobile đầy ngập những hồ sơ đã bị sao nhãng từ lâu và những sách luật đã lỗi thời. Lão lịch sự đón Sandy, chỉ một cái ghế và mời rượu. Dù sao thì cũng đã sau năm giờ một vài phút rồi. Sandy từ chối, và J.Murray cũng không uống gì cả.
“Sao, anh chàng kia của chúng ta thế nào rồi ?” J.Murray ngoác mồm ra hỏi.
“Ai cơ ?”
“Thôi nào. Patrick chứ còn ai. Cậu đã tìm thấy chỗ tiền kia chưa ?”
“Tôi không hề nghĩ đến chuyện đó.”
J.Murray cảm thấy câu trả lời cũng hay hay và cười phá lên trong vài giây. Trong đầu lão thì không hề còn nghi ngờ gì là lão hoàn toàn làm chủ cuộc gặp này. Hầu hết các quân bài đều nằm ở phía bàn của lão.
“Tôi thấy ông trên TV tối qua,” Sandy nói. “Cái chương trình nhớp nhúa đó tên gì ấy nhỉ ?”
“Đằng sau những biên bản.” Cô ấy tuyệt đấy chứ hả? Và đứa nhỏ nữa, cứ như một con búp bê vậy. Những con người tội nghiệp đó.”
“Thân chủ của tôi muốn yêu cầu thân chủ của ông không đưa ra bất kỳ phát biểu công khai nào nữa về cuộc hôn nhân và vụ ly hôn của họ.”
“Thân chủ của cậu có thể đi mà giặt váy cho thân chủ của tôi. Còn cậu thì có thể đi mà xách dép cho tôi đây này.”
“Tôi sẽ khiếu nại, bởi vì thân chủ của tôi sẽ khiếu nại.”
“Này, con ạ, ta là người sống chết với Điều Tu chính thứ nhất đấy. Nói bất kỳ điều gì. Làm bất kỳ điều gì. Xuất bản bất kỳ thứ gì. Tất cả đều được Hiến pháp bảo vệ ngay ở điều tu chính đó.” Lão chỉ tay lên cái giá sách phủ đầy mạng nhện cạnh cửa sổ. “Yêu cầu bị bác bỏ. Thân chủ của tôi có quyền công bố bất kỳ điều gì và vào bất kỳ lúc nào cô ta muốn. Cô ta đã bị thân chủ của cậu xúc phạm, và giờ đây đang đứng trước một hoàn cảnh đầy bất trắc.”
“Được thôi. Có điều phải làm rõ mọi chuyện.”
“Chẳng nhẽ còn chưa rõ sao ?”
“Đúng thế. Hiện giờ, chúng tôi thực sự không có vấn đề gì với nguyện vọng ly hôn của thân chủ của ông, và chị ta có thể được nuôi con.”
“Cảm ơn. Các người rộng lượng quá.”
“Trên thực tế, thân chủ của tôi không có dự tính đòi quyền thăm nom đứa trẻ.”
“Được lắm. Sau khi bỏ rơi đứa trẻ trong bốn năm trời, chắc hắn cũng chẳng muốn nhìn lại nó nữa.”
“Có một lý do khác,” Sandy vừa nói vừa mở hồ sơ và lấy ra cái kết quả xét nghiệm ADN. Anh ta đưa một bản sao cho J. Murray. Lão lập tức thôi cười và nheo mắt nhìn mấy tờ giấy.
“Cái gì thế này ?” Lão hỏi vẻ nghi hoặc.
“Sao ông không đọc đi đã ?” Sandy đáp.
J.Murray móc trong túi ngực ra cái kính và đeo lên. Lão đưa tờ giấy ra xa, tới đúng tầm thì ngừng lại và bắt đầu từ từ đọc. Lão ngây ra sau trang đầu tiên, và đôi vai lão rũ xuống ở cuối trang thứ hai.
“Tai hại quá, phải không ?” Sandy nói sau khi J.Murray đọc xong.
“Đừng vội mừng. Tôi chắc chắn là điều này có thể giải thích được ”
“Tôi thì chắc là không. Theo luật Alabama, kết quả xét nghiệm ADN là bằng chứng mang tính kết luận. Bây giờ, dù không phải là người sống chết vói Điều Tu chính thứ nhất như ông, nhưng tôi nghĩ rằng nếu điều này được công bố thì sẽ gây lúng túng cho thân chủ của ông nhiều đấy. Hãy hình dung xem, có chửa với người này trong khi giả bộ sống hạnh phúc với người kia. Tôi e rằng chuyện đó không được hoan nghênh lắm ở dọc vùng bờ biển này đâu.”
“Cứ đăng đi,” J.Murray nói, không có vẻ quả quyết. “Tôi không quan tâm.”
“Tốt hơn là nên trao đổi vói thân chủ của ông trước đã.”
“Đó là điều không có ý nghĩa, theo luật pháp của chúng ta. Ngay cả là cô ta đã ngoại tình, nhưng hắn vẫn tiếp tục chung sống với cô ta sau khi biết chuyện. Như vậy là hắn đã chấp nhận. Hắn sẽ không được phép dùng scandal đó làm lý do trong vụ ly hôn này.”
“Không cần bàn tới chuyện ly hôn nữa. Chị ta có thể được toại nguyện. Quên cả chuyện đứa trẻ đi.”
“Ra vậy, tôi hiểu rồi. Đây là trò tống tiền. Cô ta từ bỏ yêu sách về tài sản của hắn, và hắn sẽ không làm ầm lên nữa.”
“Đại loại là như thế.”
“Thân chủ của cậu điên rồi, và cậu cũng vậy.” Mặt mũi J.Murray đỏ phừng phừng, hai tay nắm chặt lại.
Sandy lạnh lùng lật lật hồ sơ và lôi ra một đòn tiếp theo. Anh đẩy một báo cáo sang phía bên kia bàn.
“Cái gì vậy ?” J. Murray hỏi.
“Đọc đi.”
“Tôi không muốn đọc nữa rồi.”
“Được thôi, đó là báo cáo của một thám tử tư, người đã bám theo thân chủ của ông và người tình của chị ta trong một năm trước khi thân chủ tôi biệt tích. Họ đã ở bên nhau, chỉ có hai người, tại nhiều nơi nhưng chủ yếu là ở ngay ngôi nhà của thân chủ tôi, ở trong nhà, và chúng tôi cho là ở trên giường, trong ít nhất là mười sáu dịp.”
“Chuyện lớn quá nhỉ.”
“Hãy xem những cái này,” Sandy nói, và quăng những tấm ảnh màu cỡ 18/24, hai trong số đó là những tấm ảnh khỏa thân, lên trên bản báo cáo kia. J. Murray liếc mắt nhìn, rồi cầm lên để xem kỹ hơn.
Sandy quyết định giúp lão ta hiểu. “Những tấm ảnh này được chụp bên bể bơi tại ngôi nhà của thân chủ tôi trong lúc anh ta đang dự một hội thảo ở Dallas. Có nhận ra ai không ?”
J. Murray gắng gượng làu bàu gì đó.
“Còn nhiều nữa,” Sandy nói, và đợi cho qua cơn choáng của J.Murray. “Tôi cũng còn ba báo cáo khác nữa của các thám tử tư. Có vẻ như thân chủ của tôi đã rất ngờ vực.”
Ngay trước mắt Sandy, J. Murray chuyển từ một con diều hâu hung hăng sang một kẻ trung gian ủy mị, một sự thay đổi giống như sự đổi màu ở loài kỳ nhông, thường thấy ở những luật sư đột nhiên thấy mình bị tước hết vũ khí. Lão thở dài sóng sượt với vẻ cam chịu và rũ người xuống trong cái ghế bành. “Đúng là họ chưa bao giờ nói với chúng ta tất cả.” Vấn đề đột ngột chuyển thành chúng ta đối lập với họ. Luật sư chống lại thân chủ của mình. Lão và Sandy giờ đây có vẻ lại chuyển sang cùng một bên, và họ sẽ phải làm gì ? Tuy nhiên, Sandy vẫn chưa sẵn sàng với cái liên minh vỏ ngoài này.
“Một lần nữa, tôi không phải người sống chết với Điều Tu chính thứ nhất như ông tự nhận về bản thân mình, nhưng tôi nghĩ rằng nếu những thứ này được đăng tải lên mặt báo thì chắc chắn sẽ làm cho Trudy rất lúng túng.”
J. Murray giơ tay ra ý bảo Sandy đừng nói nữa, và nhìn đồng hồ. “Cậu chắc là không muốn làm một ngụm ư ?”
“Đúng thế.”
“Thằng cha kia của cậu vớ được bao nhiêu hả ?”
“Tôi thật sự là chưa biết. Và đó không phải là vấn đề quan trọng lúc này. Điều quan trọng là ở chỗ anh ta sẽ còn lại được bao nhiêu khi mọi chuyện đã xong và ngay bây giờ thì không ai biết được.”
“Chắc chắn là hắn phải kiếm được hầu hết cái số chín mươi triệu đó.”
“Anh ta đang bị kiện với con số lớn hơn thế nhiều. Đó ỉà chưa nói tới khả năng về một án tù dài dằng dặc và có thể còn là một cái án tử hình nữa. Vụ ly hôn này, ông Riddleton, là vấn đề nhỏ nhất trong nhũng mối quan tâm của anh ta.”
“Vậy thì sao cậu lại đang đe dọa chúng tôi ?”
“Anh ta muốn chị ta im miệng lại, ly hôn rồi xéo đi, và từ bỏ mọi yêu sách trong tương lai đối với anh ta. Patrick muốn điều đó phải được giải quyết ngay bây giờ.”
“Nếu không thì sao ?” J. Murray nối lỏng cavát và chùng người xuống thêm nữa. Đã cuối ngày và lão cần phải về nhà. Lão nghĩ một lúc khá lâu, rồi nói tiếp, “Cô ta sẽ mất mọi thứ, hắn có biết vậy không ? Cái hãng bảo hiểm kia sẽ làm cho cô ta trắng tay.”
“Không có ai được ở đây cả, ông Riddleton.”
“Để tôi nói chuyện với cô ta đã.”
Sandy thu dọn giấy tờ của mình rồi chậm rãi đi ra cửa. J.Murray gượng một nụ cười buồn bã, và ngay lúc họ đang bắt tay tạm biệt thì Sandy như chợt nhớ ra, đề cập tới cái tin nặc danh mà văn phòng anh nhận được ở New Orleans về việc Lance đang tìm kiếm một sát thủ. Sandy nói thêm là cũng không biết có nên tin hay không nhưng cảm thấy buộc phải trao đổi với viên cảnh sát trưởng và FBI về điều đó.
Họ qua lại vài câu nữa rồi Riddleton hứa sẽ đề cập chuyện này với thân chủ của lão.