Đại Chiến Hacker

Chương 20



Cả ba người đàn ông đều không có ở đó nên tôi bỏ đi. Đầu tôi đau buốt đến nỗi tôi nghĩ chắc hẳn mình đang bị chảy máu mất rồi, nhưng hai bàn tay tôi lại khô khốc. Mắt cá chân bị trẹo đã đông cứng khi còn trong xe tải nên tôi chạy như một con rối bị hỏng và chỉ dừng lại một lần để hủy lệnh xóa ảnh trong điện thoại của Masha. Tôi tắt sóng radio của nó – vừa để tiết kiệm pin vừa để không ai dò được mình – và đặt chế độ “ngủ” đến hai tiếng đồng hồ, thời gian cài đặt dài nhất. Tôi cố gắng đặt chế độ không cần sử dụng đến mật khẩu để mở nhưng chính điều này cũng cần một mật khẩu. Tôi sẽ phải chạm vào bàn phím ít nhất hai tiếng một lần cho đến khi tôi tìm ra cách lấy ảnh khỏi điện thoại. Đến lúc đó, tôi sẽ cần một cục sạc.

Tôi không có kế hoạch nào cả. Tôi cần một kế hoạch. Tôi cần ngồi xuống, lên mạng – để định hướng xem phải làm gì tiếp theo. Tôi phát ốm với việc để mọi người lên kế hoạch giùm rồi. Tôi không muốn hành động vì những việc Masha đã làm, hay vì DHS, hay vì bố tôi. Hay vì Ange? Có lẽ tôi sẽ hành động vì Ange. Thực ra, điều này cũng tốt thôi.

Tôi đi xuống đồi, rẽ vào các con hẻm khi có thể, hòa mình vào đám đông ở Tenderloin. Tôi không có điểm đến nào cụ thể. Cứ cách vài phút, tôi lại đút tay vào túi và bấm một trong những cái phím trên điện thoại của Masha để không cho nó ngủ hẳn. Việc làm này khiến áo khoác của tôi phồng lên khác thường.

Tôi dừng lại và dựa lưng vào tường. Mắt cá chân tôi đau đớn. Tôi đang ở đâu đây?

O’Farrell, phố Hyde. Trước một “Tiệm mát xa Châu Á” trá hình. Đôi chân phản bội đã đưa tôi quay lại đúng điểm khởi đầu – quay lại đúng nơi chụp bức ảnh trong điện thoại của Masha, chỉ vài giây trước khi Cầu Vịnh bị đánh sập, trước khi cuộc đời tôi thay đổi vĩnh viễn.

Tôi muốn được ngồi xuống vỉa hè và khóc, nhưng việc này chẳng giải quyết được những vấn đề của tôi. Tôi phải gọi cho Barbara Stratford, kể cho cô ấy chuyện gì đã xảy ra. Cho cô ấy xem bức ảnh của Darryl.

Tôi đang nghĩ gì thế này? Tôi phải cho cô ấy xem đoạn băng mà Masha đã gửi cho tôi – đoạn băng mà trong đó Chánh văn phòng của Tổng thống đang cười hả hê trước những vụ tấn công ở San Francisco và thừa nhận rằng ông ta biết các vụ tấn công tiếp theo sẽ diễn ra khi nào, ở đâu và rằng ông ta sẽ không ngăn chặn chúng vì chúng sẽ giúp vị tổng thống của ông ta tái đắc cử.

Rồi tôi vạch ra một kế hoạch: liên lạc với Barbara, đưa cho cô ấy tài liệu và để chúng được in ra. VampMob chắc chắn đã làm cho mọi người hoảng sợ và làm cho họ nghĩ rằng chúng tôi thật sự là một hội khủng bố. Tất nhiên, khi tôi lên kế hoạch cho vụ đó, tôi chỉ nghĩ nó sẽ là một cách tốt để khiến họ bị phân tán, chứ ai mà nghĩ đến việc nó sẽ như thế nào trong mắt một ông già nhà quê nào đó ở Nebraska.

Tôi sẽ gọi Barbara, và tôi sẽ làm điều này một cách khôn ngoan, từ trạm điện thoại trả tiền trước, trùm mũ áo khoác lên để hệ thống camera theo dõi không thể chụp được ảnh tôi. Tôi lấy trong túi áo một đồng 25 cent và lấy gấu áo lau sạch dấu vân tay trên đồng tiền.

Tôi đi xuống dốc, xuống mãi, đến tận ga BART và những bốt điện thoại công cộng ở đó. Tôi đi đến trạm dừng của xe chở hàng thì thấy bìa của tờ Bay Guardian số mới nhất được xếp thành chồng cao bên cạnh một người đàn ông da đen vô gia cư, ông ta cười với tôi. “Cứ đọc bìa đi, miễn phí mà… nhưng sẽ tốn 50 cent để xem bên trong đấy.”

Tiêu đề của bài báo được in ở cỡ chữ to nhất mà tôi từng thấy kể từ sau sự kiện ngày Mười một tháng Chín:

BÊN TRONG GITMO-BÊN-BỜ-VỊNH

Bên dưới là một dòng chữ hơi nhỏ hơn một tẹo:

“DHS đã giam giữ con em và bạn bè của chúng ta trong những nhà tù bí mật ngay trước mắt chúng ta như thế nào?”

“Tác giả: Barbara Stratford, Trân trọng gửi tới độc giả của Bay Guardian.”

Người bán báo lắc đầu. “Cậu có thể tin được không?” ông nói. “Ngay tại San Francisco này. Chúa ơi, chính quyền chó má.”

Về lý thuyết mà nói, tờ Guardian là báo miễn phí nhưng có vẻ như người đàn ông này đã gom toàn bộ báo ở quanh đây. Tôi có một đồng 25 cent trong tay. Tôi bỏ nó vào trong cái cốc của ông ta và tìm thêm một đồng 25 cent khác. Lần này tôi không thèm lau sạch dấu vân tay trên đồng xu nữa.

“Người ta bảo với chúng ta rằng thế giới đã thay đổi mãi mãi khi Cầu Vịnh bị những phe phái giấu tên đánh sập. Hàng nghìn bạn bè và hàng xóm của chúng ta đã chết trong ngày đó. Gần như không ai trong số họ được tìm thấy; thân thể họ được cho là đang an nghỉ ở cảng thành phố.”

“Nhưng có một câu chuyện rất lạ mà một người thanh niên đã bị lực lượng DHS bắt giữ chỉ vài phút sau vụ nổ, kể lại cho phóng viên, nó cho thấy khả năng chính chính quyền của chúng ta đã giam giữ bất hợp pháp rất nhiều người được cho là đã chết trên đảo Kho Báu, nơi đã được sơ tán và tuyên bố là không thuộc địa phận của dân thường không lâu sau vụ nổ bom…”

Tôi ngồi xuống ghế – đúng chiếc ghế đó, tôi chú ý đến nó với cảm giác sởn tóc gáy, đó là nơi chúng tôi đặt Darryl xuống sau khi thoát khỏi nhà ga BART- và đọc bài báo từ đầu đến cuối. Tôi đã cố gắng để không bật khóc ngay ở đây. Barbara đã tìm thấy một số ảnh của tôi và Darryl đang làm những trò vớ vẩn cùng nhau và cho đăng dọc bài báo. Những bức ảnh này được chụp khoảng một năm trước nhưng trong ảnh nhìn tôi trẻ hơn rất nhiều, cảm giác như một đứa trẻ mười hay mười một tuổi gì đó. Dường như tôi đã lớn lên rất nhiều trong hai tháng qua.

Bài báo được viết rất tốt. Tôi cảm thấy đáng thương cho đứa trẻ mà cô ấy viết, rồi chợt nhớ ra cô ấy đang viết về tôi. Lá thư của Zeb cũng có ở đấy, chữ viết khó đọc của anh ta được in khá to, chiếm trọn một nửa trang báo. Barbara đã thu thập được nhiều thông tin từ những đứa trẻ bị lạc và được cho là đã chết khác, một danh sách dài, và đặt ra câu hỏi rằng còn bao nhiêu đứa trẻ đang bị kẹt lại trên đảo, chỉ cách nhà của bố mẹ chúng vài dặm.

Tôi lục trong túi một đồng 25 cent nữa nhưng sau đó đổi ý. Có thể nào điện thoại của Barbara cũng bị nghe trộm không? Không có cách nào để tôi có thể gọi điện thoại cho cô ấy, không phải là trực tiếp. Tôi cần một cách trung gian để liên lạc với cô ấy và nhắn cô đến gặp tôi ở đâu đó phía Nam. Quá nhiều việc phải lên kế hoạch.

Cái mà tôi rất, rất cần là Xnet.

Làm sao để tôi lên mạng bây giờ? Thiết bị dò WiFi trên điện thoại của tôi đang chớp liên tục – xung quanh tôi đều có sóng WiFi nhưng tôi lại không có Xbox và TV và một đĩa DVD ParanoidXbox để kích hoạt. WiFi, WiFi ở khắp nơi…

Đó là lúc tôi nhìn thấy chúng. Hai cậu bé, tầm tuổi tôi, đang đi giữa đám người ở trên cùng của cầu thang xuống ga BART.

Điều làm tôi chú ý là cách mà chúng di chuyển, khá vụng về, va chạm vào hành khách và khách du lịch. Chúng cho tay vào túi quần và mỗi khi chúng nhìn nhau, chúng lại cười rúc rích. Không còn nghi ngờ gì nữa, chúng chính là những người gây rối, nhưng đám đông hoàn toàn không để ý đến chúng. Khi đi xuống khu đó, bạn chắc mẩm sẽ gặp phải dân vô gia cư hay những kẻ điên khùng, do vậy bạn không nhìn vào mắt ai, không nhìn xung quanh nếu bạn có thể. Tôi lướt tới cạnh một đứa.

Nó có vẻ rất trẻ con nhưng không thể nào ít tuổi hơn tôi.

“Hey,” tôi lên tiếng. “Này, các cậu ra đây một chút được không?”

Nó giả vờ như không nghe thấy tôi nói. Nó nhìn xuyên qua tôi, cái cách mà bạn nhìn một người vô gia cư.

“Thôi nào,” tôi nói. “Tớ không có nhiều thời gian đâu.” Tôi túm lấy vai nó và rít vào tai nó. “Cảnh sát đang tìm tớ. Tớ từ Xnet.”

Giờ thì nó phát hoảng, như kiểu muốn bỏ chạy, đứa bạn của nó đang tiến về phía chúng tôi. “Tớ hoàn toàn nghiêm túc đấy,” tôi nói. “Hãy nghe tớ.”

Bạn của nó lại gần. Đứa này cao hơn và cơ bắp hơn – như Darryl. “Này. Có chuyện gì không ổn à?” nó hỏi.

Đứa kia thì thầm gì đó vào tai nó. Trông cả hai giống như chuẩn bị bỏ chạy.

Tôi lấy tờ Bay Guardian dưới cánh tay ra và giơ trước mặt chúng. “Giở trang năm ra, OK?” Chúng làm theo. Chúng nhìn vào dòng tít. Bức ảnh. Tôi.

“Ối, chiến hữu,” đứa đầu tiên thốt lên. “Bọn tớ thật không xứng đáng.” Nó cười toe toét với tôi còn đứa cơ bắp hơn vỗ vào lưng tôi.

“Không thể nào…” nó nói. “Cậu là M…”

Tôi bịt miệng cậu ta lại. “Lại đây được không?” Tôi dẫn chúng lại ghế của mình. Tôi nhìn thấy một vệt cũ xỉn màu nâu trên vỉa hè ngay dưới cái ghế. Có phải máu của Darryl không? Nó làm tôi nổi da gà. Chúng tôi ngồi xuống.

“Tớ là Marcus,” tôi nói, nuốt nước bọt một cách khó khăn khi nói tên thật cho những người đã biết tôi dưới cái tên M1k3y. Tôi đang phá vỡ vỏ bọc của mình, nhưng tờ Bay Guardian đã tạo mối liên hệ cho tôi.

“Nate,” đứa nhỏ con hơn giới thiệu. “Liam,” đứa to lớn hơn nói. “Anh bạn, thật hân hạnh biết bao khi được gặp cậu. Cậu như là anh hùng mọi thời đại của bọn tớ vậy…”

“Đừng nói thế,” tôi ngắt lời. “Đừng nói thế chứ. Hai cậu giống hệt một cái biển quảng cáo đang nhá lên dòng chữ ‘Tôi đang gây rối, làm ơn đá ********* tôi vào Gitmo-bên-bờ-Vịnh.’ Các cậu không thể lộ liễu hơn nữa đâu.”

Trông Liam như sắp khóc đến nơi.

“Đừng lo, các cậu không bị bắt đâu. Lát nữa tớ sẽ chỉ cho các cậu vài mánh khóe.” Cậu ta vui tươi trở lại. Càng lúc tôi càng thấy rõ là hai đứa này thật sự thần tượng M1k3y, và chúng sẵn sàng làm bất cứ việc gì tôi nói. Chúng đang nhe răng cười như mấy đứa dở người. Điều này khiến tôi không thoải mái chút nào, dạ dày tôi muốn phát bệnh.

“Nghe này, tớ cần vào Xnet ngay bây giờ mà không phải đi về nhà hay bất cứ đâu gần nhà. Các cậu có sống gần đây không?”

“Có tớ,” Nate nói. “Ở đầu phố California. Phải đi bộ một đoạn nữa… những ngọn đồi dốc đấy.” Tôi vừa từ trên ấy xuống. Masha đang ở đâu đó trên ấy. Nhưng dù sao thì như thế này cũng vẫn tốt hơn những gì tôi có quyền mong đợi.

“Đi thôi,” tôi nói.

Nate cho tôi mượn mũ lưỡi trai bóng chày và đổi áo khoác với tôi. Với mắt cá chân đau nhức thì tôi không phải lo lắng gì về việc bị nhận dạng bằng dáng đi – tôi đi khập khiễng như một đứa đóng vai phụ trong các bộ phim cao bồi.

Nate sống trong một căn hộ có bốn phòng ngủ rộng rãi trên đỉnh đồi Nob. Tòa nhà có người gác cổng mặc áo khoác đỏ với đường chỉ thêu màu vàng, ông chạm tay lên mũ, gọi Nate là “cậu Nate” và chào mừng tất cả chúng tôi. Tòa nhà tuyệt nhiên không thấy một vết bẩn và có mùi của lớp sơn đồ đạc. Tôi cố không trố mắt nhìn những căn hộ có giá khoảng vài triệu đô này.

Nate giải thích, “Bố tớ là chủ ngân hàng đầu tư. Ông mua rất nhiều bảo hiểm nhân thọ. Ông mất khi tớ mười bốn tuổi và chúng tớ được hưởng tất cả. Bố mẹ tớ ly dị nhiều năm rồi nhưng bố tớ để lại tài sản cho mẹ.”

Đứng ở cái cửa số cao từ sàn đến trần nhà, bạn có thể nhìn thấy toàn bộ cảnh tượng đẹp mê hồn của phía bên kia đồi Nob, xuống tận bến cảng Ngư Dân, đến những tàn tích xấu xí của Cầu Vịnh, hàng loạt cần cẩu và xe tải. Qua màn sương mù, tôi có thể nhìn thấy đảo Kho Báu. Đứng trên cao nhìn xuống khiến tôi cảm thấy một sự thôi thúc điên rồ phải nhảy xuống.

Tôi vào mạng bằng Xbox của Nate và nhìn lên màn hình plasma lớn trong phòng khách. Nó chỉ cho tôi có bao nhiêu mạng WiFi hiển thị từ địa điểm thuận lợi ở trên cao này – khoảng 20 hay 30 gì đó. Đây quả là một địa điểm tốt để làm thành viên của Xnet.

Có rất nhiều e-mail trong tài khoản M1k3y của tôi. Hai mươi nghìn tin nhắn mới từ khi Ange và tôi rời nhà cô vào buổi sáng. Rất nhiều tin nhắn là của cánh phóng viên hỏi lịch phỏng vấn tiếp theo, nhưng phần lớn là từ thành viên Xnet, mọi người đã đọc câu chuyện trên tờ Guardian và muốn nói với tôi rằng họ sẵn sàng làm bất cứ việc gì để giúp tôi, bất cứ điều gì tôi cần.

Vậy đấy. Nước mắt bắt đầu chảy xuống má.

Nate và Liam liếc mắt với nhau. Tôi cố ngăn mình đừng khóc nhưng không làm được. Tôi đang nấc lên từng hồi. Nate đi đến cái giá sách làm từ gỗ sồi đóng trên một bức tường và kéo bản lề của một trong những kệ sách, để lộ ra một dãy chai lọ lấp loáng. Nó rót một cốc nước gì đó màu vàng nâu và đưa cho tôi.

“Whiskey Ailen loại hiếm đấy,” nó nói. “Đồ uống ưa thích của mẹ tớ.”

Chất lỏng có vị như lửa, như vàng. Tôi nhấm nháp, cố gắng để không bị sặc. Thực sự tôi không thích rượu mạnh, nhưng loại này khác. Tôi hít thở vài hơi thật sâu.

“Cảm ơn Nate,” tôi nói. Trông nó giống kiểu vừa được tôi trao huy chương vậy. Đúng là một cậu nhóc ngoan.

“Được rồi,” tôi nói và cầm bàn phím lên. Hai đứa con trai quan sát với thái độ thích thú say mê trong lúc tôi xem qua thư từ của mình trên màn hình khổng lồ.

Cái mà tôi tìm kiếm đầu tiên và trước nhất là thư của Ange. Có khả năng cô đã trốn được. Khả năng đó luôn tồn tại.

Tôi thật ngớ ngẩn khi hy vọng sẽ có tin tức gì từ Ange. Không có gì hết. Tôi bắt đầu lướt qua những bức thư nhanh hết mức có thể, phân loại yêu cầu từ báo chí, thư của người hâm hộ, thư của người thù ghét, thư rác…

Và đó là lúc tôi thấy nó: một bức thư từ Zeb.

> Thật không dễ chịu gì khi thức dậy vào sáng nay và nhìn thấy lá thư mà tôi cứ tưởng là cậu đã hủy đi xuất hiện trên những trang báo. Không dễ chịu một chút nào. Khiến tôi cảm thấy… bị săn đuổi.

> Nhưng tôi dần hiểu ra tại sao cậu lại làm như thế. Tôi không biết liệu mình có thể chấp nhận những mưu mẹo của cậu hay không, nhưng thật dễ để nhận ra động cơ của cậu là thiện chí.

> Nếu cậu đang đọc thư này, nhiều khả năng cậu đang phải mai danh ẩn tích. Không dễ chút nào. Tôi đang học làm việc đó. Tôi đã học được rất nhiều.

> Tôi có thể giúp cậu. Tôi nên làm thế vì cậu. Cậu đã và đang làm những gì có thể vì tôi (Mặc dù cậu làm mà không có sự cho phép của tôi.)

> Hồi âm cho tôi nếu cậu đọc được thư này, nếu cậu đang chạy trốn và ở một mình. Hoặc hồi âm cho tôi nếu cậu đang bị giam giữ, bị bạn bè của chúng ta ở Gitmo bán đứng, tìm cách để chấm dứt cơn đau: nếu chúng bắt được cậu, cậu sẽ làm điều mà chúng bảo cậu làm. Tôi biết. Tôi sẽ mạo hiểm.

> Vì cậu, M1k3y.”

“Woooooah,” Liam kêu lên. “Cực kỳỳỳỳỳỳỳỳỳỳ.” Tôi muốn đập cho nó một cái. Tôi quay lại định nói gì đó khó nghe và chặn họng nó, nhưng nó đang nhìn tôi với đôi mắt mở to, như thể nó muốn quỳ xuống mà lạy tôi vậy.

“Tớ có thể nói,” nó mở miệng, “tớ có thể nói rằng đây là niềm vinh dự lớn nhất đời khi giúp được cậu không. Tớ có thể nói thế không?”

Tôi đỏ cả mặt. Không còn cách nào khác. Cả hai đều là những người hâm mộ tôi cuồng nhiệt, ngay cả khi tôi còn chưa phải là sao siếc gì, ít nhất thì trong đầu tôi không nghĩ thế.

“Các cậu có thể…” tôi nuốt nước bọt. “Tớ có thể có một chút riêng tư ở đây được không?”

Hai đứa chuồn khỏi phòng như những chú cún hư và tôi cảm thấy mình như một kẻ ngốc. Nhưng dù sao tôi gõ thật nhanh.

“Tớ trốn được rồi, Zeb. Và tớ vẫn đang chạy trốn. Tớ cần tất cả sự giúp đỡ mà tớ có thể có. Tớ muốn chấm dứt việc này ngay.” Tôi vẫn nhớ lấy điện thoại của Masha ra khỏi túi và bấm phím để nó không ngủ hẳn.

Hai đứa để tôi sử dụng phòng tắm, đưa quần áo cho tôi thay, một ba lô đeo vai với một nửa số dụng cụ đề phòng động đất của chúng trong đó – thức ăn tăng lực, thuốc men, túi chườm nóng lạnh, một cái túi ngủ cũ. Thậm chí chúng còn đút vào đó một chiếc Xbox Universal thừa đã được cài đặt ParanoidXbox. Thật tốt quá. Tôi cần thứ gì để định hướng hành động.

Tôi liên tục kiểm tra e-mail xem Zeb đã hồi âm chưa. Tôi trả lời thư của người hâm hộ. Tôi trả lời thư của báo giới. Tôi xóa thư thù ghét. Tôi còn nửa mong chờ sẽ thấy gì đó từ Masha nhưng có vẻ như cô ta đang trên đường đến LA cùng những ngón tay đau và ở trong hoàn cảnh không thể nào gõ phím được. Tôi lại bấm điện thoại của cô ta.

Hai đứa giục tôi ngủ một chút, và trong một khoảnh khắc ngắn ngủi đáng xấu hổ, tôi bị hoang tưởng đến mức cho rằng có thể những người này đang định giao tôi cho cảnh sát khi tôi đã ngủ say. Điều này thật ngớ ngẩn – chúng có thể dễ dàng giao nộp tôi kể cả khi tôi đang thức. Tôi chỉ không tính trước được việc chúng nghĩ rất nhiều về tôi. Xét về lý trí mà nói, tôi biết rằng có những người sẵn sàng đi theo M1k3y. Sáng nay tôi đã gặp vài người như thế, họ la hét CẮN CẮN CẮN CẮN CẮN và tụ tập lại ở Civic Center. Nhưng hai đứa này cá nhân hơn. Chúng là những chàng trai tốt bụng, hơi ngố, chúng có thể là bất cứ ai trong đám bạn của tôi hồi chưa có Xnet, giống như hai chiến hữu đã chán những trò phiêu lưu của tuổi trẻ. Chúng tự nguyện tham gia quân đội, quân đội của tôi. Tôi có trách nhiệm với chúng. Để chúng lại một mình thì sớm muộn gì chúng cũng bị bắt. Chúng dễ tin người quá!

“Các cậu, hãy nghe tớ một lúc. Tớ có vài điều nghiêm túc cần nói với các cậu.”

Chúng gần như khựng lại và chăm chú lắng nghe. Nếu không phải tình hình rất đáng sợ thì hẳn là cảnh tượng đó sẽ rất tức cười.

“Việc là thế này. Giờ các cậu đã giúp đỡ tớ, việc này thật sự nguy hiểm. Nếu các cậu bị bắt, tớ cũng sẽ bị bắt. Họ sẽ moi ra tất tần tật những gì các cậu biết…” Tôi giơ tay ra để ngăn chúng cự nự lại. “Không, đừng nói gì. Các cậu chưa trải qua điều này. Lời nói gió bay. Nếu các cậu bị bắt, các cậu sẽ nói cho bọn họ mọi thứ, ngay lập tức, nhanh và nhiều hết mức có thể. Dù sao cuối cùng bọn họ sẽ biết hết thôi. Đó là cách họ làm việc.

“Nhưng các cậu sẽ không bị bắt và đây là lý do: các cậu không được gây rối nữa. Các cậu được miễn nhiệm vụ này. Các cậu là…” Tôi tìm trong kho từ vựng chọn lọc từ các tiểu thuyết trinh thám kinh dị. “Các cậu là những tế bào ngủ. Rút lui. Quay lại làm những đứa trẻ bình thường. Bằng cách này hay cách khác, tớ sẽ đập tan nó, đập tan tành, kết liễu nó. Hoặc cuối cùng nó sẽ tìm đến tớ, giải quyết tớ. Nếu các cậu không nghe tin tức gì từ tớ trong vòng bảy mươi hai tiếng, hãy giả định rằng họ đã bắt được tớ. Lúc đó thì hãy làm bất cứ điều gì các cậu muốn. Nhưng trong vòng ba ngày tới – và mãi mãi, nếu tớ làm được những việc mà tớ đang cố gắng làm – hãy rút lui. Các cậu có thể hứa với tớ điều này không?”

Chúng hứa bằng tất cả sự trịnh trọng. Tôi nghe lời chúng và chợp mắt một lúc nhưng không quên bắt chúng thề rằng cứ một tiếng sẽ đánh thức tôi một lần. Tôi phải chạm vào điện thoại của Masha và tôi muốn biết ngay khi Zeb liên lạc lại với tôi.

Điểm hẹn là trên một cái xe ô tô ở ga BART, nó khiến tôi căng thẳng. Nơi đó đầy camera. Nhưng Zeb biết mình đang làm gì. Anh ta hẹn tôi ở chiếc xe cuối cùng của một chuyến tàu nhất định khởi hành từ ga phố Powell, vào lúc xe chật ních những người là người. Anh ta len đến cạnh tôi giữa đám đông, và những hành khách tử tế trên xe đã tránh ra để chừa cho anh ta một chỗ, một lỗ hổng luôn bao quanh những người vô gia cư.

“Rất vui được gặp lại cậu,” anh ta nói nhỏ, mặt hướng về phía cửa lên xuống. Nhìn vào tấm kính màu tối, tôi thấy rằng không ai đủ gần để có thể nghe lén câu chuyện – nếu không được trang bị loại mic cực nhạy, mà nếu họ biết đủ nhiều để xuất hiện ở đây với một trong những thiết bị như thế thì chúng tôi chết ngắc.

“Tôi cũng vậy, người anh em,” tôi nói. “Tôi… tôi xin lỗi, anh biết đấy!”

“Im đi. Đừng xin lỗi. Cậu còn can đảm hơn cả tôi. Cậu đã sẵn sàng mai danh ẩn tích chưa? Sẵn sàng biến mất chưa?”

“Về vấn đề này.”

“Sao?”

“Đó không phải là kế hoạch.”

“Ồ,” anh ta nói.

“Hãy nghe tôi, OK? Tôi có… tôi có những bức ảnh và đoạn phim. Những thứ thực sự chứng minh một điều gì đó.” Tôi thò tay vào túi và bấm vào điện thoại của Masha. Trên đường đến đây, tôi đã mua cục sạc cho chiếc điện thoại này ở quảng trường Union, sau đó dừng lại ở một quán cà phê và sạc đến khi đủ bốn vạch trên tổng số năm vạch pin. “Tôi phải mang nó đến chỗ Barbara Stratford, người của tờ Guardian. Nhưng họ sẽ theo dõi cô ấy… theo dõi để xem tôi có xuất đầu lộ diện không.”

“Cậu không nghĩ là họ cũng sẽ bám theo tôi nữa à? Nếu kế hoạch của cậu là tôi phải tiếp cận trong vòng một dặm quanh nhà hoặc văn phòng của cô ta…”

“Tôi muốn anh gặp Van và bảo cô ấy tới gặp tôi. Darryl đã kể với anh về Van chưa? Cô gái mà…”

“Cậu ấy kể rồi. Có, cậu ấy có kể. Cậu không nghĩ họ cũng theo dõi cả cô ấy nữa à? Tất cả những người đã bị bắt?”

“Tôi nghĩ là có. Nhưng tôi không cho là họ sẽ theo dõi cô ấy sát sao. Hơn nữa, Van có lý lịch hoàn toàn sạch sẽ. Cô ấy chưa từng hợp tác trong bất cứ…” tôi nuốt khan, “trong bất cứ dự án nào của tôi. Do đó họ có thể sẽ lơ là cô ấy hơn. Nếu cô ấy gọi điện đến tòa soạn Bay Guardian và đề nghị một cuộc hẹn để giải thích tại sao trong đầu tôi lại toàn những thứ tào lao như vậy, có thể họ sẽ để mặc cô ấy.”

Anh ta nhìn đăm đăm vào cánh cửa một lúc lâu.

“Cậu biết điều gì sẽ xảy ra nếu họ lại bắt được chúng ta chứ.” Đây không phải là một câu hỏi.

Tôi gật đầu.

“Cậu có chắc không? Một số người ở trên đảo Kho Báu cùng với chúng ta đã bị mang đi bằng máy bay trực thăng. Họ đã bị đưa ra ngoài biển. Có một số quốc gia mà Mỹ có thể thuê họ tra tấn tù nhân giùm. Những quốc gia nơi cậu sẽ chết dần chết mòn ở đó.

Nơi mà cậu chỉ ước rằng họ sẽ kết thúc đời cậu bằng cách bắt cậu đào một cái hào và rồi bắn vào đằng sau gáy cậu khi mà cậu đang đứng trên đó.”

Tôi nuốt khan và gật đầu.

“Có đáng để liều mạng không? Chúng ta có thể mai danh ẩn tích trong một thời gian dài ở đây. Một ngày nào đó chúng ta sẽ giành lại được đất nước của mình. Chúng ta có thể chờ đợi.”

Tôi lắc đầu. “Anh không thể giành lấy được bất cứ cái gì nếu anh không làm gì cả. Đây là đất nước của chúng ta. Họ đã chiếm từ tay chúng ta. Bọn khủng bố tấn công chúng ta thì vẫn đang được tự do – còn chúng ta thì không. Tôi không thể sống ẩn dật trong một năm, mười năm, cả cuộc đời, chờ tự do rơi xuống đầu được. Tự do là thứ mà anh phải tự giành lấy cho mình.”

Chiều hôm đó, Van rời khỏi trường như mọi ngày, cô ngồi phía cuối xe buýt với bạn bè vây quanh, cười đùa như cô vẫn vậy. Những người trên cùng chuyến xe đều đặc biệt chú ý đến cô vì cô nói rất to, ngoài ra, cô lại còn đội một cái mũ vải mềm trông ngớ ngẩn như là một mảnh vải thừa lấy được từ buổi diễn kịch ở trường về những kiếm sĩ thời Phục hưng vậy. Bỗng nhiên, cả đám túm tụm lại rồi quay ra nhìn phía sau xe buýt, chỉ trỏ và cười khúc khích. Cô gái đang đội chiếc mũ lúc này cao bằng Van, và nếu nhìn từ đằng sau, người ta có thể nghĩ đấy là Van.

Không ai chú ý đến cô gái châu Á nhỏ nhắn rụt rè xuống xe khi còn qua vài bến nữa mới đến BART. Cô mặc một bộ đồng phục đơn giản, cũ kỹ, rụt rè nhìn chăm chăm xuống chân khi rời xe. Cùng lúc đó, cô gái ồn ào người Hàn Quốc la lên và đám bạn của cô hùa theo, cười to đến nỗi cả tài xế cũng phải giảm tốc độ, vặn vẹo trên cái ghế của mình và ném cho cả đám một cái nhìn khinh khỉnh.

Van vội vã đi dọc xuống phố, đầu vẫn nhìn cúi xuống, tóc buộc lại đằng sau và để thả xuống cổ áo khoác dày màu xanh đã lỗi thời. Hai miếng đệm mà cô nhét vào giày khiến cô cao thêm vài centimet, trông kỳ quặc và loạng choạng. Cô cũng bỏ kính áp tròng ra và đeo đôi kính không mấy ưa thích của mình, hai mắt kính to đùng che mất nửa khuôn mặt. Mặc dù đã chờ cô ở bến xe buýt và biết khi nào cô sẽ đến nhưng suýt nữa thì tôi cũng không nhận ra cô. Tôi đứng dậy và bám theo cô, băng qua phố, đi cách cô một nửa dãy nhà.

Những người đi ngang qua tôi đều vội vã nhìn đi chỗ khác. Trông tôi như trẻ bụi đời, đeo một tấm bìa các tông bẩn thỉu, chiếc áo khoác đầy cáu ghét, ba lô nhồi chật ních to tướng, chằng chịt vết rách được dán lại bằng băng dính. Không ai muốn nhìn một thằng nhóc đầu đường xó chợ cả, vì nếu bạn bắt gặp ánh mắt của nó, có thể nó sẽ xin bạn vài xu lẻ. Tôi đã đi bộ cả chiều quanh Oakland và người duy nhất nói chuyện với tôi là một tín đồ giáo phái Nhân chứng Jehovah và một nhà khoa học, cả hai đều cố gắng thu nạp tôi. Tôi thấy ghê cả người, cứ như đang bị ve vãn bởi một tên dâm đãng vậy.

Van đi theo hướng mà tôi đã cẩn thận ghi cho cô. Zeb đã chuyển lời nhắn cho cô cũng bằng cái cách mà anh ta đã chuyển lời nhắn ở cổng trường – đâm sầm vào cô lúc cô đang chờ xe buýt rồi xin lỗi rối rít. Tôi viết một tin nhắn rõ ràng và đơn giản, chỉ dẫn cho cô. Tớ biết cậu không chấp nhận. Tớ hiểu. Nhưng việc này, việc này là ân huệ quan trọng nhất mà tớ từng cầu xin cậu. Làm ơn. Hãy làm ơn.

Cô tới. Tôi biết cô sẽ tới. Chúng tôi đã chơi với nhau rất lâu, Van và tôi. Cô cũng không thích những gì đã xảy đến với thế giới. Thêm vào đó, một giọng nói xấu xa, cười cợt trong đầu tôi đã chỉ ra rằng, giờ đây cô cũng đang trong diện tình nghi sau khi bài báo của Barbara được đăng.

Chúng tôi đã đi như vậy qua khoảng sáu hay bảy dãy nhà, luôn để mắt xem những ai đang ở gần chúng tôi, những chiếc xe nào đi ngang qua. Zeb đã kể với tôi về những cái đuôi năm-người, có đến năm gã cải trang thay phiên nhau bám theo bạn, làm cho việc phát hiện ra chúng gần như là không thể. Bạn phải đi đến một chỗ nào hoàn toàn vắng vẻ, nơi mà bất cứ người nào có mặt ở đó cũng buộc phải thò đầu ra.

Cầu vượt để bắt chuyến xe số 880 chỉ cách trạm BART trên phố Coliseum có vài dãy nhà, vì vậy nên dù Van có đi lòng vòng thì cũng không mất quá lâu để đến được đó. Tiếng ồn trên cây cầu rất lớn, hầu như át hết tiếng nói chuyện bên dưới. Rõ ràng là ở đây không có ai cả. Tôi đã do thám nơi này trước khi viết chỉ dẫn cho Van, cẩn thận xem xét mọi nơi có thể dùng để ẩn nấp. Không có chỗ nào như thế.

Khi Van dừng lại tại địa điểm được chỉ sẵn, tôi tăng tốc để bắt kịp cô. Cô nháy mắt nghiêm nghị với tôi đằng sau cặp kính.

“Marcus,” cô thốt lên, nước mắt trào ra. Tôi chợt nhận ra mình cũng đang khóc. Cứ thế này thì tôi sẽ trở thành một kẻ trốn chạy kém cỏi mất thôi. Thật quá ủy mị.

Cô ôm tôi chặt đến nỗi tôi thấy nghẹt thở. Nhưng tôi ôm cô còn chặt hơn.

Rồi cô hôn tôi.

Không phải là cái hôn nhẹ nhàng lên má, cũng không phải là những cái hôn như em gái hôn anh trai. Là một nụ hôn môi thực sự, một nụ hôn ướt át và nồng nhiệt, một nụ hôn như kéo dài bất tận. Lý trí của tôi bị cảm xúc lấn át hoàn toàn…

Không, thật là ngụy biện. Tôi biết chính xác mình đang làm gì. Tôi hôn lại cô.

Rồi tôi dừng lại, dứt ra và gần như là xô cô ra. “Van,” tôi hét lên.

“Ôi,” cô nói.

“Van,” tôi nhắc lại.

“Xin lỗi,” cô nói. “Tớ…”

Bất giác, một điều gì đó xẹt ngang qua đầu tôi, một điều mà tôi đáng lẽ ra phải nhận ra từ cách đây rất, rất lâu rồi mới phải.

“Cậu thích tớ phải không?”

Cô buồn bã gật đầu. “Cả mấy năm rồi,” cô nói. Ôi Chúa ơi. Suốt bao năm nay, Darryl đã yêu cô biết nhường nào, và trong chừng ấy năm, cô lại ngó sang tôi, âm thầm muốn có tôi. Và rồi tôi cặp với Ange. Ange nói rằng cô luôn xích mích với Van. Còn tôi thì chạy vòng quanh để rồi gặp phải bao nhiêu rắc rối.

“Van,” tôi nói. “Van, tớ thực sự xin lỗi.”

“Quên nó đi,” cô nói, ngoảnh mặt đi. “Tớ biết việc này là không thể. Tớ chỉ muốn làm thế một lần thôi, trong trường hợp tớ không bao giờ…” cô nghẹn lại.

“Van. Tớ cần cậu làm điều này giúp tớ. Một việc quan trọng. Tớ cần cậu gặp một phóng viên của báo Bay Guardian, Barbara Stratford, người đã viết bài báo đó. Tớ muốn cậu đưa cho cô ấy một vật.” Tôi giải thích cho cô về chiếc điện thoại của Masha, nói cho cô biết về đoạn phim mà Masha đã gửi cho tôi.

“Làm thế có ích gì không, Marcus? Làm thế để được gì cơ chứ?”

“Van, cậu nói cũng có phần đúng. Chúng ta không thể sửa chữa thế giới bằng cách đặt người khác vào nguy hiểm được. Tớ cần phải giải quyết vấn đề bằng cách nói ra những gì tớ biết. Đáng lẽ tớ phải làm điều này ngay từ đầu. Đáng lẽ ngay khi thoát khỏi sự giam hãm của họ, tớ nên đến thẳng nhà bố Darryl để nói với bác ấy những gì tớ biết. Dù sao thì giờ tớ đã có bằng chứng. Vật này… có thể thay đổi cả thế giới. Đây là hy vọng cuối cùng của tớ. Hy vọng duy nhất để cứu Darryl, để giành lấy cuộc sống không phải trốn chui trốn lủi, lẩn tránh cảnh sát. Và cậu là người duy nhất mà tớ có thể tin tưởng nhờ cậy việc này.”

“Tại sao lại là tớ?”

“Cậu đang đùa hả? Nhìn xem cậu đã xoay xở tài tình ra sao để đến được đây. Cậu rất thành thục. Cậu giỏi việc này hơn bất cứ ai trong chúng ta. Cậu là người duy nhất tớ có thể tin tưởng. Chính vì thế tớ mới nhờ cậu.”

“Thế tại sao không phải cô bạn Ange của cậu?” Cô ấy nhắc đến cái tên đó mà giọng không mảy may thay đổi, như thể nó chỉ là một khối xi măng vậy.

Tôi nhìn xuống. “Tớ nghĩ cậu biết tại sao. Họ đã bắt cô ấy. Cô ấy đang ở Gitmo… trên đảo Kho Báu. Cô ấy đã ở đấy vài ngày rồi.” Tôi đã cố gắng không nghĩ đến điều này, không nghĩ đến những gì có thể xảy ra với Ange. Giờ tôi lại không thể kìm nén được và bắt đầu nức nở. Tôi cảm thấy bụng đau nhói, như thể bị ai đá vào vậy, tôi ấn hai tay vào bụng để không run lên. Tôi gập người xuống, và điều kế tiếp tôi nhận thức được là tôi co ro bên một đống gạch vụn phía dưới con đường cao tốc, tự ôm lấy mình và khóc.

Van quỳ xuống bên cạnh tôi. “Đưa cho tớ cái điện thoại nào,” cô nói, giọng rít lên đầy giận giữ. Tôi móc điện thoại ra khỏi túi và đưa cho cô.

Cảm thấy ngượng, tôi ngừng khóc và ngồi dậy. Tôi biết rằng mặt mình đang lem nhem nước mắt. Van nhìn tôi với ánh mắt lo lắng. “Cậu cần giữ cho nó không chuyển sang chế độ ngủ,” tôi nói. “Tớ có sạc pin đây.” Tôi lục túi. Suốt cả đêm, chưa có lúc nào tôi được ngủ tử tế kể từ khi tôi đoạt được chiếc điện thoại. Tôi đặt chuông báo thức cứ chín mươi phút lại kêu một lần và bằng cách đó tôi có thể giữ cho nó khỏi bị tắt. “Cũng đừng có gập điện thoại lại nhé.”

“Còn đoạn phim kia?”

“Cái đấy thì khó hơn,” tôi nói. “Tớ đã tự gửi một bản vào hộp thư điện tử của mình, nhưng tớ lại không vào Xnet được nữa.” Trong trường hợp bức thiết, tôi có thể quay lại chỗ Nate và Liam để dùng nhờ Xbox của hai đứa lần nữa, nhưng tôi không muốn mạo hiểm như vậy. “Nghe này, tớ sẽ đưa cho cậu tên truy cập và mật khẩu vào hộp thư điện tử của tớ trên máy chủ Pirate Party. Cậu sẽ phải sử dụng TOR để truy cập – chắc chắn Cục An ninh Nội địa sẽ kiểm tra những ai đăng nhập vào hộp thư điện tử p-party.”

“Tên truy cập và mật khẩu của cậu ư,” cô nói, có vẻ hơi ngạc nhiên.

“Tớ tin cậu, Van. Tớ biết là tớ có thể tin cậu.”

Cô lắc đầu. “Cậu không bao giờ được đưa mật khẩu cho ai cả, Marcus.”

“Tớ không nghĩ điều này còn quan trọng nữa. Hoặc là cậu thành công hoặc là tớ… hoặc đây là cái kết cho cuộc đời của Marcus Yallow. Có thể tớ sẽ phải thay đổi tên tuổi, nhưng tớ không nghĩ vậy. Tớ nghĩ họ sẽ bắt được tớ thôi. Có lẽ bao lâu nay tớ vẫn biết rằng một ngày nào đó họ sẽ bắt tớ.”

Cô nhìn tôi, giờ thì với ánh mắt giận dữ. “Như thế thì thật là phí công. Tất cả điều này là để làm gì đây?”

Trong tất cả những lời cô đã nói, không điều gì có thể làm tôi đau đớn hơn được nữa. Nó như một cú đá khác vào bụng tôi. Thật là phí công, tất cả mọi thứ, đều phí công vô ích. Darryl và Ange cũng đã ra đi rồi. Có thể tôi sẽ không bao giờ được gặp lại gia đình tôi nữa. Và Cục An ninh Nội địa vẫn sẽ chiếm cứ thành phố của tôi, còn đất nước của tôi thì rơi vào cảnh hỗn loạn, đầy rẫy những tiếng kêu la điên loạn, không còn lý trí, nơi mà người ta có thể làm bất cứ điều gì dưới danh nghĩa ngăn chặn khủng bố.

Dường như Van đang đợi tôi nói gì đó, nhưng tôi lại chẳng có gì để nói cả. Cô bỏ tôi lại một mình ở đó. Zeb đãi tôi pizza khi tôi quay trở về “nhà” – về túp lều dưới cầu vượt cao tốc tại Mission mà anh ta đã dựng để qua đêm. Anh ta có một cái lều con, là đồ dự trữ của quân đội, bên ngoài có sơn dòng chữ ỦY BAN HỢP TÁC NHỮNG NGƯỜI VÔ GIA CƯ TẠI SAN FRANCISCO.

Chiếc pizza mua từ một cửa hàng Dominos, lạnh tanh và cứng quèo, nhưng dù sao vẫn ngon chán.

“Anh có thích dứa trên cái pizza của anh không?” Zeb cười một cách chiếu cố với tôi và nói, “Những kẻ ăn không mất tiền thì không thể kén chọn.”

“Kẻ ăn không mất tiền á?”

“Cũng giống như người ăn chay ấy, nhưng khác là chúng ta ăn thức ăn miễn phí.”

“Thức ăn miễn phí?”

Anh ta lại cười toe toét. “Cậu biết đấy… thức ăn miễn phí ấy. Lấy từ những cửa hàng thức ăn miễn phí ấy? ”

“Anh ăn trộm cái bánh này à?”

“Không, đần ạ. Tôi lấy nó từ một cửa hàng khác kìa. Cái cửa hàng nhỏ bên ngoài, phía sau ấy, làm bằng thép xanh, bốc mùi nồng nặc ấy.”

“Anh lấy thứ này từ thùng rác à?” Anh ta ngửa đầu về phía sau và cười khùng khục. “Chính xác đấy. Cậu nên nhìn thấy bộ mặt của cậu đi. Chẳng có vấn đề gì đâu, cậu ấm ạ. Nó đã bị thiu đâu. Bánh mới đấy… chỉ là một cái bánh khách đã đặt nhưng không lấy. Họ bỏ trong hộp rồi vứt đi. Họ rắc bả chuột lên mọi thứ trước khi đóng cửa tiệm, nhưng nếu cậu nhanh tay thì cũng chả sao cả. Cậu nên nhìn thấy những gì mà cửa hàng tạp phẩm vứt đi kìa! Cứ chờ đến bữa sáng mà xem. Cậu có tin là tôi làm được cả xa lát hoa quả cho cậu không? Chỉ cần một quả dâu trong hộp hơi mốc xanh và sùi lên, thế là cả lũ bị vứt đi…”

Tôi vỡ lẽ. Chiếc pizza cũng ổn. Không phải là ở gần thùng rác thì sẽ bị nhiễm độc hay này nọ. Nếu nó tởm lợm thì chỉ vì nó đến từ Domino, cái cửa hàng pizza dở nhất trong thành phố. Tôi chưa bao giờ thích nổi đồ ăn của bọn họ, và tôi tẩy chay luôn khi biết bọn họ bơm tiền cho cả một lũ chính trị gia siêu khùng lúc nào cũng tâm niệm vấn đề trái đất nóng lên và sự tiến hóa là những âm mưu xấu xa của quỷ sa tăng.

Dù sao thì cũng khó mà không cảm thấy tởm lợm được.

Nhưng có một cách khác để nhìn nhận vấn đề này. Zeb vừa chỉ cho tôi một bí mật, một điều mà tôi đã không tính đến: có cả một thế giới ngầm ngoài kia, một cách để hoạt động mà không cần tham gia vào hệ thống.

“Những kẻ ăn miễn phí, hả?”

“Cả sữa chua nữa,” anh ta gật đầu một cách hùng hồn. “Để làm xa lát hoa quả ấy. Họ vứt đi trước ngày hết hạn sử dụng, nhưng thế không có nghĩa là cứ đến đúng nửa đêm thì chúng phải mốc xanh hết. Ý tôi là, sữa chua mà, dù sao cũng đã là sữa lên men sẵn rồi còn gì.”

Tôi nuốt miếng pizza. Nó có vị thật buồn cười. Bả chuột. Sữa chua hỏng. Dâu tây thối. Phải làm quen với điều này thôi.

Tôi ăn thêm miếng nữa. Thực ra thì pizza của Domino cũng bớt dở đi một chút khi được ăn miễn phí. Túi ngủ của Liam thật ấm áp và hấp dẫn sau một ngày dài kiệt quệ về tinh thần. Giờ này chắc Van đã liên lạc được với Barbara rồi. Barbara sẽ có được đoạn phim và bức ảnh. Tôi sẽ gọi cho cô ấy vào buổi sáng để hỏi xem nên làm gì tiếp theo. Tôi sẽ phải xuất hiện một khi cô đã công bố nó, để chứng thực tất cả.

Tôi nhắm mắt lại và nghĩ về điều đó, nghĩ xem khi ấy tôi sẽ thế nào, tất cả các máy quay đều chạy theo thằng M1k3y bỉ ổi vào một trong những tòa nhà to đùng, lắm cột kèo ở Civic Center.

Tiếng động cơ xe cộ gào rú trên đầu dần dần nghe như tiếng sóng biển khi tâm trí tôi đang lang thang đâu đó. Cũng có những chiếc lều khác của những người vô gia cư ở gần đây. Tôi đã gặp vài người trong số họ lúc chiều, trước khi trời tối và chúng tôi đều đã lui về túm tụm gần những căn lều. Họ đều lớn tuổi hơn tôi, trông cục cằn và lỗ mãng. Tuy nhiên không ai có vẻ điên loạn hay hung dữ cả. Họ chỉ giống như những người kém may mắn, hoặc đã đưa ra những quyết định sai lầm, hoặc là cả hai.

Chắc hẳn tôi đã ngủ thiếp đi, vì tôi chẳng nhớ được gì thêm cho đến khi có ánh sáng rọi thẳng vào mặt tôi, làm tôi lóa mắt.

“Chính nó đấy,” một giọng nói cất lên phía sau luồng sáng

“Chụp đầu nó lại,” một giọng khác vang lên. Tôi đã từng nghe thấy giọng nói này trước đây, giọng nói mà tôi đã nghe đi nghe lại trong những giấc mơ, giáo huấn tôi, đòi mật khẩu của tôi. Người phụ nữ có mái tóc cắt bằng.

Chiếc túi nhanh chóng được chụp lên đầu tôi và cổ tôi bị thắt chặt đến nỗi tôi bị ngạt thở và nôn ra đống pizza vừa mới ăn. Khi tôi vẫn còn đang nôn mửa và sặc sụa thì những bàn tay rắn chắc đã ghì quanh cổ tay và mắt cá chân tôi. Tôi bị lăn vào cáng và nhấc bổng lên, họ khiêng tôi lên những bậc thang kim loại rồi quẳng vào trong xe.

“Xin chào, chúng ta lại gặp nhau rồi,” mụ ta nói. Tôi cảm thấy chiếc xe tải lắc lư khi mụ ta chui vào xe với tôi. Tôi vẫn bị sặc, thở hổn hển. Tôi ợ lên đầy miệng và nó chảy ngược xuống khí quản của tôi.

“Chúng tôi không để cho cậu chết đâu,” mụ nói. “Nếu cậu ngừng thở, chúng tôi chắc chắn sẽ làm cho cậu thở lại. Vậy nên đừng có lo lắng về vấn đề này.”

Tôi sặc dữ hơn. Tôi đớp không khí. Một chút không khí lọt vào. Cơn ho sâu, sù sụ làm ngực và lưng tôi rung lên, tôi lại nôn mửa. Hít thêm không khí.

“Thấy chưa?” mụ ta nói. “Không quá tệ. Chào mừng cậu về nhà, M1k3y. Chúng tôi có một nơi rất đặc biệt dành cho cậu.”

Tôi ngả lưng thư giãn, chiếc xe tải nhỏ vẫn lắc lư. Mùi pizza nôn ra lúc đầu nồng lên, nhưng do những thứ kích thích rất mạnh xung quanh, não tôi dần dần quen với cái mùi này, thanh lọc cho đến khi nó chỉ là một mùi mờ nhạt. Cảm giác lắc lư của chiếc xe gần như trở nên dễ chịu.

Đó là lúc nó xảy ra. Một sự bình tĩnh tuyệt đối, khó mà tin được lướt qua người tôi như thể là tôi chỉ đang nằm trên bãi biển và sóng biển lướt vào rồi nhẹ nhàng nâng tôi lên như bàn tay mẹ hiền, nhấc bổng tôi và cuốn tôi ra giữa biển dưới ánh mặt trời ấm áp. Sau tất cả những chuyện đã xảy ra, tôi bị tóm, nhưng điều đấy cũng chẳng hề gì. Tôi đã chuyển thông tin đến được với Barbara. Tôi đã thiết lập được mạng Xnet. Tôi đã thắng. Và nếu tôi không chiến thắng thì tôi cũng đã làm tất cả những gì có thể. Nhiều hơn so với những gì tôi nghĩ mình có thể làm. Trong khi bị chở đi, tôi nhẩm lại trong đầu, nghĩ về tất cả những gì tôi đã thực hiện được, những gì mà chúng tôi đã thực hiện được. Thành phố, đất nước, thế giới còn đầy những con người không chịu sống theo cái cách mà DHS muốn chúng tôi phải sống. Chúng tôi sẽ mãi mãi chiến đấu. Họ không thể bắt hết được chúng tôi đâu.

Tôi thở dài và mỉm cười.

Tôi chợt nhận ra là mụ ta vẫn thao thao bất tuyệt. Tôi còn mải đắm chìm trong niềm vui của mình nên quên béng mất mụ ta.

“… một đứa trẻ thông minh như cậu. Cậu tưởng cậu đủ hiểu biết để gây chiến với bọn ta à? Bọn ta đã theo dõi cậu từ cái ngày mà cậu được thả. Kể cả khi cậu không đến khóc lóc với con mụ nhà báo đồng tính phản trắc ấy thì bọn ta vẫn bắt được cậu. Ta chỉ không hiểu… cậu và ta, chúng ta đã hiểu nhau cơ mà nhỉ…”

Chúng tôi đi trên những tấm kim loại kêu ầm ầm, chiếc xe tải giật sốc từng hồi, rồi kiểu dằn xóc thay đổi. Chúng tôi đang đi trên nước. Hướng về phía đảo Kho Báu. Hey, Ange đang ở đó. Darryl cũng thế. Có lẽ vậy.

Cái bao trùm đầu chỉ được lấy ra khi tôi đã bị tống vào xà lim. Bọn chúng còn không thèm động vào cùm ở tay và mắt cá chân tôi mà chỉ lăn tôi ra khỏi cáng xuống sàn. Trong này tối, nhưng nhờ có ánh trăng chiếu từ chiếc cửa sổ duy nhất nhỏ tí xíu từ trên cao, tôi có thể nhìn thấy tấm đệm đã bị lấy ra khỏi cái giường. Phòng giam của tôi có một hố xí, một khung giường, một bồn rửa mặt, và không gì nữa.

Tôi nhắm mắt lại và để biển cả nâng tôi lên. Tôi trôi đi. Ở một nơi kia, xa tít phía dưới, là thân xác của tôi. Tôi có thể biết điều gì sẽ xảy ra tiếp theo. Tôi đang bị bỏ cho đến khi vãi ********* ra ở đây. Lại thế nữa rồi. Tôi biết cảm giác đấy. Tôi đã từng vãi ********* rồi. Mùi rất tệ. Ngứa nữa. Thật là nhục nhã, cứ như một đứa trẻ sơ sinh vậy.

Nhưng tôi đã vượt qua điều này.

Tôi cười phá lên. Tiếng cười nghe thật dị hợm, và nó kéo tôi trở lại với thân xác của mình, trở lại với thực tại. Tôi vẫn tiếp tục cười và cười. Chúng đã ném vào tôi những điều tồi tệ nhất, và tôi đã vượt qua được, và tôi đã vượt mặt chúng, vượt mặt chúng mấy tháng trời, làm bẽ mặt cả lũ chuyên quyền ngu đần. Tôi đã chiến thắng.

Tôi để bàng quang thả lỏng. Đằng nào thì nó cũng chưa bao giờ đầy và đau tức như bây giờ.

Đại dương cuốn tôi đi.

Sáng ra, hai tên lính chuyên nghiệp, vô cảm cắt dây trói ở tay và chân tôi ra. Tôi vẫn chưa đi được – khi tôi đứng dậy, chân tôi khuỵu xuống như một con rối không dây. Tôi đã phải ở nguyên một tư thế trong thời gian quá lâu. Bọn lính kéo tay tôi qua vai chúng và vừa lôi vừa vác tôi xuống dãy hành lang quen thuộc. Mã vạch trên những cánh cửa xoắn tít và đung đưa, bị không khí đầy bụi muối tấn công.

Tôi nảy ra một ý tưởng. “Ange!” Tôi gào lên. “Darryl!” Hai tên lính lôi tôi đi nhanh hơn, rõ ràng là rất khó chịu với tôi nhưng chẳng biết phải làm thế nào cả. “Này các cậu, là tớ đây, Marcus đây! Tự do muôn năm!”

Đằng sau những cánh cửa, có ai đó khóc nức lên. Ai đó thét lên bằng một thứ tiếng nghe như tiếng Ả Rập. Sau đó là những âm thanh hỗn tạp, hàng ngàn tiếng kêu thét khác nhau.

Bọn chúng mang tôi đến căn phòng mới. Căn phòng này là một buồng tắm cũ, với chiếc vòi sen vẫn còn lại ở trên tường gạch mốc meo.

“Chào M1k3y,” mụ Tóc Bằng nói. “Có vẻ như cậu vừa có một buổi sáng đáng nhớ nhỉ.” Mụ ta nhăn mũi một cách mỉa mai.

“Tôi vãi ********* cả ra rồi,” tôi nói vui vẻ. “Cô cũng nên thử xem sao.”

“Vậy thì có lẽ bọn ta nên cho cậu đi tắm.” Mụ gật đầu và hai tên lính kia mang tôi đến một cái cáng khác. Cái cáng này có dây trói dọc theo chiều dài. Chúng quẳng tôi lên đó, nó lạnh như đá và ướt sũng. Trước khi tôi kịp nhận ra điều này thì vai, hông vào mắt cá chân tôi đã bị trói vào cáng. Một phút sau, thêm ba chiếc dây nữa được dùng để trói tôi. Một cánh tay nắm lấy những thanh sắt phía đầu tôi và mở mấy chiếc chốt ra, chỉ một lát sau tôi đã bị trói nghiêng xuống, đầu thấp hơn so với chân.

“Hãy bắt đầu với một điều đơn giản,” mụ ta nói. Tôi nghển cổ lên để nhìn thấy mụ. Mụ đã đứng cạnh một cái bàn, trên đó có một bộ Xbox, kết nối với một cái màn hình phẳng trông có vẻ đắt tiền. “Tôi muốn cậu nói cho tôi biết tên truy cập và mật khẩu vào hộp thư điện tử Pirate Party của cậu, được chứ?” Tôi nhắm mắt lại và để biển cả cuốn tôi xa khỏi bờ.

“Cậu có biết ván và nước là gì không, M1k3y?” Giọng mụ ta khiến tôi quay cuồng. “Cậu bị trói lại như thế này, và bọn ta đổ nước vào đầu cậu, đổ lên mũi và xuống miệng. Cậu sẽ không thể kháng cự được, hiện tượng này gọi là phản xạ họng. Biện pháp này được gọi là hành hình giả, và từ phía này của căn phòng, ta có thể nói rằng đó là một giải pháp hợp lý. Cậu sẽ không thể chống lại cảm giác mình đang chết dần. ”

Tôi cố gắng rời bỏ thể xác. Tôi đã từng nghe về trò tra tấn ván và nước này. Giờ thì tôi đang được trải nghiệm nó. Và đây mới chỉ là màn khởi đầu.

Tôi không thể bỏ đi được. Biển không lướt vào và nâng tôi lên. Ngực tôi thắt lại, mi mắt tôi chớp liên tục. Tôi có thể cảm thấy nước tiểu ướt nhẹp ở chân và mồ hôi thì ướt nhẹp trên tóc. Da tôi ngứa ngáy bởi bãi nôn đã khô cứng lại.

Mụ ta lao ra trước mặt tôi. “Hãy bắt đầu với tên đăng nhập,” mụ ta nói.

Tôi nhắm nghiền mắt lại.

“Cho nó uống nước đi,” mụ ra lệnh.

Tôi nghe thấy ai đó di chuyển. Tôi hít một hơi thật sâu rồi nín thở.

Lúc đầu nước chỉ nhỏ giọt, một muỗng nước từ từ tràn vào cằm, vào môi tôi. Rồi nước chảy ngược lên mũi tôi. Nó chảy ngược vào cổ họng, làm tôi sặc sụa. Có tiếng náo loạn ở bên ngoài căn phòng, tiếng giày hỗn tạp, tiếng la hét sỉ vả đầy giận dữ. Thêm một muỗng nước nữa được đổ vào mặt tôi.

Tôi nghe thấy tiếng thì thầm của mụ ta với ai đó trong phòng, rồi mụ nói với tôi, “Chỉ tên đăng nhập thôi mà, Marcus. Một yêu cầu đơn giản. Dù sao thì ta có thể làm được gì với tên đăng nhập của cậu chứ?” Lần này thì cả một xô nước đổ ập xuống, như một trận lụt không bao giờ kết thúc, hẳn bọn chúng phải đổ hàng tấn nước lên đầu tôi. Tôi không thể chịu được. Tôi thở hổn hển và hít nước vào phổi, ho sặc sụa càng làm cho nước vào phổi nhiều hơn. Tôi biết bọn chúng sẽ không giết tôi, nhưng tôi không thể thuyết phục cơ thể tôi tin điều này. Từng thớ thịt trong người tôi bảo với tôi rằng tôi sắp sửa đi đời. Thậm chí tôi còn không thể khóc – bọn chúng vẫn đang xối nước lên tôi.

Bọn chúng dừng lại. Tôi ho lụ sụ, nhưng với góc độ mà tôi đang nằm, bao nhiêu nước tôi ho ra đều chảy ngược vào mũi, làm nó bỏng rát.

Cơn ho quá dữ dội làm sườn tôi đau nhói và hông thì vặn cả lại. Tôi căm ghét cái cách mà cơ thể đang phản bội tôi, cái cách mà lý trí không kiểm soát được cơ thể, nhưng chả làm được gì.

Cuối cùng cơn ho cũng giảm dần, đủ để tôi nhận biết điều gì đang xảy ra xung quanh. Nhiều người đang la hét, nghe như ai đó đang cào cấu, vật lộn. Tôi mở mắt, nheo lại vì chói, tuy còn ho nhưng tôi vẫn nghển cổ lên.

Căn phòng có nhiều người hơn lúc tôi bước vào. Hình như phần lớn bọn họ đang mặc áo giáp, đội mũ sắt và đeo mặt nạ chống khói. Họ đang la hét đám lính gác của đảo Kho Báu, bọn này cũng đang gân cổ lên hét lại.

“Quỳ xuống!” một người mặc áo giáp nói. “Quỳ xuống và giơ tay lên. Các người đã bị bắt!”

Mụ Tóc Bằng đang nói chuyện điện thoại với ai đó. Một trong số những người mặc áo giáp nhận ra điều này đã mau lẹ đi tới chỗ mụ ta và dùng tay mang găng hất tung chiếc điện thoại. Tất cả im lặng trong lúc chiếc điện thoại bật tung lên theo hình vòng cung, bay sang đầu bên kia căn phòng nhỏ, rơi độp xuống sàn và vỡ tan thành từng mảnh.

Sự im lặng bị phá vỡ và những người mặc áo giáp di chuyển vào căn phòng. Mỗi người bọn họ tóm lấy một tên đã tra tấn tôi. Tôi nặn được một cái nhếch miệng khi nhìn thấy vẻ mặt của mụ Tóc Bằng khi hai người đàn ông túm vai mụ, xoay lưng mụ lại và tặng cho mụ một chiếc còng tay.

Một người mặc áo giáp đi thẳng ra phía cửa. Anh ta mang theo một chiếc máy quay trên vai, một cái hàng khủng có đèn flash trắng sáng lóa mắt. Anh ta chụp lại cả căn phòng, đi vòng quanh tôi hai lần để chụp tôi. Tôi thấy mình đang toàn thân bất động, như kiểu tôi đang ngồi để người ta vẽ chân dung vậy.

Thật là lố bịch.

“Các ông có thể giúp tôi thoát khỏi cái thứ này không?” Tôi xoay xở để nói được hết câu mà chỉ bị sặc một chút.

Hai người mặc áo giáp nữa tiến đến chỗ tôi, một người là nữ, và họ bắt đầu cởi trói cho tôi. Họ mở mặt nạ ra và cười với tôi. Trên mũ bảo hiểm và vai họ có hình chữ thập đỏ.

Bên dưới hình chữ thập đỏ là một phù hiệu khác: CHP 1 . Đội tuần tra đường cao tốc California. Họ là Đội tuần tra đường cao tốc của bang.

Khi tôi bắt đầu tự hỏi họ đang làm gì ở đây thì cũng là lúc tôi nhìn thấy cô Stratford. Rõ ràng là cô ấy đã đứng ngoài hành lang từ trước, nhưng bây giờ cô ấy mới lao vào. “Cháu đây rồi,” cô nói, quỳ xuống cạnh tôi và trao cho tôi một cái ôm dài nhất, chặt nhất mà tôi từng được nhận.

Đấy là lúc tôi hiểu ra rằng Guantanamo bên bờ Vịnh đang nằm trong tay kẻ thù của nó. Tôi đã được cứu.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.