Lương Tiêu và Hiểu Sương đi theo Ngô Thường Thanh, vừa chậm rãi bước vừa nói chuyện. Con đường dẫn họ xuyên qua rừng hạnh, tiến vào một sơn cốc
nhỏ bé, nơi đây có một căn nhà ngói ba gian, trong nhà có hai nữ tì đang chuẩn bị cơm nước.
Cả ba ngồi chưa ấm chỗ, đằng xa chợt vẳng tới tiếng gọi lanh lảnh:
– Ngô tiên sinh!
Ngô Thường Thanh hỏi vọng ra:
– Thích phu nhân đấy à?
Thay lời đáp, bà lão tóc bạc ban nãy rẽ cây cối lướt tới, chỉ khẽ phất tay
áo là đã băng vào giữa sảnh. Ngô Thường Thanh cười hỏi:
– Không đuổi kịp à?
Bà già cằn nhằn:
– Chân cẳng ông ấy nhanh nhẹn quá, tôi đành bảo Hải Vũ gắng bám theo đằng sau, tránh để mất giấu vết. – Đoạn nhìn sang Hiểu Sương và Lương Tiêu,
bà mỉm cười. – Lão thân là Lăng Thủy Nguyệt, dám hỏi cao danh quý tính
của hai vị?
Hiểu Sương tự giới thiệu xong, Lăng Thủy Nguyệt lộ vẻ mừng rỡ:
– Tình cờ thật, con gái Sương Quân đây mà!
Hiểu Sương ngạc nhiên hỏi:
– Bà quen mẹ con ạ?
Lăng Thủy Nguyệt mỉm cười:
– Ta họ Lăng, mẹ con cũng họ Lăng, liệu có quen không nào?
Hiểu Sương ngớ người, rồi sực nhớ, cô hoan hỉ nói:
– Bà… bà là cô cô của mẹ con?
Lăng Thủy Nguyệt vui vẻ gật đầu, kéo cô gái vào lòng, vung tay mô tả:
– Hồi ta gặp lần đầu, con mới bằng chừng này. Ngoảnh đi ngoảnh lại mười
mấy năm, tiểu hài nhi lớn bổng thành thiếu nữ tự bao giờ rồi!
Hiểu Sương nhoẻn cười:
– Mẹ con vẫn nhắc tới bà luôn!
Lăng Thủy Nguyệt lộ vẻ âu sầu, chép miệng:
– Cơ khổ, mấy năm nay bận bịu con cháu đến nỗi chẳng thăm hỏi được họ hàng!
Bà lại hỏi Hiểu Sương về tình hình gần đây của cha mẹ cô, Hiểu Sương ngần ngừ một lúc rồi đáp chung chung:
– Ổn cả bà ạ!
Lăng Thủy Nguyệt hỏi thêm:
– Bà con vẫn khỏe chứ? Ông nội về chưa?
Hiểu Sương ngơ ngác:
– Ông nội con… mất lâu rồi mà bà.
Lăng Thủy Nguyệt ngớ người, nhưng mau chóng gật đầu:
– Ờ, chết cho êm chuyện.
Hiểu Sương nghĩ bụng: “Vì sao bà bà lại nói như thế nhỉ?”. Được cái tính
tình dịu dàng khoan hòa, tuy không bằng lòng, cô cũng không để bụng.
Lương Tiêu nghe là hiểu Lăng Thủy Nguyệt muốn ám chỉ điều gì, bụng bảo dạ:
“Chắc Hoa Vô Xuy căm giận Công Dương Vũ lắm mới nói thác rằng ông đã
chết, đủ thấy phu thê tình nghĩa đến đâu cũng có khi trở mặt thành thù.
May sao cha mẹ ta lại yêu thương nhau thắm thiết vô cùng. Ngẫm cho kỹ
cũng là nhờ cha độ lượng, biết nhường nhịn, chứ mẹ thì tính khí thất
thường, vui đấy rồi giận ngay được, nhưng mà sau mỗi lần làm lành, cha
mẹ lại âu yếm hòa thuận hơn nhiều”. Gã bần thần nghĩ tới song thân, lòng không khỏi buồn rầu thương nhớ.
Lăng Thủy Nguyệt vẫn còn nhiều
nghi vấn trong lòng, nhưng thấy chưa phải lúc tìm hiểu cặn kẽ bèn tạm
thời gác sang một bên, vòng tay hỏi Lương Tiêu:
– Vị tiểu ca đây xưng hô thế nào nhỉ?
Lương Tiêu cũng đáp lễ thưa lên. Quần áo gã rách rưới nhem nhuốc nhưng tác
phong đường hoàng ung dung, Lăng Thủy Nguyệt khen thầm: “Còn trẻ thế mà
đã có thể đấu tay đôi ngang ngửa với Thiên Phong, quả thật khó tin! Ta
chôn chân ngoài biển ngần ấy năm, ngờ đâu trong trung nguyên bỗng nảy ra một nhân tài nhường này!”. Bà mỉm cười:
– Thứ cho ta mạo muội, vì sao Lương tiểu ca lại động thủ với ngoại tử[1]?
Lương Tiêu hỏi:
– Bà là phu nhân của ông ấy à? Ông ấy đúng là Thích Thiên Phong chứ?
– Phải, ngoại tử chính là Thích Thiên Phong, ta và hài nhi Thích Hải Vũ vào trung nguyên chuyến này cốt để tìm ông ấy.
Lương Tiêu gật đầu, kể rõ họ gặp gỡ ra sao và cớ gì gã đưa Thích Thiên Phong
đi trị bệnh, nhưng bỏ qua không nhắc đến trận đại chiến bên sông Tiền
Đường và nguyên nhân phiêu bạt đó đây của mình.
Lăng Thủy Nguyệt
hình dung cảnh trượng phu bộ dạng thất thểu lang thang đầu đường xó chợ, ắt là khổ lắm, phu phụ nghĩa nặng tình sâu, càng nghĩ càng thương xót,
lệ châu lã chã. Hiểu Sương giở khăn tay chậm nước mắt cho bà:
– Bà đừng lo, con đã bắt mạch cho Phong công công, mạch tượng bình thường. Sư phụ cũng bảo là công công không bệnh tật gì cả.
Lăng Thủy Nguyệt yên yên dạ, nhìn Ngô Thường Thanh ra ý dò hỏi. Lão béo mân mê chòm râu ngắn, trầm ngâm nói:
– Kẻ nào thần trí bất ổn thì ánh mắt lơ láo khác hẳn mắt người thường,
nhưng theo ta quan sát, ánh mắt hắn chẳng có gì khác lạ cả.
Lương Tiêu gợi ý:
– Liệu có phải bệnh đãng trí chăng?
Ngô Thường Thanh lắc đầu:
– Chỉ khi nào lao tâm lao lực quá độ hoặc thiếu ngủ dài ngày dẫn đến mệt
mỏi, máu không dẫn được lên não thì người ta mới bị đãng trí. Triệu
chứng là cử chỉ chậm chạp, tinh thần uể oải mệt mỏi, nói trước quên sau. – Nhớ lại mình vừa bị Thích Thiên Phong biến thành quả bóng bất đắc dĩ, lão trợn mắt căm giận. – Thích lão đầu mặt mày hồng hào, huyết khí sung mãn, tính khí lại bộc tuệch thô lỗ, lấy đâu ra cơ hội mắc thứ bệnh cao
nhã như vậy…
Lăng Thủy Nguyệt thất vọng nghĩ thầm: “Đến Ác Hoa Đà cũng không nhận ra gốc bệnh của Thiên Phong, biết làm thế nào bây
giờ?”. Lương Tiêu xoa cằm:
– Tôi có một giả thuyết.
Ngô
Thường Thành ghé mắt trông ngang, vẻ mặt khinh bỉ. Bắt gặp cái nhìn ấy,
Lương Tiêu đâm ngại. Nghĩ rằng không nên giở trò múa rìu qua mắt thợ
trước bậc thần y này, gã im bặt. Hiểu Sương khuyến khích:
– Có nhận xét gì, huynh cứ nói thử xem sao!
Lương Tiêu bạo dạn trình bày:
– Theo tôi, Thích tiền bối cố ý muốn lãng quên chuyện cũ!
Lăng Thủy Nguyệt và Hoa Hiểu Sương chưa kịp hỏi rõ, Ngô Thường Thanh đã bác ngay:
– Vô lý! Chỉ phán bừa!
Lương Tiêu nói:
– Nghe qua tưởng chừng hoang đường, nhưng thực tế có trường hợp ấy đấy,
vì chính bản thân tôi đã trải nghiệm rồi. Trước đây khi làm toán, tôi
chẳng nghĩ gì ngoài toán hết, đôi khi còn mê mải đến mức xao lãng cả ăn
uống bài tiết. Về sau luyện võ, tới lúc tập trung tinh thần cao độ thì
tôi lại quên bẵng toán thuật. Nói chung, nếu quá chú tâm vào một việc gì đó, người ta thường gạt hết những việc khác ra khỏi đầu.
Ngô
Thường Thanh ngẩn ngơ tự nhủ: “Hắn phân tích, kể ra không phải hoàn toàn vô lý. Trước đây học y, quả có lúc ta cũng say mê đến độ quên hết tất
cả thật”.
Lăng Thủy Nguyệt cau mày:
– Giả thuyết của Lương tiểu ca gợi ta nhớ ra một điều. Đích xác có lần Thiên Phong tâm sự rằng muốn quên hẳn mọi pho võ công lĩnh hội lúc trước. Lẽ nào ông ấy đã làm
được, nhưng không chỉ quên võ công mà còn quên luôn cả bản thân mình?
Lương Tiêu lắc đầu cười:
– Thích Thiên Phong từng thổ lộ với tôi: “Ta quên tiệt mọi thứ, nhưng bà
lão thì không được phép quên”. Vừa rồi gặp bà, ông ấy chạy, đủ thấy ông
vẫn còn nhớ bà.
Lăng Thủy Nguyệt lộ vẻ mừng, thầm nhủ: “Lão già
chết rấp vẫn còn đôi chút lương tâm, không uổng công ta bôn ba tìm
kiếm”. Lương Tiêu nói tiếp:
– Thích Thiên Phong còn kể, bà mà tìm ra là sẽ bắt ông ấy về, mà đã về rồi thì ông không thể đánh nhau với ai được nữa.
Lăng Thủy Nguyệt thẫn thờ hồi lâu, cuối cùng thở dài bùi ngùi:
– Đại khái là ta đã hiểu. – đoạn vòng tay nói. – Tiểu ca đối đãi tử tế
với Thiên Phong, còn quan tâm đưa ông ấy đi chữa bệnh. Ơn đức này, già
trẻ lớn bé của đảo Linh Ngao trọn đời không quên.
Lương Tiêu xua tay:
– Phu nhân đừng nói thế! Võ công ông ấy cao quá, lại kiềm chế gắt gao
khiến tôi không sao thoát thân được. Tôi dẫn ông tới đây, coi như ích
cho người mà mình cũng được lợi thôi.
Nghe giọng Lương Tiêu khảng khái, Lăng Thủy Nguyệt sinh thiện cảm: “Tuổi còn trẻ mà khí phách lạ lùng!”. Ngô Thường Thanh hỏi:
– Bà vừa nói “đã hiểu”, cụ thể thế nào? Hé lộ cho ta biết đi!
Lăng Thủy Nguyệt thở dài:
– Để cho rõ ràng, có lẽ nên bắt đầu từ chuyện ba mươi bảy năm về trước.
– Ba mươi bảy năm về trước? Chắc là cái hồi hắn chân ướt chân ráo vào trung nguyên, dạo ông bà chưa thành thân đúng không?
Lăng Thủy Nguyệt hơi đỏ mặt, lườm Ngô Thường Thanh:
– Ông nhắc đến Thiên Phong thì nói mình Thiên Phong là được rồi, cơn cớ gì ràng tôi vào đó?
Ngô Thường Thanh chỉ cười khà khà. Lăng Thủy Nguyệt kể:
– Đảo chủ các đời ở Linh Ngao đều hiếu võ, ai cũng tìm trăm phương ngàn
kế góp nhặt các pho võ công khắp mọi vùng miền, vẽ thành đồ phổ đem về
cất giữ trong đảo, truyền đến ngoại tử là đời thứ mười hai. Nói lại mang tiếng chồng hát vợ khen hay, nhưng quả thật trời sinh Thiên Phong thông minh dĩnh ngộ, bảo là kỳ tài chưa từng có ở đảo Linh Ngao kể cũng không quá, bất luận loại võ công nào ông ấy cũng học được, mà học đến mức
uyên thâm tinh thục kia! Năm mười bảy tuổi, bản lĩnh của Thiên Phong đã
hơn hẳn đảo chủ các đời, không một tiền nhân nào theo kịp. Sau khi luyện xong mọi pho võ công đang cất giữ trên đảo, ngoại tử tự xưng “Chí tôn
Đông Hải, võ khố Linh Ngao”, lần lượt đánh bại cao thủ dị sĩ ở bốn mươi
chín đảo khác trên biển Đông, vậy mà còn chưa thỏa mãn, lại dong buồm
vượt sóng vào trung thổ, đem tài năng đi thi thố, khuất phục các anh
hùng trong thiên hạ.
Lương Tiêu tán thưởng:
– Chí khí ghê gớm thật!
Lăng Thủy Nguyệt lắc đầu:
– Chí khí cũng khá, nhưng khả năng tự lượng kém lắm. Thời kỳ đầu, ngoại
tử đi một mạch về phía tây, không gặp được địch thủ thì chớ, lại toàn
kết giao với những hạng tiểu nhân, nghe chúng phỉnh phờ tâng bốc mãi,
tuổi còn trẻ, thiếu từng trải, kết quả không tránh khỏi là càng lúc càng tự mãn. Một ngày kia, sau khi đánh bại các cao tăng Thiếu Lâm tự, Thiên Phong đi vòng sang Tây An phủ. Vùng này có một đại hiệp nổi danh về
dùng kiếm, bản lĩnh xuất thần nhập hóa, được giang hồ tôn xưng là Trung
Châu vô địch. Đang lứa ngựa non háu đá, nghe đến hai chữ “vô địch” đâm
ngứa ngáy, Thiên Phong liền tìm đến tận nhà vị đại hiệp nọ để khiêu
chiến. Nào ngờ vị ấy tuổi đã cao, hối hận về những hành động giết chóc
của mình thời còn tung hoành giang hồ nên dốc lòng thờ Phật, giao phó
hết việc đời cho hai con trai xử lý. Hai người con đã nghe đến danh
ngoại tử từ lâu, nay gặp ông ấy thì tiếp đãi rất niềm nở kính cẩn, đoạn
thưa lên rằng phụ thân họ đã rửa tay gác kiếm, không muốn giao đấu với
ai nữa. Ngoại tử đời nào chấp nhận, bèn bảo: “Lão ta không đấu thì các
ngươi đấu”. Rồi chẳng đợi họ phân trần điều hơn lẽ thiệt, ông lập tức bẻ hai tay con nhà người ta, cảnh cáo: “Cha các ngươi mà cứ ở tịt trong
ấy, ta sẽ bẻ nốt cả hai chân”. Thuở ấy Thiên Phong còn ít tuổi, tính
tình hung hăng, hành động táo tợn, đã nói là làm, thấy vị đại hiệp Trung Châu kia vẫn ru rú đằng nhà sau, ông tiếp tục bẻ gãy chân hai người
con…
Lương Tiêu nóng ran cả mặt, nghĩ thầm: “Ít tuổi, tính tình
hung hăng, hành động táo tợn, đã nói là làm, chẳng phải đang trách ta
đấy ư?”. Càng ngẫm càng thấm thía, gã không nén được tiếng thở dài. Lăng Thủy Nguyệt tưởng Lương Tiêu bất bình với hành động của Thích Thiên
Phong, cũng ngậm ngùi:
– Đại hiệp Trung Châu vẫn không lộ diện,
ngoại tử sốt ruột nên sinh ác tâm, bèn dọa sẽ phóng hỏa đốt nhà. Tới lúc đó thì ông lão kia đành phải ra mặt. Thiên Phong tự đắc, sửa soạn xuất
thủ. Thình lình có người rao sau lưng: “Vốn hai bàn tay trắng, chỉ trông vào hóa duyên”. Tiếng rao rền như chuông làm rung chuyển cả mái ngói.
Ngoại tử giật mình ngoái đầu nhìn thì bắt gặp một nhà sư trẻ tuổi, vóc
dạc cao lớn dị thường, một tay cầm hồ lô, tay kia chống cây gậy đen
nhánh.
Lương Tiêu bật cười:
– Khéo nhỉ, Cửu Như đến rồi!
Lăng Thủy Nguyệt ngạc nhiên:
– Đúng, đó chính là Cửu Như thiền sư, sao túc hạ biết?
Ngô Thường Thanh lé mắt nhìn Lương Tiêu:
– Ngươi đã gặp con lừa trọc ấy rồi à?
Lương Tiêu mỉm cười:
– Không chỉ “đã gặp”, tôi còn uống rượu, ăn thịt chó với ông ta nữa kia!
Ngô Thường Thanh bực bội lẩm bẩm:
– Cái đồ lừa trọc, làm hư cả trẻ con!
Hiểu Sương bưng miệng khúc khích:
– Sư phụ ơi, Tiêu ca ca đâu còn là trẻ con!
Ngô Thường Thanh cười nhạt:
– Ngươi thì tất nhiên là mong hắn lớn mau lớn mau, để còn…
Hiểu Sương vội giơ tay bịt đôi môi chè bè của lão béo, cuống quýt kêu van:
“Sư phụ, sư phụ!”. Ngô Thường Thanh hứ một tiếng, bỏ lửng không nói nữa.
Lăng Thủy Nguyệt nhìn từ Lương Tiêu sang Hiểu Sương một lượt là hiểu ngay sự tình, tủm tỉm cười rồi kể tiếp:
– Dứt tiếng rao khiến mọi người chấn động ấy, nhà sư bước vào sảnh, đến
thẳng chỗ vị đại hiệp Trung Châu để hóa duyên. Đại hiệp già một lòng
hướng Phật, đang lúc nước sôi lửa bỏng mà cũng không nề hà thoái thác,
lập tức gọi người dọn cơm chay. (Lương Tiêu nghĩ bụng: “Ăn chay thì đâu
phải là Cửu Như nữa!”). Nào ngờ nhà sư từ chối: “Bần tăng xưa rày chỉ ăn mặn, nếu thí chủ thu xếp được chút rượu thịt thì hay hơn”. Nghe những
lời tiết mạn Phật tổ như thế, vị đại hiệp Trung Châu rất sửng sốt. Ngoại tử sốt ruột vì bị kẻ thứ ba thò mũi vào cản trở công việc của mình, bèn nhoài tới trước đập tay lên vai Cửu Như, định bảo ông ấy tránh ra. Cửu
Như chẳng hề ngoái đầu, chỉ hơi rùn vai trái rồi huých ngược lên, vậy mà khiến ngoại tử chới với gần như ngã ngửa. Tung hoành trung thổ bao lâu
hầu như chưa gặp địch thủ, đâu ngờ đến đây lại không đỡ nổi một cú huých vai, ngoại tử kinh hãi tới bực nào, hẳn rằng khỏi nói các vị cũng biết. Qua cơn sửng sốt ban đầu, ông ấy nôn nóng muốn ra tay, Cửu Như bèn
thủng thẳng bảo: “Vội gì, đợi ta tợp ngụm rượu đã nào!”. Ngoại tử không
chịu, cứ sùng sục đòi so tài cao hạ, Cửu Như cười nói: “Ta uống được
chừng nào rượu thì khỏe lên chừng ấy, bây giờ trong mình chưa có nổi một nửa sức lực thông thường. Ngươi tự xưng là “chí bâu mông phải, tuột khố ho lao”, danh hiệu oai thế, đừng nên tìm cách ăn gian chiếm phần lợi
thế so với bần tăng mới đúng! – Kể đến đây, Lăng Thủy Nguyệt không kìm
được bật cười.
Hiểu Sương hỏi:
– Chí bâu mông phải, tuột khố ho lao là gì ạ?
Lương Tiêu cố nén cười:
– Tại Thích đảo chủ tự xưng danh hiệu “chí tôn Đông Hải, võ khố Linh Ngao” mà!
Hiểu Sương vẫn ngơ ngác, Lương Tiêu định giải thích, Lăng Thủy Nguyệt bèn đỡ lời:
– Hòa thượng chửi tục đó, con không cần hỏi kỹ! Ngoại tử kinh ngạc vô
cùng, nhưng vốn tự phụ nên cũng ngừng thúc ép, để yên cho Cửu Như ăn
uống. Vị Trung Châu đại hiệp từng trải chuyện đời, hiểu rằng hòa thượng
cố tình muốn phá ngang dự định của Thiên Phong. Ông cũng biết bản thân
mình địch không nổi kẻ thách đấu trẻ tuổi kia, nay thấy cứu viện đến thì làm gì chẳng mừng, bèn hô người nhà bưng hết mâm cao đến cỗ đầy ra
khoản đãi nhà sư. Cửu Như không hề làm khách, cứ tự nhiên ăn uống nhồm
nhoàm trước mặt mọi người, tu sạch ba mươi cân rượu mới ợ một cái ra ý
đã no, đoạn than thở: “Bần tăng ăn thịt uống rượu, tiết mạn Phật tổ,
thật không nên không phải”. Thấy nhà sư đã đánh chén chán chê mới thở ra cái giọng ấy, ai nấy đều dở khóc dở cười. Cửu Như dàu dàu nét mặt, nói
với đại hiệp: “Ta hổ thẹn lắm lắm, may ra chỉ có chết mới rửa hết tội,
nay muốn được vãng sinh ở chỗ thí chủ đây”. Theo ngôn ngữ Phật giáo,
vãng sinh tức là chết, là viên tịch đấy. Mọi người đều ngạc nhiên, ngoại tử càng không tin, bèn châm chọc: “Muốn vãng sinh hả? Ta dùng chưởng
này tiễn ngươi đi một quãng nhớ!”. Cửu Như mỉm cười: “Vãng sinh là phải
tự thân giải thoát, giống như võ sĩ tuẫn tiết, làm gì có chuyện nhờ tay
người ngoài. Lâu nay nghe đồn các đảo chủ Linh Ngao đều sùng tín Phật
pháp, chúa đảo đời đầu còn xuống tóc làm sư, bước chân vào cửa thiền, vì vậy mới bỏ họ cũ, đặt họ theo đức Thích Ca. Tại sao thí chủ bất chấp di ý của tổ tiên, ngăn cản lý tưởng thành Phật của bần tăng?”. Trên đời ít người biết nguồn gốc của đảo Linh Ngao, và số người nói được cặn kẽ như Cửu Như lại còn hiếm hoi hơn nữa, ngoại tử cố nhiên rất kinh ngạc,
không muốn thuận theo lời hòa thượng nhưng cũng không nghĩ ra câu gì để
phản bác. Cửu Như quay sang hỏi vị đại hiệp già: “Ông dốc lòng hướng
Phật, nhất định thuộc rất nhiều giai thoại sân thiền, dám hỏi có hòa
thượng nào ngồi xếp bằng để vãng sinh không?”. Đại hiệp đáp: “Nhiều
lắm!”. Cửu Như hỏi tiếp: “Thế đứng thì sao?”. Đại hiệp đáp: “Cũng kha
khá!”. Cửu Như lại hỏi: “Còn trồng cây chuối?”. Đại hiệp cau trán nghĩ
ngợi hồi lâu mới đáp: “Tiểu lão chưa nghe nói đến bao giờ cả!”. Cửu Như
phấn khởi: “Hay lắm, vậy ta trồng cây chuối vãng sinh!”, đoạn chống hai
tay xuống đất, lộn ngược chân lên trời, toàn thân thẳng đứng không cựa
quậy.
Hiểu Sương ngạc nhiên hỏi:
– Tính mệnh là đáng quý, hòa thượng còn trẻ như vậy, vì sao lại nghĩ quẩn chứ?
Lương Tiêu lắc đầu:
– Còn lâu ông ta mới nghĩ quẩn, giả vờ bày trò đấy thôi.
Hiểu Sương mừng rỡ nói:
– Thế thì tốt rồi! – Chừng vẫn chưa yên tâm về sự sống chết của Cửu Như,
cô sốt sắng hỏi Lăng Thủy Nguyệt. – Sau đó mọi việc thế nào hở bà?
Lăng Thủy Nguyệt rất đẹp lòng: “Con bé tốt bụng thật”. Bà mỉm cười tiếp:
– Nhìn bộ dạng Cửu Như, đầu chúi xuống đất chân chổng lên trời, hai tay
thọc xuống nền nhà sâu đến nửa thước như ăn khoan vào đấy, ai cũng sửng
sốt, đều tưởng là y đã vãng sinh. Vị đại hiệp Trung Châu buồn bã sai gia nhân di chuyển thi thể đi chỗ khác, ngặt nỗi mọi người cùng xúm vào mà
vẫn không sao làm nhà sư nhúc nhích được. Đại hiệp già kinh ngạc quá
đỗi, tự tay đến đẩy cũng chỉ như chuồn chuồn lay cột đá. Đám người nhà
phát hoảng, tưởng đâu Phật tổ hiển linh, ai nấy lâm râm niệm Phật rồi lũ lượt quỳ xuống. Ngoại tử ngờ vực đầy một bụng, bèn đi lại gần, vận toàn bộ công lực đẩy ra ba chưởng. Sức mạnh của ba chưởng này có thể đánh
bật gốc một cây đại thụ, nào ngờ vẫn không lay chuyển nổi nhà sư. Ngoại
tử kinh hãi vô cùng, sững sờ đứng lặng hồi lâu. Thình lình Cửu Như cười
ha hả, lật mình xuôi lại như cũ. Chung quanh ai nấy đều ngạc nhiên,
ngoại tử còn ngạc nhiên hơn hết thảy: “Con lừa trọc, ra là ngươi lừa đảo à?”. Vừa nói, vừa nhớ lại ba chưởng vô hiệu vừa rồi của mình, ông ấy
đâm chợn. Vị kiếm khách già cũng trách cứ: “Đại sư giả chết làm lão phu
sợ hãi quá chừng”. Cửu Như cười nói: “Chết vốn là giả, xà rầm kèo cột
trong căn nhà này là giả, ngay cả ông, ta, bọn họ cho chí trời đất nhật
nguyệt và chúng sinh trong thiên hạ cũng đều là hình trong gương, là
mộng ảo tuốt. Thật là giả, mà giả cũng là thật, hà tất khăng khăng rạch
ròi?”. Vị đại hiệp Trung Châu nghe những lời ấy bỗng dưng tỉnh ngộ, chắp tay đáp: “Thiện tai, thiện tai!”, rồi vuốt song chưởng lên đỉnh đầu,
toàn bộ mái tóc bạc đều rụng hết, đoạn cười vang với Cửu Như rồi cả hai
dắt tay nhau đi đâu mất hút.
Ngô Thường Thanh lầm lì nói:
– Chuyện này được lưu truyền khá rộng rãi trên giang hồ, thiên hạ cứ bàn
tán xôn xao mỗi người một thuyết, hóa ra chân tướng là như vậy. Lão lừa
trọc thường làm ra vẻ thần bí, nhưng kể cũng có chút bản lĩnh thần thông nhỉ!
Lăng Thủy Nguyệt gật đầu:
– Bản lĩnh của Cửu Như
chính là môn công phu Đại kim cương thần lực thi triển hôm ấy đấy. Rời
Tây An, Thiên Phong dẹp hẳn thói ngạo mạn, quay ngay về đảo Linh Ngao tu tập. Ông ấy tự biết căn cơ chưa đủ, vì vậy chuyên cần luyện nội công
suốt tám năm ròng rã. Đó cũng là khoảng thời gian tôi bước chân vào làm
dâu nhà họ Thích và sinh hạ Hải Vũ. Tám năm bền bỉ trôi qua, nhận thấy
võ công tiến bộ khá nhiều, tự phụ là mình đã có thể đấu ngang ngửa với
Cửu Như, Thiên Phong giấu tôi, rời đảo vượt biển sang Tây, vào trung thổ lần nữa để tìm Cửu Như tái đấu. Chỉ hiềm Cửu Như là một hòa thượng lang bạt, chùa lớn không dung, chùa nhỏ chẳng chứa, ngoại tử kiên nhẫn lùng
sục suốt mấy năm trời, khó nhọc lắm mới gặp được ông ấy ở núi Thiên Trụ. Võ công Thiên Phong tuy đã chạm một ngưỡng tiến cảnh mới, nhưng Đại kim cương thần lực của Cửu Như còn tấn tới nhanh hơn. Đôi bên tỉ thí, cuối
cùng ngoại tử thua, tất nhiên chưa cam khuất phục, lại quay về đảo khổ
công rèn luyện, sau đó còn tìm Cửu Như khiêu chiến mấy lượt nữa, cứ
khiêu chiến là thất bại, cứ thất bại lại tái đấu, tính đến nay thua cả
thảy bốn lần.
Lăng Thủy Nguyệt kể tới đây, không nén nổi bùi ngùi:
– Ngoại tử tâm cao khí ngạo khác thường, làm sao chịu đựng nổi nỗi nhục
nhã như thế. Sau lần thua thứ tư, ông ấy ôm cục hận trở về đảo Linh
Ngao, thề độc trước dãy bài vị tổ tiên, nếu không luyện xong Vô tướng
thần châm thì quyết không rời đảo nửa bước.
Lương Tiêu xen vào:
– Vô tướng thần châm là thế nào?
– Đó là một môn công phu gia truyền của đảo Linh Ngao, do một tiền bối
thời trước ngắm con nhím mà nghĩ ra, vì thế còn có tên là Tiên vị
công[2]. Người luyện thành công phu này có thể đẩy nội lực bắn ra từ bất kỳ huyệt đạo nào trên cơ thể, tạo thành những mũi kim vô hình để đả
thương đối thủ.
Lương Tiêu hơi tái mặt:
– Võ công độc đáo tới mức ấy, có thể nói là thiên hạ vô song.
Lăng Thủy Nguyệt gật gù:
– Về lý thuyết quả đúng như vậy, nhưng trên đời này, võ công càng trác
tuyệt thì càng khó luyện. Ngoài vị tiền bối sáng tạo ra nó, mấy trăm năm nay, chưa có ai trong số các cao thủ của đảo Linh Ngao luyện thành Vô
tướng thần châm, thậm chí một vài người gắng gượng quá sức còn dẫn đến
tán khí, mất hết công lực, biến thành phế nhân.
Hiểu Sương hãi hùng than:
– Trời, thế thì không luyện là hơn!
Lăng Thủy Nguyệt lắc đầu:
– Chuyện gì Thiên Phong còn nghe ta được, chứ riêng chuyện võ nghệ, ông
ấy chẳng để lời khuyên của ai vào tai hết, cứ thế tu tập đêm ngày đến độ quên ngủ quên ăn. Các vị nên biết rằng để luyện thành Vô tướng thần
châm thì phải dùng một phương pháp đặc biệt đả thông dần các huyệt đạo
toàn thân. Có những điểm rất dễ thông suốt, chẳng hạn các huyệt nằm trên bàn tay, cánh tay, bàn chân, cẳng chân… nhưng cũng có những huyệt rất
gian nan như Đản trung, Đan điền, Bách hội, Thiên Phong chật vật mấy năm liền vẫn không làm nó nhúc nhích được mảy may. Xem chừng không bao giờ
ông ấy luyện xong Tiên vị công mất, ta bèn nghĩ: thây kệ, cùng lắm ta ở
đảo bầu bạn với ông ấy cả đời là được chứ gì…
Bà rơm rớm nước
mắt, Hiểu Sương cảm động, khẽ nắm tay bà bóp nhẹ. Lăng Thủy Nguyệt nhìn
cô cháu vẻ cảm kích, rồi gắng kiềm chế cảm xúc, kể tiếp:
– Bỗng
đâu ba năm trước, Thiên Phong xuất quan, hớn hở như trẻ con. Ông nói đã
hiểu ý nghĩa thực sự của Vô tướng thần châm, lại úp mở rằng phải quên
hết những pho võ công đã học trước đây đi, một khi tâm trong lòng rỗng
là sẽ luyện thành môn công phu này. – Bà ngừng một chút, vừa thương thân vừa hối hận, sa lệ kết luận. – Lúc ấy ta tưởng ngoại tử vui miệng bông
đùa, nào ngờ đều là lời nói thật…
Mọi người im lặng. Lương Tiêu
cau mày suy nghĩ rất lung, nhưng không lần nổi yếu lĩnh của Vô tướng
thần châm. Gã đã từng giao thủ với Công Dương Vũ, Tiêu Thiên Tuyệt và
Cửu Như, xét ra thì bản lĩnh Thích Thiên Phong không hề thua kém họ, nếu quả thực lão đã luyện thành Vô tướng thần châm thì e rằng ba cao thủ
kia chưa chắc còn địch nổi lão.
Ngô Thường Thanh vuốt râu đăm chiêu:
– Nếu chỉ vì tập võ nhiều quá hóa ngây thì may ra vẫn có cách chữa. Một
là, cứ để hắn đánh bại Cửu Như cho thỏa nỗi ấm ức mãn tính kia đi, bệnh
chẳng cần thuốc mà tự khỏi. Nhưng cũng phải nói thẳng rằng chưa chắc
Thích Thiên Phong đã thắng được con lừa trọc nọ, bởi nguyên việc tìm ra
hành tung của cái tay lang bạt đó đã khó lắm rồi. Thứ hai, bà cứ bắt lấy Thích lão đầu, áp giải về đảo, hắn còn nhớ bà, tức thị chưa quên hẳn
chuyện cũ. Miễn là hắn còn mang máng một vài hồi ức, sau này hai người
sớm chiều bên nhau, hắn muốn rũ bỏ quá khứ cũng chẳng được nào!
Tư lự một hồi, Lăng Thủy Nguyệt đứng dậy thi lễ:
– Đa tạ Ngô tiên sinh chỉ giáo!
Bà rũ nhẹ tay áo, chỉ chớp mắt đã lướt đi xa hai trượng. Hiểu Sương gọi với:
– Bà đi đâu đấy ạ?
Lăng Thủy Nguyệt đáp:
– Nhân lúc ông con chưa đi xa, ta chạy theo bắt ông ấy về. – Câu nói chưa dứt, bóng bà đã biến khỏi tầm nhìn của mọi người.
Lăng Thủy Nguyệt đi thì cũng đã đến giờ cơm. Mấy nữ tì sắp mâm lên. Ba người ăn xong, Lương Tiêu nhấp nhổm định hỏi Hiểu Sương bao nhiêu điều nung
nấu trong lòng, ngờ đâu Ngô Thường Thanh lại giục cô gái:
– Tất bật cả ngày mệt rồi, ngủ sớm đi!
Hoa Hiểu Sương không dám trái lời, liếc nhanh Lương Tiêu rồi cúi đầu đi vào phòng. Đợi bóng cô khuất hẳn, Ngô Thường Thanh quay ra cười nhạt:
– Thằng kia lại đây, ta có mấy câu muốn hỏi!
Lương Tiêu nghĩ bụng: “Việc quái gì ta phải chiều lòng lão?”. Gã nhếch mép vươn vai ngáp:
– Tôi đi đường mấy ngày trời, cũng mệt rũ rồi, muốn đi ngủ sớm.
Ngô Thường Thanh hầm hầm trợn mắt:
– Thôi vậy, ngươi làm ta chán chẳng buồn hỏi cho ra đầu ra đũa nữa. Tóm
lại, cái tên xấu bụng sống dai kia, chưa chết thì nên biết đường mà đối
xử với Sương nhi cho tử tế.
Lương Tiêu thầm nghĩ: “Chả cần lão phải nhắc!”. Ngô Thường Thanh gọi nữ tì lên, bảo đưa Lương Tiêu vào phòng dành cho khách.
.
Hiểu Sương nằm trên giường rồi mà không sao ngủ được, chỉ những nghĩ đến
Lương Tiêu, người cứ say sưa như uống rượu, đầu óc váng vất, tâm trạng
hưng phấn cao độ, liên tục tưởng tượng ngày mai gặp gã sẽ nói gì, sẽ làm gì. Băn khoăn trở mình đến tận canh ba, Hiểu Sương mới mơ màng thiếp
đi, nhưng chưa được bao lâu thấy mắt choi chói như đã rạng ngày, cô lại
choàng tỉnh. Trong phòng đèn đuốc sáng trưng, Lương Tiêu ngồi ghé bên
mép giường, mỉm cười nhìn cô.
Hiểu Sương hồi hộp nhỏm dậy, Lương Tiêu bèn giữ lại:
– Cứ nằm yên kẻo cảm lạnh.
Hiểu Sương đành vâng lời ngả xuống như cũ, nhưng toàn thân bứt rứt quá
chừng, cái chăn đắp mình tự nhiên nóng sực lên như lò lửa khiến mồ hôi
cô tuôn đầm đìa, gương mặt cũng đỏ bừng, cô lắp bắp:
– Tiêu… ca ca sao lại sang đây?
Lương Tiêu nói:
– Ta còn rất nhiều điều muốn hỏi muội nên không ngủ được.
Hiểu Sương mỉm cười:
– Nói gần nói xa chẳng qua nói thật. Huynh hỏi đi, muội mà biết thì sẽ trả lời ngay.
Lương Tiêu phì cười:
– Văn vẻ quá! Muội có còn nhớ, hồi ở Thiên Cơ cung, ta đã hứa với muội điều gì không?
Hiểu Sương thừ người, chợt một tia sáng lóe lên trong trí:
– Đi ngắm mặt trời mọc?
– Muội vẫn còn nhớ? – Lương Tiêu lộ rõ phấn khởi.
Hiểu Sương im lặng tủm tỉm: “Quên sao được, mỗi lời huynh nói muội đều nhớ hết”. Lương Tiêu vui vẻ rủ:
– Đã vậy, nhân lúc trời còn chưa sáng, chúng ta lên núi thôi.
Hiểu Sương háo hức hưởng ứng:
– Được, để muội thay áo.
Lương Tiêu quay lưng lại. Hiểu Sương thay y phục xong, nói: “Ổn rồi!”, và đứng dậy. Lương Tiêu cười bảo:
– Khỏi cần! Trời lạnh sương dày, ta quấn muội trong chăn ẵm lên đó.
Hiểu Sương bối rối ngăn:
– Thôi, thế thì muội thành cái bánh trưng à?
Lương Tiêu gật đầu:
– Đúng, cái bánh trưng có nhân mỹ nữ!
Hiểu Sương cúi mặt lẩm bẩm:
– Muội thì mỹ nữ với ai?
Lương Tiêu lắc đầu:
– Ta thấy đẹp, tức là mỹ nữ.
Hiểu Sương ngượng ngùng nhìn xuống, lòng tự nhiên thấy vui sướng bàng hoàng.
Lương Tiêu lấy chăn quấn Hiểu Sương thật kín, ôm ra cửa rồi thi triển Thừa
phong đạo hải chạy lên đỉnh núi. Gió ù ù bên tai khiến Hiểu Sương tưởng
như đang đằng vân giá vũ lên trời, tâm trạng mê man ngây ngất, quên hết
tất cả, bất giác thiu thiu ngủ gật.
Đến một lúc, chợt nghe Lương
Tiêu nói: “Chắc đây là nơi ngắm mặt trời mọc!”, Hiểu Sương mở choàng
mắt. Dưới chân họ chính là biển Đông, mặt nước trải rộng như một tấm màn mờ xám, những ngọn sóng nhấp nhô xô đẩy mãi không ngừng.
Lương
Tiêu đặt cô gái xuống. Hai người ngồi bên nhau trên một tảng đá lớn, bốn bề tịch mịch, chỉ có tiếng gió đùa hiu hiu. Mấy lần Lương Tiêu toan cất tiếng, nhưng ngại phá tan bầu không khí tĩnh lặng hiếm có nên lại thôi. Gã không nói, Hiểu Sương cũng im bặt.
Ngồi suông hồi lâu, Lương
Tiêu bắt đầu uể oải. Nội công gã thâm hậu, suốt thời gian cầm quân không ăn không ngủ mà vẫn phấn chấn sung sức, lúc này cũng chẳng đến nỗi mệt
mỏi mà sao mí mắt cứ trĩu mãi xuống. Gã gắng sức chống lại cơn buồn ngủ, nhưng bất lực. Lần đầu tiên trong đời mới gặp cảnh này là một, đầu óc
mê man dần, mặt trời chưa mọc, gã đã thiếp đi.
Xảy đâu một cơn gió lạnh lùa tới, Lương Tiêu sởn gai ốc bừng tỉnh, kinh hoàng kêu lên:
– Hiểu Sương, Hiểu Sương…
Hoa Hiểu Sương ngạc nhiên quay sang:
– Muội đây, huynh gọi gì thế?
Trông thấy cô gái, Lương Tiêu thở phào, đưa tay sờ trán thấy nhơm nhớp toàn
mồ hôi lạnh, thắc mắc tự hỏi: “Ta xưa nay vẫn cảnh giác tỉnh táo lắm,
sao lần này lại sơ ý như thế nhỉ? Vừa xao lãng một cái mà ngủ ngay
được”. Gã ngoảnh trông về phía chân trời, vầng thái dương đã nhô lên hơn nửa, mây đen vẫn nằng nặng chưa tan, trông như cái lòng đỏ trứng nằm
giữa bát canh cá mực. Lương Tiêu cảm thấy rất vô vị, bèn quay sang ngắm
Hiểu Sương. Cô gái đang dõi mắt ra xa, dáng vẻ chăm chú, gương mặt gầy
gò phơn phớt một lớp sáng hồng dịu nhẹ dưới ánh triêu dương. Lương Tiêu
ngắm một lúc lại nổi cơn buồn ngủ, bực quá bèn trở tay tát mạnh vào mặt
mình.
Hiểu Sương nghe động giật thót:
– Huynh làm gì đấy?
Mặt Lương Tiêu đỏ bừng, nhưng được sắc nắng ngụy trang nên Hiểu Sương không nhận ra. Gã lấp liếm:
– Ta đánh muỗi!
Hiểu Sương ngạc nhiên:
– Lạnh cắt da cắt thịt thế này làm gì có muỗi?
Lương Tiêu không biết đối đáp ra sao, đành cười trừ.
Một lúc phân tâm ấy đã lấy đi mọi hứng thú ngắm mặt trời mọc của Hiểu
Sương. Cô bâng quơ nhìn quanh, chợt trông thấy lẻ loi trên vách đá, một
chùm tường vi đang rung rinh trong gió sớm, bất giác động lòng ngâm khẽ:
– Đường lệ chi hoa, thiên kỳ phản nhi, khải bất nhĩ tư? Thất thị viễn nhi![3]
Lương Tiêu cau mày:
– Muội nói gì thế, phản nhi viễn nhi là sao?
Hiểu Sương cười:
– Đó là lời của Khổng Tử, ý nghĩa là: đường lệ nở hoa, rung rinh trong
gió, phải đâu không nhớ, chỉ hiềm quá xa… – Cô bỗng cúi đầu, khuôn mặt u ám.
– Muội nhớ nhà phải không? – Lương Tiêu hỏi.
Hiểu Sương cay cay mắt, gật đầu. Lương Tiêu nhìn cô đăm đăm:
– Từ hôm qua ta đã thắc mắc, vì sao muội rời bỏ Thiên Cơ cung đến núi Phụ Đường làm đồ đệ của Ngô Thường Thanh?
Hiểu Sương im lặng hồi lâu, cuối cùng thu hết can đảm nhìn Lương Tiêu, giọng tha thiết:
– Muội chỉ kể với mình huynh, huynh đừng nói cho ai khác biết nhé!
Lương Tiêu gật đầu. Hiểu Sương thở dài:
– Cái hôm Minh gia gia bắt huynh đi…
Lương Tiêu cau mặt ngắt lời:
– Vì sao muội vẫn gọi lão ấy là gia gia?
Hiểu Sương đỏ mặt lí nhí:
– Muội, muội quen miệng. Tóm lại là, hôm ấy rất nhiều người đuổi theo cứu huynh, cha này, Dung cô cô này, cả Tần bá bá nữa, để lại một mình muội
trong cung. Muội buồn bã và lo lắng quá thể, ngày nào cũng ngong ngóng
mọi người đón huynh trở lại. Chừng một tháng trôi qua, cha về, mặt mày u ám. Mặc muội gạn hỏi sự tình, cha chỉ lắc đầu thở dài suốt chứ không hé lộ gì hết. Về sau, rất lâu sau, muội mới nghe Mai Ảnh tỷ nói… huynh đã
chết rồi.
Hiểu Sương kể mà nước mắt tuôn rơi. Lương Tiêu nhăn nhó:
– Tại cái lão họ Minh bịa chuyện lừa đảo cả. Ta chết bao giờ? Muội sờ thử xem, ta là người hay ma?
Hiểu Sương cười qua hàng nước mắt:
– Hễ nhớ lại ngày đó là muội muốn khóc. Từ nhỏ tới lớn, chưa bao giờ muội đau đớn đến thế, chỉ chút nữa… là tự vẫn cho xong…
Lương Tiêu cảm động rớm nước mắt, nhưng sợ cô gái trông thấy nên quay ngay mặt đi. Hiểu Sương thở dài:
– Đêm hôm ấy, muội đổ bệnh, cũng may đúng lúc sư phụ đang ở trong cung,
nếu không thì bây giờ muội chẳng được gặp huynh nữa đâu. Dạo đó, cha mẹ
xích mích thường xuyên, mặt ai cũng lầm lì, hỏi không buồn nói. Một hôm
muội giả vờ ngủ mới biết được nguyên do. Thì ra, bà nội muốn cha mẹ sinh cho muội một đệ đệ để sau này còn làm cung chủ.
Lương Tiêu nhăn trán:
– Việc tốt đấy chứ, cớ gì mà cãi vã?
Hiểu Sương lắc đầu:
– Muội cũng không hiểu tường tận. Đại khái theo lời mẹ, cha là kẻ bạc
nghĩa bạc tình, dạo mang thai muội, mẹ bị một người đàn bà đánh gần
chết, cha thừa sức bắt giữ kẻ đó, nhưng không hiểu sao cuối cùng lại thả cho bà ta đi. Muội chưa bao giờ thấy mẹ phẫn uất như thế, mẹ nói hận
cha đến chết, bảo rằng sẽ khiến nhà họ Hoa phải tuyệt đường tử tôn bằng
bất cứ giá nào. Bà nội bảo tại mẹ không bằng lòng sinh đệ đệ làm Hoa gia neo chiếc, dẫn đến việc tạo phản của Minh gia gia. Bà dọa nếu mẹ không
vâng lời thì bà sẽ phú cho mẹ về nhà ngoại để cha lấy vợ khác. Mẹ tức
quá khóc òa lên, cha thì thưa với bà là cha thà chết chứ không bằng lòng lấy ai khác, cha làm khổ mẹ là quá lắm rồi, không muốn để lụy cho người đàn bà nào nữa.
Lương Tiêu đã từng nghe Minh Quy thuật lại cuộc
tình duyên trắc trở giữa Hoa Thanh Uyên và Hàn Ngưng Tử nên không ngạc
nhiên gì trước câu chuyện của Hiểu Sương. Gã lặng lẽ gật đầu: “Ta vẫn
coi thường Hoa đại thúc ở chỗ ban đầu không cứng rắn bảo vệ hạnh phúc,
nhưng lần này phải thừa nhận ông ấy có cốt khí, dám khăng khăng cưỡng
lệnh mẹ, không đồng ý bỏ vợ cũ để lấy vợ mới”.
Hoa Hiểu Sương thở dài:
– Tóm lại, bà tìm đủ mọi cách từ mềm dẻo đến cứng rắn đều không thể ép
cha mẹ thuận theo ý mình, cuối cùng nổi giận, vừa trỏ muội vừa bảo:
“Sương Quân, cô nghe cho rõ đây, cô bướng bỉnh không chịu vâng lời, vậy
ta sẽ nhốt con bé này lại, ngày nào cô chưa chịu sinh con, ngày đó cô
còn chưa được nhìn thấy mặt nó…”.
Lương Tiêu uất nghẹn họng, chỉ
muốn chửi thành tiếng, nhưng nể mặt Hiểu Sương nên nén lại, hậm hực
nghĩ: “Mụ ấy mà không phải bà của muội, ta đến lật tung cái Thiên Cơ
cung lên cho mụ biết tay”.
Hiểu Sương kể tiếp:
– Nói sao
làm vậy, bà túm ngay lấy muội. Mẹ muốn bảo vệ muội, nhưng không đấu nổi
bà. Vừa lúc ấy sư phụ đến, trách móc bà nội hết lời. Bà bèn nói, đây là
chuyện nhà họ Hoa, không khiến người ngoài can thiệp vào. Sư phụ cự
ngay: “Không thế được, nó là bệnh nhân của lão p… à, của ta, ai mà động
đến bệnh nhân của lão p…, e hèm, của ta thì ta liều mạng với kẻ đó…”.
Lương Tiêu vỗ tay:
– Hả hê thật!
Gã đâm mến Ngô Thường Thanh hẳn lên, cảm thấy chỉ riêng mấy câu này cũng
đủ để gã vui lòng nhún nhường với lão rồi. Hoa Hiểu Sương mặt ủ mày
chau, dàu dàu kể tiếp:
– Muội thấy người lớn ầm ĩ với nhau như
thế, lòng buồn khôn tả, bèn thưa với bà: “Con xin rời khỏi Thiên Cơ
cung, cho con lên núi Phụ Đường lạy Ngô gia gia làm sư phụ. Mẹ không
sinh em bé, con cũng không về nữa”. Thực ra đã lâu rồi muội vẫn nuôi chí học y thuật, muội mắc bệnh từ nhỏ, trong người lúc nào cũng đau yếu,
mỗi lần được Ngô gia gia đến thăm bệnh, muội lại thấy nhẹ nhàng dễ chịu
hơn nhiều, vì vậy muội nghĩ, trên đời có rất nhiều người bị bệnh tật
hành hạ, chắc cũng sẽ vật vã như muội vậy. Nếu muội học được bản lĩnh
của Ngô gia gia thì có thể giúp họ vơi bớt đau đớn. Từ khi có ý ấy, muội đọc rất nhiều sách y, chỗ nào mắc thì hỏi Ngô gia gia. Người cũng chiều lòng chỉ bảo cặn kẽ. Nhưng trước đây mỗi lần muội xin làm đồ đệ, người
đều bỏ ngoài tai. – Cô mỉm cười. – Thế mà lần ấy giận bà nội quá, người
đồng ý ngay tắp lự, nhận muội làm học trò rồi dẫn muội rời khỏi Thiên Cơ cung đến thẳng núi này.
Hiểu Sương kể rất sơ lược và bình tĩnh, nhưng Lương Tiêu biết cô phải gồng sức lắm mới kìm nén được đau đớn. Gã xót xa nói:
– Muội khổ quá!
Hiểu Sương lắc đầu:
– Khổ gì đâu huynh. Lúc nghe tin huynh chết, muội còn không muốn sống nữa cơ, nếu không nhờ bận học y cứu người mà vợi bớt phiền não, có lẽ muội
đã lìa đời rồi. Nhưng thế thật thì nguy thay, vì đâu còn cơ hội để gặp
Tiêu ca ca ở kiếp này nữa. – Đôi mắt to bỗng ứa lệ, cô rưng rưng ngước
nhìn Lương Tiêu.
Khi mắt họ giao nhau, Lương Tiêu choáng váng như bị nện một chùy vào giữa ngực, gã ngoảnh mặt đi, tim đập cuồng loạn:
“Vì sao ánh mắt Hiểu Sương lại giống ánh mắt A Tuyết đến thế, ta nhìn
lầm hay sao?”. Gã len lén ngó lại quan sát, khuôn mặt cô gái hình trái
xoan khác hẳn khuôn mặt tròn của A Tuyết trước đây, nhưng nét da diết
trong mắt thì không mảy may sai khác, từng chút từng chút một, nó đâm
vào lòng gã đầy nhức nhối. Gã ngoảnh nhìn vầng triêu dương ở đằng đông,
im lìm hồi lâu, tim vẫn đập thình thịch.
Đến khi trời sáng hẳn,
hai người mới xuống núi. Dọc đường, Lương Tiêu hái hoa rừng kết thành
một cái vành rực rỡ cho Hiểu Sương đội. Cô gái thích thú soi mình xuống
nước mỗi khi gặp suối chảy qua.
Rời chân núi, về gần tới rừng
hạnh, họ bỗng thấy xa xa thấp thoáng bóng người loạng choạng, cùng nheo
mắt nhìn thì nhận ra Quỷ Lỗi Song Sát. Mộc ngẫu sát bê bết máu, Bố đới
sát mặt mũi trắng bệch, xem chừng đều bị thương rất nặng.
Bố đới
sát trông thấy Lương Tiêu và Hiểu Sương ngay từ xa, bèn gọi: “Bồ tát, Bồ tát…”, rồi lả người ngã ngất. Mộc ngẫu sát đang tựa vào cô ta, cũng ngã nhào theo.
Hiểu Sương hốt hoảng chạy tới, lấy kim châm vẫn mang
theo bên mình châm trị cho họ một hồi, giúp Mộc ngẫu sát cầm máu vết
thương ở lưng. Bố đới sát cũng lơ mơ tỉnh lại, thều thào:
– Bồ tát… đi trốn mau, có kẻ muốn hại sư phụ người đấy!
Hiểu Sương cả kinh, mặt tái mét. Lương Tiêu điềm tĩnh bảo:
– Quân đến đã có tướng ngăn, nước tràn thì đắp đê chặn. Ngươi khỏi lo, có gì cứ thong thả nói.
Mộc ngẫu sát lắc đầu thở dài:
– Võ công ngươi tuy cao, nhưng đối phương đông lắm, chưa chắc ngươi thắng được đâu!
– Rốt cục là kẻ nào? – Lương Tiêu hỏi.
Mộc ngẫu sát nói:
– Kể ra thì hơi dài dòng. Hôm qua được Bồ tát cứu mạng, ân oán cũng đã
giải quyết xong, huynh muội chúng ta tà tà đi lên hướng bắc, định bụng
từ đây phiêu bạt giang hồ, dùng nghề múa rối kiếm miếng cơm ăn. Đêm
xuống, chúng ta nghỉ ở một quán khách bên đường, vô tình nghe được phòng bên có kẻ bàn luận chuyện Bồ tát cứu người, một giọng ẽo ợt nói rằng Bồ tát là học trò của Ác Hoa Đà Ngô Thường Thanh, còn nói Ác Hoa Đà vi
phạm môn quy, thu nạp đệ tử, nhất định là vì… chà, tóm lại toàn những
lời rác rưởi của phường hạ lưu. Huynh muội chúng ta chịu đại ơn đại đức
của Bồ tát, dẫu thịt nát xương tan cũng khó báo đền, đâu cho phép kẻ
khác xúc phạm người như vậy, đang định xông sang thì nghe thấy một giọng eo éo hỏi: “Cuốn Thanh hạnh quyển đó chỉ dẫn phép dưỡng sinh trụ nhan
thật à?”. Tên đầu tiên khẳng định: “Đúng vậy, chỉ cần ngày mai bắt lấy
Ác Hoa Đà, ép lão giao nộp là được”. Huynh muội chúng ta nghe đến đây
thì không nín nhịn nổi nữa, bèn lên tiếng khiêu khích. Không ngờ vừa dứt tiếng thì phòng bên có tiếng hừ mũi, rồi một luồng nội kình quái dị
thấm qua vách đất tràn sang. Muội tử ta đứng ngay bên tường, bị luồng
nội kình xô trúng, liền ộc máu tươi ngã nhào vào ta, nội kình cũng lập
tức thấm vào mình ta, khiến lục phủ ngũ tạng nhộn nhạo cả. Ta hiểu ngay
rằng đã gặp phải hạng cao thủ không thể chống cự được, bèn dìu muội tử
chạy trốn. Trên ngưỡng cửa phòng bên lập tức nhô ra một đạo sĩ và một
Lạt ma. Chiết được hai chiêu thì ta trúng một nhát kiếm của đạo sĩ, con
rối cũng bị vòng kim cô của Lạt ma đánh vỡ. May mà trời còn phù hộ, run
rủi cho chúng ta thoát được quán trọ, nhờ thông thuộc địa hình nên chạy
tới đây ngay trong đêm. Bồ tát ạ, những kẻ đó ghê gớm lắm, người và sư
tôn mau mau rời khỏi đây để tránh tai họa giáng xuống đầu.
Mặt Hiểu Sương trắng bệch. Lương Tiêu liếc qua, cười bảo:
– Có ta ở đây, muội sợ cái gì?
Hiểu Sương khổ sở lẩm bẩm:
– Ai mà muốn hãm hại sư phụ muội nhỉ?
Lương Tiêu đã lờ mờ đoán ra thân phận của đối phương, bụng bảo dạ: “Việc này
quái lắm, có lẽ nên tạm lánh sóng gió thì hơn”. Gã bảo Quỷ Lỗi Song Sát:
– Đa tạ các ngươi đã báo tin, giờ thì đi đi.
Hai anh em nhìn nhau, Mộc ngẫu sát đề nghị:
– Đối phương bản lĩnh cao cường, chi bằng cứ để huynh muội ta ở lại hỗ trợ.
– Các ngươi đang bị thương, có nấn ná cũng vô ích. Ta sẽ bảo vệ thầy trò cô ấy, các ngươi cứ yên tâm.
Mộc ngẫu sát thở dài:
– Võ công túc hạ cao cường gấp mười lần ta, nhưng đây là hạng cao thủ
biết truyền kình cách vách, tốt nhất túc hạ cũng nên cẩn thận một chút.
– Ta hiểu. – Lương Tiêu bình thản đáp.
Hoa Hiểu Sương rút ra một lọ ngọc nhỏ, dốc lấy ba viên thuốc đưa cho Bố đới sát:
– Cô nương trúng âm kình, hãy cầm ba viên Ngọc tủy đan này, mỗi ngày uống một viên với nước. Lệnh huynh tuy mất nhiều máu nhưng nhát kiếm không
sâu, tĩnh dưỡng chừng một tháng là ổn thôi!
Bố đới sát tạ từ rồi hai anh em dìu nhau đi.
Lương Tiêu bỗng đảo mắt, gọi vống vào rừng hạnh:
– Mời Ngô tiên sinh ra đây thương nghị!
– Có thấy sư phụ đâu nào? – Hiểu Sương ngạc nhiên.
Trong rừng hạnh có tiếng hừ rõ to, rồi giọng Ngô Thường Thanh mắng xa xả:
– Hai đứa tạp chủng, canh ba nửa đêm dắt nhau đi đâu? Con gái mà không
giữ nết, mới tí tuổi đầu đã rúc rích theo trai. Hôm nay lão phu từ mặt,
tránh ngày sau ngươi làm bẩn gia phong của lão phu. Cút ngay! Cuốn xéo
theo tiểu tử kia mau, đi càng xa càng tốt, đừng để lão phu trông thấy
nữa. Trông thấy ngươi là lão phu giận sôi rồi!
Hoa Hiểu Sương
sửng sốt, bỗng nhắm nghiền mắt, răng cắn chặt vào nhau, người mềm oặt lả xuống đất. Lương Tiêu hốt hoảng đỡ lấy. Một bóng người loáng lên trong
rừng, Ngô Thường Thanh lạch bạch chạy tới, khuôn mặt ảo não, vừa châm
kim phục thuốc cho Hiểu Sương vừa lẩm bẩm:
– Khốn thay, sao con ranh lại không thở được thế này?
Lương Tiêu bất bình trách:
– Tại ông mắng chửi thậm tệ quá đấy mà! Dẫu đối thủ ghê gớm tới đâu, ông
cũng không nên dùng cách ấy để đuổi Hiểu Sương mới phải.
Ngô
Thường Thanh bị nói trúng tim đen, mặt đỏ bừng, ngồi phịch xuống một gốc cây hạnh, vò vò đầu im lặng. Lương Tiêu chưa bao giờ thấy lão bối rối
đến vậy, tự dưng chột dạ, định hỏi cho rõ chuyện thì nghe đằng xa vẳng
tới tiếng cười ha hả. Sáu bóng người xuất hiện, lững thững đi lại gần.
Ngô Thường Thanh tái mặt, nhảy bật dậy. Lương Tiêu quét mắt một vòng,
cũng cười ha hả. Sáu người kia tức thì dừng bước, ai nấy đều lộ vẻ sửng
sốt.
Lương Tiêu nhìn khắp lượt:
– Đúng là không phải oan
gia không đụng độ, chạm mặt rồi mới biết toàn cố nhân. Ha ha, Hỏa Chân
Nhân, Cáp Lý Tư, A Than, ba tên đê tiện các ngươi còn chưa chết ư? –
đoạn nhìn lão già áo xanh. – Chắc may mắn được cứu nhờ bàn tay tài phép
của Tiếu Diêm vương Thường Ninh phải không?
Bọn A Than lần này có chỗ dựa nên khá vững tâm, khoảnh khắc kinh ngạc ban đầu mau chóng trôi
qua, thay vào đó là vẻ căm hờn lộ rõ. Cáp Lý Tư cười khẩy:
– Bình chương đại nhân thoát chết trong gang tấc, thật đáng chúc mừng! Chẳng biết sau hôm nay có còn may mắn thế không.
Lương Tiêu mỉm cười im lặng, dừng ánh nhìn ở người đứng cạnh Cáp Lý Tư:
– Hạ Đà La, hai lần tương kiến đều chưa tận hứng, hôm nay phải đãi đằng cho hậu hĩ nhỉ!
Hạ Đà La nhướng hàng mày bạc, cười đáp:
– Bình chương có lệnh, sái gia đâu dám không tuân?
Lương Tiêu nói kháy:
– Hay lắm, vậy ta ra lệnh cho ngươi ăn phân, ngươi có tuân không?
Hạ Đà La công phu hàm dưỡng rất cao mà cũng không khỏi biến sắc, nhất thời nín lặng. Lương Tiêu đưa mắt sang người áo vàng đứng bên Hạ Đà La:
– Minh lão đại, nghe nói ngươi phao tin giả là lão tử đã chết, khiến Hiểu Sương phải đau lòng. Hay lắm, oán mới thù cũ hôm nay gộp vào tính luôn
một thể.
Minh Quy nhếch mép, mắt lóe lên, nhìn hết Lương Tiêu lại đến Hiểu Sương.
Lương Tiêu ngoài miệng nói cứng như vậy, thực ra trong lòng lo lắng vô cùng:
“Hôm nay sao Thái Tuế chiếu mạng, lành ít dữ nhiều. Một Hạ Đà La đã khó
ứng phó, lại thêm năm tên khốn kiếp hỗ trợ, phải làm sao đây?”. Gã suy
nghĩ rất lung, vắt óc tìm đối sách.
Ngô Thường Thanh thấy Lương
Tiêu đứng trước ngần ấy cường địch mà vẫn thản nhiên như không, thậm chí còn khiến đối phương thấp thỏm thất sắc thì kinh ngạc nghĩ thầm: “Cổ
nhân nói chẳng sai: kẻ sĩ không gặp ba ngày đã thấy khác, ta những tưởng tiểu tử này vẫn bồng bột non nớt, nào ngờ bản lĩnh và chín chắn đến
thế, một lời nói ra còn nhiều hào khí hơn hẳn thiên quân vạn mã”. Lúc
này Hiểu Sương đã tỉnh lại, đoán chừng sáu người kia chính là những kẻ
đến uy hiếp sư phụ mình, mặt cô xám xanh hoảng hốt.
Ngô Thường Thanh nghiến răng bảo:
– Tiểu tử họ Lương, ai khiến ngươi nhiễu sự? Ngươi dẫn con ranh biến đi, mình lão phu xử lý là đủ rồi.
Lương Tiêu không đáp. Thường Ninh cười hì hì:
– Sư huynh ơi, mấy chục năm không gặp, huynh giở giói bẳn tính như thế từ bao giờ đấy?
Ngô Thường Thanh nổi cáu:
– Tổ sư ngươi, ai là sư huynh ngươi?
Lương Tiêu vỡ lẽ: “Hóa ra là đồng môn, hèn chi cùng tinh thông y thuật!”. Thường Ninh vẫn nhơn nhơn:
– Huynh không nhận tiểu đệ, nhưng đệ vẫn nhớ mãi những chuyện năm xưa, ha ha, nhớ cái thuở huynh đệ ta cùng thờ một thầy, tình cảm thân thiết
biết nhường nào.
Ngô Thường Thanh định mắng xối xả phen nữa,
nhưng ngẫm chẳng gì cũng từng là huynh đệ tình thâm, lão không nỡ lòng
nặng lời. Thường Ninh thở dài, làm như tiếc hận lắm:
– Huynh đệ
chúng ta thương mến nhau biết mấy, tất cả chỉ tại lão già khốn kiếp ưa
thói thiên vị. Kể về tư chất thì rõ ràng tiểu đệ thông minh sáng láng
hơn hẳn, thế mà lão ta có mắt không tròng, khăng khăng truyền y bát cho
một tên béo xấu xí vừa dữ vừa ác.
Ngô Thường Thanh nhổ toẹt một cái:
– Khốn nạn, ngươi tâm địa bất chính, ỷ có tí tài cán trong tay là lừa
tiền lừa tình, truyền y bát cho ngươi mới là có mắt không tròng.
– Huynh sao thế nhỉ? Khám bệnh thu tiền là việc chính đáng, chữa trị vất
vả tiện thể kiếm dăm ba ả giải khuây cho bớt buồn chán cũng là lẽ đương
nhiên. Chi bằng tiểu đệ dẫn tiến vài ả tô hồng chuốt lục cho huynh, bảo
đảm sư huynh sẽ nguôi cơn giận, Ác Hoa Đà biến thành Tiếu Hoa Đà như
chơi.
Ngô Thường Thanh không phải dạng mồm mép, chưa biết khích
bác Thường Ninh bằng lý lẽ gì cho hắn biết đau biết nhục, đành chỉ tức
tối giậm chân thình thịch, lôi hết ông bà cha mẹ họ Thường ra mà chửi
bới. Thường Ninh chẳng để tâm, vẫn cười rinh rích:
– Mấy năm nay
sư huynh có Thiên Cơ cung chống lưng nên nghênh ngang quan dạng lắm, đã
mấy lần phái bọn chó săn đến gây khó dễ cho tiểu đệ. Tiểu đệ được quan
tâm quá mức như vậy nên cảm kích ghi khắc trong tim, không đời nào quên. Có điều, hết cơn bĩ cực tới tuần thái lai, bây giờ Đại Tống đã sụp đổ,
tiểu đệ theo hầu Thoát Hoan đại vương, tư thế khác hẳn khi trước, lũ giẻ rách ở Thiên Cơ cung thì đáng gì! Đệ những muốn đằng thằng tính vốn lẫn lãi suốt mấy chục năm qua với sư huynh, nhưng bản tính nhân hậu, lại
niệm tình cũ, chỉ cần sư huynh giao Thanh hạnh quyển ra là hai chúng ta
coi như chấm dứt mọi ân oán xưa nay.
Ngô Thường Thanh cả giận gạt phắt:
– Muốn lấy Thanh hạnh quyển ư? Con mẹ ngươi, ngủ mơ giữa ban ngày à?
Thường Ninh tái mặt, láo liên ngó quanh rồi dừng lại ở Hiểu Sương mà cười rằng:
– Chắc đây là sư điệt của ta? Hi, tuy hơi gầy yếu nhưng cũng yêu kiều khả ái. Yên tâm, sư thúc con rất yêu thương lớp hậu sinh, lát nữa sẽ tận
tình chăm sóc…
Ngô Thường Thanh mắng um lên:
– Câm ngay cái miệng chó của ngươi lại!
Thường Ninh cười ha hả, định chọc ghẹo thêm nữa, Lương Tiêu bèn lạnh lùng cắt ngang:
– Tên họ Thường kia, ngươi cứ cười đi, lát nữa lão tử sẽ chăm lo sao cho ngươi đau đớn đến khóc cha kêu mẹ.
Thường Ninh ngậm câm, đưa mắt cầu cứu Hạ Đà La, mặt như hóa đá. Hạ Đà La mỉm cười tiến lên một bước, hỏi to:
– Bình chương đại nhân khẩu khí khá lắm, chẳng hay quyền cước ra sao?
Lương Tiêu hừ mũi bước vào vòng đấu, Ngô Thường Thanh nóng nảy quát:
– Tiểu tử thối thây, ta bảo ngươi và con bé cút đi cơ mà!
Thường Ninh cười ha hả:
– Sư huynh bình tĩnh lại nào. Chúng ta hôm nay trùng phùng, cũng nên hòa thuận một chút!
Lão đánh mắt ra hiệu cho đồng bọn rồi lò dò đi lại gần Ngô Thường Thanh và
Hoa Hiểu Sương. Lương Tiêu lo cuống, vừa rồi gã nghĩ trăm phương ngàn
kế, nhưng vì đối thủ quá mạnh, mọi mưu kế đều không khả thi. Hạ Đà La
nhận ra ánh mắt gã hơi rối loạn, đoán hiểu tinh thần không yên, liền giơ song quyền tựa như sắp đấm, nhưng quyền đi nửa chừng, chân trái bất
chợt tung lên đá tạt nghiêng như cơn gió về phía Lương Tiêu.
Nhờ
chiết chiêu đều đặn với Thích Thiên Phong nên phản ứng của Lương Tiêu
bén nhạy lên rất nhiều, Hạ Đà La chưa đá tới nơi, gã đã lạng mình sang
phải, chạy thẳng đến chỗ Cáp Lý Tư. Hạ Đà La cũng phải bất ngờ về thân
pháp ấy: “Mấy tháng không gặp mà đã tấn tới rõ rệt!”.
Hạ Đà La
đoán rằng gã muốn kiềm chế Cáp Lý Tư để uy hiếp mình, bèn lắc người một
cái, biến mất, khi hiện thân trở lại thì đã đứng trước mặt Lương Tiêu,
tung liên hoàn ba quyền ba cước.
Lương Tiêu vẫn biết Hạ Đà La lợi hại, nhưng chưa va chạm với lộ thân pháp quỷ quái như thế bao giờ. Gã
đảo chân tránh được ba quyền hai cước, còn cước thứ ba không né nổi,
đành chém thẳng chưởng phải xuống chân hắn. Ngay tắp lự, một luồng nội
kình như rắn độc theo cạnh tay gã bò lên rồi luồn lách đi khắp các kinh
mạch trong cơ thể. Lương Tiêu ngạt thở, lướt ra xa một trượng, vận liền
ba lần nội lực mới hóa giải được thứ kình lực kỳ lạ đó. Không để cho gã
kịp thở, Hạ Đà La đã trườn tới, biến mất tăm sau động tác lắc mình, khi
hiện hình trở lại thì đã ở sát lưng Lương Tiêu, bắt đầu xoay tít quanh
gã theo chiều từ trái sang phải như con rắn cuốn mồi, đồng thời đánh
liền ba quyền.
Lương Tiêu né mình tránh được, tức tốc đánh trả
một chưởng, kình lực chạm nhau, nội kình lại như độc xà luồn lên kinh
mạch. Gã vội vàng đẩy nội công hóa giải, trong lúc ấy Hạ Đà La đã áp sát sau lưng, tung chân đá móc.
Lương Tiêu suýt nữa bị đá trúng,
kinh hãi nghĩ bụng: “Trước đây Công Dương tiên sinh có nói với ta về nội công Hỏa xà của tên này, nay được chứng kiến, quả thực danh bất hư
truyền. Còn lộ thân pháp nhanh nhẹn thế kia, chưa hiểu nguồn gốc ra
sao?”.
Thân pháp của Hạ Đà La tên là Hư không động, do một thuật
sĩ xứ Thiên Trúc sáng tạo ra. Nghe đồn Long Thụ thượng nhân, sư tổ phái
Mật tông vốn là thuật sĩ tà môn trước khi quy y cửa Phật. Thời trẻ, lão
cùng đồng bọn tu luyện thân pháp này để đột nhập hoàng cung, làm ô uế
chốn triều đình. Hư không động có thể chuyển hóa toàn bộ nguyên khí
trong cơ thể vào thân pháp, đến đi đều như cơn gió, khi chuyển động thì
mắt người thường cũng không thể theo kịp. Nhưng cũng vì duyên cớ ấy mà
khi chạy, các giác quan đều khép kín, ngưng hoạt động, thân thể yếu ớt,
không còn chút sức lực nào để ứng phó với các mũi tấn công từ bên ngoài. Vệ sĩ hoàng cung được cao nhân chỉ giáo nên đã tấn công vào nhược điểm
này, họ bịt mắt, chỉ dùng tai nhận tiếng gió để xác định vị trí rồi
phóng binh khí tập kích, giết hết đám thích khách. Long Thụ ứng phó
nhanh nên thoát được kiếp nạn. Sống sót trong khoảnh khắc ngàn cân treo
sợi tóc, lão ngộ ra đời người chỉ là mộng ảo, chẳng mấy chốc sẽ qua, bèn bước dần vào Không môn, tham ngộ Phật pháp, trở thành tông sư võ học
một thời.
Tổ tiên đời trước của Hạ Đà La làm nghề thương mãi,
thời trẻ từng mua bán hương liệu ở Thiên Trúc, tình cờ vớ được một pho
tượng Thấp bà bằng gỗ đàn hương, bên trong giấu bộ bí kíp Cổ Du già. Vị
tổ tiên ấy bèn luyện tập theo, khi tựu thành, bề ngoài vẫn duy trì việc
buôn bán, thực chất toàn dùng võ công để cướp bóc. Tới Hạ Đà La, sau khi tu luyện thành công Cổ Du già, hắn liền vào trung nguyên làm nhiều điều xằng bậy. Nào ngờ trước tiên chạm trán Tiêu Thiên Tuyệt, sau lại đụng
độ Cửu Như thiền sư, cả hai lần đều thua liểng xiểng, hắn căm phẫn chạy
về Tây Vực, tiếp tục khổ công rèn luyện.
Hạ Đà La nếm mật nằm gai cần cù tu tập suốt mấy chục năm, cuối cùng cũng luyện được Hư không
động tới mức rất cao mà các đời trước chưa ai đạt đến. Hắn hiểu Hư không động thần tốc có thừa nhưng biến hóa không đủ linh hoạt, từ động đến
tĩnh nhất định phải qua vài lần điều tức lấy hơi, chẳng may gặp tay cao
thủ chắc chắn sẽ bị họ lợi dụng sơ hở chế ngự, vì vậy hắn gia giảm một
số thay đổi, thứ nhất là biến khinh công đường dài thành di chuyển quãng ngắn cốt giảm bớt thời gian điều hòa hô hấp, thứ hai là phối hợp thi
triển cùng Hỏa xà. Hạ Đà La đã tính sẵn, kẻ nào trúng xà kình cũng lập
tức vận công hóa giải, nhân lúc đó hắn sẽ thi triển Hư không động để tập kích họ.
Lương Tiêu không biết tất cả những điều đó, đành dùng
bộ pháp ứng phó. Thập phương bộ của gã gói gọn sự rộng lớn của trời đất
vào một khoảng không gian hạn hẹp, khả năng biến hóa nhờ thế vô cùng
phong phú, đặc biệt lại kiến hiệu ở những chỗ vòng, chỗ ngoặt. Hư không
động tuy nhanh như cắt nhưng chỉ di chuyển tuyến thẳng, đổi hướng rất
bất tiện, vấp phải bộ pháp chữ chi như Thập phương bộ thì khác nào gặp
khắc tinh. Chính vì khả năng kiềm chế lẫn nhau của hai thứ thân pháp,
trong thời gian ngắn, Lương Tiêu và Hạ Đà La chưa thể phân tài cao hạ.
Minh Quy đứng bên quan sát, lòng không khỏi kinh hãi: “Lương tiểu tử luyện
được đến trình độ này tự bao giờ, mai sau khống chế hắn bằng cách nào
đây?”. Lão liếc quanh, ánh mắt chợt dừng lại ở Hoa Hiểu Sương.
Trong lúc Lương Tiêu bị Hạ Đà La cầm chân, Thường Ninh hô đồng bọn tản thành
hình rẻ quạt khép vòng vây lại gần Hiểu Sương và Ngô Thường Thanh. Họ
Ngô bèn bảo:
– Hiểu Sương, con nấp lại sau lưng ta đi!
Hiểu Sương y lời. Minh Quy bỗng cười ré lên, nhảy vút tới như chim ưng bắt
mồi, chộp thẳng vào mặt hai người. Ngô Thường Thanh dang hai tay phóng
ra mười mũi kim vàng. Minh Quy biến trảo thành chưởng, gạt phăng hết làn kim châm, Hỏa Chân Nhân và Cáp Lý Tư đồng thời chồm tới, một kẻ tát Ngô Thường Thanh, một kẻ chộp Hoa Hiểu Sương.
Ngô Thường Thanh tuy
giỏi y thuật nhưng võ công chỉ thường thường bậc trung. Thấy Hỏa Chân
Nhân quạt chưởng tới, lão xòe hai tay đón lấy, tức thì toàn thân nóng
ran, chệnh choạng ngồi phệt xuống. Hỏa Chân Nhân cười rộ, khum tay phải
chụp vào huyệt Thiên đột của Ngô Thường Thanh. Lúc này Cáp Lý Tư cũng đã xáp tới gần Hoa Hiểu Sương, hai tay cùng đẩy ra, điểm vào huyệt đạo của cô. Hắn tự phụ võ công mình chắc chắn chế ngự được cô gái ốm yếu này
nên cũng chẳng dồn mấy nả sức.
Hiểu Sương nhẹ nhàng múa song
chưởng, hai luồng kình phong như khói như sương quét qua bả vai Cáp Lý
Tư khiến cổ tay hắn tê dại. Tên này hiểu ra sai lầm của mình, bèn bỏ
ngay tâm thế khinh địch, thần tốc biến chiêu, thình lình một luồng kình
phong trút ào xuống lưng hắn. Cáp Lý Tư cảm thấy sống lưng đau như sắp
rạn, bèn loạng choạng thoái lui năm bước, lé mắt trông lại thì thấy một
bóng xanh nháng lên, Lương Tiêu đã tới.
Lương Tiêu xuất chưởng đả thương Cáp Lý Tư xong, tiếp tục tung cước trái đá xéo vào bẹn Hỏa Chân
Nhân. Tên đạo sĩ hự lên, ôm đùi giật lui. Minh Quy gầm vang, phóng
chưởng chém tới. Lương Tiêu hô khẽ, khuỳnh tay đỡ, lực đạo rất mạnh đổ
sang người Minh Quy, một cảm giác tê dại từ cánh tay lão chạy lan đi
toàn thân. Họ Minh lập tức bật người lộn một vòng ra xa, đáp xuống mà
ngực trĩu nặng như đá đè. Lương Tiêu mượn chưởng lực của Minh Quy xoay
tít mù, ngửa tay đón Đại nhật Như Lai ấn của A Than tôn giả. Thủ ấn va
phải hợp lực của Lương Tiêu và Minh Quy, hất A Than ngã văng đi xa đến
hơn một trượng, mặt cắt không còn hột máu.
Lương Tiêu dốc toàn
lực đánh bại liên tiếp bốn đại cao thủ, không khỏi chống chếnh trong
người, hơi thở gấp gáp, đầu óc váng vất. Đúng lúc ấy, Hạ Đà La lắc mình
tới sát phía sau, song chưởng uốn éo như rắn độc chuẩn bị mổ vào lưng
gã.
Hiểu Sương kinh hãi kêu lên: “Cẩn thận!”. Lương Tiêu không
ngoảnh đầu, túm ngay lấy Ngô Thường Thanh đẩy ra sau làm bia chắn. Hạ Đà La hoàn toàn bất ngờ, quýnh quáng thu thế, trừng mắt kinh ngạc nhìn
Lương Tiêu.
Thường Ninh nuốt nước bọt một cách khó nhọc, cười khan:
– Sao thế, Bình chương đại nhân bất chấp tính mạng của người mình cơ à?
Hiểu Sương trân trân nhìn Lương Tiêu, miệng he hé, quên cả gạn hỏi. Lương Tiêu cười nhạt:
– Lão tử bình sinh giết người vô số, hơi đâu phân biệt người của mình hay người của chúng nó! Các ngươi muốn Thanh hạnh quyển gì đó phải không?
Được lắm! – Gã giơ chưởng trái, dừng cách đỉnh đầu Ngô Thường Thanh ba
tấc.
Bọn kia đều tái mặt, nhớ ra rằng khi làm tướng Lương Tiêu đã tung hoành khắp nam cùng bắc, hành xử chẳng thiếu thủ đoạn nào, tàn sát không biết bao nhiêu nhân mạng. Vừa rồi chẳng nói chẳng rằng mà dám đưa Ngô Thường Thanh ra đỡ chưởng lực của Hạ Đà La, nay gã đã cảnh cáo sẽ
giết lão, e rằng cũng chẳng phải dọa suông. Bọn kia đều là hạng hám lợi
quên nghĩa, giỏi tật suy bụng ta ra bụng người, đều tin Lương Tiêu dám
nói dám làm, nhất thời chưa biết đối phó thế nào.
Hiểu Sương nhìn Lương Tiêu, đầu óc trống rỗng, không hiểu nổi nguyên cớ vì đâu gã thình lình trở mặt như vậy, nhưng vốn dút dát nên không dám oán trách Lương
Tiêu, chỉ biết đau lòng ứa lệ. Đang lúc cảnh vật trước mắt nhòe nhoẹt
còn tâm trạng thì đớn đau hoảng loạn, cô thấy Lương Tiêu tóm chặt cổ tay mình, rồi giọng gã vang lên lạnh lùng:
– Vì sự sống, ta chẳng từ bất cứ một thủ đoạn nào hết. Không ăn được thì đạp đổ, hễ có kẻ dám cản đường, ta sẽ lập tức thử đao với lão béo khốn kiếp này. Ta mà mất mạng, các ngươi cũng đừng hòng chạm tay vào Thanh hạnh quyển!
Hiểu
Sương chết điếng, nước mắt ròng ròng tuôn xuống, chẳng rõ bi thương hay
phẫn nộ. Cô muốn vùng ra, nhưng đã bị Lương Tiêu túm chặt kéo đi.
[1] Chỉ chồng mình (khiêm tốn ngữ thời xưa).
[2] Vị là con nhím.
[3] Trích Luận Ngữ.