Sáng sớm ngày hôm sau khi Flora xuống nhà ăn sáng thì chuông điện thoại reo. Khi đi ngang qua hành lang nàng có hơi lưỡng lự. Nhưng chẳng có ai ở gần để nghe điện thoại cả, thế nên nàng đành phải tự làm cái việc khó khăn ấy một mình. Nàng ngồi lên chiếc ghế gần đó, nhấc điện thoại lên:
– Xin lỗi, ai đầu dây đó ạ?
Có tiếng phụ nữ trả lời trong ống nghe: – Phải nhà Fernrigg đó không?
– Dạ phải.
– Dì Isobel đấy ư?
– Không, chị muốn gặp dì Isobel à?
– À, phải Rose không?
Flora ngần ngừ: – Dạ phải.
– Ồ, Rose. Tôi là Anna Stoddart đây mà.
– Chúc buổi sáng tốt lành, Anna. Chị muốn nói chuyện với dì Isobel ư?
– Không nhất thiết phải thế đâu, gặp chị cũng được mà. Tôi muốn nói cảm ơn về bữa tiệc hôm thứ Bảy. Hôm ấy, tôi vui lắm đấy.
– Rất mừng vì thấy chị hài lòng như vậy. Tôi sẽ gửi lời của chị đến dì Isobel.
– Xin lỗi vì đã gọi điện đến quá sớm, nhưng ngày hôm qua tôi lại quên khuấy đi mất, không gọi lại cho chị. Tôi định đi Glasgow. Ý tôi muốn nói là đi ngay bây giờ đây.Tôi không muốn ra đi mà không nói lời cảm ơn gia đình Armstrong.
– À, hy vọng chị có một chuyến đi vui vẻ.
– Tất nhiên là tôi vui chứ. Vả lại, tôi cũng chỉ đi vài ngày thôi mà. Mong rằng khi tôi quay về, chị sẽ vui lòng đến Ardmore chơi và gặp tôi ở đó. Chúng ta sẽ cùng ăn trưa, uống trà hay là… – giọng chị ta nhỏ dần, như thể đột nhiên Anna nhận thấy mình nói quá nhiều. Flora không sao chịu nổi cái vẻ thiếu tự tin của Anna, nàng nói nhanh cố giữ giọng hồ hởi.
– Ồ, tôi thích đi thăm chị lắm đấy. Chị tốt bụng thật. Tôi ước sao có ngày được đến thăm anh chị.
– Thật ư, sẽ vui lắm đấy. Khi nào tôi từ Glasgow trở về sẽ điện thoại cho chị nhé?
– Chị nói phải giữ lời đấy. Thế chị có nghe nói đến buổi dạ vũ chưa?
– Khiêu vũ ư?
– Sẽ có một buổi dạ vũ ở Fernrigg vào ngày thứ Sáu tới. Sáng hôm qua, bà nội đã thu xếp mọi chuyện đâu vào đó rồi.
– Vào ngày thứ Sáu này đó hả? – Giọng Anna thảng thốt như thể điều đó khiến chị ta rất quan tâm.
– Phải, chính xác là thứ Sáu tuần này đây. Suốt cả buổi sáng ngày hôm qua, dì Isobel tội nghiệp đã phải ngồi bên điện thoại gọi điện cho tất cả mọi người. Thôi, để tôi nói với dì ấy rằng tôi đã nhắn chị rồi nhé, như thế thì bớt cho dì ấy một cuộc gọi.
– Ồ, thích quá nhỉ. Tôi mừng vì chị nhắn với tôi đấy. Bởi vì thế nào khi đến Glassgow, tôi cũng phải mua một cái áo mới mới được. Ý tôi nói là nhân tiện đây thì tôi cũng mua luôn… một lần nữa, giọng chị ta lại nhỏ dần. Anna quả là người không thích hợp với việc đàm thoại qua điện thoại. Flora vừa định nói tiếp lời chúc chị ta đi chơi vui vẻ rồi gác máy, thì Anna đã vội nói:
– À, chị chờ tôi một chút nhé, đừng cúp máy đấy.
– Không, tôi không cúp đâu.
Có tiếng thì thầm bên đầu dây bên kia, sau đó Anna bảo: – Brian muốn nói chuyện với chị.
Flora tự nhủ: Brian nói chuyện gì với mình nhỉ.
– Ừ, tạm biệt Anna, đi chơi vui vẻ nhé.
Sau đó, giọng Brian Sotddart vang lên vui vẻ trong ống nghe.
– Chào Rose.
– Chào anh. – Flora nói giọng cảnh giác.
– Thật không thể tưởng tượng bà xã tôi lại có thể gọi điện thoại đến nhà Armstrong vào giờ này. Sao, cô đã ăn sáng chưa?
– À, tôi vừa định ăn sáng thì có chuông điện thoại reo đây.
– Antony đi chưa cô?
– Rồi. Sau bữa trà ngày hôm qua, anh ấy đã lên đường rồi ạ.
– Tôi nghĩ là công việc lại tước mất vị hôn phu của cô rồi. Còn Anna thì vừa bỏ rơi tôi. Tại sao tối nay chúng ta không gặp nhau trò chuyện vui vẻ một tí, tôi sẽ đưa cô đi ăn tiệm.
Những ý nghĩ quay cuồng trong đầu óc của Flora. Điều quan trọng nhất là nàng biết Anna nghe rõ từng lời cuộc nói chuyện của họ, và như thế lời mời của anh ta chẳng có gì là lén lút cả, nhưng bà Tuppy sẽ suy nghĩ gì về chuyện này? Cả dì Isobel nữa chứ. Có phải khôn ngoan hơn không nếu như đi ra ngoài đi chơi tối với một kẻ sát gái và kẻ ấy lại không có lương tâm trong sạch, thậm chí dù cho lời đề nghị của anh ta vô tình và vô hại đi chăng nữa, nàng cũng chẳng đời nào muốn đi.
– Rose à!
– À, tôi vẫn đang nghe đây.
– Thế mà tôi cứ tưởng cô đi rồi đấy, thậm chí tôi còn không nghe tiếng cô thở nữa đấy. Tôi nên đến đón cô lúc mấy giờ đây?
– Tôi cũng chưa nói là mình đi nữa mà.
– Tất nhiên là cô đi chứ. Thôi đừng có lên mặt làm cao. Khi nào chúng ta đến nhà hàng Fishers’Arms ở Lochgarry tôi sẽ đãi cô món tôm càng. Nghe này, giờ tôi phải đi, Anna đang chờ tôi ra tiễn cô ta. Sau đó tôi sẽ ghé qua đón cô vào lúc 7h30 hay 8h gì đó. Đồng ý không? Nếu như bà Isobel thấy vui vẻ, thể nào bà ý cũng đãi tôi một ly. Nhớ gửi lời nhắn của tôi cảm ơn bà Tuppy và dì Isobel về bữa tiệc tối hôm trước. Hôm đấy cả hai chúng tôi đều vui lắm đấy. Thôi gặp cô sau nhé. – Anh ta treo máy.
Flora đứng đó im lặng với chiếc ống nghe đã mất hết tín hiệu. Thật là quá đáng mà. Nàng chậm rãi đặt ống nghe xuống và nghĩ: Tay này thật lập dị. Nhưng rồi nàng mỉm cười. Brian quả thật quyến rũ với cái kiểu ra lệnh cho nàng trong điện thoại như thế. Rõ ràng anh ta chẳng phải là người nham hiểm gì cho lắm. Toàn bộ việc này chỉ là đi ra ngoài ăn tối với một con người. Hơn nữa nàng cũng thích tôm càng lắm. Flora nhận ra mình đã đói ngấu, nàng vào bếp tìm đồ ăn bữa điểm tâm. Jason đi rồi, bà Watty đưa nó đến trường. Dì Isobel vẫn ngồi trong bàn ăn ở nhà bếp, đọc một lá thư và uống ly cà phê cuối cùng, trong bếp còn có cả bà y tá nữa.
– Cháu có nghe tiếng chuông điện thoại reo không? – Bà hỏi.
Bà vẫn thích hỏi han để biết chuyện gì đang xảy ra trong nhà.
– Dạ có, và cháu trả lời điện thoại rồi ạ. – Flora ngồi xuống, gắp đầy một tô bánh bột ngô. – Đầu tiên là Anna Stoddart nói cảm ơn về bữa tiệc ngày hôm trước, dì Isobel ạ.
Dì Isobel ngước mắt nhìn lên nói giọng ngờ vực: – Ồ, họ lịch lãm quá.
– Cô ấy vừa đi Glasgow và dự định sẽ ở đó vài ngày.
– Có, dì cũng nghe Anna nói chuyện gì đại loại như vậy.
– Còn Brian thì mời cháu tối nay đi ăn tiệm với anh ấy.
Nàng nhìn mặt dì Isobel chờ đợi một dấu hiệu mờ nhạt nhất của sự khó chịu, nhưng dì chỉ mỉm cười.
– Một ý kiến hay đấy cháu ạ, anh ta tốt bụng thật đấy.
– Anh ta bảo cháu thì thiếu vắng Antony, còn anh ta lại không có Anna bên cạnh, chúng cháu sẽ là bạn cùng cảnh ngộ, và đến 7 giờ rưỡi, Brian sẽ đến đây đón cháu, anh ta còn bảo nếu dì rộng lòng thì hãy cho anh ta xin một ly rượu có được không ạ?
Dì Isobel cười lớn. Nhưng bà Watty nhận xét: – À, tên này hỗn xược thật.
– Bà Watty ơi! Bà không thích Brian à?
– À, cũng có mến nhưng càng ngày nó càng tệ.
Dì Isobel nói: – Bà Watty ghét Brian bởi vì nó không thể trở thành một người Scotland mẫu mực. Tuy nhiên ta thấy nó khá là tốt bụng vì thông cảm cho hoàn cảnh của Rose.
– Cháu cũng có nhắn với họ về bữa tiệc khiêu vũ vào ngày thứ Sáu, thế nên dì cũng chẳng phải gọi lại cho họ đâu ạ. Anna sẽ đi Glasgow và mua một chiếc áo đầm mới.
Dì Isobel kêu lên: – Ôi trời ơi!
– Sao thế ạ?
– Anna suốt ngày sắm đồ mới. Con bé vung tiền qua cửa sổ vì đống quần áo ấy mà rốt cuộc rồi cái nào trông cũng giống cái nào. – Bà thở dài. – Ta cho rằng mọi người trong nhà cũng nên bắt đầu nghĩ mình sẽ mặc gì trong thứ Sáu tới. Ta chẳng thể nào lại mặc cái áo xanh vừa mặc hôm nọ. Bởi vì cứ mặc mãi cái áo đó, người ta nhìn cũng phát chán.
Bà Watty an ủi: – Nhưng mặc màu xanh rất hợp với cô đấy.
– Nếu người ta cứ phải nhìn đi nhìn lại tôi mặc cái áo đó, thì họ sẽ chán ngấy ngay, không cần biết rằng nó thích hợp với tôi hay không. Còn Rose, cháu định mặc gì hả?
Không hiểu sao câu hỏi đó khiến Flora phải sững sờ. Chắc có lẽ bởi có quá nhiều chuyện nàng phải lo lắng, thế nên chuyện mặc gì trong bữa tiệc của bà Tuppy, không nằm trong đầu nàng lúc này, nàng nhìn quanh, thấy họ đang nhìn nàng chờ trả lời:
– Ồ, cháu vẫn chưa quyết định ạ.
Bà y tá tròn mắt ra nhìn Flora. Bà không thể ngờ rằng một phụ nữ nữa trong nhà Armstrong lại có thể nói rằng mình không biết nên mặc gì vào một bữa tiệc linh đình như thế. Bà hỏi Flora:
– Chẳng lẽ cháu không mang theo áo đầm hay sao?
– Không ạ. Cháu định đến nghỉ vào ngày thứ Bảy và Chủ nhật thôi. Cháu không nghĩ mình phải chuẩn bị quần áo cho dạ vũ ạ.
Im lặng nặng nề. Tâm trí mọi người không sao quên nổi cái câu Flora vừa nói. Dì Isobel gợi ý:
– Hay mặc lại bộ đồ cháu vừa mặc hôm trước vậy. Đó chỉ là một chiếc áo đầm bằng len và một chiếc áo sơmi giản dị.
Bà Watty thở hổn hển: – Ồ, không, không được đâu. Bữa tiệc sắp tới đây, cháu sẽ là nhân vật chính đấy. Cháu phải mặc cái gì đó lộng lẫy hơn bộ đồ hôm nọ.
Nàng có cảm giác đang làm cho mọi người thất vọng.
– Hay cháu nên mua một cái áo đầm nhỉ? – Dì Isobel bảo nàng. – Đừng mua ở Tarbole. Trong vòng bán kính 100 dặm, cháu không thể mua một cái áo đầm nào ra hồn đâu. Hay cháu nên đi Glasgow cùng Anna. Có ai trong nhà có thể cho Rose mượn đồ được không?
Flora tưởng tượng thân hình mảnh mai của mình sẽ lọt thỏm trong những bộ đồ đi mượn. Dì Isobel lắc đầu: – Cho dù trong nhà có sẵn đi chăng nữa, thì cũng chẳng có bộ nào vừa cả.
Bà y tá đằng hắng: – Hồi còn trẻ, tôi vẫn tự tay may lấy quần áo cho mình. Vả lại, tôi cũng có nhiều thời gian rảnh rỗi hơn bà Watty, dì Isobel và Rose.
– Thế có nghĩa là bà sẽ may áo cho Rose ư?
– Nếu có thể được.
Nói xong, bà Watty bảo: – Ở trên gác xép có nhiều cái rương chứa đầy quần áo cũ của bà Armstrong hồi còn trẻ, toàn bằng vải tốt đấy.
Dì Isobel nói: – Nhưng đống quần áo ấy bốc mùi ẩm mốc rồi.
– Nếu giặt sạch sẽ và phơi trong ngày đầy nắng thì mọi chuyện đều ổn thôi.
Như vậy mọi chuyện đã được bàn bạc xong. Bà Watty đặt dao xuống, rửa tay và bảo bà sẽ lên trên gác tìm vải. Nhưng chờ mãi, mọi người đâm sốt ruột. Thế nên cả 4 người leo hết lên gác xép. Gác rất rộng, trải từ đầu nhà này cho đến đầu nhà kia. Gác tối mờ mờ, nồng nặc mùi long não, chất đầy những đồ đạc linh tinh. Bà Watty bật đèn lên, đưa nàng đến thẳng một nơi đặt một dãy rương dọc theo tường. Bà Watty và dì Isobel nâng nắp của chiếc rương thứ nhất. Quần áo, vải vóc nhét đầy bên trong. Mùi ẩm mốc nồng nặc rất khó chịu, nhưng khi người ta lôi đống vải từ bên trong ra thì Flora nhận thấy chưa bao giờ có thứ quần áo nào cầu kỳ đến như thế. Một chiếc áo lụa màu đen đính cườm thật đẹp, áo đầm rời bằng sa tanh màu cánh sen rực rỡ, và cả đống áo khoác bằng vải lanh đắt tiền.
– Hồi ấy, bà nội Tuppy mặc những đồ như vậy sao?
– Phải, hồi bà còn trẻ, bà để ý tới chuyện ăn mặc ghê lắm. Và với bản tính tiết kiệm của dân Scotland, không bao giờ bà mang quần áo của mình cho bất cứ ai.
– Cái này là cái gì đấy ạ?
– Đó là một áo choàng không có tay để mặc vào buổi tối.
Dì Isobel giơ một tấm nhung nhàu nát, có chiếc cổ viền bằng lông thú lên, lớp lông thú đã bị nhện cắn nhàu nát.
– Dì còn nhớ hồi trước bà Tuppy hay mặc chiếc áo này. – Giọng dì càng lúc càng mơ màng như thể đang nghĩ về những ngày xưa tươi đẹp. Tìm mãi mà chẳng thấy gì có thể dùng được. Flora đã bắt đầu hình dung ra chuyến lên đường đi Tarbole ngay bây giờ. Sau đó, lên tàu đi Glasgow mua cho mình một tấm áo mới. Vừa lúc đó, bà Watty lôi ra một cái gì đó màu trắng bằng thứ vải gai mịn có viền đăng ten giống như một chiếc găng tay. Lúc đầu, Flora tưởng thế, nhưng hóa ra đó là chiếc áo đầm có cái cổ cao và hai ống tay dài. Dì Isobel phấn khích hẳn lên:
– Đây là chiếc áo đầm trước đây bà nội thường mặc để đi đánh tennis.
Flora không sao tin nổi: – Áo đầm để đi đánh tennis ư? Một áo đầm tay dài, cổ cao lòe xòe như vậy thì làm sao đánh tennis được nhỉ?
– Có đấy, hồi còn trẻ bà vẫn mặc áo này đấy. – Dì Isobel cầm lấy chiếc áo từ tay bà Watty và ướm thử vào vai. – Bà y tá ơi, bà thấy sao? Liệu có sửa chữa gì được không?
Bà McLeod cầm lấy tấm vải, mân mê nó trong những ngón tay, vẻ đầy hiểu biết. – Ừ, cũng được đấy. May đẹp đấy chứ.
Flora phản đối: – Nhưng nếu cháu mặc thì ngắn quá.
Bà y tá ướm nó vào người cô: – Đúng là nó ngắn thật. Nhưng lời nhận xét của bà y tá thì cái gấu áo rất là đẹp. Và phía trong, vải còn dư rất nhiều. Ta sẽ thả gấu áo xuống cho cháu, khéo đến nỗi không ai có thể nhận ra đâu.
Flora thầm nghĩ: cái áo trông thấy mà ghê. Nhưng ít nhất thì nó không phải là một tấm khăn trải bàn khoác tạm lên người nàng mà cũng là một cái áo váy hẳn hoi. Gì thì gì cũng tốt hơn là phải lặn lội từ đây đến Glasgow.
– Vải này trong suốt á, chắc bên trong phải mặc thêm cái áo lá.
– Không sao. Để tôi lót cho. Lớp vải lót mà màu hồng thì đẹp tuyệt.
Màu hồng ư? – Flora như muốn xỉu, nhưng nàng chẳng nói gì. Bà Watty và dì Isobel nhìn nhau nghi ngờ. Bà Watty nhớ ra rèm cửa trong phòng dì Isobel mới thay, và họ đã đặt rất nhiều vải lanh để làm công việc ấy. Họ còn có một tấm vải rất dài, mới tinh vẫn còn nằm ở đâu đó. Cuối cùng, sau khi suy nghĩ và đào bới khắp mọi nơi, bà Watty đi xuống lôi nó ra từ trong một cái ngăn kéo bàn.
– Tôi nghĩ ra đã cất nó ở đâu mà. Cất kỹ quá tìm không có ra.
Đó là một tấm vải màu xanh chân sáo.
– Cháu nghĩ sao nào? Bà hỏi Flora.
Ít nhất thì màu xanh cũng còn đỡ hơn màu hồng. Mà khi giặt sạch đi thì tấm áo mới của nàng cũng không đến nỗi tệ lắm. Nàng nhìn lên thấy sáu cặp mắt đang đổ dồn vào mình nôn nóng mong nàng đồng ý. Chẳng khác nào 3 nàng tiên trong truyện cổ tích cô bé ngủ trong rừng. Họ đứng đó chờ đợi biến nàng trở thành một người đẹp trong vũ hội của hoàng tử. Flora cảm thấy xấu hổ vì những ý nghĩ chán nản khi nãy của mình. Nàng cố tươi tỉnh lên cười và bảo họ rằng: nếu như nàng có lùng sục khắp một tuần ở các cửa hàng thời thượng nhất thì cũng không thể nào tìm ra được một cái áo nào hoàn hảo hơn cái áo này.
Chiều đến rồi mà lá thư dày cộm có đề địa chỉ gửi cho Ronald Waring vẫn chưa được gửi đi. Chỉ vì một lý do rằng Flora chẳng có con tem nào. Lý do khác nữa là nàng chẳng biết kiếm đâu ra một cái thùng thư. Sau bữa trưa, khi dì Isobel hỏi nàng giờ nàng định làm gì, Flora mới chợt nhớ ra bức thư.
– Dì không cảm thấy phiền nếu như cháu định đi Tarbole chứ ạ? Cháu có một lá thư cần phải gửi đi.
– Trời ơi, sao dì lại phải phiền vì chuyện ấy cơ chứ? Trái lại, cháu đi quả là may cho ta, bởi vì trong nhà đã hết kem rồi. Cháu có đi bỏ thư thì nhớ mua về một ít. Và nếu cháu có thể rước Jason về thì sẽ đỡ cho bà Watty khỏi một chuyến đi xa. Chợt bà nhớ ra một ý: – Cháu lái xe được không?
– Được chứ ạ. Nếu như mọi người không ngại cho cháu mượn một cái xe.
– Vậy cháu lái xe tải đi. Xe tải chẳng còn đẹp đẽ gì đâu, nếu như cháu có va quệt vào đâu đó thì cũng không sao. – Bà Isobel nói tỉnh bơ.
Khi mọi người đều biết nàng chuẩn bị đi Tarbole thì ngay lập tức, Flora được giao cho một đống việc lặt vặt cần phải làm. Bà y tá muốn có chỉ may loại tốt, lụa màu xanh để viền vào chiếc áo mới. Bà Tuppy muốn khăn giấy và khoảng hơn một ký lô kẹo bạc hà thật là cay, loại cay nhất. Flora với một danh sách đồ cần mua sắm trong tay vào nhà bếp tìm bà Watty.
– Cháu sắp đi Tarbole, cháu sẽ đón Jason sau khi thằng bé tan học. Bác có muốn mua gì không ạ?
– Ông Watty đã biết là ông ấy không phải đi Tarbole hay không?
– Chưa ạ, cháu định khi nào đi, cháu sẽ nói cho bác trai hay. Dì Isobel bảo cháu có thể lấy xe tải ở nhà để đi.
– À, nếu ông Watty không đi… – bà Watty vừa nói vừa đi ra phía tủ lạnh -… thì cháu hãy trao cái này đến tận tay người nhận cho bác. – Và bà lôi ra trong tủ lạnh một cái bánh to tướng, đặt trong một cái đĩa khổng lồ.
– Bác muốn cháu đưa cái bánh này cho ai ạ?
– Cho bác sĩ Kyle.
Bà lấy cuộn giấy dầu to tướng trong ngăn kéo ra, cắt ra một tấm lớn bọc bánh lại: – Nhân tiện làm bánh cho bữa tối ngày mai, ta đã nói với bà Isobel rằng ta cũng sẽ làm một tấm bánh mì lớn cho người đàn ông tội nghiệp vụng về hiện đang phải sống thiếu người quản gia. Ít nhất thì thằng bé cũng có thể có một bữa ăn đầy đủ dinh dưỡng với cái bánh này.
– Nhưng cháu chẳng biết anh ta sống ở đâu. Cháu không biết nhà anh ta ở chỗ nào.
– Ở Tarbole ấy, trên đỉnh đồi. Cháu sẽ tìm ra ngay. – Bà Watty nói như thể Flora đã đến đó rồi. Bởi vì cháu sẽ tìm thấy tấm bảng phòng mạch gắn bên cửa và cả một tấm bảng bằng đồng gắn ở ngoài cửa chính nữa.
Bà đưa cho Flora cái hộp, trong đựng chiếc bánh. Cái bánh thật lớn, nó có thể nuôi sống bác sĩ Kyle ít nhất là 4 ngày.
– Cháu phải giao bánh theo cách nào đây? Cứ để ngay ngưỡng cửa rồi bỏ đi à?
Rõ ràng bà Watty nghĩ Flora là một kẻ đầu óc đặc sệt. – Không, mang nó vào trong nhà bếp và bỏ nó vào trong tủ lạnh nhà bác sĩ ấy.
– Thế nếu cửa khóa thì sao ạ?
– Thì có chìa khóa giấu ở hốc tường bên trong cột nhà ấy, bên tay phải, cháu nhớ chưa?
Flora đi lấy mấy thứ cần cho chuyến đi Tarbole, nàng bảo: – Hy vọng cháu mang cái bánh này đến đúng nhà người cần nhận.
Sau đó, nàng ra khỏi cửa hậu, mặc bà Watty đứng đó phì cười như thể nàng nói đùa vậy. Nàng tìm thấy ông Watty ngoài vườn rau. Flora mang lời nhắn đến ông: bà Armstrong cho nàng mượn xe tải và nàng sẽ đưa Jason về nhà, ông Watty bảo nàng: xe ở trong gara đấy, chìa khóa cắm nguyên ở trong ổ. Ông còn nói thêm: lái xe này không khó, cũng như lái bất cứ cái xe bình thường nào khác mà thôi. Đúng là lái xe này có thể sẽ rất dễ dàng, nhưng vấn đề ở chỗ, đây là một cái xe tải trông hết sức kỳ quái, nó là niềm tự hào của bà Tuppy, là nỗi xấu hổ của bà Watty và là chủ đề cho mọi lời đàm tiếu ở Tarbole. Bởi vì nó đã quá cổ lỗ và xấu xí. Khi nhìn thấy chiếc xe lần đầu tiên, Flora đã thấy nó hết sức lạ lùng rồi. Nàng ngồi vào đằng sau tay lái, khởi động máy và chậm rãi cho xe chạy về phía Tarbole, thị trấn nhỏ, sôi động trong những hoạt động buổi chiều, cảng đầy thuyền neo đậu, cầu cảng đông nghẹt toàn xe đông lạnh. Tiếng động cơ ầm ì vọng vào từ những cần cẩu ngoài xa, tiếng la hét và tiếng kêu buồn thảm của những con hải âu tham ăn, chỗ nào cũng thấy người là người. Những ngư dân mặc bộ đồ đi biển không thấm nước màu vàng. Tài xế xe tải mặc quần yếm, nhân viên cảng mặc đồng phục. Đây đó có những phụ nữ đi ủng cao su, đeo tạp dề sọc và tất cả mọi người đều tham gia vào guồng máy thương mại phức tạp, bao gồm dỡ cá từ tàu lên bờ, cân cá, đóng gói đưa lên những chiếc xe tải đang đợi sẵn và sẵn sàng chạy xe lên đường tới những miền xa xôi nhất. Nàng còn nhớ những gì Antony kể cho nàng nghe về Tarbole. Chỉ trong một thời gian ngắn, nó đã biến đổi từ một làng chài nhỏ trở thành một trung tâm của nền công nghiệp cá mòi và như một hiệu quả của sự biến đổi ấy, sự thịnh vượng cũng bắt đầu in dấu lên thị trấn này. Nàng đi xuôi xuống con đường từ Fernrigg đến Tarbole, Flora đi ngang qua một ngôi trường mới, đáp ứng nhu cầu số lượng trẻ em tăng đột biến của Tarbole.
Hội đồng thành phố ở ngay trên đỉnh đồi, đằng sau thị trấn. Lúc này trên đường chẳng những đầy ắp những xe đông lạnh chở cá mà xe hơi cũng đã bắt đầu tràn ngập đường phố gây nạn ách tắc giao thông liên miên trên những con đường xung quanh cảng. Sau khi lái chiếc xe tải của nhà Fernrigg chạy một vòng khoảng 5 phút đồng hồ, Flora đậu xe ngay bên cạnh một tấm biển có đề cấm đậu xe ở đây. Nàng đâu có đi mua sắm, và cũng chỉ chui khỏi xe một tí thôi mà. Thứ nhất là mua vài đồ lặt vặt cũng nhanh thôi, thứ hai là nàng đã thấy bưu điện rồi, chỉ thả thư vào là xong. Nàng mua tem, dán nó vào phong bì, ghi địa chỉ của cha nàng, ngần ngừ hồi lâu mới thả vào thùng thư. Nàng nghe nó rơi đánh thịch một cái vào bên trong thùng thư, nhưng vẫn còn đứng đó ngần ngừ một lát, không biết nên mừng hay nên vui vì cuối cùng cũng đã gửi được cái khối tâm sự ấy đi mà không biết rồi đây cha nàng sẽ phản ứng với những thông tin trong bức thư ấy như thế nào. Nàng nghĩ: lúc đầu cha nàng sau khi nhận được thư sẽ tự đọc nó một lần trước, sau đó có thể đọc thật to lên cho dì Marcia cùng nghe. Cũng may là có dì Marcia, mọi chuyện cũng bớt nghiêm trọng hơn. Chắc ông cũng nghĩ chuyện xảy ra với Flora cũng chẳng có gì là tồi tệ, quan trọng hơn, bà Marcia sẽ thuyết phục ông rằng chuyện chẳng có gì hết trơn và thế là đâu lại vào đấy. Nàng quay lại xe, nhưng khi đến ngã tư đường, nàng kinh hoàng thấy một cảnh sát giao thông còn trẻ đang đứng cạnh xe của nàng, Flora bắt đầu chạy, định xin lỗi mong anh ta tha thứ, sau đó nhào vào trong xe nổ máy phóng đi thật nhanh, nhưng khi nàng đến bên, anh ta chỉ hỏi:
– Cô là người nhà của bà Armstrong phải không?
Nàng sửng sốt: – Vâng, phải ạ.
– Thấy chưa, nhìn cái xe kỳ cục này là tôi nhận ra ngay.
– Xin lỗi, xin lỗi, tôi cứ tưởng…
– Cô xuống thị trấn giải quyết vài chuyện lặt vặt phải không?
– Phải, tôi mang bánh đến cho bác sĩ Kyle, sau đó lại còn phải đón Jason, rước nó về đến nhà nữa.
– Nếu cô định đến nhà bác sĩ Kyle thì cứ việc để xe ở đây, đi bộ lên trên đồi ấy, đừng lo, để tôi trông cho.
– Ôi, cảm ơn anh quá.
Anh ta mở cửa xe dùm cho cô với một vẻ nịnh đầm hết chỗ nói. Cô lôi hộp bánh trong xe ở phía sau ra. Viên cảnh sát giao thông nhìn cô với một vẻ nhân từ hiếm thấy.
– Anh này, làm ơn chỉ cho tôi nhà Kyle ở đâu?
– Trên đồi ấy, căn nhà cuối cùng, bên tay trái. Ngay cạnh nó là khách sạn, nó có vườn ngay đằng trước, nhà bác sĩ Kyle cũng có bảng tên ngay ngoài cổng ấy.
– Cám ơn anh nhiều.
Viên cảnh sát cười, ngượng ngập: – Không có chi.
Quả đồi kia quá dốc, dốc đến nỗi ngay cả vỉa hè cũng phải chia thành bậc nhỏ. Leo lên đồi giống như leo lên một cái cầu thang dài vô tận vậy. Cầu thang ấy đi qua một dãy nhà nhỏ nằm san sát quay mặt ra đường, sau đó đến một quán rượu rồi lại đến một dãy nhà khác. Càng lúc nhà càng lớn hơn và càng lên cao, những mảnh vườn trước nhà càng rộng ra hơn. Cuối cùng, gần lên tới đỉnh đồi, Flora thấy căn nhà cuối cùng to nhất, vững chãi, xây không kiểu cách tụt hẳn vào trong. Có một lối đi lát gạch chạy thẳng từ cổng vào bậc tam cấp. Bên cạnh căn nhà còn có một ngôi nhà khác xây bằng bêtông trắng đứng cạnh ngôi nhà chính. Cái nhà bằng bêtông ấy trông giống một cái hộp giày khổng lồ. Vì không chắc có phải cái nhà này hay không, cho nên Flora tìm tấm bảng bằng đồng gắn trên cổng sắt, đúng là có tên Hugh. Flora đẩy cánh cổng sắt, bước theo con đường dốc đến trước thềm nhà.
Nàng nhấn chuông, nhưng sau khi nghe âm thanh buồn thảm vọng lại nàng biết chẳng có ai ở nhà rồi. Sau một chặng đường leo dốc quá dài, chiếc bánh trong tay đã trở nên nặng trĩu. Nàng lại nhấn chuông để tỏ ý lịch sự, sau đó thò tay vào trong hốc tường tìm chìa khóa cổng chính, chìa khóa này to không tưởng, nên Flora tìm thấy ngay, nàng tra chìa vào ổ, quay một vòng và mở cửa ra.
Bên trong là tiền sảnh lát gạch, cầu thang lên lầu tối om, trong nhà có cái mùi đặc trưng của các cửa hàng bán đồ cổ. Tuy có hơi hăng hắc đấy nhưng cũng dễ chịu, nàng bước vào trong, để cửa mở. Nàng thấy có một cái tủ để mũ, nón, ô dù kiểu cổ, một cái bàn nhỏ xinh xắn và vài cái ghế tựa bằng sắt xi, mọi thứ trông đều cũ kỹ. Trong tiền sảnh còn có thêm một cái đồng hồ, nhưng nó đã chết từ rất lâu. Nàng không hiểu tại vì đồng hồ hỏng hay chẳng có ai buồn lên giây.
Khi mở cánh cửa phía bên tay phải nàng, chưa bao giờ Flora chứng kiến một cái phòng khách nào lại thiếu sức sống đến thế. Đồ đạc chỗ nào là để yên chỗ đó, chẳng có bình hoa cũng chẳng có cửa kính, cửa chớp gì cả. Nàng đóng cửa, mở cánh cửa đối diện, một phòng ăn xây kiểu từ thời hoàng hậu Victoria, cái bàn bằng gỗ gụ rộng mênh mông, phía góc để mấy chiếc bình thon cổ và những khay bằng bạc, tất cả ghế đều được dựng sát vào tường, và ngay cả trong phòng này nữa, các cửa kính, cửa chớp cũng đóng im ỉm. Flora thầm nghĩ: Đây chẳng khác nào là một nhà tang lễ. Nghĩ thế, nàng bước lặng lẽ vì không muốn mấy con ma giật mình tỉnh giấc. Flora đóng cửa lại, bước ra ngoài hàng lang đi ra dãy nhà phía sau để tìm nhà bếp.
Tới đây thì những trật tự như ở trong nhà mồ kia biến mất hẳn. Bếp nhà này không rộng lắm, ngược lại, so với kích thước của cả ngôi nhà thì bếp quá nhỏ là đằng khác. Nhưng tất cả mọi thứ hình như đều dựng ngược hết cả lên, xoong, nồi, chảo rán, nồi hầm đều treo hết lên tường. Bồn rửa chén chất ngập bát đĩa dơ, bàn ở giữa phòng cũng còn nguyên chứng tích của một bữa ăn chắc chỉ trôi qua có vài phút, và rõ ràng chẳng ngon lành gì cả. Trừ phi có người nào đó trên đời lại có thể say sưa được với món bánh bột bắp, trứng chiên, bánh táo. Không lẽ ba thứ đó lại đủ hợp thành một bữa ăn thịnh soạn. Cuối cùng là một chai whisky đã uống hết một nửa đứng sừng sững giữa bàn. Chính cái chai rượu ấy đã thay đổi hắn khung cảnh lộn xộn thành một nơi ẩn chứa những hiểm họa nhãn tiền.
Tủ lạnh dựng trong góc tường, cạnh nồi cơm điện. Flora đến bên, lau chân vào tấm thảm đã bị rách mất một góc, chẳng ngờ tấm thảm rách thêm ra một miếng và lập tức Flora đứng sững người. Nàng cúi xuống lật tấm thảm lên, thấy sàn nhà dơ dáy không sao chịu nổi, như thể đã một tuần nay không có ai lau nhà, chỉ quét sơ sơ và bao nhiêu rác rưởi đều tống hết xuống dưới tấm thảm này. Nàng mở tủ lạnh tống ngay cái bánh vào trong, chỉ sợ lại phải chứng kiến thêm nhiều cảnh kinh hoàng nữa.
Đóng cửa tủ lạnh lại, nàng tựa lưng vào tủ nghĩ ngợi mông lung. Rõ ràng cái bà Jessie MacKenzie kia quá dơ bẩn và luộm thuộm, Hugh tống khứ bà ta đi được ngày nào tốt ngày đó. Ngay cả một người đàn ông tắc trách cũng không thể nào để cho nhà bếp bừa bộn như thế hàng biết bao nhiêu ngày trời. Nàng nhìn căn bếp tuyệt vọng, cảm thấy thương thay cho Hugh, và cũng ngay lập tức nàng hiểu nếu như anh ta biết nàng đã nhìn thấy anh ta sống và sinh hoạt ra sao thì chắc viên bác sĩ này sẽ bẽ mặt lắm. Với ý nghĩ đó, giác quan thứ sáu mách bảo nàng hãy nhón gót ra khỏi nơi này, cứ để cho Hugh nghĩ rằng chính ông Watty mang bánh đến cho anh.
Hơn nữa, nàng còn phải đi đến trường rước Jason. Flora nhìn đồng hồ và phát hiện ra mới có 3 giờ thiếu 15, một giờ nữa mới phải đến trường. Nàng phải làm gì cho hết khoảng thời gian đó đây? Đi tản bộ quanh cảng ư? Hay vào uống một ly cà phê tại quá bar của Sandy. Tất nhiên nàng sẽ chẳng làm thế. Nàng lôi bao tay ra, cởi nút áo khoác treo lên cái móc đằng sau cánh cửa ra vào và xắn tay áo lên. Flora à, mi là đồ ngốc. Nàng tự nhủ mình như thế và tìm quanh kiếm cái tạp dề.
Nàng thấy một cái treo ở bồn rửa chén. Tạp dề màu xanh dương, to như tạp dề của chàng đồ tể. Cái tạp dề ấy đủ quấn quanh thân hình nàng tới hai vòng. Nước nóng như sôi. Nàng nghĩ đó là một sự khởi đầu rất tốt, là dấu hiệu đáng mừng nhất từ khi nàng bước vào căn nhà tối thui này. Flora tìm kiếm vu vơ trong cái kệ dưới bồn rửa chén, không ngờ tìm được một cái bàn chải, xà phòng, bột giặt và một bịch đầy những mớ bùi nhùi bằng sắt để cọ nồi. Có vẻ như Jessie McKenzie cũng để ý đến những đồ lặt vặt trong nhà mặc dù chẳng bao giờ cô ta để ý đến nó. Bấy nhiêu cũng là xa hoa lắm với Flora lúc này. Sau khi rửa xong, chuẩn bị cất đồ đi, Flora chất đống đĩa sạch vào trong kệ treo ly tách và bình nước lên mấy móc rồi quày quả quay sang rửa đống nồi dơ. Khi xong việc, đám nồi không những chỉ sạch sẽ mà còn sáng bóng lên. Flora bắt đầu đặt chúng theo thứ tự từ lớn đến bé lên cái kệ đặt ngay phía trên bếp, trông chúng không những ngăn nắp mà còn bắt mắt nữa. Một khi bồn rửa chén đã được cọ rửa sạch, không còn bát đĩa dơ thì phần dọn dẹp những gì còn lại trong căn bếp nhà Hugh Kyle chỉ mất thêm chút thời gian thôi. Nàng lau bàn, quăng mấy cái bánh thiu đi, đặt chai rượu whisky vào nơi khuất tầm mắt, sau đó đến rũ khăn trải bàn. Nàng dùng khăn ẩm lau đi lau lại mặt bàn nhiều lần. Mọi thứ trong nhà sáng bóng lên, không có gì sung sướng bằng tự tay mình biến một căn phòng dơ dáy trở nên hoàn toàn sạch sẽ, Flora tự thấy thỏa mãn. Phần việc còn lại là lau sàn nhà. Nàng nhìn đồng hồ, mới chỉ có 3giờ 20 thôi, Flora lôi tấm thảm rách mang ra ngoài cửa hậu, tìm cây chổi, nàng quét nhà cho sạch sẽ. Hình như cả mấy tháng nay chẳng ai quét dọn gì cả. Sau đó, nàng pha đầy một xô xà bông đặc và bắt đầu công việc chà rửa.
Nửa ký xà bông với 3 cái xô ngầu bọt giúp nàng sắp sửa lau xong sàn nhà rồi. Tấm simili lót sàn ướt rượt bóng lên, mùi thơm mát mẻ, dễ chịu. Chỉ còn cái hốc bên trong tường nhà còn dơ thôi. Flora thò tay vào trong, lo sợ phải sờ vào một con chuột nhắt hoặc một đống nhện đen xì. Nhưng nàng không ngần ngại dùng bàn chải chà thật mạnh. Dòng nước đen ngòm từ trong hốc tường dơ dáy chảy ra. Cuối cùng, sau một hồi chà rửa cật lực, nàng đặt bàn chải xuống, vắt khăn cho thật khô, lau kỹ để cho không một ngấn nước nào còn sót lại trên mặt tường.
Thế là xong, Flora quay lưng lại đứng lên rời khỏi hốc tường. Vừa lúc ấy, nàng nhận ra giữa đám chân ghế chân bàn lộn xộn trong nhà bếp có thêm một cặp chân mới mọc lên trên nền nhà sạch bóng. Đôi chân ấy mang một đôi giày màu nâu bằng da, có đế kếp. Trên đôi giày là hai cái gấu quần. Vẫn còn ngồi xổm, Flora đưa mắt từ từ nhìn lên phía trên cho đến khi cặp mắt của nàng dừng trên khuôn mặt kinh ngạc của Hugh Kyle.
Khó có thể nói trong hai người ai là kẻ ngạc nhiên hơn. Đột nhiên, Flora kêu lên:
– Thôi chết rồi.
– Cô nói thế nghĩa là sao?
– Tôi đâu có nghĩ anh về nhà sớm thế.
Hugh Kyle chẳng trả lời trả vốn gì cả, đứng đó nhìn quanh nhà, vẻ mặt ngỡ ngàng như từ trên trời rơi xuống:
– Cô làm cái quái gì ở đây thế?
Nàng tức tối vì bị phát hiện ra mình đang ở trong nhà Hugh. Chẳng phải vì sợ anh ta cho mình làm việc lâu la mà bởi vì sợ Hugh ngu ngốc tỏ thái độ phản đối công việc ôm rơm rặm bụng mà nàng đang làm. Bằng giọng bực bội và kiêu kỳ, nàng nghiêm giọng đáp:
– Thế anh nghĩ tôi đang làm gì hả? Cọ sàn nhà chứ còn làm gì nữa.
– Nhưng đáng lý ra cô không nên làm thế.
– Sao lại không nên? Nhà anh dơ hầy!
Anh ta nhìn xung quanh, những cái kệ sáng bóng lên, bồn rửa chén được cọ rửa sạch sẽ và cả đống nồi xoong được treo thành hàng theo thứ tự trên tường. Cặp mắt anh ta quay lại chiếu thẳng vào mặt nàng, trông anh ta vẫn còn ngơ ngác lắm. Hugh đưa tay vuốt cái cần cổ, khi một người đàn ông có cử chỉ như thế tức là anh ta đã chẳng còn biết tìm lời nào mà nói.
– Tôi phải nói rằng cô tốt bụng đến quá mức tưởng tượng đấy, Rose ạ. Cám ơn cô nhiều lắm nhé.
Nàng chẳng cần anh ta phải tỏ ra ân nghĩa đến thế, nàng bảo: – Rất vui lòng được giúp đỡ.
– Nhưng tôi vẫn không hiểu cô đến đây làm gì.
– Bà Watty làm một cái bánh cho anh, bà bảo tôi mang bánh đến, ở trong tủ lạnh ấy. – Chợt một ý tưởng nảy ra trong óc vuột ra khỏi miệng nàng: – Tôi không nghe thấy tiếng chân anh bước vào đây.
– Thì cửa trước mở mà.
– Ôi lạy Chúa, tôi quên không đóng cửa.
Tóc tai hai bên mai xòa xuống mặt, nàng dùng mu bàn tay gạt nó sang một bên rồi đứng dậy. Chiếc tạp dề to tướng dài chấm mắt cá chân Flora. Nàng cầm cái xô lên, đổ nước dơ xuống cống, vắt thật kiệt giẻ lau và trải nó lên trên cửa của cái kệ dưới bồn rửa chén. Nàng đóng cửa lại, quay sang đối mặt với Hugh và bình tĩnh thả ống tay áo xuống, nói gọn lỏn: – Người giúp việc nhà anh vô dụng thật đấy. Anh nên kiếm người khác chăm sóc mình đi.
– Cô không biết đấy thôi. Jessie đã làm hết sức mình rồi. Chuyện bừa bộn này chẳng qua là vì cô ấy đi vắng mấy ngày hôm nay. Jessie đi thăm mẹ ở Portree.
– Khi nào cô ta quay về?
– Tôi không biết, ngày mai hay có thể ngày mốt.
– Thế thì anh nên gọi cô ta đến thông báo anh sắp tìm người khác thay thế. Giọng nàng nhấm nhẳn bởi vì nhìn cái mặt của Hugh là nàng đã thấy khó chịu rồi, không hiểu anh ta làm ăn thế nào mà mặt mũi trông phờ phạc ra thế kia. – Tức cười thật đấy, anh là bác sĩ của cả cái thị trấn này, nhất định phải có người nào đó đến giúp anh chứ, ví dụ như cô y tá của anh chẳng hạn, cái người vẫn giúp anh làm việc ở phòng mạch ấy.
– Cô ấy là phụ nữ đã có chồng và luôn bận rộn chăm sóc ba đứa con, như thế cũng đã đủ mệt mỏi cho cô ấy lắm rồi.
– Nhưng không lẽ cô ấy không thể tìm được ai có thể đến để giúp việc cho anh sao?
– Hugh lắc đầu: – Tôi không biết.
Nàng đã thấy anh ta mệt mỏi, nhưng giờ nàng nhận ra Hugh còn bất cần nữa. Thậm chí anh ta còn không buồn hỏi người này, người kia tìm giúp cho mình một người giúp việc khác. Nàng bắt đầu thấy mình vô lý. Ai lại đi mè nheo hệt như một bà vợ đành hanh đỏ mỏ vậy. Nàng cố nói giọng dịu dàng hơn.
– Anh biết không, anh làm tôi ngạc nhiên không kém tôi làm anh kinh ngạc đâu. Đột nhiên anh ở đâu hiện ra vậy?
Hugh nhìn quanh tìm ghế để ngồi xuống. Anh thấy đống ghế tựa đã được xếp gọn ghẽ nơi góc nhà liền đến bên lấy ra một cái đặt bên cạnh bàn: – Tôi vừa ở Lochgarry về. – Hugh nói với nàng. Anh ta ngồi xuống, gác hai chân đan vào nhau, tay vẫn đút trong túi quần. – Tôi vừa ở bệnh viện về, phải thăm bệnh cho Angus McKay.
– Có phải ông già mà anh kể cho tôi nghe. Ông ta sống ở Loch Fhada phải không? Cái ông cụ té từ trên cầu thang xuống đấy.
Hugh gật đầu.
– Cuối cùng ông cụ đã chịu vào bệnh viện nằm ư?
– Phải. Nói mãi thì ông cụ cũng đồng ý thôi. Nói đúng hơn là ông ta đã bị thuyết phục.
– Anh thuyết phục ông ta phải không?
– Phải, chính tôi. Sáng nay, một chiếc xe cứu thương đến Boturich rước ông ấy vào bệnh viện. Chiều nay tôi đến phòng bệnh của ông để khám. Trong phòng có 5 ông cụ nữa. Những người ấy chỉ còn biết nhìn trừng trừng vào bức tường trước mặt để chờ thần chết đến mang mình đi. Ông Angus McKay vẫn còn chưa hiểu chuyện gì xảy ra, tôi cố làm cho cụ vui bằng một liều thuốc chữa tim, nhưng cụ cứ nằm đó trừng mắt nhìn tôi, làm như tôi là kẻ sát nhân không bằng.
– Nhưng việc gì anh cứ phải mặc cảm như thế? Lỗi có phải tại anh đâu, chính anh bảo con dâu của ông ta có trách nhiệm chăm sóc ông cụ cơ mà. Nếu trong lúc cô ta quay đi làm việc gì khác, ông cụ lại té xuống cầu thang một lần nữa thì sự việc còn tồi tệ hơn.
Anh ta cứ để cho nàng nói mà không ngắt lời. Khi nàng nói xong, Hugh im lặng một lát, nhìn nàng qua cặp lông mi dài.
– Rose à, ông ấy già rồi. Người già thường hay lo lắng và thường bị lẫn, thế mà chính tôi lại lôi cụ rời khỏi tổ ấm của mình. Làm thế thật quá khủng khiếp với bất cứ người nào như cụ. Ông cụ ấy được sinh ra ở Boturich, cha cụ là nông dân và ông nội của cụ cũng là nông dân. Angus đưa vợ mình quay trở lại Boturich, con cái họ cũng đã được sinh ra và lớn lên ở đó, bây giờ, khi đã gần đất xa trời, khi mà chúng ta chẳng còn làm được gì hơn nữa để cho ông cụ có thể vui sống hơn thì chúng ta lại lôi cụ ra khỏi nơi chôn rau cắt rốn, bỏ mặc cụ cô đơn nằm đó chờ những người xa lạ đến chăm sóc.
Flora sững sờ không hiểu một bác sĩ như anh ta lại để cho tình cảm lấn lướt đến mức độ như vậy.
– Nhưng làm như vậy là hợp lý rồi. Còn sự đời, anh có cố đến đâu cũng không thay đổi được. Hay anh có cách gì làm cho người ta trường sinh bất lão?
– Cô không biết đấy thôi, Angus không như những người bình thường khác. Ông ấy đã trở thành một phần máu thịt của tôi. Trong những năm tháng còn nhỏ, tôi không bao giờ quên người bệnh nhân ấy. Cha tôi là một bác sĩ luôn bận rộn, ông không có đủ thời gian để chăm sóc con, thế nên vào những ngày thứ Bảy đẹp trời, tôi thường đạp xe 15 dặm từ Loch Fhada đến Boturich để gặp ông Angus Mckay, nhớ lúc ấy ông còn là một người đang ở tuổi trung niên, cao, giọng nói sang sảng, khỏe như bò mộng và trong ký ức của tôi, lúc ấy ông là một nhà thông thái . Mà đúng thế thật, ông biết đủ thứ chim trời, cáo rừng và thỏ rừng, loài vật nào ông cũng rành, ông cũng là tay câu cá hồi cừ khôi. Tôi nghĩ ông là một người thông thái nhất trên đời và cũng có cả sức mạnh nữa, hệt như Chúa trời vậy. Chúng tôi thường đi câu cá với nhau hay leo lên đồi chơi. Ông chỉ cho tôi xem loài đại bàng thường làm tổ và đẻ trứng như thế nào.
Flora mỉm cười, thấy thích bức tranh một già một trẻ bên nhau cùng học hỏi. – Thế lúc ấy, anh bao nhiêu tuổi?
– Khoảng 10 tuổi, chỉ lớn hơn Jason bây giờ một chút.
– Jason. Flora quên bẵng đi Jason, nàng nhìn đồng hồ và phát hoảng lên, vội vàng tháo tạp dề. – Tôi phải đi ngay đây, tôi được người nhà giao việc đến trường đón Jason mà. Nếu không đi nhanh, thằng bé sẽ có cảm giác mình bị bỏ rơi.
– Thế mà tôi cứ tưởng cô sẽ ngồi đây pha trà cùng uống với tôi.
– Tôi không có thời gian. 4 giờ thiếu 15 tôi phải ở đó rồi. Thế mà bây giờ đã là thiếu 20.
– Hay để tôi gọi cho ông hiệu trưởng nhờ ông ấy giữ dùm Jason vài phút được không?
Phản ứng ấy của Hugh thật quá bất ngờ. Flora nghĩ: Tại sao thế nhỉ? Anh ta đang làm lành với mình kìa. Nàng đặt tạp dề xuống – Liệu Jason có buồn không?
Hugh đứng lên: – Thằng bé không buồn đâu. Có đoàn tàu chạy bằng bình điện được lắp đặt ở trong sân trường. Nếu như bọn trẻ học hành giỏi giang, chúng sẽ được phép leo lên tàu đi vài vòng. Thằng bé nhà mình chỉ chờ có thế, nó rất mừng là có dịp được trèo lên tự lái đoàn tàu ấy. – Anh bước ra ngoài hành lang, cứ để cửa mở. Flora đứng như trời trồng nhìn theo tấm lưng của Hugh, rồi nàng nghe tiếng Hugh quay số đến trường học. Flora quay sang bồn rửa chén, lấy đầy một ấm nước đặt lên bếp lửa. Giọng Hugh vang vang trong hành lang:
– Thưa, phải ông Fraser không ạ? Bác sĩ Kyle đây. Có phải cháu Amstrong còn ở trường không? Xin ông làm ơn giữ cháu ở lại trường thêm 15 phút nữa có được không ạ? Vợ sắp cưới của Antony sẽ đến đón thằng bé về Fernrigg, nhưng cô ấy đang bị kẹt một chút. À, nếu như ông muốn biết rõ hơn thì cô ấy đang chuẩn bị pha cho tôi một ly trà, vâng, cô ấy đang ở chỗ tôi. Ôi, thế thì cám ơn ngài quá, ngài quả thật rất lịch sự đấy ạ. Cám ơn ngài, chúng tôi sẽ đợi ở đây, ngài cứ cho thằng bé đến đi, bảo nó không việc gì phải nhấn chuông cửa cả, cứ vào thẳng đây, chúng tôi đang ở trong bếp. Ôi, thế thì còn gì bằng. Tôi phải chịu ơn ngài rồi, cảm ơn ngài, ngài Fraser.
Nàng nghe tiếng Hugh đặt ống nghe xuống, lát sau anh đã ở trong nhà bếp: – Thế là xong, một vị phó hiệu trưởng sẽ đưa Jason về bằng xe riêng của ông ấy và thả thằng bé xuống trước cổng nhà tôi đây.
– Như thế có nghĩa là thằng bé sẽ không được chơi đoàn tàu ở trường ư?
Hugh kê thêm chiếc ghế thứ hai: – Tôi chẳng biết.
Flora tìm thấy một ấm trà sứt vòi, một bình sữa trong tủ lạnh và hai cái ly to tướng trông như đồ cổ, rất xinh: – Tôi chẳng biết đường và trà ở đâu cả.
Hugh lục lọi trong kệ bếp lôi trà và đường ra. Trà được đựng trong một hộp thiếc đã gỉ sét có in hình vua George đệ ngũ bên trên. Bình hết trà rồi còn đâu. Flora dốc ngược hộp trà vào trong bình. Flora bảo: – Hình như anh không mấy khi uống trà. Nhìn hộp trà này, tôi cứ tưởng mình đang sống trong chuyện cổ tích.
– Đúng vậy, mọi thứ trong nhà này đều cổ lỗ, cả tôi cũng thế.
– Từ nhỏ đến lớn, anh sống ở đây sao?
– Hầu như thế, cha tôi sống ở đây 40 năm trời. Nói không ngoa thì ông không muốn thay đổi bất cứ thứ gì từ những chi tiết nhỏ nhất. Khi tôi trở về quê để trông nom tài sản do cha để lại thì tôi có cảm tưởng mình đang sống với quá khứ. Lúc đầu, tôi cũng định sang sửa lại, sắm mới đồ dùng hiện tại, làm cho nơi này hợp thời hơn so với xu hướng nội thất hiện nay. Nhưng rồi tôi phải bỏ công ra xây phòng mạch trước đã. Và khi phòng mạch đã xây xong thì tôi quên luôn ngôi nhà của mình. Hay nói cách khác đi là tôi không buồn để ý tới nó nữa.
Flora thở phào nhẹ nhõm. Ít nhất thì anh cũng chẳng phải sống trong cảnh cơm đường cháo chợ mà đã tự tìm thấy sự hứng thú cho riêng mình. Nước sôi, nàng đổ đầy vào ấm trà, đặt lên trên bàn. Flora lịch sự nói: – Ngôi nhà xây mới vững chãi và hợp ý làm sao. – Nghe giọng cô, người ta liên tưởng tới một bà mẹ luôn tự hào về con mình, chẳng biết nói gì hơn là cứ luôn mồm khen nó mạnh khỏe, mà lờ đi không dám tính đến những tật xấu hỗn hào, hư đốn của nó.
Hugh nói thản nhiên: – Bà Tuppy cho rằng ngôi nhà này của tôi quá lạnh lẽo, bà gọi nó là nhà mồ và tôi càng lúc càng tin lời bà nói là sự thật.
– Nói thế cũng không sai. Nàng bắt gặp cặp mắt ngờ vực của Hugh bèn lập cập nói chữa: – Ý tôi là nếu anh cứ sống như thế này thì khả năng đó rất có thể xảy ra. – Nàng ngồi xuống bàn, rót trà. Không khí trở nên ấm cúng, dễ chịu. Như được tiếp thêm can đảm, nàng nói tiếp: – Nếu anh để ý đến căn nhà một chút xíu thôi thì nó đã trở thành thiên đường rồi đấy. Mọi sự anh cần chỉ là…nàng cố tìm lời…là cố sơn lại ngôi nhà này.
Hugh ngạc nhiên: – Chỉ cần thế thôi sao?
– À, à đầu tiên chỉ thế thôi đã. Nếu nhà cửa được sơn mới thì mọi chuyện sẽ khác.
– Tôi sẽ cố. – Hugh rót sữa, bỏ mấy thìa đường to tướng vào trà, khuấy leng keng như thể người ta đang nhào bột. Sau đó, anh ngửa cổ uống hết và ngay lập tức rót cho mình ly thứ hai. Rót trà xong, anh nói: – Sơn nhà này, rồi kéo cửa chớp lên cho ánh sáng mặt trời chiếu vào các phòng. Sau đó là lau chùi, dọn rửa, rồi thì hoa, rồi thì sách và âm nhạc, rồi thì đốt lửa trong lò sưởi, và thế là ngôi nhà sẽ trở thành một nơi ấm cúng đón chào một thân xác mệt mỏi sau một ngày làm việc trong tiết trời mùa đông lạnh lẽo.
Flora buột miệng: – Anh không cần một bà giúp việc mới mà cần một cô vợ mới. – Một cái liếc sắc lẻm của Hugh khiến cho nàng thầm ước mình đừng nói ra những lời vừa rồi. Nàng nói nhanh: – Tôi xin lỗi.
Nhưng hình như người đàn ông đang ngồi trước mặt nàng kia chẳng có vẻ gì là khó chịu. Anh ta bỏ thêm sữa và đường vào trong ly trà rồi lại tiếp tục khuấy đều lên: – Chắc cô biết tôi đã từng kết hôn? – Đó chỉ là một lời tuyên bố chứ không phải là một câu hỏi.
– Phải, bà Tuppy kể cho tôi nghe rồi.
– Bà còn nói gì với cô nữa?
– Nói rằng vợ anh qua đời trong một tai nạn xe hơi.
– Còn gì nữa không?
– Không. – Nàng thấy mình bắt buộc phải bảo vệ bà Tuppy. – Chỉ vì quá quý mến anh, nên bà mới kể cho tôi nghe thôi. Bà không chịu nổi cái ý nghĩ anh cứ phải sống thui thủi một mình mãi.
– Sau khi kết hôn với Diana. Tôi đưa cô ấy về Tarbole. Vụ ra mắt nàng dâu mới ấy không thể gọi là thành công được. Bà Tuppy có kể cho cô nghe chuyện ấy không?
– Thật ra là không. – Flora bắt đầu cảm thấy khó chịu. – Tôi xin nói thẳng là có đấy.
– Bà Tuppy không thích Diana cũng như những người khác và cho rằng tôi đã phạm một lỗi lầm kinh khủng.
– Đính hôn với Diana là một lỗi lầm ư?
– Phải, ngay từ đầu, tình cảm đã khiến tôi mù quáng. Tôi thậm chí không muốn thú nhận với bản thân về điều đó. Tôi gặp cô ấy ở London. Lúc ấy, tôi là bác sĩ ở bệnh viện St Thomas. Tôi có bạn ở London, anh ấy tên là John Rushmoore, chúng tôi quen nhau từ hồi còn học ở trường Đại học Edingburgh. Thuở là sinh viên, tôi và John thường chơi bóng bầu dục với nhau. Sau đó, anh ấy đến thủ đô và chúng tôi gặp nhau khi tôi đi công cán xuống miền nam. Qua John, tôi gặp Diana lần đầu tiên. Cô ấy và John thuộc về một thế giới khác lạ mà tôi không bao giờ biết rõ. Cái thế giới ấy đã làm lóa mắt một anh chàng như tôi, Diana cũng làm tôi choáng ngợp. Và khi tôi muốn kết hôn với cô, mọi người đều bảo tôi là thằng khùng. Cha cô ấy không hề chấp nhận tôi. Ngay từ đầu, ông ta đã cho tôi là một kẻ đào mỏ, bám theo con gái ông chỉ vì tiền. Nghề bác sĩ của tôi thì có gì là hấp dẫn đâu. Tôi còn hai năm để thực tập và như thế, cuộc sống chưa ổn định thì làm sao có thể làm trụ cột gia đình được, và tất nhiên cha tôi cũng đồng tình với ông ta. Chắc cô nghe có vẻ lạ tai, nhưng hễ cha tôi cho rằng việc gì đó là hay thì đối với tôi việc đó là dở nhất trên đời. Tôi nghĩ mình là người chọc trời khuấy nước, việc gì phải để ý đến ai. Cho nên tôi cứ đưa Diana về nhà ra mắt cha mình. Một phần là để khoe ấy mà. Thuyết phục mãi cô ấy mới chịu đi. Trước đó, cô ấy mới đến Scotland một lần. Hình như là đi săn ngỗng cùng một người quen thì phải và cô ấy chẳng có một ý tưởng nào về Tarbole. Nhưng cuối cùng, tôi cũng đưa cô ấy về đây, ngây thơ tin rằng cha tôi và đám bạn bè của tôi cũng sẽ bị cô làm cho choáng ngợp y như tôi vậy. Nhưng chuyện không diễn ra như thế. Ngược lại, nó làm tôi khổ sở. Hồi đó, mưa suốt khiến Diana căm ghét Tarbole, ghét ngôi nhà này, ghét cả xứ sở này nữa. Đúng vậy, cô ấy luôn gắt gỏng, khó chịu giống như những người phụ nữ cảm thấy trong mình khó ở. Cô ấy chỉ tỏ ra dễ thương, trò chuyện mặn mà với những người nào làm cho cô ấy vui hoặc phấn chấn lên, mà chẳng có ai ở đây làm được điều đó. Cô ấy ăn miếng trả miếng với cha tôi không ngớt, mặc dù chưa bao giờ người ta thấy ông lắm lời cả. Ông hết sức tỏ ra lịch sự vì Diana đang là khách trong nhà ông. Nhưng đến cuối ngày thứ ba thì chúng tôi không sao chịu nổi. Cha tôi bắt đầu nóng mặt, ông uống có đến cả chai rượu whisky, kêu tôi vào trong phòng mạch và bảo rằng tôi điên thật rồi. Ông ấy còn gọi tôi bằng nhiều cái tên khác nữa, những cái tên hay khủng khiếp đến độ tôi không thể nhắc ra đây. Thế rồi tôi mất bình tĩnh và thốt ra những lời cũng không sao nhắc lại cho cô nghe được. Khi cuộc đấu khẩu của hai bố con kết thúc, tôi chẳng còn gì để làm ngoài việc lôi xềnh xệch Diana vào xe hơi và quay trở lại London. Chúng tôi làm đám cưới ngay trong tuần ấy. Cô có thể thấy tôi cưới Diana chỉ vì muốn chống đối với cha mình hơn là thực sự yêu mến cô ấy.
– Thế rồi, mọi sự đều tốt đẹp, êm đềm cả chứ?
– Không, lúc đầu thì không sao. Chúng tôi say nhau như điếu đổ. – Flora vòng tay ôm lấy ly trà nóng cho ấm, nàng nói:
– Nếu như hoàn cảnh khác đi…
– Thì tình hình chẳng có gì thay đổi. Chúng tôi đã phải cố hết sức.
– Vợ anh mất khi nào?
– Sau khi chúng tôi kết hôn được gần hai năm. Tới lúc đó, quả thật chúng tôi đã không còn gần gũi nhau như lúc trước. Khi cô ấy nói sẽ đi nghỉ cuối tuần tại nhà một người bạn học cùng trường cũ, sống ở Wales thì tôi chẳng thắc mắc gì cả. Nhưng khi cô ấy tử nạn thì người ta lại thấy xác của cô ấy trong xe của John Rushmoore, lúc ấy xe do chính John cầm lái, mà họ không đi đến xứ Wales nữa. Họ đến Yorkshire.
Flora tròn mắt nhìn: – Anh vừa nói John là bạn anh cơ mà?
– Đúng vậy, hắn là bạn tôi. Bọn họ đã quan hệ với nhau nhiều tháng trời rồi mà tôi không hề nghi ngờ gì hết. Giờ cháy nhà mới ra mặt chuột, mọi người đều biết hết chuyện xấu xa ấy, nhưng chẳng ai để tâm an ủi tôi cả. Cảm giác vừa mất vợ vừa mất bạn khiến tôi kiệt sức. Tồi tệ nhất là thể diện cũng không còn. Tôi đã mất hết.
– Không lẽ John Rushmoore cũng tử nạn trong lần ấy ư?
Hugh nói như không có chuyện gì xảy ra:
– Không. Anh ta vẫn còn sống.
– Đó là lý do anh bỏ hết công việc ở London quay về sống ở Tarbole ư?
– Tôi quay về Tarbole bởi vì cha tôi ốm nặng.
– Anh không bao giờ nghĩ mình sẽ quay lại London ư?
– Không.
– Anh không còn muốn trở thành bác sĩ phẫu thuật nữa ư?
– Không, đã quá trễ rồi. Tôi đã thuộc về nơi này. Có lẽ nơi đây mới thực sự là nhà của tôi. Tôi không nghĩ mình sẽ sống tốt ở thành phố, nơi không có không khí trong lành và hương vị của biển cả.
– Anh giống hệt như…
Flora bắt đầu nhưng nàng đã kịp dừng lại. Nàng định nói anh giống hệt như cha tôi vậy. Say sưa nghe Hugh tâm sự, nàng đã quên mình đang là Rose. Sự khao khát trở về với vẻ tự tin của mình cùng những ký ức của riêng mình làm cho nàng thấy không sao chống đỡ nổi với tình thế hiện thời. Hugh mở cửa, lúc trước cánh cửa này vẫn đóng im ỉm, ngáng tầm nhìn của nàng, và lúc này nàng chỉ muốn chạy ngay ra khỏi cửa tức khắc, nhưng nàng không thể.
Với tư cách là Rose, nàng chẳng thể làm gì cho Hugh. Là Rose, nàng phải tỏ vẻ thờ ơ, không được tỏ bất cứ cử chỉ an ủi nào. Cơn giận dữ trào lên khiến Flora không sao chịu nổi. Và trong giây lát, nàng muốn nói ra sự thực. Trong tình trạng của Hugh hiện nay, Flora biết chắc anh ta sẽ hiểu. Nàng đã hứa với Antony, nhưng suy cho cùng, Hugh là bác sĩ cơ mà. Tâm sự một bí mật với một bác sĩ đâu có gì khác so với lời xưng tội ở nhà thờ cùng cha xứ đâu.
Ngay từ đầu, con tim Flora đã mách bảo nàng phải phản đối kế hoạch dối trá mà mình và Antony cùng nhúng tay vào, đơn giản chỉ vì nó liên quan đến những người không có lỗi gì trong chuyện của Antony cả. Nhưng lúc này đây, cảm giác dối trá ấy đang quay trở về, và Flora đã tự dối mình trong cái vòng luẩn quẩn của nó. Nó trói chân trói tay nàng, xiềng xích nàng khiến nàng không thể làm được gì cả. Hugh vẫn đứng chờ Flora nói cho hết câu vừa rồi. Mãi không thấy nàng nói tiếp, anh ta nhắc:
– Cô vừa nói tôi giống ai hả?
– À…
Nàng chợt nhớ mới hôm qua đây thôi nàng còn hứa với Antony bên bờ biển. Thế nên, nàng ậm ừ…
– À, chẳng quan trọng đâu. Chỉ là một người cũng có cảnh ngộ giống như anh vậy.
Thế là hết, giờ có muốn thú tội cũng chẳng được nữa rồi. Nàng vẫn là Rose. Flora không biết nàng nên buồn hay nên vui nữa. Căn bếp ấm cúng và yên tĩnh. Nếu có tiếng động thì chỉ là từ bên ngoài vọng tới. Có tiếng xe tải rồ máy cố leo lên con dốc trước cổng của căn biệt thự. Tiếng chó sủa, tiếng một phụ nữ xách theo một giỏ nặng trĩu sau khi đi mua sắm về, đang leo lên đồi gọi với người bạn đứng bên kia đường. Không trung vang vọng tiếng kêu thảm thiết của bầy hải âu.
Cuối cùng, sự bình lặng đó bị khuấy động bởi Jason đã về. Cửa trước mở toang, rồi cánh cửa đóng sầm lại khiến Flora giật mình. Flora giật nảy người nhìn Hugh. Khuôn mặt viên bác sĩ bình thản, họ đã quên mất Jason. Giọng cao vút của Jason véo von: – Thím Rose ơi!
Hugh gọi: – Thím Rose của cháu đây nè, trong nhà bếp ấy.
Có tiếng chân chạy dọc theo hành lang, cửa mở và Jason nhào vào:
– Chào thím, thầy Thompson cho cháu đi nhờ xe. Khi ngang qua cảng, thầy chỉ cho cháu một con tàu cực kỳ lớn luôn. Thầy nói con tàu ấy của Đức. Xin chào chú Hugh.
– Chào anh bạn thân.
– Thưa thím Rose cháu mới về. – Thằng bé đến bên nàng, ôm cổ Rose và hôn chiếu lệ lên má nàng.
– Chú Hugh này, cháu vừa vẽ một bức tranh rất đặc biệt tặng bà Tuppy. Cháu vừa vẽ xong hồi chiều nay đậy.
– À, lấy cho chú xem nào.
Jason đánh vật với khóa cặp xách, lôi ra bức vẽ.
– Ôi thôi chết rồi, nó nhàu nát quá đi thôi.
Hugh bảo: – Không sao đâu mà. Mang nó đến đây.
Jason làm theo. Nó ngả người trên đầu gối Hugh. Hugh cầm bức tranh cẩn thận mở ra, tay anh vuốt nhẹ những mép tranh bị quăn lại và đặt nó lên trên mặt bàn. Một lần nữa, Flora phải chú ý đến bàn tay của Hugh. Giờ nhìn đôi bàn tay khéo léo nâng niu bức tranh vấy bẩn đầy những mảng màu chói mắt của Jason, một cảm xúc kỳ lạ dâng lên trong lòng nàng. Nàng nghe tiếng Hugh nói:
– Ồ, tranh đẹp quá! Cháu vẽ cái gì đây?
– Ôi chú Hugh, chú chẳng biết gì cả.
– Thì cháu phải giải thích đi chứ!
– Cháu cũng chẳng biết cháu vẽ gì nữa.
– Vậy, hãy kể lại từ đầu cháu định vẽ cái gì nào?
– À, chú nghe này nhé! Đây là một cái máy bay, còn đây ớ, là một người đang nhảy dù, còn đây là một người theo dù xuống tận dưới đất rồi. Anh ta ngồi ở chỗ này để đợi bạn mình. Và nơi anh ta ngồi là một cái gốc cây.
– À, chú hiểu rồi. Tranh đẹp lắm! Chắc Bà Tuppy thế nào cũng thích đấy. Không, cháu đừng gấp nó lại, để như thế này nó mới phẳng phiu. Thím Rose sẽ mang nó về nhà cho cháu. Và chắc chắn thím ấy sẽ không để cho nó nhăn nhúm nữa đâu. Phải không hả Rose?
Nàng nói lơ đãng: – Cái gì cơ?
Khi nhìn lên, nàng bắt gặp ánh mắt ngạc nhiên của Hugh.
– Tôi vừa nói là cô sẽ giữ bức tranh cẩn thận.
– À, phải. Tất nhiên rồi.
Jason hỏi: – Chú thím đang uống trà à? Có gì ăn được không? – Nó nhìn quanh đầy hy vọng. Flora nhớ tới cái bánh ngọt đang đút sâu ở trong tủ.
– À, thím không biết nữa. Chú thím mới uống trà xong mà.
Hugh bảo: – Hình như trong cái hộp thiếc màu đỏ trên kệ có bánh biscuits thì phải.
Jason lấy cái hộp xuống đặt lên trên bàn và hì hục cạy nắp ra. Thằng bé lôi ra một cái sôcôla to được bọc bằng giấy bạc.
– Cháu ăn được không?
– Nếu có gan thì cứ việc ăn. Chú không biết là cái bánh ấy đã quá hạn sử dụng hay chưa nữa.
Jason xé tờ giấy bọc cắn thử một miếng thật to.
– Ồ, ngon lắm! Hơi ỉu một tí, nhưng không sao.
Vừa nhấm nháp cái bánh, thằng bé hết nhìn Hugh lại nhìn Flora.
– Tại sao thím Rose không đến đón cháu hả thím?
– À, thì thím pha trà cho chú Hugh nè. Cháu không buồn chuyện ấy chứ phải không?
– Không, cháu không buồn đâu mà. – Thằng bé dựa lưng vào người nàng. Nàng ôm lấy vai nó, tựa cằm lên đầu Jason. – Cháu được đi xe điện ở trong trường đấy. – Nó kể bằng giọng hết sức thỏa mãn. Flora cười lớn. Nàng nhìn Hugh, những tưởng anh ta cũng cười vui với nàng. Nhưng hình như Hugh không nghe Jason nói gì. Anh ta lơ đãng và trầm tư. Cặp mắt đăm đăm nhìn hai thím cháu như thể viên bác sĩ này vừa khám phá một sự thật làm cho anh ta mê mẩn.
***
Jason nằm trên giường, sau khi vén chăn mền cẩn thận, bà Tuppy rón rén xuống lầu. Rose đã đi rồi, hôm nay trông cô rất quyến rũ. Brian Stoddart mời cô đi ăn tối.
Dì Isobel ngồi một mình bên lò sưởi. Tai nghe nhạc Mozart, tay thoăn thoắt đan len. Đây là những giây phút hiếm hoi dì Isobel ngồi một mình nghe nhạc Mozart thay vì xem bản tin lúc 9 giờ trên tivi. Tối này dì Isobel cảm thấy có chút tội lỗi bởi vì bà Tuppy thường xem bản tin lúc 9 giờ, chỉ vì bà ốm đau, nên dì Isobel mới được thảnh thơi như thế mà ngồi nghe nhạc Mozart. Cả ngày hôm nay, dì đã bận lắm rồi, sau khi gọi điện đi khắp nơi, dì Isobel thấy mình dường như kiệt sức. Mặc kệ cái cảm giác áy náy, dì Isobel cứ tiếp tục đan và tận hưởng cảm giác thư giãn. Có tiếng chuông điện thoại reo. Dì thở dài nhìn đồng hồ, bỏ kim đan và cuộn len sang một bên ra ngoài hành lang nghe điện thoại. Người gọi là Hugh Kyle.
– Hugh đấy hả cháu?
– Dì Isobel phải không ạ? Xin lỗi đã làm phiền dì, nhưng Rose có nhà không hả dì?
– Không. Rất tiếc Rose đi vắng rồi.
– À, thế thì thôi ạ.
– Cháu có nhắn gì không?
– À, chiều nay cô ấy đến đây, mang cho cháu cái bánh ngon tuyệt của bà Watty, cô ấy để quên găng tay ở nhà cháu. Đó là cháu cũng đoán là găng tay của cô ấy thôi. Cháu không muốn Rose buồn vì nghĩ là mình làm mất găng tay.
– À, dì sẽ nói với con bé. Tối nay thì chắc dì không gặp được Rose rồi. Nhưng sáng mai dì sẽ nói ngay, để cho Rose yên tâm.
– Rose đi chơi rồi hả dì?
– Ừ.
Isobel mỉm cười. Bởi vì ít nhất không có Antony thì cô cháu dâu của dì Isobel vẫn có được những giây phút vui vẻ. Dì Isobel nói rõ với Hugh:
– Brian Stoddart đưa Rose đi ăn tối.
Im lặng kéo dài, sau đó là giọng Hugh thảng thốt.
– Cái gì cơ ạ!
– Brian Stoddart đưa Rose đi ăn tối. Anna đi vắng mấy hôm, hai đứa ấy cũng thấy buồn nên rủ nhau đi chơi rồi.
– Họ đi đâu thế ạ?
– Dì nghĩ chắc là đến Lochgarry. Hình như Brian có nói đến Fishers’ Arms thì phải. Trước khi đi, Brian có ngồi ở đây uống vài ly với gia đình mà.
– Cháu hiểu rồi.
– Yên tâm về chuyện găng tay đi. Dì sẽ nói với Rose cho.
– Cái gì cơ ạ? – Giọng Hugh như quên béng mất chuyện găng tay. – À, vâng. Lúc nào cũng được ạ, không quan trọng lắm đâu. Chúc dì ngủ ngon, dì Isobel.
Ngay cả đối với Hugh, lời chia tay ấy cũng có vẻ hơi đường đột.
– Chúc ngủ ngon. – Dì Isobel nói. Bà đặt ống nghe xuống, đứng tần ngần mất một lúc, tự hỏi không hiểu có chuyện gì, nhưng nghĩ mãi không ra. Chắc là chỉ do bà tưởng tượng mà thôi. Bà tắt đèn, quay trở lại với nhạc Mozart.
Lochgarry cách Fernrigg khoảng 15 dặm về phía nam. Nó nằm ngay bên cạnh bờ vịnh và nơi đây cũng là giao điểm của những con đường chính đến từ William, Tarbole, Morven và Ardnamuchan. Nhiều năm trước, Lochgarry chẳng qua chỉ là nơi tụ họp của những ngư dân, thực chất nó chỉ là một căn nhà nhỏ và khiêm tốn, chuyên phục vụ những du khách hiếm hoi của vùng này, nhưng rồi sau đó người ta xây dựng đường ray xe lửa băng ngang qua đây, những vận động viên thể thao nổi tiếng và giàu có đến từ London đã thường xuyên xuất hiện ở nơi này và sau đó mọi chuyện không còn như xưa. Khách sạn mang tên cung điện Lochgarry được xây dựng lên không chỉ phục vụ cho giới vận động viên, mà còn cho bầu đoàn, thê tử của họ đi theo để cổ vũ. Mà đâu chỉ có thế, mỗi lần đi thi đấu, còn có cả bạn bè của họ đi cùng và những người giúp việc nữa chứ. Vào tháng Tám và tháng Chín, những ngọn đồi xung quanh khách sạn này vang rền những tiếng súng báo hiệu xuất phát của những vận động viên trên trường đua.
Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, một lần nữa khung cảnh ở đây lại khởi sắc. Công nghiệp phát triển, nhà máy cưa và kho chứa gỗ mọc lên nhan nhản. Thêm nhiều ngôi nhà được xây mới, một trường học mới khang trang được dựng lên trên nền đất của ngôi trường làng chỉ có mỗi một phòng tồn tại từ rất lâu. Kế đến là một nhà an dưỡng cũng được xây dựng ở đây. Đường được nới rộng ra và cải tạo nữa. Vào mùa hè, xe cộ tấp nập. Sau nhiều năm giao thông gần như quá tải ở vùng này, bãi biển thoai thoải dốc, tuy thế những khu vực ngổn ngang nhà lưu động, những bãi cỏ khô cằn ngày xưa chuyên dùng để nuôi gia súc đã biến thành một sân golf 9 lỗ với khung cảnh tuyệt đẹp.
Fishers’ Arms, một khách sạn nhỏ quay mặt ra vịnh như một chứng nhân lịch sử của sự thay đổi chóng mặt. Sau nhiều năm, khách sạn này đã được nới rộng ra, cửa sổ xây hình bán nguyệt. Những dãy nhà phía trước được trang hoàng lại sơn màu trắng. Hàng rào mắt cáo dây leo bò lan trông mát mắt. Bên trong, cầu thang dẫn lên phía trên cũng được làm mới lại. Các phòng trên lầu giờ không chỉ là phòng ngủ đơn thuần mà còn có cả phòng tắm nữa.
Phía trong khách sạn, một người bỏ tiền ra xây một quán bar, một người khác đầu tư vào một nhà hàng. Và một khu vườn trước đây trông hoang tàn, giờ đã được sửa sang gọn ghẽ để làm chỗ đậu xe hơi. Khi Flora đứng ngắm nhìn khách sạn này thì vẻ khiêm tốn ban đầu của nó đã biến mất vĩnh viễn. Khi họ đến nơi, bãi xe đã chật ních, Brian đậu xe và họ bước ra ngoài trong ánh trăng, không khí mang nặng mùi biển cả, ánh sáng le lói từ những căn nhà xung quanh in bóng xuống mặt nước tối thẫm. Tiếng bát đũa lanh canh cùng mùi thức ăn thơm phức tỏa ra từ bên trong nhà hàng. Sau khi quan sát một hồi, Flora bảo:
– Nhà hàng có vẻ đông khách quá nhỉ? Chắc nổi tiếng lắm thì phải?
– Đúng thế. Nhưng đừng lo, tôi đặt bàn trước rồi.
Brian khoác tay nàng. Cả hai bước ngang qua bãi đậu xe, lên bậc tam cấp vào cửa chính. Bên trong là ánh sáng chan hòa, những bức tường treo thảm đắt tiền và những bông hoa bằng nhựa, cầu kỳ treo trên tường, một tấm bảng chỉ lên lầu hướng dẫn phòng vệ sinh nữa. Flora, ghé tai nói nhỏ với Brian bảo nàng muốn lên trên đó để treo áo khoác:
– Cứ đi đi, nhớ tìm tôi ở quầy rượu nhé!
Một hầu bàn mặc trang phục trắng muốt xuất hiện.
– Xin chào ngài Stodart. Lâu lắm rồi không thấy ngài ghé khách sạn chúng tôi.
– Chào John. Hy vọng tối nay anh có nhiều món ngon đãi khách.
Flora đi lên lầu, đến phòng vệ sinh nữ trang hoàng bằng giấy bồi tường đầy hoa cỏ mùa xuân và rèm cửa bằng ren đắt tiền. Nàng cởi áo khoác treo lên, bên trong vẫn là chiếc váy dài bằng len màu ngọc lam, chẳng còn cái nào khác, nàng chỉ còn mỗi cái váy đó trông tươm tất nhất mà thôi. Vẫn chiếc áo len màu đen dài tay. Tối nay mặc bộ đồ đẹp nhất mà nàng chẳng có hứng thú gì cả. Bởi vì nàng thực sự không muốn đi chơi với Brian, nhưng nàng biết mình thực sự không có lý do gì để tránh né cả. Vì thế, mặc dù chưa bao giờ vẻ bề ngoài của nàng lại hoàn hảo đến thế, nhưng Flora vẫn cảm thấy khó chịu. Tóc nàng bóng mượt lên như những bó tơ, da hồng hào và cặp mắt đen trong sáng. Dì Isobel bảo:
– Trông cháu đẹp tuyệt!
– Em lấp lánh hệt như một sợi kim tuyến trên cây thông Noel vậy. – Brian bảo nàng khi anh ta ấn nàng vào trong xe. Xe của Brian hiệu Mercedes, màu nâu bóng loáng. Flora cứ ngẫm nghĩ không hiểu Brian mua bằng tiền của chính anh ta hay tiền của vợ. Brian lái xe phóng như bay rời Fernrigg. Trong xe, cả hai toàn nói những chuyện vớ vẩn, nàng không hiểu câu chuyện ấy làm cho Brian hài lòng hay tại nàng không có tâm trí đâu mà chuyện trò thân thiết với anh ta.
Flora xuống lầu. Quầy rượu đông nghịt, nhưng không hiểu sao Brian vẫn tìm được chỗ ngồi tốt nhất: bên cạnh lò sưởi. Khi thấy nàng xuất hiện bên ngưỡng cửa, Brian đứng lên chờ nàng đến gần. Nàng biết mọi con mắt đang đồ dồn vào mình, ai cũng cảm thấy lạ lẫm vì một phụ nữ không quen còn khá trẻ, khá quyến rũ khiến người ta không nhìn không được. Brian mỉm cười, tự hào với những người xung quanh hơn là mỉm cười với nàng.
– Đến đây và ngồi bên lò sưởi đi nào. Tôi đã kêu đồ uống cho cô rồi đấy.
Họ cùng ngồi, Brian lôi trong túi ra một hộp thuốc lá bằng vàng và chìa nó ra trước mặt Flora. Khi nàng lắc đầu, anh ta cầm một điếu, châm thuốc bằng cái bật lửa cũng bằng vàng. Brian đã gọi một ly whisky, nhưng khi hầu bàn mang đồ uống cho Flora, ly rượu được đặt trên một cái khay bằng bạc hẳn hoi. Ly rượu lạnh ngắt vì nước đá.
– Cái gì đây?
– Martini chứ còn gì nữa. Chứ cô muốn thứ gì?
Flore định bảo với Brian rằng nàng chẳng bao giờ uống rượu Martini cả. Nhưng anh ta nói tiếp: -Anh đã bảo người pha rượu cứ mang rượu nguyên chất ra, em vẫn thường thích uống như vậy mà.
Vì thấy anh ta đã khó nhọc chiều lòng mình như thế, nàng cảm thấy sẽ thật thô lỗ nếu như từ chối thịnh tình ấy. Flora nhấc ly rượu cứ ra khỏi khay. Cái lạnh làm 10 đầu ngón tay nàng tê cóng. Brian nâng ly whisky lên nhìn nàng qua ly rượu sóng sánh. Anh ta nói:
– Slaintheva!
– Tôi đâu có biết thứ ngôn ngữ đó.
– Nó có nghĩa là: “Chúc sức khỏe”. Tiếng Gaelic mà. Đó là từ Gaelic duy nhất mà tôi biết kể từ khi dọn đến sống ở đây.
– Tôi chắc nó rất hữu ích đối với anh. Nó đã gỡ bí cho anh trong nhiều hoàn cảnh giao tiếp phải không?
Brian mỉm cười. Nàng uống một ngụm Martin và ngay lập tức Flora bị sặc, chẳng khác nào như uống một thứ lửa lạnh ngắt, nàng không sao thở nổi. Brian cười lớn khi thấy nàng giàn dụa nước măt.
– Sao thế?
– Rượu mạnh quá!
– Vớ vẩn. Em vẫn thường uống rượu này mà. Anh không bao giờ thấy em uống bất cứ một thứ gì khác cả.
– À, tôi không có uống thứ rượu này. Ấy là nói thời gian gần đây ấy mà.
– Rose này, em không thay đổi đấy chứ? – Giọng Brian tỏ ra lo lắng thật sự. – Anh không thể chịu nổi thái độ ấy của em đâu. Em vẫn thường uống rượu Martini mà vẫn hoàn toàn tỉnh táo, lại còn đốt thuốc liên tục ấy chứ.
– Thật tôi như thế sao?
– Phải, không em thì còn ai vào đây nữa. Lại còn hút thuốc lá của Pháp nữa nhé! Em thấy đấy, anh không bao giờ quên bất cứ chi tiết nhỏ nào về em đâu.
Nàng cố thoát ra khỏi sự nghi ngờ của Brian. – À, tôi vẫn hút thuốc đấy chứ, chỉ tội là hút không nhiều như hồi trước đấy thôi.
– Chắc chắn do anh chàng nghiêm chỉnh kia ảnh hưởng phải không?
– Anh đang nói đến Antony à?
– Còn ai vào đây nữa. Anh không tin trong đời em lại gặp nhiều người đàn ông nghiêm chỉnh đến độ em không nhớ ai vào với ai.
– Cũng tốt thôi, chính Antony thay đổi tất cả đấy!
Brian lắc đầu, vẻ rất sành sỏi: – Anh không hiểu vì cái lý do quái quỉ nào mà em lại đính hôn với Antony.
Không ngờ câu chuyện của họ lại thân mật quá sớm đến thế, khiến Flora có cảm giác mình đang trượt trên một nền băng quá mỏng trên hố băng sâu hoắm. Nàng bắt đầu cảnh giác.
– Trên đời này thiếu gì lý do.
– Thì cứ thử nói ra xem nào!
– Không lẽ anh quan tâm đến chuyện của tôi đến thế sao?
– Tất nhiên là anh quan tâm chứ. Anh quan tâm mọi thứ về em, rõ ràng là có cái gì đó không ổn. Em và Antony đâu có hợp nhau, hai người không thể là một cặp xứng đôi được. Khi Ana bảo em sắp sửa lấy hắn ta, anh không sao tin nổi. Cho đến giờ này, anh vẫn còn không tin vào điều ấy.
– Ai mà chẳng thích Antony. Thế mới chết chứ. Hắn ta quá hoàn hảo. Đôi khi đó cũng là một rắc rối.
– Thế thì anh cũng biết lý do của tôi rồi đó. Tại Antony hoàn hảo đến thế nên tôi mới đính hôn với anh ấy.
– Thôi đi Rose, đừng tự phỉnh phờ mình nữa.
Brian đặt ly lên bàn, nhoài người về phía nàng, hai tay kẹp giữa hai đầu gối. Tối nay, anh ta mặc một bộ đồ may đo rất hợp. Ông quần màu xám xậm, hơi tối một chút đôi giày Gucci vẫn còn nguyên tem đỏ và xanh dương dính ở gót giày. Tóc Brian rất đen ốp sát trên trán. Đôi mắt sáng chăm chú màu xanh lợt dưới cặp mày rậm. Khi ngồi gần anh ta trong xe, nàng đã ngửi thấy mùi nước hoa cạo râu cực kỳ đắt tiền của Brian. Bây giờ thì nàng còn thấy anh ta đeo đồng hồ vàng, khuy manchette cũng bằng vàng và chiếc nhẫn mang chữ ký của anh ta cũng bằng vàng khối. Hình như Brian không quên bất cứ chi tiết nhỏ nào liên quan đến vẻ bề ngoài của mình. Flora chợt có phản ứng phòng vệ khi thấy vẻ nghi ngờ nguy hiểm trên mặt Brian, nàng nói lảng sang một chủ đề khác an toàn hơn.
– Anna có nói với anh về buổi khiêu vũ do bà Tuppy tổ chức hay chưa?
Ngay lập tức, mắt Brian lộ vẻ khó chịu. Nhưng chỉ chút xíu thôi, vẻ khó chịu ấy biến mất ngay. Anh ta ngả người trên ghế trước khi kịp với ly whisky
– Có, trước khi đi, cô ấy có nói với anh về chuyện ấy.
– Bà Tuppy mời cả anh chị đấy!
– Tất nhiên rồi.
– Anh đến không? Nghe giọng anh không mấy quan tâm nhỉ!
– Tôi biết thừa những bữa tiệc của bà Tuppy Armstrong tổ chức thì như thế nào rồi. Toàn những khuôn mặt cũ, mặc quần áo cũ, nói toàn chuyện cũ. Nhưng cũng như tôi nói với em lúc trước rồi đây, sống ở đây thì phải chịu đựng đủ thứ: nhất là sự lạc hậu cổ hủ không sao chịu đựng nổi.
Nhưng nhìn anh ta. Flora chẳng thấy Brian phải chịu đựng cái gì cả.
– Người ta mời anh mà anh chẳng có chút lịch sự nào cả.
Brian mỉm cười, nụ cười vô cùng quyến rũ.
– Thôi được rồi, xin lỗi được chưa nào? Nếu em có mặt ở đó quyến rũ như em đã từng mê mẩn biết bao gã si tình thì dù có dọa giết anh vẫn cứ đến đấy.
Không ngăn được, Flora bật cười: – Quyến rũ sao nổi chứ. Nói thật nhé, hôm ấy em sẽ ăn mặc rất kỳ cục.
– Kỳ cục ư! Tại sao lại kỳ cục?
Nàng kể cho Brian nghe về chuyện áo xống sáng nay, cố biến nó thành câu chuyện vui. Khi nàng kể xong, Brian tỏ vẻ hoài nghi:
– Rose, em không thể như thế được. Em không thể đến một bữa tiệc như vậy với đống giẻ rách cũ lôi từ trên gác xép nhà Fernrigg.
– Thế tôi phải làm gì bây giờ hả?
– Anh sẽ đưa em đến Glasgow để mua áo đầm. Anh sẽ đưa em đến Edinburgh hay London, thậm chí anh sẽ cùng em đi đến Paris. Chúng ta sẽ ở đó vui chơi thỏa thích suốt kỳ nghỉ cuối tuần, và đi mua sắm ở nhà tạo mẫu Dior.
– Ý kiến của anh nghe hay nhỉ!
– Mừng vì em thấy nó hay. Anh nghĩ mấy bà già ở nhà đó thật không sao chịu nổi. Đi nghe em? Mai mình đi được không? Em vẫn không thể sống thiếu cảnh phong tình mà.
Flora nói cương quyết: – Tôi không có đi mua sắm với anh đâu. Tôi nói cực kỳ nghiêm chỉnh và thẳng thắn đấy! Không bao giờ đâu.
– À, để đến lúc người ta thấy em ăn mặc những bộ đồ lấy từ trong những cái rương cũ nát ấy ra mà cười vào mặt em thì lúc ấy đừng có trách đấy nhé. Nhưng em cũng thích làm những chuyện động trời. Thôi rồi, uống đi.
Ở góc phòng đàng kia, chuông vừa ra hiệu bữa tối đã sẵn sàng. Phòng ăn rất ấm cúng, tất cả các bàn đều lung linh ánh nến. Tiếng sáo êm dịu vang khắp căn phòng, tất cả các bàn đều đã có người ngồi. Nhưng cái bàn ăn ở vị trí đẹp nhất bên cạnh cửa sổ được một phần rèm cửa che khuất vẫn đang chờ họ. Không khí có vẻ rất thân mật, họ ngồi bên bàn. Hầu bàn mang ra tuần rượu kế tiếp. Ly rượu Martini đầu tiên khiến Flora thấy choáng váng. Nàng bảo:
– Tôi không muốn uống nữa đâu.
– Vì Chúa đi Rose. Đừng có nhạt nhẽo quá nữa đi chứ! Tối nay mình được tự do mà, hãy tận hưởng nó đi. Em đâu có phải lái về nhà.
Nàng nhìn ly whisky sẫm màu trong tay Brian.
– Nhưng anh phải lái xe cơ mà, sao anh uống nhiều như vậy?
– Đừng lo mà, đường sá ở đây anh thuộc như lòng bàn tay vậy. Cả cảnh sát giao thông anh cũng quen tuốt tuột. Nào, giờ chúng ta ăn gì đây?
Brian mở tờ thực đơn to như tờ báo ra xem. Trên thực đơn có tôm càng nhưng cũng có cả sò nữa. Flora thích tôm càng, nhưng nàng thích sò nhiều hơn. Đã lâu lắm rồi nàng chưa đụng đến một con sò nào. Brian chiều ý nàng.
– Thôi được, em ăn sò nhé. Nhưng anh ăn tôm càng đây. Rồi ăn bò bit-tết nữa nhé? Chắc phải thêm món rau trộn gì nữa nhỉ? Nấm được không em? Hay là khoai tây vậy.
Từng món, từng món một qua đi như thế và cuối cùng bữa ăn của họ đã được gọi xong. Hầu bàn mang đến một bảng liệt kê các loại rượu của cửa hàng. Nhưng Brian gạt sang một bên rồi yêu cầu mang đến một chai Chateau Margaux 1964. Tay hầu bàn có vẻ nể bị khách mới, gom mấy tờ thực đơn lại rồi quay lưng bước đi. Brian bảo:
– Hay em thích dùng rượu Champagne?
– Tại sao em lại phải uống Champagne chứ?
– Thế em không nghĩ Champagne thích hợp cho những buổi tái hợp lãng mạn như thế này à?
– Như thế này gọi là tái hợp à?
– Tất nhiên là tái hợp rồi! Anh có thể quên tất cả nhưng không thể bỏ qua một dịp như vậy. Mà thôi, cũng như mọi việc khác, anh đều nhường cho em quyết định đấy Rose. Hay em cho rằng trong buổi tối hôm nay, lúc này là quá sớm để em đưa ra một quyết định động trời như vậy?
Flora bắt đầu cảm thấy sợ cuộc nói chuyện này. Nước đá tan dần và nếu Flora không cẩn thận thì nàng sẽ không biết xoay xở ra sao để tiếp tục cuộc nói chuyện. Nàng nhìn Brian qua tấm khăn trải bàn tráng muốt, nến đỏ, những ly rượu sóng sánh như mật ong. Anh ta ngồi đó chờ nàng trả lời và để cho nàng có thời gian uống thêm một ngụm Martini nữa. Nếu có thứ rượu nào còn nặng hơn thứ rượu chứa trong ly trước thì quả là loại Martini đang có ở trong ly của nàng đây. Đột nhiên mọi chuyện trở nên rõ ràng và vô cùng đơn giản. Tất cả những việc nàng cần phải làm là vô cùng đơn giản. Tất cả những việc nàng cần phải làm là cẩn thận, hết sức cẩn thận. Flora nói thủng thẳng.
– À phải, giờ cũng còn quá sớm.
Brian cười ha ha. – Thôi nào Rose.
– Anh cười cái gì thế?
– Cười em đấy. Em mắc cười quá à. Giả vờ lạnh nhạt, làm cao. Thôi được rồi, cứ cho là em kết hôn với chàng trai Antony Armstrong trung thực kia đi. Nhưng em vẫn là Rose thôi. Trước mặt anh, em đừng có giả vờ, giả vịt như vậy.
– Em mà giả vờ?
– Chứ không phải sao?
– Tự tâm tính em thay đổi đấy chứ.
– Em chẳng thay đổi chút nào.
Anh ta nói bằng cái giọng chắc chắn như thể nàng sẵn sàng tin anh ta ngay vậy. Cho đến tận tối ngày hôm nay, mọi điều nàng biết về tính cách của Rose đều dựa vào đoán mò và phỏng chừng. Bây giờ đây, phải đối mặt với một người quen biết tỏng tong tong mọi chuyện, Flora không dám nói rằng mình hiểu Rose đến từng chân tơ kẽ tóc nữa. Ảo tưởng có thể là trẻ con đấy, nhưng cũng khiến người ta dễ chịu và Rose dù thế nào chăng nữa cũng chỉ thoáng qua mà thôi. Những tình cảm tốt đẹp nhất dành cho gia đình không mạnh mẽ bằng sự tò mò của Flora lúc này. Sự tò mò ấy còn được ly rượu nặng làm cho nó càng lớn thêm. Tính tò mò xui Flore liều một phen.
Nàng đặt hai cánh tay lên bàn, tự đầu lên tay nhìn Brian.
– Làm sao anh biết tôi không thay đổi? – Nàng hỏi.
– Ô…ôi kìa Rose.
– Hãy kể lại hồi đó tôi ra sao đi!
Mặt anh ta sáng rỡ. – Giống hệt như em lúc này nè. Nói thiệt nhé: Em bây giờ đúng là em của 5 năm về trước. Em không thể giấu nổi bản chất của mình đâu. Không bao giờ em bỏ lỡ mất cơ hội dù nhỏ, để tự nói về bản thân mình.
– Thì nói xem, hồi đó tôi thế nào?
– Thôi được rồi.
Khi chuẩn bị nói, Brian đặt ly rượu whisky xuống nhưng ánh mắt phấn khích của anh ta không rời khuôn mặt Flora.
– Hồi đó em đẹp nè, chân dài và đẹp. Như mọi cô gái ở tuổi dậy thì, em nóng nảy như một khẩu súng sẵn sàng nhả đạn. Em hay hờn dỗi lắm và ích kỷ nữa. Lúc nào cũng tự cho mình là cái rốn của vũ trụ. Em gợi tình nữa. Lạy Chúa, vẻ gợi tình của em làm anh cực kỳ thích thú. Còn muốn nghe thêm không?
Flora cảm thấy sức nóng của những ngọn nến trên bàn như đang đốt cháy khuôn mặt nàng. Cổ chiếc áo len quá chật khiến nàng bất giác đưa tay nới nó ra. Flora gần như muốn xỉu.
– Ở tuổi 17 mà em như thế à?
– Tất cả những điều anh vừa nói đều đúng hết. Nhưng có một điều rất lạ Rose ạ: là khi em đi rồi, anh không làm sao quên nổi em. Chuyện này chưa từng xảy ra với anh trước đây. Thậm chí có một hai lần anh còn thơ thẩn đến Beach House, nhưng ở đó cửa đóng im ỉm. Và anh không sao tìm thấy bất cứ một dấu vết nào có thể tìm được em. Hệt như thủy triều vậy, em đến rồi đi không để lại dấu vết. Có lẽ thế lại tốt hơn, em đặc biệt lắm. Sẽ không bao giờ anh gặp được một người nào trên đời này lại giống như em vậy.
– Anh nói như một tay lọc lõi ăn chơi vậy.
Brian cười toe toét: – Điều anh thích nhất mỗi khi gặp em là anh chẳng phải che giấu điều gì cả.
– Ý anh nói tôi lúc nào cũng biết mình chỉ là một trong nhiều cô gái đã từng quan hệ mật thiết với anh sao?
– Chính xác là thế.
– Thế còn Anna thì sao?
Brian nâng ly lên nhấp một ngụm trước khi trả lời. Anh ta nói chậm rãi:
– Anna à, chỉ là đà điểu rúc đầu trong cát bỏng. Nếu không nhìn tận mặt bắt tận tay thì cô ta cứ tiếp tục làm ngơ. Mặc kệ cho chồng mình để mắt đến bất cứ ai, Anna vẫn tiếp tục ngậm bồ hòn làm ngọt.
– Anh có vẻ hiểu vợ mình quá nhỉ?
– Em có hiểu yêu điên cuồng nghĩa là gì như thế nào chưa? Nghĩa là bịt mắt bưng tai trước những thói hư tật xấu của người mình yêu.
– Có bao giờ anh yêu ai đến mức ấy chưa?
– Chưa. Thậm chí ngay cả em, anh cũng chẳng có tình cảm ấy. Những gì anh cảm giác với em chỉ có thể miêu tả bằng một từ, một cái từ xưa như trái đất ấy: Sự ham muốn. Từ ấy là tuyệt nhất với em đấy. Em có thể nói từ đó để miêu tả về mình mà không hề phải ngượng miệng.
May sao, hầu bàn nhè đúng lúc ấy bước tới dọn bữa. Những bàn tay vô tình sắp xếp đĩa, muống, nĩa ngay ngắn trên bàn. Flora ngắm nhìn ngọn nến cháy leo lét cố lấy lại vẻ tự tin để có thể ứng biến. Ai đó mang ly của nàng đi, lúc ấy Flora mới nhận ra mình đã uống cạn ly thứ hai từ lúc nào. Bây giờ là ly rượu vang đỏ được mang đến. Nó sóng sánh hệt như thứ ngọc rubi vậy. Cổ quá chật khiến nàng nghẹt thở và cảm thấy người nóng rừng rực. Lấy tay kéo cổ áo ra cho thoáng, nàng nhìn xuống cái đãi đầy những sò, bồi bàn đi rồi. Ngồi phía bên kia bàn, Brian hỏi nàng:
– Em không thích món sò nữa sao?
– Cái gì cơ?
– Trông nét mặt em có vẻ phân vân. Sò không ngon à?
Nàng cố trấn tĩnh: – Trông cũng ngon mắt đấy chứ! – Flora nhặt miếng chanh vắt vào đĩa muối. Nước chanh dinh dính ở ngón tay nàng. Ngồi phía bên kia chiếc bàn, Brian ăn món tôm càng ngon lành đến nỗi như thể chẳng có chuyện gì xảy ra. Vừa cắm nĩa lên Flora đã lại đặt xuống, câu hỏi tắc nghẹn trong cổ nàng, nhưng bằng một nỗ lực ghê ghớm, nàng bắt mình phải nói ra:
– Brian này, mọi người có biết…Ý tôi nói là … có ai quan hệ giữa tôi và anh không?
– Không, tất nhiên là họ chẳng biết gì cả. Em nghĩ anh là ai hả. Một tay amateur chắc.
Nàng thở phào nhẹ nhõm.
– Duy có Hugh là hình như biết đấy. – Anh ta vô tình nói thêm.
– Hugh sao?
– Trời, đừng có làm ra vẻ kinh hãi như thế chứ! Đương nhiên là Hugh biết. Thôi đi, đừng có ngồi đó mà há hốc miệng ra như cô bé ngớ ngẩn vậy Rose. Hugh tận mắt chứng kiến hai đứa mình mà!
Brian cười nham nhở như một thằng đểu cáng hồi tưởng trò chơi khăm của mình hồi thơ ấu.
– Thằng vô dụng, chắc chắn thằng đó không bao giờ tha thứ cho anh. Nhưng nói thật với em em nhé: anh luôn cho thái độ đó là ghen tuông đấy. Anh ngờ rằng chính hắn cũng thích em chẳng kém gì anh
– Không đúng. – Tự nhiên nàng phản đối dữ dội khiến Brian ngạc nhiên. Anh ta trố mắt ra nhìn nàng.
– Tại sao em đột nhiên gào to lên thế?
Nàng cố tìm ra lý do để chứng minh cho quan điểm của mình.
Nàng không thấy nóng nữa, cũng chẳng thấy lạnh. Nàng chẳng cảm thấy gì, toàn thân tê liệt. Nàng những mong sao mình đừng bao giờ hỏi về Rose, đừng bao giờ tìm hiểu về cô chị của mình, nhưng giờ thì quá muộn mất rồi. Những mảnh cuối cùng của bức tranh ghép đã trở về vị trí. Tòan bộ bức tranh hiện lên không thương xót ngay trước mắt nàng. Rose ở tuổi 17, không một mảnh vải che thân, ngã người trên giường định cám dỗ hay đã bị cám dỗ bởi Brian Stoddart.
Nhưng điều khó tin nhất đối với nàng là ý nghĩ Hugh lại có thể đem lòng yêu một người đa tình như Rose vậy.
*****
Không hiểu làm sao mà bữa ăn khủng khiếp ấy chứ kéo dài mãi. Hình như đã hơi ngà ngà say vì whisky và rượu vang, Brian không nói về mình nữa mà quay sang thao thao bất tuyệt về con thuyền mới anh ta dự định sẽ cho đóng vào năm mới. Đang huênh hoang khoe khoang về cái du thuyền mới của mình thì John, anh chàng hầu bàn, đến bên nói nhỏ với Brian rằng anh ta có điện thoại. Brian trố mắt lên như không tin người bồi bàn.
– Anh chắc là tôi chứ?
– Vâng, đúng là ngài đấy ạ. Cô tiếp tân nhắn tôi gọi ngài ra nghe điện thoại.
– Ai gọi thế?
– Tôi không biết.
Brian quay sang Flora. – Anh xin lỗi, Chúa mới biết ai lại gọi mình vào giờ này. Em cho phép chứ? – Anh ta đặt khăn ăn xuống.
– À, tất nhiên rồi.
– Anh không đi lâu đâu.
Brian bỏ đi, len lỏi trong dãy bàn và biến mất sau cánh cửa của tiền sảnh. Còn lại một mình khiến Flora nhẹ ngừơi. Nàng gạt đĩa ra, cố ngồi suy nghĩ cho sáng suốt, nhưng không hiểu sao cái nhà hàng này ngột ngạt thế không biết. Đầu nàng đau nhức vì đã uống quá nhiều. Flora đăm đăm nhìn ngọn nến cháy nhưng không hiểu sao những ngọn nến này lại lung linh một cách kỳ lạ như vậy, chúng không chịu đứng yên. Nàng nhìn lên, bắt gặp ánh mắt của người bồi bàn, cô xin một ly nước lạnh. Một bình nước lớn được mang đến, Flora rót vào ly và uống một hơi hết ngay. Nàng đặt ly xuống và nhận ra có ai đó đến bên nàng từ lâu, đang đứng ở phía bên kia, tay của anh ta đặt trên lưng ghế tựa của Brian. Nàng nhận ra ngay bàn tay ấy. Đây là lần thứ hai trong ngày, nàng rời mắt khỏi bàn tay kia nhìn lên và thấy mặt đối mặt với Hugh Kyle. Phản ứng đầu tiên khi nhìn thấy Hugh là một cơn xúc cảm êm đềm dâng trào. Cảm giác này rất lạ lùng và vô cùng mạnh mẽ khiến nàng không thể thốt nên lời và dường như nghẹt thở. Chàng trai nói:
– Xin chào!
Trong cơn chấp choáng, nàng thấy anh ta như to lớn hơn và đầy sức mạnh. Hugh mặc chiếc áo khoác to sù sụ bên ngoài bộ vest. Điều đó khiến Flora chú ý bởi vì trông anh ta không hề giống những người ăn mặc bảnh bao ra ngoài ăn tiệm.
– Nhưng anh làm gì ở đây thế?
Vẻ thích thú tinh nghịch trong giọng nói của nàng chẳng làm cho Hugh chú ý. – Tôi đến đưa cô về nhà.
Flora nhìn xung quanh: – Nhưng Brian đâu?
– Brian về nhà rồi.
– Về nhà rồi ư?
Người ta đang giỡn mặt với nàng sao?
– Nhưng tôi thấy có ai đó gọi điện thoại cho Brian cơ mà!
– Không có điện thoại điện thiếc gì hết. Hoặc nếu cô thích thì tôi chính là cuộc điện thoại ấy đấy. Đó là cách duy nhất tôi có thể nghĩ ra để Brian phải rời chỗ này.
Ánh mắt xanh lơ của Hugh sáng lạnh như thủy tinh.
– Và nếu cô còn ý định bám theo anh ta nữa thì xin nói cho cô hay: anh ta đang ở trong xe và trên đường về Ardmore rồi.
Giọng Hugh đều đều và lạnh như băng giá. Cảm giác dễ chịu của Flora biến mất, chỉ để lại một cảm giác chới với như người chết đuối. Nàng nhận ra vẻ ôn hòa kia là giả tạo, cốt che giấu đi một cơn giận dữ điên cuồng bị dồn nén trong con người của Hugh. Nhưng nàng đã quá say để cố tìm hiểu và khám phá ra tại sao Hugh lại giận dữ đến thế.
– Brian về mà không đi cùng với tôi sao?
– Phải. Không cần cô, anh ta cũng về nhà được. Đi thôi, tôi đưa cô về.
Cái kiểu áp đặt của Hugh khiến nàng nhất định phải cãi chày cãi cối.
– Nhưng tôi còn chưa ăn xong bữa tối mà.
– Nhìn dáng vẻ say khướt của cô thì tôi biết cô có ăn thêm cũng chẳng thấy ngon đâu.
Nghe giọng nói chua cay độc địa ấy, nàng chợt nổi giận, đồng thời thấy sợ. Nàng nói: – Tôi không muốn đi cùng anh.
– Không ư? Không lẽ cô thích đi bộ? Mười lăm dặm đường đi bộ không dễ đâu.
– Tôi sẽ ngoắt taxi.
– Làm gì có taxi giờ này. Áo khoác của cô đâu?
Phải mất một lúc nàng mới nhớ ra. – Trên lầu, trong phòng vệ sinh nữ. Nhưng tôi không về với anh đâu mà.
Hugh gọi một người hầu bàn trẻ đến bên bảo anh ta lên lầu tìm áo khoác: – Áo màu xanh, có viền lụa ấy.
Anh hầu bàn đi ngay. Hugh quay lại đối mặt với Flora: – Đi thôi, ngay bây giờ.
– Tại sao Brian lại về thế?
– Chuyện đấy vào xe rồi sẽ nói sau.
– Anh ép anh ta phải về ư?
– Rose. Mọi người trong phòng ăn bắt đầu tò mò rồi đấy. Đừng biến mình trở thành chủ đề của những cuộc đàm tiếu chứ!
Hugh nói đúng. Tiếng xì xào trong phòng tắt hẳn. Thực khách tò mò quay lại nhìn họ. Cứ nghĩ đến chuyện người ta đang chăm chú nhìn mình với con mắt thiếu thiện cảm như vậy là Flora sự rúm người lại. Không nói thêm lời nào, nàng cẩn thận, chậm chạp đứng lên. Hai chân nàng mềm nhũn lạ thường, cố gắng tập trung không nhìn vào bất cứ ai, nàng bước ra khỏi phòng. Hầu bàn đã tìm thấy áo khoác cho nàng. Hugh cho anh tiền boa và giúp nàng mặc áo. Nàng bắt đầu sờ soạng, run rẩy cài nút nhưng những ngón tay quá vụng về, khiến nàng cài mãi không xong mấy cái nút áo. Hugh không kiên nhẫn nổi nữa, anh túm lấy khuỷu tay nàng đẩy nàng ra trước, đi ngang qua hành lang ra phía ngoài. Bên ngoài trời tối đen, mưa lất phất, một cơn gió lạnh theo gió tây băng qua biển thổi ào vào đất liền. Vừa ngồi trong nhà hàng ấm cúng, uống rượu, ăn uống thịnh soạn thì lúc này đây khi phải bước ra ngoải trời lạnh, Flora có cảm tưởng mình đang ở bắc cực. Bóng tối chụp xuống người nàng, nàng nhắm mắt lại đưa hai tay lên ôm đầu. Nhưng Hugh đã chụp lấy tay nàng, lôi nàng xềnh xệch qua bãi để xe đầy những vũng nước đến bên xe hơi của anh ta đang chờ. Nàng lảo đảo và sẽ ngã lăn kềnh ra nếu như không có Hugh đỡ một bên. Luống cuống thế nào Flora để tuột cả giày. Hugh nôn nóng đừng chờ trong lúc nàng loay hoay mãi mới xỏ chân được vào giày. Chưa hết, đi được một quãng, Flora lại đánh rơi túi xách, ví. Nàng nghe thấy tiếng anh chửi thề khi nhặt nó lên và nhét bừa vào trong túi áo khoác của mình. Vì đã quá xỉn, Flora thấy bóng của cái xe đứng lù lù như quả núi. Hugh mở cửa, ấn nàng vào trong xe và sập cửa lại. Anh đi vòng ra phía đàng trước, ngồi vào sau tay lái, lại có tiếng sập cửa đánh rầm. Đầu óc quay cuồng vì hơi men, nàng thấy ngạt thở vì cái lưng to lù lù của Hugh che trước mặt nàng. Áo khoác của nàng nhàu nhĩ xung quanh người, chân ướt nhẹp, tóc tai rối tung xòa hết cả xuống mặt. Flora ngồi ủ rũ ở ghế sau. Hai tay nhét sâu vào túi áo tự nhủ: Nếu nàng để cho mình bật khóc ngay lúc này nàng sẽ không bao giờ tha thứ cho mình nữa. Hugh quay lại.
– Cô còn muốn nói chuyện gì nữa không? Hay là xỉn quá rồi nói không nổi nữa?
– Tôi không say.
Hugh nhẹ nhàng bật đèn trong xe lên. Nàng đăm đăm nhìn vào màn đêm trước mặt, hai hàm răng nghiến chặt lại cố ngăn dòng nước mắt tràn ra.
– Brian đâu?
– Tôi nói với cô rồi, anh ta đã quay về Ardmore.
– Anh làm thế nào mà Brian chịu đi thế?
– Đó không phải chuyện của cô.
– Làm sao anh biết được tôi ở đây?
– Dì Isobel nói với tôi. Cô quên găng tay ở nhà tôi. Tôi phải gọi đến Fernrigg để nói với cô về điều ấy. Dì Isobel bảo tôi rằng Brian đưa cô đi ăn tối.
– Đó đâu phải là tội ác.
– Trong từ điển của tôi thì đó là tội ác đấy.
Flora nhớ lại: ” Thằng đó lúc nào cũng ra vẻ tự cao tự đại”: – Là tội ác đối với Antony? Hay là đối với Brian?
– Đối với Anna. Anna biết hết chuyện này rồi.
– Chính Anna đã ở trong phòng khi Brian mời tôi đi ăn tối mà.
– Đó không phải là lý do.
– Thì thế nào mới là lý do.
Hugh mệt mỏi nói: – Cô là người biết hơn ai hết mà!
Nàng nảy lửa nhìn Hugh. Nãy giờ Flora nhìn ra ngoài trời tối, bây giờ quay lại nhìn mặt Hugh, nàng cảm tưởng như nó đang sưng phồng lên ngay trước mặt mình. Nàng nhớ tới lời Brian: “Vợ nó chết đã 3 năm rồi. Và thật tình thì nói, hắn cũng ham muốn nhục dục chẳng kém gì chúng ta. Hugh đã phải lòng Rose rồi”. Nàng không muốn điều đó là sự thật. Nhưng anh ta đột nhiên xuất hiện với cơn oán hận bốc lên ngùn ngụt làm cho nàng tin rằng điều đó là sự thật. Hugh yêu Rose. Nàng cảm tưởng như mình có thể giết chết anh ta ngay khi nghĩ đến điều ấy. Nàng lạnh lùng nói:
– Phải, tôi biết anh đang ghen. – Nàng không hiểu mình cố đóng vai Rose để nói lên điều ấy, hay bởi rượu nói thay nàng, hay bởi nỗi thất vọng tột cùng khiến nàng phải thốt nên lời. Nàng chỉ biết mình khao khát được thấy Hugh phải đau lòng. – Brian có rất nhiều thứ mà anh không có. Một người vợ, một ngôi nhà. Anh không chịu đựng được khi thấy Brian hơn anh. – Cố ngăn không cho nước mắt tràn ra chẳng dễ dàng chút nào. Mắt nàng rưng rưng, rồi nước mắt giàn giụa trên má. Chính là lỗi của Hugh chứ không ai. Và còn có cái gì nữa xuất hiện khiến nàng không còn là Flora nữa. Nàng biến thành Rose, một cô Rose thực sự, một cô Rose đang suy nghĩ làm sao phải nói ra được những lời cay độc nhất làm tổn thương người khác nhiều nhất mới hài lòng. Hóa thân vào Rose, Flora nghiến răng.
– Chính vợ anh đã đưa anh đến nông nỗi này. Anh không bao giờ quên được cảnh vợ anh đã chết như thế nào.
Những lời nói cuối cùng của nàng cứ ngân mãi trong khoảng không im lặng giữa hai người. Sững người mất một lát. Hugh điên tiết giơ tay giáng cho nàng một cái tát. Cái tát không mạnh lắm. Với thân hình hô pháp của mình, nếu Hugh tát thực sự thì chắc nàng đã lăn quay ra bất tỉnh nhân sự rồi. Nhưng suốt đời mình, Flora chưa bị ai đánh hết. Lạ lùng thay, cái tát khiến nàng thôi không khóc nữa. Vừa đau đớn, vừa nhục nhã, Flora im lặng, cứ ngồi đó, cảm giác đầu óc quay cuồng và hai hàm răng va vào nhau lập cập vì tức giận. Hugh nhoài người bật đèn cả phía ngoài và phía trong xe cho sáng trưng lên. Flora đưa tay bưng lấy mặt.
– Cô không sao chứ? – Anh hỏi.
Đầu óc mụ mẫm chẳng nghĩ được gì, Flora gật đầu. Hugh cầm lấy cổ tay nàng, hỏi:
– Tại sao cô tham lam như vậy hả, Rose? Sao cái gì cô cũng muốn vơ vào cho mình thế?
Nàng tự nhủ: tôi không phải Rose. Tôi không phải là Rose. Giờ Flora mới thấm thía mọi nỗi đau đớn, nhục nhã, chán chường. Nàng bắt đầu run lên. – Tôi muốn về nhà.