Đêm Qua Anh Ở Đâu?

Chương 5



“Không, anh yêu, tất nhiên là không rồi,” cô thì thầm trong lúc tựa sát vào và ghì chặt tay anh. “Chí ít là đến nay thì chưa. Ông biết người biết ta, và ông biết rằng ông sẽ không bao giờ chạm tay vào ngực em, và em nghĩ rằng rốt cuộc ông đã thôi quan tâm đến điều đó.”

“Ngực em hoàn hảo, Brooke. Hoàn hảo tuyệt đối,” Julian thốt lên mà không nghĩ ngợi gì.

“Em biết. Chính vì thế mà cha anh đã đề xuất làm lại chúng với giá gốc khi chúng mình đính hôn ấy.”

“Ông đề xuất cho cộng sựcủa ông làm, và không phải vì ông nghĩ em cần cái đó…”

“Hờ, thế thì vì anh nghĩ em cần cái đó ư?” Brooke biết rằng hoàn toàn không phải vì thế – họ đã nói đến điều đó cả trăm lần và cô hiểu rằng bác sĩ Alter chỉ đơn thuần chào mời dịch vụ của ông như một người thợ may chào mời một bộ trang phục may đo giá ưu đãi mà thôi – nhưng toàn bộ câu chuyện này vẫn làm cô bức xúc.

“Brooke…”

“Xin lỗi. Chỉ vì em đói quá mà. Vừa đói lại vừa lo.”

“Việc đó chẳng quá tệ như em tiên liệu đâu.”

Người gác cổng đập tay và vỗ lưng Julian để chào anh. Tận đến khi anh ta đưa họ vào thang máy và họ bắt đầu vọt lên tầng tám thì Brooke mới nhận ra rằng cô không mang gì đến đây c

“Chắc mình phải chạy ngược ra mua bánh trái hoặc hoa hoét gì đó anh ạ,” Brooke vừa nói vừa khẩn thiết giật tay Julian.

“Thôi nào, Rook, chẳng thành vấn đề đâu. Họ là bố mẹanh. Thực ra bố mẹ chẳng để ý đâu.”

“Ớ ờ. Nếu anh tin là mẹ anh không để ý những lần chúng mình đến tay không thì anh thật là hoang tưởng.”

“Chúng mình mang thân đến rồi còn gì. Đó là vấn đề chính yếu.”

“Được thôi. Anh cứ đi mà tự nhủ như thế nhé.”

Julian gõ cửa và cánh cửa mở ra. Tươi cười chào đón họ ở lối vào là Carmen, người vú em kiêm quản gia của gia đình Alter từ ba mươi năm nay. Trong một lần đầu gối tay ấp khi hai người yêu nhau chưa lâu, Julian thú nhận với Brooke rằng anh gọi Carmen là “Mẹ” tận đến lúc lên năm tuổi vì anh chẳng biết gọi bằng từ gì hơn. Carmen lập tức ôm lấy Julian.

“Con của vú khỏe không?” bà hỏi anh sau khi nhoẻn cười với Brooke và hôn lên má cô. “Vợ con có cho con ăn no không?”

Brooke siết chặt tay Carmen, ngạc nhiên tự hỏi hàng ngàn lần rằng sao Carmen lại không thể là mẹ của Julian, và nói, “Carmen, trông anh ấy có vẻ gì là chết đói không ạ? Có tối cháu còn phải giật nĩa khỏi tay anh ấy đấy.”

“Thế mới là cậu bé của tôi chứ,” bà nói và tự hào nhìn anh.

Một giọng nói lảnh lót vọng từ phòng khách chính ra hành lang. “Carmen yêu quý, hãy để bọn trẻ vào đây đi. Và đừng quên cắt cuống trước khi cắm hoa vào bình đầy. Chiếc bình Michael Aram ] mới ấy nhé.”

[6] Michael Aram: một nghệ sĩ gốc Mỹ nổi tiếng hiện đang sống và làm việc tại New Delhi, Ấn Độ. Ông tạo hình các tác phẩm nghệ thuật bằng kim loại theo phương pháp thủ công truyền thống của Ấn Độ. Các đồ tạo tác của ông từ những bộ đồ ăn đến các vật dụng đồ đạc trong nhà được trưng bày và bán tại các gallery và các cửa hàng chuyên biệt trên khắp thế giới.

Carmen nhìn quanh xem có hoa không nhưng Brooke chỉ chìa hai bàn tay trắng ra. Cô quay qua Julian và trao cho anh một cái nhìn đầy ngụ ý.

“Đừng có nói điều đó đấy,” Julian lẩm bẩm.

“Được thôi. Vì yêu anh nên em sẽ không nói rằng em đã bảo anh thế mà.”

Julian dẫn cô vào phòng khách chính – Brooke những mong rằng tất cả bọn họ sẽ bỏ qua phòng khách và đi thẳng vào phần ăn uống – và trông thấy cả hai cặp phụ huynh đang ngồi đối diện nhau trên những chiếc đi văng thấp giống hệt nhau kiểu cách rất thời trang.

“Brooke, Julian.” Mẹ anh mỉm cười nhưng không đứng lên. “Chúng ta rất mừng vì các con đã đến được với chúng ta.”

Brooke lập tức suy luận rằng câu nói đó là sự công kích vào việc họ đến trễ. “Rất xin lỗi vì chúng con trễ giờ, mẹ Elizabeth. Tàu điện ngầm rất…”

“Được rồi, chí ít thì các con cũng đã đến,” bác sĩ Alter nói, hai tay ông khum khum kiểu cách quanh ly nước cam đầy, y hệt cái cách mà cô tưởng tượng ông nâng niu những bộ ngực mà ông khám vậy.

“Kìa Brookie! Julian! Có gì mới không, các con?” Cha của Brooke đứng phắt lên ôm lấy cả đôi trong vòng ôm rộng. Rõ ràng là ông đang cư xử hơi cường điệu để cứu vãn tình thế cho gia đình Alter, nhưng thực lòng Brooke không thể trách ông được

“Chào bố,” cô vừa nói vừa ôm ông. Rồi cô đi về phía Cynthia, chị ta đang bị kẹt trên đi văng giữa bọn họ, và trao cho chị một cái ôm lóng ngóng nửa đứng nửa ngồi. “Chào dì Cynthia. Rất vui được gặp dì.”

“Ôi, dì cũng vậy, Brooke ạ. Chúng ta rất háo hức đến đây! Cha con và dì đang nói dở câu chuyện rằng khó mà nhớ được lần cuối cùng chúng ta đến New York là từ bao giờ.”

Đến tận lúc đó Brooke mới nhìn rõ diện mạo Cynthia. Chị mặc bộ vest đỏ rực như xe cứu hỏa, chắc hẳn bằng chất liệu polyester, với áo kiểu màu trắng và đôi giày da đế bệt màu đen, một chuỗi hạt ngọc trai giả ba sợi quấn quanh cổ chị, và trên đỉnh của tổng thể bộ cánh đó là kiểu đầu bới cao xoăn tít xịt keo. Trông chị như thể đang truyền tải hình ảnh của Hillary Clinton tại lễ đọc diễn văn trước Quốc hội của tổng thống, quyết tâm nổi bật giữa biển người mặc com lê tối màu. Brooke biết rằng chị chỉ cố gắng cho hợp với quan niệm của chị về cách ăn mặc của một phụ nữ Manhattan khá giả, nhưng toan tính của chị hỏng bét, đặc biệt là giữa những người lịch lãm nhà Alter, trong căn hộ đậm chất Á Đông này. Mẹ của Julian – dù hơn Cynthia đến hai mươi tuổi – trong chiếc quần jean màu sẫm bó khít và tấm khăn cashmere nhẹ như lông hồng choàng qua áo thụng chất co dãn không tay trông như trẻ hơn chị cả chục tuổi. Bà đi một đôi giày bệt kiểu ba lê thanh lịch với logo Chanel kín đáo và trang sức đi kèm chỉ gồm một lắc tay vàng và một chiếc nhẫn kim cương lớn. Làn da rám nắng của bà rạng rỡ với lớp trang điểm nhẹ nhàng, và tóc bà xõa xuống đến ngang lưng. Brooke lập tức cảm thấy mình có lỗi: cô biết chắc hẳn Cynthia phải cảm thấy bị đe dọa đến mức nào – xét cho cùng thì Brooke cũng luôn có cảm giác hệt như vậy mỗi khi có mặt mẹ chồng cô – nhưng cô còn bẽ mặt nữa vì cô đã đánh giá tình thế quá thấp. Thậm chí cả cha cô cũng có vẻ lúng túng khi nhận thấy chiếc quần kaki và cà vạt của ông lạc lõng bên cạnh chiếc áo polo ngắn tay của ông Alter.

“Julian, con yêu, mẹ biết là con muốn một ly cocktail Bloody. Brooke, con có thích một ly mimosa không?” Elizabeth Alter hỏi. Đó là một câu hỏi thông thường nhưng, giống như hầu hết những câu người phụ nữ này thường hỏi, nó gợi lên cảm giác như cài bẫy.

“Nói thật là con thích một ly Bloody Mary ạ.”

“Chắc thế rồi.” Bà mẹ của Julian mím môi lại tỏ vẻ chê bai ra mặt. Cho đến tận giờ, Brooke vẫn không chắc rằng mẹ chồng cô ghét cô vì những lý do có liên quan tới Julian và việc Brooke khuyến khích tham vọng âm nhạc của anh, hay vì bà ta thấy cô là kẻ rất chướng tai gai mắt.

Họ không còn lựa chọn nào khác ngoài cách ngồi vào hai chiếc ghế còn trống – cả hai đều có lưng tựa thẳng đứng bằng gỗ và không êm ái chút nào – hai chiếc ghế này đặt đối diện nhau nhưng bị lèn vào giữa hai chiếc đi văng. Cảm thấy khó xử và bất lực, Brooke cố nhanh nhảu khơi chuyện.

“Dạ, vài tuần qua bố mẹ thế nào ạ?” cô hỏi ông bà Alter và cười với Carmen khi đón ly Bloody Mary cao, đặc sền sệt được điểm bằng một lát chanh và nhánh cần tây trên miệng. Cô cố nén để không uống một hơi cạn hết ly. “Vẫn bận như mọi khi phải không ạ?”

“Ờ, tôi không thể tưởng tượng làm sao mà hai ông bà có thể duy trì lịch làm việc kiểu đó được!” Cynthia tiếp lời, có phần hơi lớn tiếng. “Brooke đã kể với tôi rằng có biết bao nhiêu, ờ, hoạt động mà ông bà phải tiến hành mỗi ngày, và như thế, đủ để làm bất kỳ ai kiệt sức. Tôi ấy à, chỉ cần một đợt viêm họng bùng phát là tôi quỵ ngay, nhưng hai ông bà kìa! Trời ạ, hẳn phải phát rồ lên mất.”

Elizabeth Alter nở nụ cười tươi và rất mực hạ cố. “Vâng, thì chúng tôi xoay xở để luôn bận rộn mà. Nhưng chuyện này chán ngắt phải không! Tôi muốn nghe xem bọn trẻ sống ra sao kia. Brooke? Julian?”

Cynthia thụt vào ghế ngồi, xẹp như con gián và bẽ bàng. Người phụ nữ tội nghiệp đó đang đi qua bãi mìn mà chị không thể tự mình tìm đường xuyên qua được. Chị vô thức đưa tay lau trán và đột nhiên có vẻ rất mệt mỏi. “Vâng, phải rồi. Hai cô cậu dạo này thế nào?”

Brooke biết rằng đừng để lộ bất kỳ chi tiết nào về công việc của cô thì hơn. Mặc dù mẹ chồng cô chính là người giới thiệu cho Brooke vào phỏng vấn ở trường Huntley nhưng bà chỉ làm thế sau khi đã phải cam lòng chấp nhận rằng Brooke không hề cân nhắc việc công tác trong các tạp chí, ng trang, các nhà đấu giá, hoặc quan hệ công chúng. Nếu chỉ đơn giản là Brooke phải dùng cái bằng cao học chuyên ngành dinh dưỡng đó thì bà không thể hiểu được tại sao chí ít cô không làm một nhà tư vấn cho tạp chí Vogue hoặc làm nhà tư vấn riêng cho số đông bè bạn của bà ở Khu Thượng Đông; bất kỳ cái gì, thực thế, cũng còn ít nhiều danh giá hơn, như bà nói, “một phòng cấp cứu dơ dáy với những kẻ vô gia cư và say xin.”

Julian quá hiểu chuyện nên đã xen vào cứu nguy cho cô. “À, thực ra thì con có một thông báo nho nhỏ,” anh vừa nói vừa húng hắng.

Dù Brooke mừng cho Julian đến mức không kìm lòng nổi nhưng bỗng nhiên một nỗi kinh hoàng dấy lên trong cô. Cô thấy mình đang cầu trời để anh đừng có kể với họ về buổi biểu diễn ra mắt đó, vì chắc chắn anh sẽ thất vọng với phản ứng của họ và cô ghét phải thấy anh trải qua điều đó. Không ai có thể làm cô bộc lộ bản năng che chở như cha mẹ Julian cả; chỉ nghĩ về những điều họ có thể nói ra thôi cũng làm cho Brooke muốn giấu anh đi và kéo anh về thẳng nhà, nơi anh được che chở khỏi sự xấu tính của họ, và tệ hơn nữa là sự thờ ơ của họ.

Mọi người chờ một chút để Carmen bưng một bình nước nho ép mới đến rồi quay lại chăm chú vào Julian.

“Con, ờ, vừa mới nghe tin từ Leo, người quản lý mới của con, rằng hãng Sony muốn giới thiệu con ra mắt khán giả trong tuần này. Chính xác là ngày thứ Năm.”

Có một khoảng lặng khi tất cả mọi người chờ đợi ai đó nói trước, rồi cha của Brooke là người đầu tiên lên tiếng. “Ôi, có lẽ cha chẳng biết chính xác biểu diễn ra mắt là thế nào, nhưng nghe có vẻ như là tin vui. Chúc mừng con, con trai!” ông vừa nói vừa nghiêng qua Cynthia để vỗ vào lưng Julian.

Bác sĩ Alter, dường như bực tức vì từ “con trai”, cau có nhìn vào tách cà phê của mình rồi quay sang Julian. “Sao con không giải thích xem điều đó có nghĩa gì cho những kẻ ngoại đạo chúng ta được biết?” ông hỏi.

“Phải rồi, điều đó có nghĩa là rốt cuộc cũng có ai đó nghe nhạc của con phải không?” bà mẹ Julian vừa hỏi vừa co chân vào kiểu cách hệt như một cô gái trẻ và mỉm cười với con trai mình. Mọi người ý tứ phớt lờ cái cách bà nhấn mạnh vào từ “rốt cuộc” – tất cả mọi người trừ Julian, mặt anh in hằn nét tổn thương, và Brooke, người chứng kiến điều đó.

Sau chừng ấy năm chắc chắn Brooke đã quen nghe cha mẹ Julian nói những điều tồi tệ, nhưng cô không vì thế mà bớt căm ghét họ. Khi cô và Julian mới hẹn hò, anh đã dần dần thổ lộ rằng cha mẹ anh rất chê trách anh và cách sống mà anh lựa chọn. Trong lễ đính hôn của hai người, cô bắt gặp vẻ bất bình của họ đối với chiếc nhẫn đính hôn bằng vàng trơn mà Julian khăng khăng một mực tặng cô thay vì một trong những “của báu gia truyền của dòng họ Alter” mà mẹ anh đã ép. Thậm chí khi Brooke và Julian nhân nhượng tổ chức hôn lễ tại dinh thự gia đình Alter ở Hamptons, cha mẹ anh đã phát hoảng khi cặp uyên ương cả quyết rằng lễ cưới sẽ không lớn, không ồn ào và không mời đông khách. Sau khi họ cưới và trong những năm tiếp theo, khi những người nhà Alter cư xử tự nhiên hơn trước mặt cô, vào vô số những bữa tối, bữa nhẹ và những kỳ nghỉ, cô thấy họ mới cay độc làm sao.

“À, về cơ bản thì điều đó có nghĩa là họ nhận thấy album sắp hoàn thành và ở chừng mực nào đó thì họ thực sự thích album của con. Họ sẽ thu xếp một buổi ra mắt những người trong ngành, đại loại là giới thiệu con với những người đó trong một buổi biểu diễn cá nhân, và rồi họ sẽ đánh giá phản ứng.” Julian, người thường vẫn quá khiêm tốn đến mức thậm chí không muốn nói với Brooke khi anh có một ngày thành công ở phòng thu, lúc này không thể kìm được nụ cười tự hào tươi rói. Cô những muốn hôn anh ngay tại trận.

“Có lẽ tôi chẳng hiểu gì mấy về ngành âm nhạc, nhưng nghe có vẻ là cả một sự tán thưởng và khích lệ lớn lao từ phía họ,” cha Brooke nói và nâng cao chiếc ly.

Julian không giấu được nụ cười. “Đúng thế ạ,” anh vừa nói vừa cười toác. “Chắc chắn đó là viễn cảnh hay nhất lúc này. Và con hy vọng…”

Anh dừng lại vì chuông điện thoại bắt đầu reo và mẹ anh ngay lập tức bắt đầu nhìn quanh tìm máy con cầm tay. “Ồ, cái điện thoại phải gió đâu rồi nhỉ? Chắc hẳn là L’Olivier(7) gọi điện xác nhận thời gian cho ngày mai. Con ơi, hãy dừng chút xíu. Nếu không đặt ngay thì mẹ sẽ không có hoa cho bữa tiệc tối mai mất.” Nói xong, bà đứng lên khỏi đi văng và biến vào trong bếp.

(7) L’Olivier: hãng hoa tươi nổi tiếng ở New York.

“Các con cũng biết mẹ các con với đám hoa hoét của bà ấy rồi đây,” bác sĩ Alter nói. Ông nhấp cà phê, chẳng hiểu ông có nghe thấy thông báo của Julian hay không nữa. “Tối mai chúng ta mời nhà Bennet và nhà Kamen đến ăn tối, thành thử bà ấy đang rối lên với việc chuẩn bị. Chúa ơi, mọi người sẽ tưởng quyết định chọn món nhồi hay món om là vấn đề an ninh quốc gia cơ đấy. Lại còn hoa nữa chứ! Chắc bà ấy đã mất đứt nửa buổi chiều cuối tuần trước với cái đám hoa fegela đó, mà đến giờ bà ấy vẫn còn lăn tăn. Tôi đã nói với bà ấy cả ngàn lần rằng: ai buồn quan tâm đến hoa với hoét kia chứ; chẳng ai nhận thấy nữa ấy. Ngày nay ai cũng vung tiền vào những đám cưới hoang phí và chi hàng chục ngàn đô la vào những núi phong lan hoặc cái khỉ gió gì đang mốt, mà nào có ai liếc nhìn đến những của nợ ấy bao giờ? Thật là đại lãng phí, nếu mọi người muốn biết ý kiến của tôi. Tiêu tiền vào rượu ngon nhắm tốt – đó mới là cái mà người ta hưởng thụ thực sự chứ.” Ông nhấp một ngụm nữa, nhướng mắt nhìn quanh phòng. “Nào, chúng ta đang nói về cái gì nhỉ?”

Cynthia tế nhị xen vào làm dịu bớt giây phút căng thẳng. “Ôi, đó chính là một trong những tin hay nhất mà bao nhiêu lâu nay chúng ta mới được nghe phải không nào!” Chị nói với lòng nhiệt tình hơi thái quá. Cha Brooke hăng hái gật đầu. “Chính xác thì buổi biểu diễn ra mắt sẽ được tổ chức ở đâu nhỉ? Bao nhiêu người được mời? Cậu đã quyết định sẽ biểu diễn bài gì chưa?” Cynthia giội những câu hỏi như mưa xuống đầu anh và chỉ duy có lần này là Brooke không cảm thấy khó chịu với sự cật vấn đó. Đó chính là những câu hỏi mà cha mẹ Julian nên đặt ra nhưng họ sẽ không bao giờ hỏi, và Julian rành là rất khoái khi nhận được sự quan tâm như vậy.

“Buổi biểu diễn sẽ được tổ chức ở một thính phòng nhỏ thân mật trong trung tâm thành phố, và đại diện của con nói rằng họ đang mời khoảng năm mươi người trong ngành – những người ký hợp đồng biểu diễn với bên truyền hình và phát thanh, những người điều hành trong lĩnh vực âm nhạc, một số người từ M, đại loại là thế. Hầu như chắc chắn là sự kiện này sẽ không mang lại điều gì quá to tát cả, nhưng nó là dấu hiệu tốt cho thấy hãng thích album của con.”

“Hiếm khi họ làm việc này cho các nghệ sĩ mới trình làng của họ,” Brooke tự hào nói. “Julian thực ra đã quá khiêm tốn – sự kiện đó hết sảy đấy ạ.”

“Ờ thì ít nhất cái đó cũng là một tin mừng,” mẹ anh tuyên bố lúc trở lại ngồi lên đi văng.

Julian mím miệng và hai bàn tay anh nắm chặt lại phía bên sườn. “Mẹ à, từ nhiều tháng nay họ đã giúp đỡ và khuyến khích quá trình hình thành album rồi. Ờ thì ban đầu những nhà điều hành cấp cao đã chủ trương tập trung giới thiệu một tay ghi ta hơn, nhưng suốt từ đó đến nay họ thật tuyệt vời. Vậy nên con không hiểu tại sao mẹ lại phải nói theo cái kiểu đó.”

Elizabeth Alter nhìn con trai và có vẻ thoáng bối rối. “Ôi, con yêu, mẹ đang nói về L’Olivier đấy chứ. Tin mừng là họ có đủ hoa thủy vu mà mẹ muốn, và nhà thiết kế mẹ thích nhất cũng rảnh để đến đây cắm hoa. Đừng có hơi tí thì động lòng thế chứ.”

Cha Brooke liếc cô với cái nhìn như muốn hỏi, Người đàn bà này là thế nào đây? Brooke nhún vai. Cũng như Julian, cô đã thừa nhận một điều rằng cha mẹ anh không bao giờ thay đổi. Chính vì vậy mà cô ủng hộ anh một trăm phần trăm khi anh từ chối lời họ đề nghị mua cho cặp vợ chồng mới cưới một căn hộ ở gần căn hộ của họ tại Khu Thượng Đông. Chính vì vậy, cô thà làm hai việc một lúc còn hơn nhận khoản “trợ cấp” mà có lần họ đã gợi ý, vì cô biết những sợi dây ràng buộc đi kèm theo nó.

Vào lúc Carmen báo rằng bữa ăn nhẹ đã sẵn sàng, Julian trở nên hoàn toàn trầm lặng và đờ đẫn – như rùa thụt vào mai, Brooke luôn gọi thái độ này của anh như thế – còn Cynthia thì có vẻ nhăn nhúm và mệt lử trong bộ vest polyester của chị. Ngay cả cha Brooke, người vẫn can đảm tìm cách tiếp tục câu chuyện chung chung (“Các vị có nghĩ là năm nay chúng ta đang trải qua một mùa đông khắc nghiệt không?” và “William, ông mê bóng chày à? Đội Yanks (8)dường như là một lựa chọn hiển nhiên, nhưng tôi biết l không nhất thiết lựa chọn đội bóng từ quê hương của họ…”) cũng chào thua. Trong những tình huống, bình thường thì Brooke lẽ ra đã cảm thấy có trách nhiệm với sự khổ tâm của mọi người – xét cho cùng, họ tập trung ở đây chỉ vì cô và Julian, phải không? – nhưng hôm nay cô mặc kệ. Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ – cô nghĩ, rồi xin phép đi vào phòng vệ sinh, dù thực ra cô chỉ lượn qua đó để vào bếp.

(8) Yanks: tên gọi tắt của đội bóng chày New York Yankees.

“Ngoài đó sao rồi, cháu yêu?” Carmen hỏi trong lúc múc mứt mơ vào chiếc bát bằng bạc ròng.

Brooke giơ cao ly Bloody Mary đã cạn của mình với vẻ van vỉ.

“Tệ thế cơ à?” Carmen cười và chỉ cho Brooke lấy chai vodka từ tủ lạnh trong lúc bà chuẩn bị nước cà chua ép và nước xốt hạt tiêu Tabasco. “Cha mẹ cháu chèo chống ra sao? Cynthia có vẻ là một phụ nữ dễ chịu thật đấy.”

“À vâng, dì ấy dễ thương ạ. Họ là những người trưởng thành rồi và tự họ chọn cái chuyến thăm viếng dở hơi này. Chính Julian mới là người cháu lo kia.”

“Chẳng có gì mà cậu ấy chưa chứng kiến cả đâu, cháu yêu. Không ai đối phó với họ giỏi hơn đâu.”

Brooke thở dài. “Cháu biết thế. Nhưng sau đó anh ấy phiền muộn lâu lắm.”

Carmen cắm một nhánh cần tây vào ly Bloody Mary rồi đưa cho Brooke. “Tăng lực,” bà tuyên bố, và hôn lên trán Brooke. “Giờ thì quay lại đằng ấy mà bảo vệ người đàn ông của cháu đi.”

Phần ăn chính không đến nỗi tệ như lúc uống cocktail. Mẹ Julian cơn cớ một chút vì món bánh cuộn phủ sô cô la (mặc dù những người khác ai cũng thích món bánh Carmen làm nhưng Elizabeth lại nghĩ rằng chúng quá thừa chất béo để mà ăn trong b chính), và bác sĩ Alter biến vào thư phòng của ông một lúc, nhưng nhờ thế mà không ai trong hai vợ chồng họ làm bẽ mặt con trai mình quá một tiếng đồng hồ. Màn chào tạm biệt may mắn không gặp trục trặc gì, nhưng lúc cô và Julian giúp cha cô và Cynthia ngồi vào taxi, cô thấy Julian trông xa vắng và buồn bã.

“Anh có sao không, anh yêu? Bố em và Cynthia quá phấn khích. Và em khó mà có thể…”

“Anh không muốn nói về chuyện ấy, được không em?”

Họ lặng lẽ đi trong ít phút.

“Này anh, mình còn rỗi nốt đến cuối ngày hôm nay. Tuyệt đối chẳng phải làm gì. Nhân tiện mình đang ở đây, anh có muốn ghé thăm một viện bảo tàng không?” Brooke vừa hỏi vừa nắm tay anh và giật nhẹ cánh tay anh trong lúc họ đi về phía ga tàu điện ngầm.

“Không, anh không muốn chen vào các đám đông trong ngày Chủ nhật.”

Cô nghĩ một lát. “Từ lâu anh vẫn thích xem phim 3D IMAX (9). Em không phiền nếu đi xem cùng anh đâu,” cô nói dối. Những lúc vô vọng lại cần những giải pháp liều lĩnh.

(9) IMAX: một dạng phim ảnh động có khả năng ghi chiếu hình với kích thước và độ phai giải lớn hơn nhiều so với các hệ phim thông thường.

“Anh không sao đâu, Brooke à. Thật là anh không sao mà,” Julian lặng lẽ nói rồi kéo chiếc khăn len quàng lên cổ. Cô biết lúc này chính anh là người nói dối.

“Em mời Nola đến buổi biểu diễn ra mắt của anh được chứ? Buổi diễn nghe có vẻ thật đình đám, anh biết đấy Nola khó mà bỏ qua bất kỳ cơ hội nào ở những chỗ đình đám.”

“Chắc là được thôi – Leo nói rằng buổi diễn sẽ có quy mô rất nhỏ, và anh đã mời Trent rồi. Đợt luân chuyển này cậu ấy chỉ còn ở New York vài tuần nữa thôi, mà từ đó đến nay cậu ấy cứ làm việc như điên vậy. Anh nghĩ cậu ấy có quyền đi chơi một tối.”

Họ nói thêm về buổi diễn ra mắt, và họ bàn xem anh sẽ mặc gì, biểu diễn những bài hát nào, và theo thứ tự ra sao. Cô mừng vì có thể gợi cho anh bộc bạch tâm sự, và lúc họ về đến nhà thì Julian hầu như đã trở lại là chính mình.

“Em đã nói với anh rằng em tự hào về anh đến mức nào chưa nhỉ?” Brooke hỏi khi họ bước vào thang máy riêng, cả hai rõ ràng đều thấy nhẹ lòng khi về đến nhà.

“Rồi,” Julian nói với một nụ cười nhẹ.

“Thế thì vào nhà đi, anh yêu,” Brooke vừa nói vừa kéo tay anh đi dọc hành lang. “Em nghĩ giờ là lúc em cho anh thấy đấy.”

3

Khiến John Mayer (1) chỉ như kẻ nghiệp dư

(1) John Mayer (1977): nhạc sĩ, ca sĩ và nhà sản xuất âm nhạc người Mỹ, giành giải Grammy cho giọng đơn ca nam hay nhất của dòng nhạc pop năm 2003 Với bài hát “Your Body is a Wonderland”.

“>húng mình đang ở đâu đây nhỉ?” Brooke vừa lẩm bẩm vừa bước ra khỏi taxi và nhìn quanh con phố nhỏ tăm tối và hoang vắng ở mạn Tây Chelsea. Đôi bốt cao màu đen kiểu lười mà cô sắm được ở một phiên giảm giá cuối mùa cứ kéo tuột tất quần của cô xuống.

“Trung tâm khu vực triển lãm (2), Brooke ạ. Đại lộ và quán 1 OAK ở ngay đằng góc phố kìa.”

(2) Khu vực triển lãm (Gallery District): phía Tây Chelsea là trung tâm thế giới nghệ thuật của thành phố New York với rất nhiều phòng trưng bày và các phòng nhạc.

“Tớ có cần biết những thứ cậu vừa nói là cái gì không?”

Nola lắc lắc đầu. “Thôi mà, chí ít thì trông cậu rất đẹp. Tối nay Julian sẽ rất tự hào vì có cô vợ nóng bỏng thế này.”

Brooke biết rằng cô bạn mình nói thế chỉ vì lòng tốt mà thôi. Chính Nola trông mới thật lộng lẫy, như thường lệ. Cô nàng đã nhồi chiếc áo vest và đôi giày cao tiện dụng vào chiếc túi LV ngoại cỡ và thay chúng bằng chuỗi dây đeo cổ nhiều vòng rất lớn cùng đôi giày gót cao chót vót Louboutin kiểu nửa bốt nửa xăng đan, kiểu giày mà chỉ có khoảng sáu phụ nữ trên đời có thể mang mà không bị nhầm lẫn với loại gái bạo dâm nhà nghề. Những thứ mà có lẽ trông sẽ rất rẻ tiền ở bất kỳ ai khác – son môi đỏ chót, tất lưới màu da và áo nịt ngực ren đen nhìn rõ mồn một bên trong chiếc áo hai dây trong veo của cô – thì Nola lại khiến chúng có vẻ vừa táo bạo vừa nghịch ngợm. Chiếc jupe dáng bút chì, vốn là một nửa của bộ vest đắt tiền khá phù hợp với môi trường làm việc bảo thủ nhất phố Wall, lúc này lại phô cặp mông săn chắc và đôi chân hoàn hảo của cô. Nếu đó là bất kỳ một người phụ nữ nào khác chứ không phải Nola thì Brooke hẳn sẽ ghét cay ghét đắng.

Brooke nhìn vào chiếc điện thoại BlackBerry của mình. “Giữa phố 10 và phố 11. Chính xác là nơi chúng mình đang đứng đấy chứ? Chỗ này là đâu ấy nhỉ?” Cô thoáng thấy một cái bóng lao vụt ra liền la toá

“Ồ, bình tĩnh nào Brooke. Nó còn sợ cậu hơn là cậu sợ nó đấy.” Nola xua vụ nhìn thấy chuột đi bằng bàn tay diện chiếc nhẫn cocktail.

Brooke vội vàng băng qua đường khi nhận ra rằng địa chỉ số chẵn mà họ muốn đến nằm ở phía đối diện. “Cậu nói thì dễ rồi. Cậu có thể đâm thủng tim nó bằng một cú giậm cái đế giày cao gót đó. Đôi bốt trệt bè bè này đẩy tớ vào tình thế có nguy cơ cao hơn.”

Nola cười to và điệu đà chạy sau Brooke. “Kia rồi, tớ nghĩ nó đấy,” cô vừa nói vừa chỉ tay về phía tòa nhà duy nhất trong dãy không có vẻ xập xệ.

Các cô theo cầu thang bộ hẹp từ vỉa hè dẫn xuống cánh cửa một tầng hầm không có cửa sổ. Julian đã giải thích rằng những cuộc biểu diễn ra mắt kiểu đó thường xuyên di chuyển từ địa điểm này sang địa điểm khác, và những người trong ngành âm nhạc luôn tìm chỗ có phong cách thời trang tiếp theo để tạo cảm giác phấn chấn, nhưng dẫu vậy, trước nay cô vẫn hình dung ra một chỗ giống như phiên bản thu nhỏ của qụán bar Joe. Còn cái này là gì? Không có những người hâm mộ xếp hàng từ vỉa hè. Không có bảng quảng cáo tên nghệ sĩ tài năng biểu diễn đêm nay trương trên cửa vào. Cũng không có cả cô gái cau có như thông lệ với tấm bìa kẹp giấy tờ, gắt gỏng yêu cầu mọi người đứng lùi lại chờ đến lượt.

Brooke cảm thấy nỗi lo như một làn sóng nhỏ cồn lên tận đến lúc cô kéo cánh cửa giống như cửa hầm mộ ra, bước vào bên trong, rồi được bao bọc trong bóng tối mờ mờ ấm áp với những tiếng cười khẽ và mùi hương phảng phất nhưng không lẫn vào đâu được của cần sa. Toàn bộ không gian cỡ chỉ bằng một phòng khách rộng, và tất cả mọi thứ – từ những bức tường, những chiếc đi văng, cho đến cả những tấm ốp trên quầy bar nhỏ trong góc – đều được bọc vải nhung lông màu boóc đô. Một chiếc đèn đơn độc trên cây dương cầm tỏa ánh sáng dịu mờ xuống chiếc ghế chưa có người ngồi. Hàng trăm cây nến nhỏ được khuếch đại ánh sáng trên những mặt bàn và trần nhà ốp gương, chẳng hiểu sao khung cảnh này lại thành ra quá sức gợi cảm mà thậm chí không khơi lên một chút gì của thập kỷ tám


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.