Tháng Mười Một, Bắc Mạc đón trận tuyết lớn đầu tiên trong năm.
Thượng tướng quân Tắc Doãn vào cung, xin Bắc Mạc vương cho mình được từ quan.
“Sao lại đường đột như vậy?” Bắc Mạc vương không còn lòng dạ thưởng tuyết, quay phắt sang nhìn Tắc Doãn vẻ kinh ngạc.
Tắc Doãn nói: “Biên cương đã sạch bóng thù, Tắc Doãn cũng nên thực hiện lời hứa với Dương Phượng”.
“Không còn can dự chinh chiến, cùng ái thê ngắm cảnh non xanh nước biếc, sống một đời thư thái, đúng không? Quân tử nhất ngôn.” Bắc Mạc vương im lặng quay đi, lát sau mới nói: “Dương Phượng vẫn canh cánh trong lòng việc hai vương tử Đông Lâm bị hại sao?”.
Tắc Doãn thở dài, trầm giọng đáp: “Đại sự quốc gia đâu có chỗ cho lòng nhân từ của bậc nữ nhi, việc này không thể trách Đại vương”.
“Quả nhiên Dương Phượng vẫn còn canh cánh trong lòng, bao nhiêu tặng phẩm cũng chẳng so được với vị hảo hữu đó.” Bắc Mạc vương cười khổ, gật đầu: “Quả nhân còn biết nói gì đây? Thôi vậy, thôi vậy, Tắc Doãn thượng tướng quân hãy đi đi”.
Tại phủ thượng tướng quân Bắc Mạc, giữa trời tuyết trắng tấm hoành phi do đính thân Bắc Mạc vương chấp bút treo trên cánh cổng lớn được tháo xuống.
Việc Tắc Doãn từ quan, người trong phủ đã rỉ tai nhau từ nhiều ngày trước. Đám thị tòng đều là những thân tín theo Tắc Doãn bao nhiêu năm nay, chủ đâu tớ đấy là lẽ thường tình. Thế nên, khi tin tức được chính thức công bố, trong phủ vẫn hoàn toàn bình tĩnh, mọi người thầm hiểu ý nhau, ai nấy thu dọn đồ đạc gọn ghẽ, chuẩn bị rời khỏi Bắc Nha Lý.
Tuyết đã rơi liên tục bảy ngày nay. Chưa biết khi nào mới dừng lại. Trên con đường lớn ra vào Bắc Nha Lý, tuyết phủ trắng xóa, đoàn ngựa xe chậm rãi đi trong gió tuyết. Bánh xe lăn tròn, in hằn hai vệt dài mãi trên đường.
Trên chiếc xe ngựa hoa lệ nhất ở chính giữa, lò sưởi đang rất đượm. Dương Phượng cúi xuống nhìn bảo bối trong lòng mình. Đứa trẻ này sinh lực dồi dào giống hệt phụ thân, ru mãi mới chịu ngủ.
Dương Phượng nở nụ cười ngọt ngào, đặt hài nhi vào chiếc chăn nhung, khẽ ngáp một cái rồi ngồi dựa bên cửa sổ.
“Ngủ rồi à?” Tắc Doãn khẽ khàng nhòm vào, nín thở nhìn hài nhi đang say ngủ. Vốn xuất thân võ tướng, Tắc Doãn đã quen với việc múa kiếmvung đao, nay nhìn bảo bối yếu đuối non nớt nằm kia, cũng không dám bế vì sợ làm con đau. Lần đầu làm cha, hắn còn thấy khiếp vía hơn lần đầu ra sa trường.
Nhìn điệu bộ của phu quân, Dương Phượng bật cười, ngồi xích lại gần Tắc Doãn, chăm chú nhìn hài nhi, cưng nựng: “Chàng nhìn cái mũi, cả cái miệng nhỏ xíu của hài nhi kìa, đúng là một tiểu Tắc Doãn”.
“Khuôn mặt giống hệt mẫu thân.” Tắc Doãn vui sướng nói, “Hài nhi giống mẫu thân, sau này chắc chắn có tiền đồ. Dương Phượng, may mà có nàng”.
Dương Phượng bỗng giật mình: “May mà có thiếp làm sao?”.
“May mà có nàng, nếu không làm sao có được bảo bối đáng yêu thế này?”
“Chàng nói gì vậy?” Dương Phượng vừa giận vừa buồn cười, không muốn làm ồn đến hài nhi nên kéo áo Tắc Doãn. Hai người ngồi vào chiếc ghế ngang đặt đệm lông dày, Dương Phượng bỗng hạ giọng, “Phu quân có cảm thấy Dương Phượng quá tùy tiện không?”.
“Làm gì có chuyện đó?”
“Dương Phượng ép phu quân từ bỏ chức vị thượng tướng quân, rời khỏi Bắc Nha Lý đi ẩn cư. Tuyết vẫn chưa ngừng rơi, Khánh nhi vẫn chưa đầy tháng mà thiếp vẫn ép phu quân lên đường. Nay nghĩ lại, đúng là thiếp đã quá tùy tiện.”
Tiếng cười thấp trầm của Tắc Doãn vô cùng êm tai, bàn tay to bè ôm lấy khuôn mặt Dương Phượng, hói: “Tắc Doãn đâu phải hạng người có thể bị người khác bắt phải từ quan. Từ quan, rời khỏi Bắc Nha Lý là tâm nguyện của nàng. Đã là tâm nguyện của nàng, tất nhiên ta nên cam tâm tình nguyện giúp nàng thực hiện chứ”. Tắc Doãn hơi dừng lại, giọng nói trầm hơn đến vài phần, khẽ thở dài, “Huống hồ, ta biết nàng vì chuyện của Sính Đình mà cảm thấy bất an. Sống trong phủ thượng tướng quân liên tục nhận ban thưởng của Đại vương, càng khiến nàng như ngồi trên đống lửa”.
Nhắc đến Sính Đình, khuôn mặt Dương Phượng lộ vẻ âu sầu, hạ giọng: “Hôm qua thiếp lại mơ thấy Sính Đình, muội ấy đứng trước mặt thiếp, không cười, không nói. Thiếp giơ tay định chạm vào muội ấy thì bỗng như một cái bóng, không sao nắm bắt được. Tắc Doãn, chính thiếp đã khẩn cầu Sính Đình giúp Bắc Mạc nghĩ cách đối kháng Đông Lâm…”.
“Ta biết.” Tắc Doãn ôm Dương Phượng vào lòng, ánh mắt đau đớn, “Bắc Mạc ta lấy oán trả ơn, đổ cho Sính Đình tội mưu hại hai vương tử Đông Lâm. Ta thật không có mặt mũi nào mà gặp lại Sính Đình”.
“Bản thân Sính Đình cũng không muốn rửa nỗi oan này.” Dương Phượng buồn bã, “Từ lúc chàng thăm dò được nơi ẩn cư của Sở Bắc Tiệp, thiếp đã sai người đưa tới cho Sính Đình ba bức thư, muốn muội ấy nói rõ ràng mọi chuyện với Sở Bắc Tiệp, người ra độc kế hãm hại hai vương tử chính là Hà Hiệp, nhưng Sính Đình không trả lời thiếp”.
“Chắc Sính Đình đang bị giam lỏng nên không nhận được thư, có lẽ nào người của Sở Bắc Tiệp đã chặn lại toàn bộ thư từ?”
Dương Phượng lắc đầu: “Sở Bắc Tiệp đọc thì đã tốt. Nhưng, hiện tại vẫn không thấy quân Đông Lâm tăng cường truy bắt Hà Hiệp, chứng tỏ họ vẫn chưa biết chính Hà Hiệp đã làm việc này. Sở Bắc Tiệp là người cao ngạo, chắc không làm cái việc chặn hoặc đọc trộm thư của Sính Đình. Chỉ sợ Sính Đình chẳng chịu giải oan cho chính mình, vậy phải làm thế nào?”.
Hai hàng lông mày của Tắc Doãn chau lại, vẻ không hiểu: “Sính Đình đã biết Hà Hiệp thay đổi, sao vẫn cam tâm tình nguyện nhận tội thay hắn?”.
Dương Phượng như bỗng cảm thấy lạnh, bèn đổi tư thế ngồi trong lòng Tắc Doãn, lại càng nghe rõ hơn tiếng tim đập của phu quân, ánh mắt nhìn về phía hài nhi đang ngủ say, khẽ thở dài: “Thất vọng về một người là một chuyện, hận một người lại là chuyện khác. Sính Đình hiểu rõ, chỉ cần muội ấy nói ra chân tướng sự việc, Hà Hiệp sẽ trở thành kẻ thù số một của Đông Lâm, làm thế khác nào tự tay đẩy Hà Hiệp vào chỗ chết? Tình nghĩa mười lăm năm đâu dễ dứt”.
Giọng Dương Phượng ngày càng nhỏ dần, như gánh theo bao tâm sự nặng trĩu. Chần chừ hồi lâu, nàng nói tiếp: “Thiếp chỉ sợ Sính Đình một đời thông minh lại nhất thời hồ đồ, không những không chịu giải nỗi oan của mình với Sở Bắc Tiệp, mà còn dùng việc ấy để kiểm chứng tấm lòng của Sở Bắc Tiệp. Haizzz, trái tim nam nhi đâu dễ dàng kiểm chứng đến vậy?”.
Những lời của Dương Phượng chất đầy ai oán. Nàng sinh Khánh nhi chưa đầy tháng mà suốt ngày phiền não, Tắc Doãn sợ thê tử của mình mắc chứng hậu sản, bèn thương xót vỗ nhẹ vai nàng, khuyên nhủ: “Nàng đừng nghĩ nhiều, tuy từ quan về ở ẩn, nhưng ta vẫn còn chút ít năng lực. Nếu Sính Đình cần, chắc chắn chúng ta sẽ giúp được”.
“Hy vọng ông Trời phù hộ cho Sính Đình.” Dương Phượng chắp tay trước ngực, khấn thầm trong lòng.
Khi đoàn xe ngựa của Tắc Doãn đang chậm rãi tiến về phía trước trong gió tuyết, tại vương cung của Vân Thường quốc, pháo hoa rợp trời.
Trong cung giăng đầy lụa đỏ, thị nữ khoác trên mình những bộ y phục có màu sắc của ngày đại lễ, trên tay bưng đủ loại điểm tâm ra vào như mắc cửi. Tiếng nhạc trống hoan hỷ vượt qua tường cung, vang đến khắp ngõ ngách nơi thành đô, khiến dân chúng xôn xao bàn tán.
“Công chúa điện hạ sắp thành thân rồi!”
“Vân Thường chúng ta đã có phò mã rồi sao?”
“Công chúa phải tìm phò mã từ lâu rồi mới phải. Công chúa có giỏi giang đến đâu thì cũng là phận nữ nhi, không thể suốt ngày lo việc triều chính, nên phải tìm phò mã. Công chúa chỉ cần an tâm sinh một tiểu vương tử bụ bẫm là được.”
“Ha ha, nói thật có lý.”
“Xem ra, Công chúa của chúng ta thật biết kén chọn. Sau khi Đại vương băng hà, những người đến cầu hôn Công chúa đông đến nỗi làm đổ cả cổng lớn vương cung, nhưng Công chúa chẳng hề để mắt đến ai, chỉ chọn mỗi người này.”
“Đúng thế! Đúng thế! Không hổ là Công chúa điện hạ của Vân Thường chúng ta, nhãn quang thật không tồi. Có vị phò mã này, Vân Thường chúng ta chẳng phải sợ cái gì mà Sở Bắc Tiệp của Đông Lâm hay Tắc Doãn của Bắc Mạc nữa! Ha ha, chúng ta cạn cốc vì Công chúa và Phò mã nào!”
Rượu ngon thơm phức sánh cả ra ngoài.
Đi ngang qua đám thị nữ xiêm áo lộng lẫy như đàn ong bướm, Quý Thường Thanh mặc y phục và trang sức triều thần long trọng bước vào gian phòng hoa lệ quyền quý, yên tĩnh nhất ở sườn tây của vương cung.
Lục Y, thị nữ quyền lực nhất trong vương cung Vân Thường, đang đứng ở cửa dặn dò hai thị nữ khác: “Mang đai lưng loan phượng mạ vàng mấy hôm trước được tiến cống vào đây. Ngoài ra lấy thêm quả hồng khô bày ra hai đĩa màu đỏ, mỗi đĩa chín mươi chín lát hồng khô, nhớ kỹ, chín mươi chín lát, không được nhiều hơn cũng không được ít hơn. Ta đã nói rõ rồi, hôm nay là ngày đại hỷ của Công chúa, kẻ nào dám sai sót dù chỉ một chút, cứ cẩn thận cái chân của mình”.
Nói xong một hồi, Lục Y quay lại, thấy Quý Thường Thanh thì vội vàng cười nói: “Quý thừa tướng đến rồi, mời Thừa tướng vào trong. Công chúa đã mấy lần hỏi sao Thừa tướng vẫn chưa tới. Thừa tướng còn chưa tới, chắc Công chúa lại đích thân sai nô tỳ đi mời”.
Quý Thường Thanh cười điềm tĩnh bước vào trong phòng.
Căn phòng xông hương ấm áp. Ở đây, tiếng nhạc trống hoan hỷ ngoài kia chỉ còn là những dư âm mơ hồ. Sau tấm rèm buông, một dáng người gầy gò mảnh khảnh đang ngồi trước gương.
Quý Thường Thanh đứng trước rèm, chưa kịp lên tiếng, đã nghe giọng nói trong trẻo của Công chúa Diệu Thiên: “Mời Thừa tướng vào”.
Quý Thường Thanh vén rèm, bước vào đứng trước gương.
Công chúa trong gương xinh đẹp hơn ngày thường, đầu đội mũ phượng khảm đầy bảo thạch, trên mũ rũ xuống một hàng trân châu không ngừng lay động, nhưng vẫn không che nổi đôi mắt sáng lấp lánh của nàng.
Khẽ đặt chiếc bút kẻ mắt trong tay xuống, Công chúa nhìn lại mình trong gương, rồi hạ giọng cười hỏi: “Thừa tướng, Diệu Thiên trang điểm có đẹp không?”.
Quý Thường Thanh nhìn chăm chú người đối diện rồi gật đầu trả lời: “Đẹp lắm”, im lặng một hồi, dường như trong lòng vô cùng cảm khái mà thở dài một tiếng, “Cuối cùng Công chúa cũng sắp thành thân. Tiểu cô nương hay bắt các thị nữ trong vương cung đuổi bắt đến bở hơi tai đã sắp có phu quân. Thời gian trôi qua thật nhanh… Công chúa có vui không?”.
“Vừa vui vừa lo lắng.” Diệu Thiên ngắm nghía mình trong gương, “Khi còn sống mẫu thân từng nói, con gái xuất giá giống như thò tay vào một huyệt động tối om, không biết mình sẽ tìm được viên trân châu quý giá hay bắt phải con rắn độc chết người. Thừa tướng là đại thần trung thành nhất của vương tộc Vân Thường, sau khi phụ thân mất đi, nếu không có sự phò trợ của Thừa tướng, ta không thể quản lý nổi việc quốc gia triều chính. Hôm nay Diệu Thiên muốn hỏi Thừa tướng một câu, mong Thừa tướng đáp ứng sự thực”.
Quý Thường Thanh nghiêm túc trả lời: “Công chúa cứ hỏi”.
“Ta chọn Hà Hiệp, tất cả các đại thần và bách tính đều hồ hởi vui mừng, nhưng sao khi biết tin này, Thừa tướng lại mặt ủ mày chau?”
Không ngờ Diệu Thiên công chúa đột nhiên hỏi tới việc này, Quý Thường Thanh có chút ngạc nhiên, bèn sắp xếp lại suy nghĩ rồi trả lời: “Đại vương mất sớm, không có Vương tử, Công chúa là phận nữ nhi phải quản lý chuyện quốc gia triều chính. Tất cả mọi người đều hiểu, người được Công chúa chọn làm phò mã sẽ nắm giữ đại quyền của Vân Thường ta. Thế nên, thần luôn khuyên nhủ Công chúa phải thận trọng kén phu quân, không được để kẻ bất tài có cơ hội thâu tóm Vân Thường, khiến Vân Thường chịu họa diệt vong”.
“Hà Hiệp là kẻ bất tài sao?”
“Đúng là Công chúa rất có nhãn quang, Hà Hiệp bị Đại vương Quy Lạc Hà Túc hãm hại, đang cần một chốn an thân lập nghiệp. Tuy hiện giờ Hà Hiệp nhà tan cửa nát, nhưng xuất thân cao quý, lời nói cử chỉ phong độ phi phàm. Hơn nữa, Hà Hiệp và Sở Bắc Tiệp được gọi là lưỡng đại danh tướng đương thời, bậc nhân tài khó kiếm. Nay thời thế loạn lạc, các quốc gia đều cảm thấy bất an, cần có chiến tướng dũng mãnh. Lúc này Công chúa chọn Hà Hiệp làm phò mã, cũng có nghĩa là Công chúa xây cho Vân Thường ta một bức tượng đồng, thành sắt kiên cố. Chỉ là…” Quý Thường Thanh lắc đầu, trầm giọng, “Hà Hiệp rất có năng lực, rất có tham vọng. Muốn nắm giữ nam nhân này lâu dài không phải việc dễ dàng”.
Diệu Thiên công chúa cúi đầu suy nghĩ, lo lắng hỏi: “Đã vậy, sao ngày đó Thừa tướng không dâng tấu ngăn cản? Ta lúc nào cũng coi trọng ý kiến của Thừa tướng”.
“Nếu thần dâng tấu ngăn cản, liệu Công chúa có thay đổi quyết định?” Quý Thường Thanh cảm thán, “Thần làm quan đã hai mươi năm, chứng kiến Công chúa từ lúc sinh ra đến khi trưởng thành, chẳng lẽ thần còn không nhìn ra Công chúa đã xác định chắc chắn làm việc gì hay chưa?”.
Diệu Thiên công chúa mím môi nghĩ ngợi, rồi nở nụ cười, đáp: “Không hổ là thừa tướng, đúng là ta sẽ không thay đổi ý định của mình. Từ lúc Hà Hiệp bước vào vương cung, ta đã quyết định chỉ lấy người này. Nữ nhi nào cũng mong được gả cho một nam nhân anh dũng. Huống hồ anh hùng trên thế gian quá ít, khả ngộ bất khả cầu[1]”.
[1] Những thứ tốt đẹp chỉ có thể gặp gỡ, không thể cưỡng ép mà có được.
Nàng đứng dậy, trang sức trên người lúc lắc kêu vang.
“Có điều Thừa tướng nói rất đúng, muốn nắm giữ nam nhân này lâu dài, quả không phải việc dễ dàng.” Diệu Thiên quay lại nhìn Quý Thường Thanh, nở nụ cười ngây thơ nhưng không kém phần mưu trí, “Làm sao mới có thể nắm giữ con người và trái tim Hà Hiệp, sau này Thừa tướng phải dốc sức giúp ta”.
Quý Thường Thanh cúi người đáp: “Thần xin dốc hết tâm sức”.
“Tốt lắm.” Diệu Thiên bước ra cửa, nhìn về phía bên kia của vương cung, lẩm bẩm, “Tiếng nhạc đã gần. Hà Hiệp… chắc chàng đang tiến vào cổng chính cung điện”.
Ở một nơi xa xôi khác, trong vương cung Quy Lạc, Hà Túc đang nhìn sắc trời u ám, lặng im không nói.
Vương hậu từ phía sau bước lại gần, dò hỏi: “Xem xong bức thư vừa nãy, Đại vương bỗng mặt ủ mày chau, lại có tin tức gì không hay sao?”.
Hà Túc gật đầu: “Diệu Thiên công chúa của Vân Thường quốc đã đồng ý lời cầu hôn của Hà Hiệp, hôm nay chính là ngày đại lễ của họ”.
Vương hậu kinh ngạc đáp: “Diệu Thiên công chú lại chấp nhận gả cho một Hà Hiệp tay trắng ư? Sao có thể thiếu sáng suốt như vậy?”.
“Đây là một quyết định vô cùng sáng suốt.” Hà Túc trả lời, lạnh lùng nhìn Vương hậu, “Hà Hiệp không hề tay trắng, thứ có giá trị nhất của hắn chính là bản thân hắn. Trong thiên hạ, kẻ có của bên người rất nhiều, nhưng có ‘của trên thân’ mới là hiếm. Diệu Thiên công chúa đã nhìn trúng điểm này”.
Mơ hồ nghe ra ý trách của Hà Túc, Vương hậu ngượng ngùng cúi đầu, khẽ đáp: “Đại vương trong lòng phiền muộn, hay thần thiếp đàn một bản để Đại vương nghe”.
“Không cần.” Hà Túc bước ra ngoài điện, nhìn về phía vương phủ Kính An, lẩm bẩm, “Quả nhân đã làm điều gì sai sao? Quy Lạc lưỡng cầm nổi danh thiên hạ giờ đều không thuộc về Quy Lạc nữa rồi”.
Khi trước Dương Phượng trốn đi chính vì Vương hậu nghe lời dèm pha nên gây khó dễ cho nàng. Nghe Hà Túc nhắc vậy, trong lòng Vương hậu thoáng run rẩy, khẽ đáp: “Đó là vì sự ngu dốt của thần thiếp, thần thiếp xin chịu trừng phạt”. Nói xong, Vương hậu nhấc váy, khiếp sợ cúi đầu quỳ xuống.
Hà Túc im lặng hồi lâu, như nghĩ ra điều gì, bỗng cười ha ha.
“Vương hậu đứng dậy đi.” Hà Túc quay lại, đỡ Vương hậu đứng lên, thản nhiên đáp, “Dương Phượng tuy có tài đàn xuất chúng, nhưng cũng chỉ là một nữ tử trong hậu cung, luận về kiến thức mưu lược thì thua xa Bạch Sính Đình. Quả nhân mất đi Dương Phượng có đáng gì. Còn Hà Hiệp chỉ vì chút lợi ích cỏn con trước mắt mà đánh mất Sính Đình mới thật là một quyết định ngu muội. Sau này chắc chắn hắn sẽ phải trả giá rất đắt”.
Vương hậu nghi ngờ: “Bạch Sính Đình lợi hại thế sao?”.
“Vương hậu đã gặp Bạch Sính Đình chưa?”
Vương hậu suy nghĩ giây lát: “Nàng ta rất ít khi vào cung nên thần thiếp mới chỉ gặp một, hai lần. Nàng ta không thích nói chuyện, dung mạo cũng bình thường”.
“Bạch Sính Đình tuy không phải một mỹ nhân, nhưng lại có một ma lực khiến người ta chỉ muốn giữ nàng bên cạnh, mãi mãi chiếm hữu.” Hà Túc nhìn Vương hậu, khóe môi thoáng nét cười, “Thiên hạ này có vô khối nữ nhân dựa vào sắc đẹp khiến nam nhân động lòng, muốn có một đêm hoan hỷ, nhưng liệu được có mấy người khiến nam nhân có ý nghĩ ‘mãi mãi chiếm hữu’?”.
“Nhưng chẳng phải chính Hà Hiệp đã vứt bỏ nàng ta hay sao?”
“Hà Hiệp sẽ hối hận, có khi đã hối hận rồi. Nhưng hối hận thì còn tác dụng gì?” Hà Túc lim dim mắt, một tia lạnh lẽo thoáng qua, “Quả nhân sẽ không để hắn dễ dàng có được Bạch Sính Đình”.
Sau khi dùng cơm, Hà Túc ở lại trong điện xử lý quốc sự.
Vương hậu cáo lui. Đến một góc hành lang, Vương hậu dừng bước, lấy ống tay áo lau nước mắt.
Nhũ mẫu của Vương hậu theo sau, thất kinh hỏi: “Vương hậu sao thế?”.
“Đại vương động lòng rồi.”
“Ai?”
“Bạch Sính Đình, vương phủ Kính An.”
Nhũ mẫu im lặng hồi lâu.
Khi hạ lệnh diệt trừ vương phủ Kính An, ngày mật chiếu Hà Hiệp và Bạch Sính Đình vào cung, Đại vương từng có nghiêm chỉ, nếu đám người kia của vương phủ Kính An có bất cứ động tĩnh gì, hãy lập tức loại bỏ, trừ một người.
Một người phải bắt sống, không được để bị thương.
Đó chính là Bạch Sính Đình của vương phủ Kính An.
Đêm động phòng hoa chúc, hai má tân nương ửng đỏ.
Tấm khăn màu đỏ phủ trên đầu nhè nhẹ rơi xuống, hai mắt Công chúa ngước lên, thấy bóng người tuấn tú ngay trong tầm mắt.
Vị công tử quý tộc bậc nhất nhì trong tứ quốc, tiểu Kính An vương uy danh hiển hách đang đứng trước mặt nàng.
“Công chúa.”
“Phò mã.”
Hai tiếng gọi khẽ tựa hồ không nghe rõ, chỉ có ánh mắt gặp nhau, trái tim đã hoàn toàn loạn nhịp.
Hà Hiệp cởi bỏ dải lụa hoa trước ngực, rồi đưa tay đỡ mũ phượng trên đầu Diệu Thiên công chúa, cười cảm thán: “Không ngờ Hà Hiệp lưu lạc bốn phương, chẳng ai dám giữ, nay lại may mắn được Công chúa coi trọng, đúng là Trời không bạc đãi ta”. Nụ cười vụt tắt, Hà Hiệp chăm chú nhìn khuôn mặt điềm tĩnh của Diệu Thiên, dịu giọng, “Công chúa có chút đăm chiêu, dường như đang có tâm sự?”.
Diệu Thiên thất thần mỉm cười, đáp: “Thiếp chỉ đang nghĩ, nếu vương phủ Kính An không gặp biến cố, không biết Diệu Thiên còn có phúc phận được làm thê tử của phu quân?”. Sóng mắt lay động, nàng dừng bên tấm rèm buông trước giường, khẽ thở dài, “Đêm động phòng hoa chúc, nam nhân đứng trước mặt thiếp, nam nhân sẽ chung sống với thiếp cả đời là một trang văn võ song toàn, một bậc anh hùng cái thế. Cảnh này, người này đẹp tựa trong mộng, chỉ lo đây là giấc mộng đẹp mà thôi”.
Hà Hiệp chau mày, đáp: “Sao Công chúa lại nói những lời này, lẽ nào nàng không tin vào tấm lòng của Hà Hiệp?”.
“Thiếp lỡ lời rồi.” Diệu Thiên công chúa quay lại, nở nụ cười ngọt ngào với Hà Hiệp, “Nếu không tin tưởng phu quân, thiếp sao dám hứa trước các thần dân rằng đời này kiếp này thiếp sẽ ở bên phu quân?”.
Đôi mắt lấp lánh ánh sao của Hà Hiệp nhìn chăm chăm Diệu Thiên, tựa như hai hồ nước sâu thẳm đầy ma lực đang muốn hút Diệu Thiên xuống tận cùng sâu thẳm. Hà Hiệp bất chợt quỳ một gối xuống, nâng niu đôi bàn tay mềm mại của nàng, rồi ngẩng đầu nói: “Công chúa yên tâm, Hà Hiệp đời này kiếp này không bao giờ phụ bạc nàng. Hà Hiệp xin thề với trời, sẽ có một ngày, ta biến Công chúa thành nữ nhân tôn quý nhất thế gian, ta sẽ tự tay đội mũ phượng Hoàng hậu tứ quốc lên đầu Công chúa”.
Đôi mắt Diệu Thiên công chúa sáng hẳn lên, vui vẻ: “Phu quân thật có chí hướng xa vời như vậy sao?”.
Hà Hiệp cười vang: “Cuộc đời ngắn ngủi, không lập được đại nghiệp thì sao xứng với công sinh thành dưỡng dục của phụ mẫu?”.
Nghe tiếng cười tràn đầy tự tin, hào sảng hơn người của phu quân, Diệu Thiên công chúa trong lòng càng vui mừng, dịu dàng hỏi: “Phu quân đắc chí như vậy, chắc trong lòng đã có đại kế thống nhất tứ quốc”.
Hà Hiệp không cười nữa, suy nghĩ một lát, rồi đáp: “Việc đầu tiên cần làm, đương nhiên là khiến kẻ địch mạnh nhất của đời ta là Sở Bắc Tiệp không thể tiếp tục dốc sức vì Đông Lâm”.
Vốn quản lý việc triều chính đã lâu, Diệu Thiên công chúa nắm rõ các bậc quyền quý của từng quốc gia, nên lập tức tiếp lời: “Sở Bắc Tiệp đã quy ẩn sơn lâm, không màng chính sự, nhưng nếu Đông Lâm xảy ra biến cố, Sở Bắc Tiệp chắc chắn sẽ lập tức xuống núi. Phu quân có cách nào để cắt đứt quan hệ huyết thống của Sở Bắc Tiệp với vương triều Đông Lâm?”.
Thầm khen nữ tử này thông minh, hiểu rõ tình hình tứ quốc, Hà Hiệp tán thưởng nhìn nàng, rồi ôm lấy vòng eo nhỏ, đỡ nàng đứng dậy, cùng nhìn lên vầng trăng treo ngoài cửa sổ.
“Có một việc sẽ khiến Sở Bắc Tiệp đoạn tuyệt với vương tộc Đông Lâm. Cho dù Đông Lâm xảy ra cơ sự gì, Sở Bắc Tiệp cũng vẫn khoanh tay đứng nhìn.”
Diệu Thiên công chúa chau mày nghĩ ngợi hồi lâu, rồi lắc đầu nói: “Thiếp thực không thể nghĩ ra có việc gì lại khiến Sở Bắc Tiệp từ bỏ gia tộc của mình…”. Đôi mắt thông tuệ ngước nhìn Hà Hiệp, tìm kiếm câu trả lời.
Khuôn mặt anh tuấn thoáng tia do dự, Hà Hiệp ngước nhìn trăng trên trời, ngẩn người hồi lâu, bỗng như chợt nhớ ra vẫn chưa trả lời câu hỏi của Diệu Thiên công chúa, khẽ thở dài, trầm giọng đáp: “Đó là, vương tộc Đông Lâm khiến Sở Bắc Tiệp mãi mãi mất đi nữ nhân thân yêu nhất trong lòng mình”.
“Nữ nhân thân yêu nhất của Sở Bắc Tiệp là ai?”
“Nàng ấy là…” Hà Hiệp khó khăn mở lời, mãi sau mới thốt ra được ba chữ quen thuộc, “Bạch Sính Đình”.
Công chúa Diệu Thiên sững sờ, khẽ mím môi.
Sính Đình, Bạch Sính Đình.
Đại tổng quản thực sự của vương phủ Kính An, thị nữ thân cận nhất của Hà Hiệp.
Tương truyền rằng, kẻ tạo ra khế ước năm năm Đông Lâm không xâm phạm Quy Lạc chính là Bạch Sính Đình.
Tương truyền rằng, nữ tử đang bị Sở Bắc Tiệp ôm hận giam cầm, cũng chính là Bạch Sính Đình.
Rốt cuộc, Bạch Sính Đình là nữ nhân như thế nào?
Bạch Sính Đình là một nữ nhân như thế nào, ngay cả Sở Bắc Tiệp cũng không thể trả lời câu hỏi này.
Sở Bắc Tiệp ngồi dậy, quay đầu, ánh mắt không hề dịch chuyển.
Ánh mặt trời buổi sớm đang cố gắng thoát khỏi đám mây đen bao phủ, vương trên mái tóc đen xõa của nàng. Khuôn mặt say ngủ không hề phòng bị, khóe môi thoáng nét cười ngọt ngào.
Mộng đẹp sao? Bất giác, Sở Bắc Tiệp cúi xuống gần nàng.
Chàng đối với nàng không tốt, chàng biết rõ điều đó.
Trong chái nhà phía tây, đối mặt nhau suốt tám tháng, chàng đêm đêm cưỡng bức, triền miên như người mất hồn mà chưa một lần đối tốt với nàng.
Sao nàng vẫn có mộng đẹp? Sở Bắc Tiệp không hiểu.
Chàng cúi xuống gần hơn một chút, muốn nhìn rõ nét cười nơi khóe môi nàng. Hơi thở của chàng khiến những sợi tóc của nàng khẽ lay động.
Thấy hàng mi dày khẽ động, Sở Bắc Tiệp vội lùi ra xa, bước xuống giường.
Sính Đình mở mắt, thấy bóng dáng của Sở Bắc Tiệp, bèn nhổm dậy, khẽ hỏi: “Vương gia tỉnh rồi sao?”.
Cái bóng, mãi mãi chỉ là cái bóng.
Ân ái đêm qua chỉ như bóng mây qua mắt, sau khi tỉnh mộng, chẳng còn chút vấn vương.
Nàng nhìn theo Sở Bắc Tiệp im lặng rời đi giống như mọi ngày, lưng thẳng đứng, lòng gang dạ sắt.
Tám tháng, lại đến mùa tuyết rơi, mà mùa xuân vẫn mãi nơi đâu.
“Cô nương tỉnh rồi sao?” Hồng Tường chuyên hầu hạ nàng bưng vào một chậu đồng đầy nước nóng, đặt lên bàn, xoa tay nói: “Hôm nay lạnh quá, trời chưa sáng mà tuyết đã rơi đầy. Tuyết không quá dày nhưng vẫn lạnh thấu xương. Tranh thủ nước còn nóng, cô nương rửa mặt rồi chải đầu đi”.
Nói rồi, Hồng Tường đỡ Sính Đình dậy, thấy đôi mày nàng khẽ chau thì vội hỏi: “Sao thế, cô nương khó chịu ở đâu ư?”.
Sính Đình ngồi bên giường, nhắm mắt dưỡng thần một lúc, rồi mở mắt ra, lắc đầu bảo: “Không sao, dậy vội quá, không biết bị trẹo người chỗ nào”.
Nước rất ấm.
Nước bốc hơi nghi ngút trong chiếc chậu đồng nhẵn bóng. Mười ngón tay thon nhỏ của nàng từ từ ngâm vào nước, cảm nhận độ ấm hoàn toàn khác nhau.
Hồng Tường nhìn chằm chằm vào mười ngón tay ấy, khẽ khen: “Bàn tay cô nương đẹp quá”.
“Đẹp à?”, Sính Đình hỏi.
“Đẹp.”
Sính Đình rút bàn tay ra khỏi nước, Hồng Tường lấy khăn bông màu trắng thấm nước, lau thật khẽ. Từng ngón tay búp măng, mềm mại, đẹp đến cả đầu móng tay.
Sính Đình cười: “Đẹp mà làm gì? Đôi bàn tay này không thể chơi đàn được nữa rồi”.
“Tại sao?”. Hồng Tường hiếu kỳ.
Dường như không có hứng nói chuyện, Sính Đình quay đi, nhìn bầu không khí giá lạnh ngoài cửa sổ.
Hầu hạ Sính Đình đã hơn một tháng nay, Hồng Tường cũng hiểu tính tình của nàng. Lúc này biết mình nhiều chuyện, nên Hồng Tường chẳng tiện hỏi thêm, chỉ lặng lẽ thu dọn đồ đạc, rồi bê chậu đồng ra khỏi chái nhà phía tây.
Hồng Tường vừa bước chân ra khỏi cửa, khoảnh khắc quay lại đóng cửa, giọng nói nhẹ nhàng từ trong phòng vọng ra.
“Ta… ta không có đàn.”
Tiếng nói tựa làn khói, dễ dàng bị gió thổi bay, chỉ còn lại chút dư âm quẩn quanh bên tai.
Đàn được đem đến rất nhanh.
Chưa tới buổi trưa, một cây đàn cổ đã được đặt trên bàn.
Tuy đàn không phải làm bằng gỗ ngô đồng, nhưng trong nửa ngày ở nơi heo hút thế này vẫn có thể tìm được, cũng là một việc khó khăn.
Sính Đình giơ tay mân mê cây đàn. Nàng dịu dàng xót thương vỗ về, dường như đó không phải cây đàn mà là một chú mèo nhỏ vừa qua cơn hoảng sợ, cần đến sự an ủi của nàng.
Hồng Tường lại bước vào: “Cô nương lại có thể đánh đàn rồi chứ?”.
Sính Đình lắc đầu.
Hồng Tường đáp: “Chẳng phải có đàn rồi sao?”.
Nụ cười khẽ thoáng qua làn môi hồng, Sính Đình lắc đầu, tâm hồn vẫn để đâu đâu: “Có đàn thì sao? Không có người nghe chẳng phải phí công ư?”.
“Nô tỳ nghe.”
“Ngươi?” Sính Đình quay lại, mỉm cười, “Ngươi nghe có hiểu được không?”.
Hồng Tường chưa kịp chán nản, Sính Đình đã cười dịu dàng: “Cũng đành, cứ coi như ngươi hiểu vậy”.
Rút tay, châm hương.
Khói trắng phiêu bồng bay giữa không trung, dịu dàng không nói thành lời, thoang thoảng len lỏi vào mũi người ta.
Ngồi ngay ngắn, tập trung tinh thần.
Căng dây…
Một âm nhẹ ngân. Từ nơi những dây đàn rung động, âm thanh vô hình cất cánh, khoe dáng điệu tuyệt mỹ, khoan khoái vút bay lên trời cao.
“Có loạn thế, mới có anh hùng; có anh hùng, mới có giai nhân. Hỗn loạn làm sao, hỗn loạn làm sao…”
Nàng hát hết gan ruột, gảy rung các dây đàn.
Chớ luận anh hùng, chớ luận giai nhân.
Đôi lứa này chỉ là kẻ si tình gặp kẻ si tình. Nàng biết chứ.
“Có mê binh quyền, mới được thành danh; đã thành danh, không ngại dối lừa. Dùng binh không ngại dối lừa, không ngại dối lừa…”
Nàng hát, ngón tay thon nhỏ, nhưng vững tựa Thái Sơn.
Tay chạm dây đàn, nàng tựa hồ như đang trở lại cầu treo Vân Nha hiểm ác trong mây mù, nàng dựa vào lòng Sở Bắc Tiệp, nói cả đời không bao giờ phụ bạc, mà dưới chân là vực sâu vạn trượng.
Dùng binh không ngại dối lừa, còn tình thì sao?
Ba bức thư Dương Phượng ở xa ngàn dặm gửi tới, nàng đều xé ra trăm mảnh, đốt thành tro bay đầy trời.
Giải thích rõ ràng.
Giải thích thế nào?
Nàng không thể tự tay chôn vùi huyết mạch của vương phủ Kính An.
Nàng càng không muốn tin rằng, tình yêu của Sở Bắc Tiệp với nàng lại không chống chọi nổi sự lừa gạt kín kẽ.
Nếu thật sự có tình ý, sao không thể vượt qua hai chữ “dối lừa”?
Nếu tình cảm sâu đậm, sẽ phải tin đến cùng, yêu đến cùng, dù con tạo xoay vần, cũng chẳng đổi thay ý nguyện thuở ban đầu.
“Có yến bay, mới có tình cảm; có tình cảm, mới thành tương tư; vừa gặp đã vui, vừa gặp đã vui…”
Khéo léo trải lòng, nói rõ oan khuất, là cách làm thông minh nhất.
Lấy lòng thử lòng, vọng tưởng ái ân có thể giải hận thù, là cách làm hồ đồ nhất.
Sính Đình say sưa gảy đàn, miệng nhoẻn cười.
Nữ nhân mong cầu tình yêu, không từ bất cứ thủ đoạn nào.
Nàng thông minh một đời, hồ đồ một lần đã là gì.
Thanh âm cuối cùng lướt trong không trung, lưu luyến quấn quanh trên xà nhà, run rẩy và yếu ớt. Sính Đình ngẩng lên, thấy Hồng Tường như ngây như say, hai hàng lệ rơi trên gò má.
“Nha đầu ngốc, có gì đáng khóc chứ?”, Sính Đình không kìm được bật cười.
Hồng Tường lau nước mắt, oán trách: “Đều tại cô nương không tốt, đàn một khúc thê lương đến vậy mà lại trách nô tỳ”.
Sính Đình nhăn mũi, dáng vẻ của một tiểu nữ, xuýt xoa: “Rõ một khúc nhạc hay, ngươi nghe thế nào lại thành thê lương?”.
Đàn xong, đang định sai Hồng Tường cất đàn đi, Mạc Nhiên bỗng bước vào, cất lời: “Vương gia nói cô nương đàn xong thì đem đàn qua trả, khi nào muốn đàn phải qua mượn”.
Đôi mắt lanh lợi của Sính Đình khẽ động, định nói gì lại thôi, nàng chậm rãi gật đầu: “Cũng tốt”. Bảo Mạc Nhiên mang đàn đi, Sính Đình ra bàn, bưng chén trà lên định uống.
Hồng Tường vội ngăn lại: “Trà nguội rồi, cô nương đừng uống, để nô tỳ rót chén khác.” Nói xong, Hồng Tường tiến lên định lấy chén trà.
Sính Đình vẫn mặc kệ, đáp: “Ta vừa gảy đàn xong, cả người nóng khát, uống trà lạnh càng tốt”. Rồi không đợi Hồng Tường đến gần, nàng đã mở nắp chén, uống một hơi cạn sạch chỗ trà lạnh bên trong. Mạc Nhiên đang ôm đàn ra, định ngăn cản nhưng cũng không kịp.
Tiết trời ngày càng giá buốt, trà lạnh như nước băng. Từ sau khi vương phủ Kính An loạn lạc, Sính Đình lưu lạc khắp nơi, thân thể đã suy nhược, nay uống chén trà lạnh băng vào cổ họng, nàng bỗng cảm thấy lồng ngực cứng đờ, trong chốc lát không nói nổi thành lời.
Thấy sắc mặt nàng khác lạ, Hồng Tường vội nói: “Thật là, cô nương lạnh quá phải không?”.
Hồng Tường vội vàng định đi lấy nước nóng, nhưng bị Sính Đình ngăn lại: “Không sao, ta sặc chút thôi”. Ngẩng đầu nhìn lên, thấy Mạc Nhiên vẫn đang ôm đàn đứng đó, nàng lại hỏi: “Sao còn đứng đó? Mau về đi. Muộn rồi, Vương gia sẽ nổi giận”.
Mạc Nhiên dạ một tiếng, rồi ôm đàn bước ra cửa, nhưng không đi về phía thư phòng mà đến cuối hành lang thì ngoặt qua chỗ khác. Nơi đây chính là phía sau bức tường gian phòng của Sính Đình. Sở Bắc Tiệp khoác áo lông chồn, mặt tái xanh đứng đó.
“Vương gia, mang đàn về rồi.”
Sở Bắc Tiệp liếc mắt qua cây đàn, chau mày hỏi: “Nàng thế nào?”.
“Sắc mặt hơi nhợt nhạt.”
“Làm càn!” Sắc mặt Sở Bắc Tiệp sa sầm, “Nếu muốn giải sầu thì đàn mấy khúc vui vui cũng được, ai bảo chọn khúc ca nặng nề hao tâm tổn sức đến vậy”. Nói xong chàng khẽ hừ một tiếng.
Lúc này Mạc Nhiên mới hiểu, câu “Làm càn!” kia không phải dành cho mình, mà nói Sính Đình, bèn thầm thở phào một tiếng, lại nghe Sở Bắc Tiệp dặn dò: “Tìm một đại phu bắt mạch cho nàng”.
“Vâng”, Mạc Nhiên cúi đầu nhận lệnh.
Tâm tình của Sở Bắc Tiệp có vẻ rất không vui, hai đầu lông mày cau lại: “Uống chén trà lạnh to như thế, ai chịu cho được? Ngươi nói với Hồng Tường, hầu hạ nàng cho cẩn thận, không được tái phạm”.
Mạc Nhiên lại vâng, lén ngẩng đầu nhìn trộm Sở Bắc Tiệp, vẫn khuôn mặt sầm sì. Chỉ cần gặp Bạch Sính Đình, tính tình Vương gia sẽ vô cùng thất thường, rất khó nắm bắt.
Tiếng đàn như âm thanh của trời đất kia chỉ vang lên một lần đó, rồi không còn nghe thấy nữa.
Buổi chiều, Sở Bắc Tiệp vẫn trở về thư phòng. Thực ra, cũng không phải chàng ở trong thư phòng mà thường đi dạo phía sau gian phòng của Sính Đình. Xử lý công vụ chỉ là nói cho qua, nay Sở Bắc Tiệp còn đâu công vụ để xử lý? Chất gỗ dùng để xây dựng tiểu viện này kém hơn rất nhiều so với gỗ thường dùng trong vương cung, âm thanh trong phòng vọng cả ra ngoài, Khi Sính Đình hát, dù rất khẽ, tiếng hát vẫn đủ sức bay ra ngoài, khiến Sở Bắc Tiệp nghe mà lòng như mê như say.
Tuy như mê như say, nhưng tuyệt không thể thực sự say mê.
Nếu thật sự mê rồi, chàng sẽ không do dự mà vòng qua bức tường, bước vào trong phòng ấy, ôm chặt lấy người đang hát kia, ân ân ái ái.
Sở Bắc Tiệp không làm thế. Chàng chỉ đứng bên ngoài, nghe tiếng ca như vô ưu vô lo của nàng, nghe nàng chuyện trò với Hồng Tường, chuyện trò với gió, với cỏ, và với cả những nụ hoa chưa hé nở.
Tám tháng, tám tháng dài nhất, đau khổ nhất trong cuộc đời Sở Bắc Tiệp.
Trước đó, Sở Bắc Tiệp từng hứa rằng, khi mùa xuân hoa nở, chàng sẽ hái hoa cài lên mái tóc nàng.
Mùa xuân, khi nào mới đến?
Đêm, Sở Bắc Tiệp vẫn vào phòng Sính Đình, vẫn chiếm đoạt mãnh liệt, lạnh lùng không cảm xúc.
“Vương gia…” Trong bóng tối, Sính Đình nhìn ra màn đêm ngoài cửa sổ, bầu trời không trăng không sao, băng giá đến vắng lặng, khẽ hỏi: “Ngày mai tuyết còn rơi không?”.
Sở Bắc Tiệp ôm nàng, như đã ngủ.
Nàng biết, chàng chưa ngủ.
Chàng biết, nàng biết mình chưa ngủ.
Ngoài lãnh đạm, chàng không biết phải trừng phạt nữ nhân trong lòng mình như thế nào, cũng chẳng biết nên trừng phạt bản thân ra sao nữa.
“Mai là sinh thần của thiếp.” Sính Đình nói khẽ bên tai Sở Bắc Tiệp, “Vương gia có thể ở bên thiếp không? Ngày mai sẽ có tuyết, hãy cho thiếp được đàn vì Vương gia, cùng Vương gia thưởng tuyết…”
Không thể chịu đựng thêm, Sở Bắc Tiệp mở choàng hai mắt, ôm Sính Đình thật chặt, khiến nàng kêu lên một tiếng.
Đừng nói nữa, đừng nói nữa.
Sinh thần thì sao?
Sính Đình, ta chỉ có thể yêu nàng trong đêm tối. Trước càn khôn sáng tỏ, có huynh trưởng mà ta kính yêu và linh hồn hai hài nhi của huynh ấy.
Sáng sớm, Sở Bắc Tiệp lại rời đi, Sính Đình nhìn theo bóng chàng, cắn môi không nói.
Sắc trời dần chuyển từ mờ sang tỏ, ngày ngắn đêm dài, mây đen bao phủ, trĩu nặng đè xuống trần gian, giá lạnh đến kinh người.
“Chắc tuyết lại rơi rồi”, Hồng Tường nói mà hơi phát ra trắng xóa.
Sính Đình ngồi bên cửa sổ, giơ tay ra, rồi quay lại nói với Hồng Tường: “Nhìn này”. Trong lòng bàn tay nàng xuất hiện một bông tuyết mỏng manh.
“Tuyết rơi rồi.”
Ban đầu chỉ là những cánh tuyết mỏng manh bé nhỏ, về sau, gió càng lúc càng mạnh, tuyết bay đầy không gian. Bầu trời tối om, tựa hồ đã chán ghét vầng thái dương mà đem giấu tít vào tận sâu sau muôn vàn lớp mây đen.
Đồng hồ cát đang chảy dần từng giọt, Sính Đình lặng lẽ đếm…
Hôm nay là sinh thần của nàng, ba canh giờ đã trôi qua vô nghĩa.
Có phải nàng sinh ra vào một ngày tuyết rơi rợp trời? Đó chỉ là suy đoán của nàng. Đúng hơn thì, đó là suy đoán của Vương phi. Bạch Sính Đình sinh vào giờ nào, ngày nào, câu hỏi ấy chắc chỉ bậc sinh thành mà nàng chưa từng gặp mặt có thể trả lời.
Sính Đình vẫn nhớ, cái ngày đưa nàng về phủ, Vương phi đã khen nàng: “Thông minh, thanh khiết, chắc chắn là một em bé tuyết chuyển thế vào một ngày tuyết trắng trời”. Thế là, Vương phi chọn một ngày tuyết phủ trắng xóa làm sinh thần cho nàng.
Nàng thích tuyết, mỗi năm vào dịp sinh thần của nàng, cả vương phủ lại nhộn nhịp hẳn lên. Hà Hiệp sẽ rủ một đám công tử quý tộc đến uống rượu, Vương tử Hà Túc cũng chẳng ngoại lệ, khi đám người uống còn chưa say, sẽ cao hứng khẩn cầu: “Sính Đình, ra đánh đàn đi, đàn một khúc thôi!”.
Lúc nào cũng nhanh nhẹn nhất, Đông Chước đã kịp mang đàn ra, sắp xếp đâu vào đấy rồi kéo Sính Đình ngồi xuống. Sính Đình cười đến đau cả bụng, mãi mới tĩnh tâm mà chạm vào dây đàn. Khi tiếng đàn cất lên, đám người ồn ào bỗng im bặt, kẻ đứng người ngồi, vừa nghe đàn vừa thưởng tuyết. Hết một khúc, sau lưng sẽ vang lên tiếng vỗ tay theo nhịp khác hẳn mọi người, Sính Đình vui mừng quay lại, reo vui: “Dương Phượng, không được lười biếng đâu đấy, hôm nay là sinh thần của muội, tỷ nghe một khúc của muội, phải trả lại muội mười khúc”.
Sính Đình ngẩn ngơ cười, rồi ngẩn ngơ thu lại nụ cười.
Tuyết bay đầy trời, thế sự tang thương.
Nỗi cô đơn trống trải của nàng vào giờ này khắc này, người trong thiên hạ có thể mặc kệ, nhưng Sở Bắc Tiệp thì không thể làm ngơ.
Chàng không nên làm thế.
Nàng lại nhìn đồng hồ cát, từng giọt thời gian vẫn trôi, người nàng muốn gặp sao chẳng thấy đâu.
Tám tháng, nàng chịu đựng đủ loại lạnh lùng trong tám tháng, nàng tươi cười chào đón, dịu dàng tiếp đãi, sao không có dù chỉ chút ít hồi đáp?
Trong chốc lát, lòng nàng đã nguội lạnh, tám tháng uất ức như đang dồn nén lên trái tim nàng, không có nơi phát tiết.
“Hồng Tường.”
Hồng Tường từ cửa bên bước vào, hỏi: “Cô nương có gì dặn dò?”.
Sính Đình cúi đầu, nhìn mười ngón tay thon thả của mình.
“Đi tìm Vương gia…” Nàng gằn từng tiếng, “Ta muốn mượn đàn”.
Đàn được mang đến ngay lập tức, Mạc Nhiên đích thân đưa tới, sắp xếp đâu vào đấy rồi nói với Sính Đình: “Cô nương muốn chơi đàn, cũng chỉ nên chơi những khúc giải sầu, đừng chơi những khúc hao tâm tổn sức”.
“Vương gia đâu?”
“Vương gia…” Mạc Nhiên tránh ánh mắt nàng, “Đang ở thư phòng xử lý công vụ”.
“Vương gia hôm nay có bận không?”
Im lặng giây lát, Mạc Nhiên đáp một tiếng: “Bận”.
Sính Đình gật đầu: “Ta biết rồi. Đàn, ta sẽ trả”.
Đuổi Mạc Nhiên đi, Hồng Tường châm hương. Sính Đình bỗng cản lại: “Không cần, để tự ta”.
Lấy hương, nàng tự mình thắp, tự mình bê nước, ngâm hai bàn tay vào đó, rồi chậm rãi lau khô. Sính Đình ngồi vào trước đàn, lưng thẳng, miệng mỉm cười, mười ngón tay trắng nõn khẽ đặt lên dây đàn.
Tằng… tằng…
Chỉnh âm, thanh sắc bỗng chuyển, trở thành âm run rẩy cao vút, mãnh liệt lay động lòng người, tựa như ẩn giấu một tư thế anh hùng đang chuẩn bị xông ra giết chóc. Gian phòng bỗng chốc im ắng như tờ.
Sính Đình không cười nữa, khuôn mặt trầm tư nghiêm túc, mười đầu ngón tay gấp gáp.
Tiếng đuổi giết nổi lên bốn phía, tiếng chiến mã hí vang, tiếng trống dồn vang dội, tiếng hô thét động trời.
Sắc mặt trắng bệch, Hồng Tường túm vội lấy ngực áo của mình, không còn hơi sức để cử động.
Không thể trách Sở Bắc Tiệp, đều do nàng tự chuốc lấy.
Chính nàng đã cản đường Sở Bắc Tiệp, chính nàng đã nói: “Hãy cho Sính Đình đi theo Vương gia đến tận chân trời góc bể, từ nay vinh nhục, sinh tử đều nghe theo Vương gia”.
Và rồi, nàng giơ tay ra, Sở Bắc Tiệp nắm lấy.
Vinh nhục sinh tử từ nay đều không phải do nàng quyết.
Nàng tưởng mình có thể chịu đựng.
Tám tháng nay, đêm đêm nhỏ máu, hướng về bóng dáng không chút lưu luyến ấy, nàng chịu đựng tám tháng nay, chỉ ao ước có được chút ấm áp của ngày này, để rồi thất vọng ê chề.
Nàng có thể chịu đựng tất cả, chỉ cần một câu nói, một ánh mắt, một cử chỉ dù nó sẽ tanbiến ngay lập tức.
Đáng tiếc là, không có gì hết.
Tiếng đàn trầm dần, dường như chiến sự đã đến hồi kết, những con chiến mã may mắn sống sót trên chiến trường loang lổ máu đang cất tiếng hí bi ai, lửa thêu các cột cờ đổ cháy phập phùng, thật là một khúc tráng ca bi thảm.
Trán Sính Đình ướt đẫm mồ hôi, nhưng vẫn chẳng chịu buông tay. Nàng cố chịu đựng, song chưa đàn hết những âm thanh cuối, cả người đã lảo đảo, ngã khụyu xuống.
Hồng Tường còn đang sững sờ, không kịp làm gì, bóng người bỗng ào vào trong phòng, một tay đỡ Sính Đình, một tay ngăn lại dây đàn. Tiếng đàn ngừng hẳn.
Sính Đình cảm thấy sau lưng có người đỡ, trong lòng vô cùng vui mừng, nhưng quay đầu lại, ánh mắt bỗng u ám, nói: “Buông ra”. Nàng cố sức đứng thẳng lên, trời đất như chao đảo, mà vẫn cắn răng không nói, cố đứng vững.
Mạc Nhiên vội vàng buông tay ra, bình thản: “Vương gia đang xử lý công vụ, tiếng đàn của cô nương… ồn quá”.
Thần sắc Sính Đình vô cùng mệt mỏi, cười chua chát: “Đã làm phiền”.
Mạc Nhiên đáp: “Vương gia nói rồi, đàn này chỉ cho cô nương mượn, nếu cô nương đã đàn xong mấy khúc, thì cũng nên lấy về rồi”.
“Mạc Nhiên, ta muốn gặp Vương gia.”
Một thoáng chần chừ, giống như đang lắng tai nghe ngóng động tĩnh xung quanh, một lát sau, Mạc Nhiên cắn răng đáp: “Vương gia rất bận, tối sẽ đến”.
“Ta có chuyện rất quan trọng muốn nói với Vương gia.” Sính Đình nói từng chữ một, vô cùng nghiêm túc, “Tất cả những hiểu lầm, ta sẽ nói thật rõ ràng”.
Mạc Nhiên lại đợi thêm một lúc, bốn bề vẫn vô cùng yên ắng, lần này thì ngay cả Mạc Nhiên cũng có chút thất vọng, chỉ đành thở dài lặp lại một câu: “Vương gia… tối sẽ đến”.
Sính Đình lãnh đạm nhìn Mạc Nhiên. Vốn sợ nhất nhìn vào mắt nàng, Mạc Nhiên quay mặt đi.
Sính Đình khẽ nói: “Tướng quân mang đàn về đi, thay ta tạ ơn Vương gia”. Không chống đỡ nổi thân thể bỗng trở nên nặng nề của mình, nàng vịn ghế ngồi xuống.
Mạc Nhiên ôm đàn rời đi, vòng ra phía sau.
Sở Bắc Tiệp không ở thư phòng mà đang đứng trong gió tuyết. Thân thể vững chãi ấy dường như không hề có cảm giác gì với gió tuyết nơi đây.
“Vương gia, đàn mang về rồi”, Mạc Nhiên dâng cây đàn lên.
Mấy bông hoa tuyết đáp trên mặt bỗng khiến Sở Bắc Tiệp thấy rợn người.
Chàng rất hối hận.
Chàng không nên đưa đàn cho nàng, càng không nên nghe nàng đàn. Khúc đàn lúc nãy của Sính Đình như vẫn đang vang vọng trong đầu chàng, đau tựa dao cứa vào tim, tựa lăng trì. Chí khí, quyết tâm không chịu khuất phục trong khúc bi ca tráng lệ ấy cuối cùng đã khiến Sở Bắc Tiệp toát mồ hôi giữa trời đông gió tuyết.
Nếu không phải vẫn còn một tia lý trí, chàng đã không đẩy Mạc Nhiên vào, mà tự mình xông tới, bế nàng ra khỏi cây đàn, cảnh cáo nàng từ nay không được, không bao giờ được đàn những khúc này nữa.
Nàng đã chán ghét sự đời.
Không màng sinh tử, muốn được đổ máu trên sa trường, khúc tráng ca bi thảm như đao kề cổ ấy có thể thuộc về bất cứ ai, nhưng không thể thuộc về nàng, không thể thuộc về nữ nhân của Sở Bắc Tiệp.
Chàng hận nàng, lại không thể chịu nỗi đau mất nàng.
Mạc Nhiên không thể không hỏi: “Vương gia không định gặp mặt Bạch cô nương sao? Bạch cô nương nói…”.
Thấy ánh mắt sắc như bảo kiếm của Sở Bắc Tiệp nhìn thẳng mình, Mạc Nhiên bỗng nổi da gà, vội vã cúi đầu: “Thuộc hạ đáng chết”. Gió vẫn gào thét bên tai, Mạc Nhiên cảm nhận được cái lạnh còn hơn cả băng tuyết.
“Lui ra.” Hồi lâu, hắn mới nghe thấy giọng nói thấp trầm của Sở Bắc Tiệp.
Sau khi quay về thư phòng, Sở Bắc Tiệp không hề ra ngoài, bỏ cả bữa trưa. Mạc Nhiên cứ thấp thỏm, lo lắng không yên mà đợi ở phòng bên khoảng hai canh giờ. Đột nhiên, Hồng Tường xách hộp cơm bước vào, buồn rầu: “Biết làm thế nào bây giờ? Bạch cô nương không chịu ăn gì cả”.
Hồng Tường mở hộp cơm ra, từng món, từng món bên trong vẫn còn nguyên. Hai món mặn, hai món rau, một đĩa cải muối, và cả bát cơm đều chẳng vơi chút nào.
“Năn nỉ cả buổi, Bạch cô nương cũng chỉ gảy gảy vài hạt cơm rồi lại buông đũa, nói no rồi. Cứ thế này, nhỡ đói ra đấy, Vương gia lột da nô tỳ mất.”
“Lột da ai?” Trước cửa thư phòng bỗng xuất hiện một bóng dáng cao lớn.
Hồng Tường thất kinh, quay phắt lại, đầu cúi gằm: “Vương gia…”.
Sở Bắc Tiệp nhìn hộp cơm đang mở: “Là của nàng sao?”.
“Vâng.” Mạc Nhiên đáp.
Hồng Tường cẩn trọng báo cáo: “Bạch cô nương buổi sáng chỉ húp nửa bát cháo trắng, buổi trưa không hề động đũa. Nô tỳ thấy không ổn nên đến nói với Sở tướng quân”.
Ánh mắt nặng nề của Sở Bắc Tiệp nhìn sang: “Mấy ngày nay đều thế sao?”.
“Từ khi trời chuyển sang đông, Bạch cô nương đã không ngon miệng. Gần đây càng ăn ít đi, tối qua có mấy món ăn dân dã nên ăn nhiều hơn, được một bát cơm.”
Mạc Nhiên như chợt nhớ ra điều gì, hạ giọng nói với Sở Bắc Tiệp: “Tối qua, Vương gia sai thuộc hạ mang mấy món dân dã từ vương cung gửi đến sang chỗ Bạch cô nương, xem ra…”.
Nghe thấy vậy, Sở Bắc Tiệp vội bảo Hồng Tường: “Mấy món tối qua vẫn còn, ngươi thử mang qua xem”.
Được chọn hầu hạ Sính Đình, tất nhiên Hồng Tường cũng thuộc hàng nhanh nhẹn ngoan ngoãn, nhưng đứng trước một Sở Bắc Tiệp oai phong, giọng nói của nha đầu ấy cũng trở nên luống cuống, ríu hết vào nhau: “Bẩm Vương gia, nô tỳ cũng nghĩ Bạch cô nương thích ăn mấy món đó nên hôm nay đã sắp xếp vào hộp, nhưng cô nương không hề động đũa, nói no rồi”.
Sở Bắc Tiệp lạnh lùng nhìn hộp đồ ăn đã nguội ngắt: “Biết rồi, ngươi lui ra đi”.
Hồng Tường đi rồi, Sở Bắc Tiệp quay sang Mạc Nhiên, lãnh đạm: “Ngươi thấy thế nào?”.
“Dạ?” Bị hỏi câu không đầu không cuối, Mạc Nhiên quan sát kỹ sắc mặt Sở Bắc Tiệp, biết rõ lúc này không thể sơ suất, nên chỉ đáp một tiếng hoàn toàn vô nghĩa.
Sở Bắc Tiệp lẩm bẩm: “Nàng không chịu nổi nữa rồi, đúng không?”.
“Vương gia…”
Mạc Nhiên chưa nói xong, Sở Bắc Tiệp đã cắt ngang: “Đừng nói nữa!”, rồi quay người đi, hai tay chắp sau lưng, đôi vai không ngừng run rẩy, chẳng biết do tức giận hay xúc động. Hồi lâu sau, Sở Bắc Tiệp mới bình tĩnh lại, lạnh lùng: “Đi thôi, xem nàng thế nào”.
Hai người đến chỗ Sính Đình, đúng lúc nghe thấy giọng nói vọng ra từ bên trong.
“Bạch cô nương, Vương gia đã sai bảo, tại hạ không thể không nghe. Dù cô nương có khỏe hay không, cũng cứ cho tại hạ bắt mạch, để tại hạ có câu trả lời với Vương gia.”
“Ông cứ đi gặp Vương gia, nói ta không bị bệnh gì cả.”
Hai hàng mày cau lại, Sở Bắc Tiệp đẩy cửa bước vào. Dáng người cao lớn đứng trước cửa, che gần hết ánh sáng, đổ bóng xuống nền nhà.
Căn phòng trở nên lặng lẽ.
Sính Đình mặc áo bên trong, nằm nghiêng trên giường, đắp chiếc chăn gấm màu xanh nhạt, chắc vừa ngủ dậy đại phu đã đến, nên tóc vẫn chưa kịp chải, xõa dài trên thân người, càng làm nổi bật khuôn mặt trắng mịn, đôi mắt đen láy, vô cùng phong tình. Nàng không ngờ Sở Bắc Tiệp lại bất ngờ xuất hiện như vậy. Nàng chỉ vừa cảm giác ngoài cửa thoáng cơn gió lạnh, cả căn phòng đã im phăng phắc. Ngẩng lên, bắt gặp ánh mắt sáng ngời của chàng, tim nàng bỗng đập thình thịch, hai ánh mắt vừa thoáng qua đã dính chặt lấy nhau, không thể nhìn đi nơi khác.
Đang giận dữ mà tới, chạm ánh mắt nàng, tim chàng cũng đập thình thịch. Sở Bắc Tiệp phải cố dằn lòng, xua tay nói với mấy người kia: “Lui hết ra”.
Trong chốc lát, Hồng Tường, Mạc Nhiên và đại phu đều ra ngoài hết. Căn phòng rộng rãi chỉ còn lại ánh mắt dính chặt vào nhau của hai người họ.
Sở Bắc Tiệp từ trên cao nhìn xuống Sính Đình hồi lâu. Nhìn sắc mặt nàng nhợt nhạt, yếu ớt, chàng đã thấy không yên, lại nghĩ đến bộ dạng nàng nửa lộ phần gáy trắng nõn để đại phu nhìn thấy ban nãy, trong lòng càng khó chịu. Nhưng càng giận, giọng càng bình tĩnh, chàng hỏi Sính Đình: “Nàng đâu phải người tùy hứng làm càn, nay lại hồ đồ như vậy, rốt cuộc là vì sao?”.
Không hỏi thì thôi, vừa hỏi một câu, mi mắt Sính Đình khẽ cụp, nở nụ cười, rồi ngước đôi mắt linh hoạt lên, nhìn Sở Bắc Tiệp cười rạng rỡ: “Vương gia đã đến đây, chẳng phải Sính Đình đạt được mục đích của mình rồi sao?’.
Tuy không phải tuyệt sắc giai nhân, nhưng đôi mắt của nàng lại có sức hút vô cùng, cộng thêm nụ cười tươi tắn và hai lúm đồng tiền cũng đủ khiến Sở Bắc Tiệp xao lòng. Chàng tiến lên trước nửa bước, đủ để ôm trọn Sính Đình trong tầm mắt, rồi cúi xuống nhìn thật kỹ nữ tử đang nằm trên giường.
Đôi mắt tuyệt tình khát máu trên sa trường càng thêm băng giá, khí lạnh bức người ở Sở Bắc Tiệp bao phủ toàn thân Sính Đình.
Sở Bắc Tiệp hỏi: “Việc đã đến nước này, nàng vẫn muốn giở mấy trò vô vị trước mắt ta sao?”.
Sính Đình ngẩng đầu nhìn Sở Bắc Tiệp, nhẹ giọng: “Vương gia sai rồi. Thế này sao gọi là trò vô vị? Được ở bên cạnh vương gia dù chỉ một lát, hạnh phúc ấy đối với Sính Đình, có là tất cả châu báu trên thế gian cũng không sao đánh đổi được”.
Câu nói chẳng khác nào cao thủ xuất chiêu, khiến Sở Bắc Tiệp không kịp đề phòng, đã định quay đi, vừa cảm thấy không đành thì bị bàn tay nhỏ nhắn của Sính Đình kéo lại, cả người cứ thế ngồi xuống bên giường.
Thân thể ấm áp của Sính Đình chủ động kề bên, hai tay ôm chặt lấy cổ chàng. Hận nàng độc ác hãm hại hai cháu của mình, hận nàng quỷ kế đa đoan, Sở Bắc Tiệp đã từng thề vời trời rằng không bao giờ dịu dàng với nàng. Nhưng, thời khắc này, khi mà cảm giác ngọc ấm hương nồng đang ở trong lòng, chàng sao có thể nhẫn tâm đẩy nàng ra, đành mặc nàng ôm lấy mình, hạ giọng hỏi: “Nàng muốn gặp ta để nói mọi chuyện cho rõ ràng?”.
“Muộn rồi.”
“Muộn rồi?”
Nàng ôm chặt Sở Bắc Tiệp, hạ giọng: “Thiếp vốn định nói, nhưng Vương gia đã bỏ qua cơ hội. Sính Đình đâu phải kẻ năm lần bảy lượt cầu xin người khác nghe mình thanh minh hiểu lầm. Đời này kiếp này, thiếp sẽ không bao giờ nói với Vương gia chân tướng sự việc, Vương gia muốn hiểu lầm thiếp, thì cứ hiểu lầm đi”.
Sở Bắc Tiệp đứng bật dậy, hất nàng xuống giường, sừng sộ: “Nàng đã không hối cải, còn định bày ra quỷ kế gì?”, rồi quay người bỏ đi.
“Vương gia hãy dừng bước!” Sính Đình bỗng gọi to, Sở Bắc Tiệp không thể không đứng lại.
“Sính Đình đã nghĩ thông rồi.” Giọng nói của Sính Đình vẫn hết sức nhẹ nhàng, nhưng ngữ điệu lạnh lùng, “Nếu sự nhẫn nại trong tám tháng không thể khiến Vương gia yêu Sính Đình lần nữa, Sính Đình hà tất phải lưu lại chốn này?”.
Sở Bắc Tiệp quay phắt, lạnh lùng: “Nàng đừng hòng trốn được khỏi đây”.
“Không.” Sính Đình mỉm cười đáp, “Thiếp sẽ tự sát”.
Sở Bắc Tiệp cười gằn: “Mang cái chết ra hù dọa là thủ đoạn hạ đẳng nhất”.
Sính Đình không hề để ý đến vẻ chê cười của chàng, nói tiếp: “Chỉ khi Vương gia chịu ở bên thiếp từng giờ từng khắc, thiếp mới sống tốt được”.
Sở Bắc Tiệp gằn từng tiếng: “Ở trong tay ta, chết cũng không phải việc dễ dàng”.
Ánh mắt kiên định của Sính Đình nhìn thẳng đôi mắt hổ trợn trừng của Sở Bắc Tiệp, khẽ khàng: “Nếu một người đã quyết tâm tự sát, sẽ chẳng ai ngăn nổi”.
Sở Bắc Tiệp bỗng vén rèm cửa, tuyết bên ngoài bay cả vào phòng.
“Mạc Nhiên!”
“Có”, Mạc Nhiên vội vàng xuất hiện.
“Trông chừng!” Ngón tay chàng chỉ về bóng dáng mỏng manh trong phòng, “Trông coi cẩn thận, có gì sơ suất, bản vương sẽ hỏi tội ngươi!”.