Tâm Đăng đỏ mặt sượng sùng, vì mọi người thảy đều đổ dồn những cặp mắt để nhìn mình, trong đó có cặp mắt đen lay láy của Trì Phật Anh.
Chú nhớn nhác nhìn quanh, bỗng thấy trên mặt bàn lúc bấy giờ có để một đèn dầu leo lét, có ba con thiêu thân đang liệng cung vòng quanh ngọn lửa.
Chàng liền nhớ ra mình phải biểu diễn ra sao, vội vàng chấp tay xá chào mọi người, chú nói :
– Xin quý vị lượng thứ cho, tôi sẽ biểu diễn đây…
Đoạn chú chắp tay, lim dim như lão tăng nhập định, mọi người đều không biết chú sẽ biểu diễn trò gì, nhưng cứ nhìn khí sắc trầm hùng và hơi thở điều hòa đó, người ta đoán chừng chú sẽ biểu diễn một thứ chưởng lực kinh hồn.
Bỗng người ta thấy chú từ từ đưa bàn tay hữu ra năm ngón tay xòe ra như rẻ quạt, và mọi người thảy đều nhìn về ngọn đèn dầu kia.
Người ta thấy ngọn đèn vẫn bừng cháy, ngọn lửa vẫn điều hòa như cũ, chỉ có ba con thiêu thân thì như bị một nguồn tiềm lực nào ngăn cách ra, từ từ ly khai với ngọn lửa, mà ngọn lửa vẫn không hề chao động.
Những bậc kỳ lão trong làng võ thấy vậy đều tấm tắc khen thầm, vì rằng họ đã biết Tâm Đăng đã luyện đến mức Cách Đào Điểm Hắc.
Sau một chập, sức bay của thiêu thân lần lần chậm lại, rồi từ từ bay xuống mặt đất, dẫy lên một cái rồi chết.
Chưởng lực vận dụng như vậy thì thật là khó vô cùng, vì rằng chú vừa dùng sức mạnh của mình để ép chết những con thiêu thân, mà lại không làm cho ngọn đèn chao động, đó mới là chỗ kỳ diệu vậy.
Ba con thiêu thân rơi xuống rồi, Tâm Đăng mới bắt đầu dùng sức, ép cho ngọn đèn tỏa rộng ra!
Ánh lửa bị ép mỏng tang như tờ giấy mà không tắt, Thiết Điệp gật gù nói nhỏ vào tai của Khúc Tinh :
– Chú tiểu này đã luyện đến mức Chúc Ảnh Dao Hồng thật là ngoài sự tưởng tượng của ta.
Nhưng mà việc ngoài sự tưởng tượng ấy còn nhiều…
Lần thứ ba, Tâm Đăng dùng sức bàn tay đè rồi ngọn đèn dần dần bẹp dí xuống cơ hồ gần tắt.
Và chú từ từ thu hồi bàn tay, để rồi ngọn đèn lại cháy như cũ, Cô Trúc nghĩ thầm :
– Không biết thằng này học Đại Thừa thần công ở đâu?
Thì ra khi Bệnh Hiệp học Đại Thừa thần công, thì võ lâm không ai biết, đến Cô Trúc không ngờ Bệnh Hiệp đã truyền môn võ công này cho Tâm Đăng.
Chính vào lúc các vị lão tiền bối trong võ lâm đang bàng hoàng ngơ ngẩn, thì Tâm Đăng lại phát chưởng.
Lần này cánh tay của chàng đưa thẳng ra, và ngọn đèn bỗng tắt phụt, và Tâm Đăng thu tay về, ngọn đèn lại bừng cháy lên mãnh liệt!
Và Tâm Đăng lại phát chưởng, biểu diễn thêm một lần nữa, làm cho Lư Âu phải hét to lên :
– Trời!… Tam Đàm Ấn Nguyệt.
Bốn chữ “Tam Đàm Ấn Nguyệt” làm cho chúng kỳ lão phải giật mình, và họ đưa mắt nhìn về phía vách tường.
Vách tường cách xa bức tường ngần một thước, vậy mà lúc bấy giờ trên bức tường màu trắng, đã bị hơi khói của ngọn đèn làm thành ba chấm đen theo hình tam giác.
Và trong ba chấm đen kia, có ba vòng tròn mầu trắng, thoáng trông như ba mặt trăng nằm trong áng mây mờ…
Điều đó mới thật là ngoài sự tưởng tượng của mọi người.
Thiết Điệp khen dậy :
– Tam Đàm Ấn Nguyệt, mười mấy năm trước ta đã từng thấy, nhưng so với Tâm Đăng bây giờ thật là kém xa một trời một vực.
Thế là chúng kỳ lão bàn tán xôn xao về cái trò Tam Đàm Ấn Nguyệt.
Mọi người không biết được đó là nhờ Tâm Đăng đã học được Đại Thừa thần công của Bệnh Hiệp, chúng kỳ lão đồng ngợi khen Cô Trúc đã dạy được một đứa học trò cao thâm đáo để.
Chỉ có một mình Bệnh Hiệp thì mừng thầm, vì việc riêng này, chỉ một mình ông hay biết mà thôi.
Bệnh Hiệp trong lòng thầm nghĩ :
– Thằng nhỏ này quả thật không phụ công lao khó nhọc của ta, nó đã luyện phép Tam Đàm Ấn Nguyệt một cách nhanh chóng như vậy, thì ta chết cũng nhắm mắt!
Đôi mắt lờ đờ của Bệnh Hiệp lúc bấy giờ tỏa ra một thứ ánh sáng vừa kiêu ngạo, vừa thỏa mãn, nhưng mọi người chẳng ai phát giác, chi có một mình ông ta say sưa mà hưởng cái mùi vị thành công đó.
Chúng anh hùng ngợi khen một chặp mà Tâm Đăng vẫn đứng sừng sững giữa nhà, Cô Trúc hỏi rằng :
– Tâm Đăng, mi chưa lui ra còn đợi chừng nào?
Tâm Đăng cung kính trả lời :
– Thưa sư phụ, tôi biểu diễn chưa hết! Còn nữa…
Chúng anh hùng nghe nói, thảy đều giựt mình kinh hãi, những ngần ấy người nghĩ rằng :
– Chắc chú tiểu này còn có một món võ công khác lợi hại hơn Tam Đàm Ấn Nguyệt!
Đang lúc đó thì Tâm Đăng thong thả nhắm nghiền cặp mắt, chắp hai tay lại như một vị lão tăng nhập định, rồi thình lình thấy Tâm Đăng khe khẽ trổ tài hai ngón tay ra.
Mọi người nghe một tiếng “bốp” vang lên, thì tim đèn đang cháy hừng hực trên bàn đã bị Tâm Đăng dùng ngón tay của mình điểm cho phép Cách Không, làm cho gãy hẳn đi một đoạn.
Đoạn tim đèn còn lại bị gãy chẽ ra làm ba, còn đoạn bắn rơi ra, thì bắn vù lên cao hơn một thước.
Tâm Đăng bình tĩnh thò bàn tay hữu ra khẽ vẩy một cái, thì tim đèn đứt ra đó lại rơi ngay xuống, ráp vào chỗ gãy ban nãy, và ngọn đèn lại bừng bừng bốc cháy như xưa.
Đó là ngón Phật Đà Điểm Đăng, thuộc về một món võ cao thâm nhất của nhà Phật, chúng anh hùng đều không ngờ Tâm Đăng với chừng tuổi non nớt này, mà lại luyện được môn Phật Đà Điểm Đăng một cách tinh vi đến nhường ấy!
Lúc bấy giờ Tâm Đăng mới mỉm cười mà lui về đứng gần bên mình của Cô Trúc, đồng thời chú trao cho Bệnh Hiệp một nụ cười thông cảm.
Ba con thiêu thân nãy giờ rơi xuống đất, bây giờ lại thình lình vỗ cánh bay lên, lượn chung quanh ngọn đèn trông thật đẹp mắt.
Buổi ban sơ, mọi người đều tưởng rằng Tâm Đăng dùng chưởng lực của mình đánh chết mấy con thiêu thân, chớ không ngờ chú chỉ dùng sức mạnh mà ép nó cho rơi xuống mặt đất.
Và bây giờ chú thu hồi chưởng lực, cho nên bọn chúng lại bay lên mà lượn chung quanh ngọn đèn…
Môn biểu diễn của Tâm Đăng thật là trúng cách đối với mỗi người xuất gia đầu Phật, vì đó hoàn toàn thể hiện cái ý từ bi không sát sanh của nhà Phật.
Khúc Tinh vỗ tay cười ha hả :
– Một người có cốt cách như Tâm Đăng đây thật hiếm có trong vòng trời đất… những vị có tên tuổi nơi đây, khi tuổi tác bằng Tâm Đăng, e rằng võ công chưa bằng phân nửa nó.
Cô Trúc mừng thầm trong dạ, nhưng lại nghiêm sắc mặt mà nói :
– Khúc huynh chớ vội khen… chú tiểu này còn kém lắm! Nếu Khúc Huynh có lòng chỉ bảo thì hãy tiếp với tôi một tay, Khúc huynh nghĩ thế nào?
Cô Trúc bất quá chỉ nhất thời cao hứng, mà buông ra một câu nói giỡn, không ngờ Khúc Tinh lại chộp lấy cơ hội ha hả cả cười :
– Thật ta không nghĩ lão già này chịu nhường đồ đệ lại cho ta, nhân dịp này ta phải truyền cho nó vài ngón.
Cô Trúc trả lời bằng một nụ cười cởi mở, Tâm Đăng không ngờ vài ba câu nói giỡn của nhị vị tiền bối này lại giúp cho chàng một cơ hội để học thêm một môn tuyệt kỹ.
Bọn hậu sinh thảy đều biểu diễn sở trường của mình ra, chúng anh hùng vui vẻ nhập tiệc trở lại và khi rượu qua ba tuần thì bỗng Vạn Giao đứng phắt dậy cười rằng :
– Bọn hậu sinh đã phô bày nghệ thuật, bây giờ đến lượt mấy lão già phải trổ tài riêng đây.
Tiểu Thạch và Khắc Bố thảy đều vỗ tay hoan hô nhiệt liệt, Thiết Điệp cười rằng :
– Hay lắm! Lão Vạn đã đề nghị như vậy thì xin hãy ra tay trước!
Khúc Tinh vỗ tay cười sang sảng :
– Lão Thiết nói đúng lắm, mời lão Vạn ra tay trước.
Mọi người đều tán đồng ý kiến của Khúc Tinh, Vạn Giao cười rằng :
– Ta biết bọn mi thế nào cũng làm khó dễ ta, mười mấy năm nay xương của ta đã khô, da của ta đã héo nào có luyện được gì đâu…
Câu nói của Vạn Giao chưa dứt thì Lư Âu đã buông ra một chuỗi cười lanh lảnh :
– Lão Vạn… mười mấy năm nay không một người nào trong chúng ta dám chểnh mảng võ công, phần mi chắc cũng luyện được một hai món gì ghê gớm lắm? Chẳng lẽ lần này mi đến Tây Tạng không phải vì vấn đề của thằng Trác Đặc Ba?
Vạn Giao nghe nói mặt mày thất sắc, nhưng ông ta biết tánh tình của Lư Âu nên không dám sinh sự.
Chúng anh hùng nghe lời nói của Lư Âu thảy đều có sắc giận lộ ra ngoài nét mặt.
Bởi vì lời nói của Lư Âu không những động chạm đến một mình Vạn Giao mà lại đụng đến chỗ bình sinh đại sỉ nhục của chúng anh hùng.
Người đau đớn nhất có lẽ là Cô Trúc, vì ông ta vốn mang danh võ công đệ nhất thiên hạ, nên ông ta dằn không nổi cơn tức giận, hét vang :
– Lư Âu hôm nay là buổi tiệc liên hoan để mừng cho Lạc huynh, cớ sao mi lại nhắc đến việc đau buồn trong dĩ vãng? Mi cứ nhắc nhở cái thằng Trác Đặc Ba, hay là mi thầm thương trộm nhớ nó?
Câu nói đột ngột của Cô Trúc làm cho Lư Âu giận đến tái xanh sắc mặt, nhưng bà ta lại không dám trêu chọc đến lão già quái đản này, bà ta dằn cơn tức giận :
– Cô Trúc, ngươi nghe chẳng xuôi tai thì thôi, sao lại buông lời vô lễ trách mắng ta?
Cô Trúc vừa định cãi lại, thì Khúc Tinh đã khoát tay ngăn lại :
– Thôi… chúng ta hãy nhẫn nhịn để cho Lạc huynh được nằm yên ngơi nghỉ…
Thiết Điệp nối lời :
– Đừng nói lôi thôi dài dòng, Vạn huynh hãy mau biểu diễn một trò tuyệt kỹ, để cho chúng tôi nới rộng con mắt.
Vạn Giao lúc bấy giờ mới mỉm cười bước ra, rồi bỗng đi đến bên cạnh Bệnh Hiệp :
– Lạc huynh cư ngụ ở trong này có thấy bực bội lắm không?
Bệnh Hiệp chỉ trừng mắt ngơ ngác nhìn Vạn Giao, Vạn Giao nói tiếp :
– Ý của tôi là muốn mở thêm cửa sổ cho Lạc huynh, chẳng hay Lạc huynh có bằng lòng chăng?
Bệnh Hiệp mới sực nhớ ra và ông ta chớp nhanh cặp mắt mấy cái tỏ vẻ đồng ý.
Còn bọn Tâm Đăng và Khắc Bố thảy đều kinh hãi, vì họ nghĩ rằng, tòa nhà này đúc toàn bằng những khối đá xanh dầy hơn ba thước, nếu theo công lực của Vạn Giao, dùng một chưởng để đánh thủng một bức tường là một việc dễ, nhưng muỗn soi thủng một lỗ vuông vức để làm cửa sổ thì lại là một điều vạn nan.
Vừa nghĩ đến đây thì Vạn Giao đã bước lên giữa nhà, ông ta rảo mắt nhìn quanh, đoạn lẩm bẩm nói :
– Phía Đông?… hay phía Tây… à để ta mở một cửa phía trên từng nhà trước đã!
Nói rồi, hai cánh tay của lão đưa phắt lên trời và một tiếng “bùng” kinh rợn vang lên, vôi cát gạch ngói bắn ra tứ tung rơi đầy trên mặt đất.
Chính vào lúc đó thì Vạn Giao thình lình thu hai ống tay áo của mình, đưa về phía ngoài ngõ…
Có nhiều mảng gạch ngói, bị sức của Vạn Giao thảy đều bay vùn vụt ra phía cửa, chúng anh hùng thấy vậy thảy đều nhìn lên nóc nhà, thảy đều kinh ngạc, vì trên trần vẫn còn một màu lờ mờ đen vẫn còn nguyên vẹn, không có gì thay đổi.
Mấy cậu bé thảy đều hỏi thầm trong dạ :
– Thật là lạ! Mái nhà vẫn y nguyên như cũ vậy mảng gạch ngói đổ nát ban nãy từ đâu mà có……
Chỉ có đôi mắt của Tâm Đăng là bén nhạy nhất nên chú thoáng thấy trên trần nhà có một vòng tròn màu trắng, ngoài ra không còn chỗ nào khác lạ nữa!
Chúng lão anh hùng thảy đều gật đầu lầm bầm, mặc dù họ toàn thuộc hạng cao thủ thượng thừa nhưng họ đều ngán ngẩm cho chưởng lực của Vạn Giao.
Không hẹn mà họ thầm nghĩ :
– Tài bộ của thằng họ Vạn này quả thật tăng tiến bội phần, không kém ta bao nhiêu!
Vạn Giao dùng ống tay áo của mình đưa một số gạch vụn ra ngoài rồi, quay đầu trở lại hỏi Bệnh Hiệp :
– Lạc huynh! Tôi mở cửa sổ như vầy có thấy mát chăng?
Bệnh Hiệp khẽ gật đầu tỏ vẻ đồng ý, Vạn Giao vừa định mở miệng nói chuyện, bỗng nghe tiếng thằng Tiểu Thạch :
– Mở cửa sổ như vầy khi trời mưa thì trong nhà sẽ ướt như ngoài sân!
Thiết Điệp thấy nó nói chuyện ồn ào vô lễ, vừa định lớn tiếng mắng vài câu bỗng Vạn Giao trỏ vào mặt nó nói :
– Thằng nhỏ này thật thông minh, không nhờ mày nhắc thì ta có lẽ quên khuấy đi mất…
Tiểu Thạch chưa biết mình bị “móc” đắc chí cười ha hả…
Mọi người thấy gương mặt của Vạn Giao thoáng hiện lên mấy nét cười thật khó hiểu, hai cánh tay ông ta từ từ đưa lên phía trên, và một việc lạ lùng đã xảy ra!
Thì ra từ trên mái nhà có một tảng đá tròn trịa, đường kính dài hơn một thước từ từ rơi xuống…
Tảng đá này chung quanh bóng nhoáng, dường như do một tên thợ đá tài tình khắc nên.
Và trên mái nhà, lúc bấy giờ để lộ ra một cái cửa sổ tròn trịa, ánh trăng bàng bạc từ bên trên chiếu xuống, đem đến trung gian nhà này một vệt trắng xanh mờ huyền ảo, in một dấu tròn vành vạnh bên giường của Bệnh Hiệp..
Điều làm cho người ta lạ lùng hơn là tảng đá này dường như có một người buộc một sợi dây từ từ thòng xuống, chầm chậm rơi vào hai tay của Vạn Giao.
Mọi người thảy đều khen vang dậy, Vạn Giao quay sang nói với Bệnh Hiệp :
– Nếu trời có mưa thì Lạc huynh bảo mấy thằng nhỏ nó đẩy tảng đá này lên như vầy…
Vừa nói, Vạn Giao vừa khẽ nâng hai bàn tay lên, và tảng đá tròn trịa kia từ từ bay lên phía trên, nhẹ nhàng trám kín mít vào lỗ hổng, nhìn không ra một khe hở nào.
Mấy người trẻ tuổi kinh hồn thất sắc, vì thấy chưởng lực của Vạn Giao đã luyện đến mức nhập thần, có thể cương nhu tiện dụng, phi một người tốn năm mươi năm để rèn luyện, không thể nào thành công đến mức này được.
Vạn Giao vỗ tay bôm bốp hỏi rằng :
– Lạc huynh có cần tôi mở thêm hai cửa sổ bên đông và tây chăng?
Bệnh Hiệp khẽ lắc đầu, tới chừng đó Vạn Giao mới mỉm cười rút lui.
Lão ta trở về ngồi bên bàn, kẹp một miếng thịt gà to tướng nhai ngấu nghiến để tự khao thưởng cho mình.
Lư Âu quắc mắt hỏi :
– Bây giờ tới phiên ai?
Khúc Tinh đứng phắt dậy, mỉm một nụ cười thật tươi mà nói rằng :
– Đến phiên ta… thú thật mười mấy năm nay ta không ngưng luyện võ nhưng tiến bộ chậm lắm, quí vị hãy chờ xem!
Thiết Điệp lớn tiếng trả lời :
– Ta chống ý kiến đó, xem nhãn thần của nhà ngươi thì tài bộ tăng tiến vượt bậc, mi hãy mau biểu diễn ra, đừng nói dài dòng.
Khúc Tinh rảo mắt nhìn quanh, thấy chỗ mình đang đứng chỉ là một gian phòng nhỏ, tuy tuyệt kỹ của mình có nhiều nhưng chưa biết làm sao biểu diễn trong chỗ chật hẹp như vậy.
Chính vào lúc ông ta đang phân vân nghĩ ngợi thì từ bên ngoài bỗng có một luồng gió lốc thổi mạnh vào và vô tình mang vào gian nhà bé nhỏ kia một đóa hoa hồng tươi thắm.
Nhìn đóa hoa tung bay trước gió, ông ta vụt nhớ ra cách mình sẽ biểu diễn một màn vô cùng ngoạn mục.
Nhặt đóa hồng lên ông ta nói với Bệnh Hiệp :
– Lão Vạn mở cửa sổ cho mát thì ta trang hoàng ngôi nhà này cho đẹp.
Cô Trúc cười nhẹ nói :
– Ta biết mi có ngón Đàn Hoa Thần Chỉ, hôm nay có dịp trông thấy, thật là vạn hạnh.
Thì ra Khúc Tinh là một người hào hoa phong nhã, tính tình ưa những vật đẹp, nhất là yêu hoa.
Vì vậy mà ông ta luyện được một môn võ công kỳ quái, tự ban cho cái tên Phất Chỉ Đàn Hoa.
Đây là một môn võ công trong làng võ chưa ai luyện tới, đến một người lai lịch lâu dài như Cô Trúc mà vẫn chưa có dịp xem tận mắt.
Khúc Tinh cười trả lời :
– Cái môn tiểu xảo điêu trùng khắc triện này, lào huynh hà tất phải khen.
Khúc Tinh nói rồi cầm đóa hoa đưa cho mọi người xem, đoạn bảo :
– Xin quí vị hãy nhớ cho kĩ hình dạng của đóa hoa này… đây là một đóa hoa Hồng Cúc.
Mọi người đều chăm chú nhìn đóa hoa trong tay lão, thấy quả thật đó là một đóa hoa Hồng Cúc, vừa mới nở nhuỵ bán khai.
Đợi cho mọi người xem kĩ rồi lão ta mới thối lui trở ra giữa nhà, cầm đóa hoa trong tay, lão khẽ rũ một cái, những cánh hoa hồng cúc lập tức rơi lả tả trên bàn tay hữu của lão, chỉ còn lại đơn độc một chiếc nhánh mà thôi…
Mọi người đang lấy làm lạ, không hiểu tại sao lão ta lại hủy hoại một đóa hoa tuyệt đẹp như vậy, và không biết lão ta sẽ biểu diễn trò gì đây!
Khúc Tinh lại thối lui hai bước, nhìn về hai vách tường tả hữu, cách đó chừng non hai trượng, ông ta cười rằng :
– Tôi bắt đầu hiến một đường võ, tất cả năm mươi sáu miếng, trong năm mươi sáu miếng này tôi sẽ ném ra năm mươi sáu cánh hoa và cuối cùng là cành hoa.
Vừa dứt lời, thân hình ông đảo nhanh vùn vụt, như một chiếc xe gió khổng lồ, vừa nhanh vừa đẹp.
Miếng võ đầu tiên ông ta tung ra là Tiên Phật Tống Tử, người ta thấy trong bàn tay của ông ta có một đạo hồng quang bay ra vùn vụt ghim thẳng vào tường.
Tiếp đó ông ta tiếp tục thi triển một đường võ danh trấn giang hồ, thân hình của ông ta chập chờn như bóng ma trơi, bóng chưởng khi mờ khi tỏ, ống tay áo bay vùn vụt trong gió loạn, làm cho những người có mặt trong nhà thảy đều lộ vẻ kinh nghi.
Cứ mỗi lần ông ta thay đổi một thế võ là mỗi lần trong lòng bàn tay bay ra một đạo hồng quang khảm sâu và tường phía trước mặt.
Những người trẻ tuổi thấy vậy thảy đều giương cặp mắt trợn trừng nhìn ông ta không chớp.
Tâm Đăng nghĩ thầm :
– Thật là quái lạ, cớ sao bọn này thảy đều võ nghệ cao cường, tinh vi xuất sắc? Rất tiếc Bệnh sư phụ nằm trên giường không thì ông ta cũng sẽ biểu diễn một trò hay đáo để.
Chú vừa nghĩ đến đây thì Khúc Tinh đã liên tiếp biểu diễn hai mươi sáu thế võ liên hoàn, tốc độ càng gia tăng mãnh liệt, ngần ấy động tác dường như dính liền vào nhau một xâu chuỗi dài vô tận.
Cô Trúc càng xem càng mê mẩn tâm thần, ông ta thầm nghĩ :
– Không ngờ cách biệt mười tám năm võ nghệ của hắn lại nhanh như thế này!
Cùng trong một lúc Lư Âu cũng nghĩ :
– Cứ công lực của hắn không kém mình bao nhiêu!
Khúc Tinh biểu diễn đến thế võ thứ ba mươi sáu thì tốc độ tình lình chậm trở lại, và rốt cuộc như người “lập thiền” đứng hẳn lại, hai chân đứng vững trên mặt đất yên như Thái Sơn, chỉ có hai vai hơi khẽ động đậy mà thôi.
Và mỗi lần khẽ động đậy như vậy thì lại có một vệt hồng quang bay vèo tới khảm sâu vào tường.
Chừng đó mọi người nhìn mới thấy thì ra trên tường đã hiện lên một đóa hồng tươi đẹp, giống hệt như đóa hoa Khúc Tinh đã cầm ban nãy.
Chúng anh hùng thảy đều lấy làm kinh dị, vì đó chính là phép Phi Hoa Thương Nhân, mà những bậc luyện võ đến mức tinh vi tuyệt xảo mới có thể sử dụng.
Người biết phép này chỉ cần dùng một cành cây, một tàu lá là có thể đả thương một đối thủ cách xa vài ba mươi trượng.
Nay Khúc Tinh dùng phép này để ném những cành hoa nhỏ bé, mong manh kia khảm sâu vào tường với một lối ném vô cùng chính xác, đã tạo nên một đóa hoa cực kỳ tươi đẹp khảm sâu vào vách.
Với bản lĩnh cao siêu kỳ diệu đó, làm cho một bậc võ lâm đệ nhất cao thủ là Cô Trúc cũng phải buột miệng khen ngợi.
Mãi đến thế võ thứ bốn mươi hai thì tốc độ của Khúc Tinh lại nhanh nhẹn vô cùng, và thân hình của ông ta lại dường như tung tăng bay nhảy, xa trông dường như một con cá chép đang vùng vẫy giữa dòng nước bạc.
Có lúc lại hiên ngang mạnh bạo như một con hổ tung hoành giữa chốn rừng xanh, có lúc lại lồng lộn mãnh liệt như rồng thiêng giữa biển.
Và cứ mỗi lần thay đổi thế võ, một đạo hồng quang lại bay ra, tiếp tục tô điểm cho đóa hoa trên tường thêm phần tươi thắm.
Và đến khi trong tay ông ta chỉ còn lại một cành hoa, ông ta định dùng một thế võ cao siêu nhất, đẹp mắt nhất để chấm dứt trò biểu diễn, bỗng thình lình…
Người ta nghe Khúc Tinh hét lên một tiếng dữ dội :
– Ai đó?
Tiếng hét chưa dứt thì ông ta đã vung bàn tay hữu ra, và người ta thấy trong lòng bàn tay của ông ta có một đường màu xanh bay ra vun vút, tương tự như một con rắn lục, uốn éo bay vút ra cửa.
Và mọi người thoáng thấy một lão đạo sĩ râu tóc bạc phơ, thân hình béo mà lùn, mồm cười toe toét hiện ra trước cửa, trong tay lão đạo sĩ này cầm chặt cành hoa mà Khúc Tinh ném ra ban nãy.
Chấm dứt chuỗi cười, lão đạo sĩ nói :
– Lão Khúc, đây là lễ diện kiến của mi chăng?
Vừa nói, lão ta vừa ve vẩy cành hoa trong tay.
Và mọi người đồng cười ồ lên vì biết lão đạo sĩ này chẳng phải người xa lạ, chính là một bậc đứng hàng thứ ba trong Nam Hải thất kỳ, trong giang hồ gọi là Tam Bạch Đạo Trưởng, tên thật là Liễu Liễu.
Khúc Tinh cười trả lời :
– Ta ngỡ ai, té ra Liễu đạo trưởng… hay lắm… hay lắm…
Liễu Liễu gật gù cái đầu bạc phơ, trao cho Khúc Tinh một nụ cười hể hả, lão ta nói :
– Món đồ chơi này ta trả cho mi.
Câu nói chưa dứt thì bằng một động tác cực kỳ lanh lẹn, ông ta sử một thế Ngọc Nữ Đầu Thoa, phóng cành hoa bay vù về phía Khúc Tinh.
Không tránh né, Khúc Tinh chờ cho cánh hoa cách mình còn năm tấc, bất thình lình đảo bộ, trổ hai ngón tay thần tốc, điểm vào cành hoa để thay đổi phương hướng của nó.
Và cành hoa kia như một mũi tên lìa ná, bay vù tới khảm sâu vào bức tường, gắn liền với đóa hoa đã khảm tạo thành một bức tranh vô cùng đẹp mắt.
Thế rồi hai lão nắm tay nhau đến bên giường Bệnh Hiệp, Liễu Liễu bùi ngùi nói rằng :
– Mười mấy năm không gặp, không ngờ Bệnh Hiệp lại đến nỗi này!
Bệnh Hiệp chỉ trao cho ông ta một cái nhìn biết ơn, chợt nghe Thiết Điệp nói :
– Chúng ta mỗi người đều phải biểu diễn một món nghề riêng để giúp vui cho lão Lạc, vậy bây giờ tới phiên mi… Liễu Liễu.
Liễu Liễu giật mình, biết bà ta nhắc chừng mình đừng gợi thêm nỗi buồn cho Bệnh Hiệp.
Ông ta vội vàng hỏi Bệnh Hiệp :
– Lão Lạc… mi có đồng ý như vậy không?
Bệnh Hiệp chớp nhanh cặp mắt tỏ vẻ đồng ý. Chợt nghe Cô Trúc hỏi :
– Liễu Liễu, bảy anh em của bọn mi đều mạnh giỏi cả? Bọn họ có theo mi đến đây chăng?
Liễu Liễu lắc đầu trả lời :
– Phải đến hai năm nữa thì bọn họ mới đến, nhưng e rằng chỉ tới một người thôi vì Nam Hải thất kỳ đã đi tứ tán gần mười mấy năm nay…
Bỗng ông ta rảo mắt nhìn quanh khắp nhà hỏi Cô Trúc :
– Ai là Tâm Đăng?
Cô Trúc cau mày nghĩ thầm :
– Tại sao lão già này cũng biết Tâm Đăng?…
Tâm Đăng nghe nhắc đến tên mình vội vàng bước ra xá chào, vừa muốn mở miệng nói chuyện thì Lư Âu đã gạt ngang :
– Chúng ta đang biểu diễn võ công thì mi tới la lối quấy rầy… bây giờ phạt mi biểu diễn một trò cho Bệnh Hiệp xem.
Liễu Liễu cười hề nói rằng :
– Thôi được!
Nói rồi thò tay với bình rưọu trên bàn bước ra giữa nhà nói :
– Để tôi dâng rượu tạ tội với quí vị.
Mọi người nghe nói thảy đều cầm chung rượu trên tay.
Liễu Liễu khoát nhẹ bàn tay một cái thì bình rượu tự động vỡ nắp đó là miếng Cách Không Hấp Thạch, phi một tay rèn luyện trên mấy mươi năm không thể nào thi thố nổi.
Thế rồi lão lại vung bàn tay hữu ra đè nhẹ trên miệng bình, từ trong miệng bình tức khắc có một tia nước vọt ra, tạo thành một đường vồng cầu tuyệt mỹ…
“Cây rượu” ấy tuần tự rót vào chén của mọi người không để rơi ra ngoài một giọt.
Những người trẻ tuổi thấy vậy thảy đều reo theo vang dậy. Liễu Liễu cười ha hả chộp lấy bầu rượu, ngửa miệng lên trời, đoạn lắc lư bầu rượu liên hồi mà chẳng có rượu rơi ra. Lão lẩm bẩm nói :
– Rượu chia hết rồi, phần ta chẳng có, thật là đáng tiếc.
Chợt nghe Thiết Điệp trả lời :
– Thôi, để ta nhường cho mi!
Bàn tay của bà từ trong ống tay áo thò ra, búng ly rượu lên không mà nói tiếp :
– Để ta hâm lại cho nồng.
Nói rồi từ trong lòng bàn tay của ba toát ra một làn hơi nóng truyền vào ly rượu, làm cho rượu trong ly xoáy mạnh tạo thành một lỗ xoáy con con.
Không mấy chốc người ta thấy trong ly rượu bốc lên một làn hơi nghi ngút và mùi thơm của rượu bay ra ngào ngạt, Liễu Liễu thấy vậy cười rằng :
– Rượu nóng thế này thì bảo ta làm sao uống được.
Và khi Thiết Điệp đặt ly rượu trước mặt Liễu Liễu thì rượu trong ly đã sôi lên sùng sục.
Thiết Điệp cười rằng :
– Khoan… để ta ra ngoài một chốc, lúc trở về mi sẽ uống.
Dứt lời không chờ cho Liễu Liễu trả lời, bà ta quay ngoắt người chạy như bay ra cửa.
Người ta thấy một vệt khói mờ bắn vút ra ngoài rồi mất dạng trong màn đêm. Lư Âu hậm hực nói :
– Hừ… để xem mi diễn trò con khỉ gì?