Chuyện Tình Vịnh Cedar 3: Có Anh Trong Đời

Chương 10



Maryellen đã đi làm trở lại. Cô để con gái được mười tuần tuổi ở nhà em gái vào sáng thứ hai, tuần cuối cùng của tháng mười. Cô quay lại công việc ở phòng tranh từ chín giờ sáng cho đến năm giờ chiều.

“Con bé sẽ ổn thôi” Kelly đảm bảo với Maryellen khi thấy chị mình còn đang lo lắng nấn ná ở cửa không dám đi.

“Gọi điện cho chị nếu có việc gì nhé” Việc bỏ con gái ở nhà khó khăn hơn Maryellen nghĩ. Việc để Jon đón Katie thường xuyên cũng đã là một khó khăn lớn với Maryellen rồi. Cô đã nghĩ rằng để Katie lại cho em gái của mình thì dễ dàng hơn, nhưng không phải vậy. Cô chảy nước mắt khi nghĩ đến cảnh phải xa con hơn tám tiếng mỗi ngày.

“Bà mẹ trẻ đều phải trải qua cảm giác này.” Kelly cam đoan với cô. “Thật khó để mà rời xa con mình, thậm chí khi chúng ta biết chắc là nó được chăm sóc ở mức tốt nhất”.

“Thông thường con bé sẽ đòi ăn vào lúc mười giờ” Maryellen nói mặc dù cô đã nhắc lại lịch của Katie hai lần. Cô đã vắt sữa sớm hơn và cho vào mấy chiếc bình.

“Em biết, em biết rồi. Bây giờ thì chị đi đi không sẽ muộn giờ làm đấy”.

Em cô nói đúng, nhưng Maryellen vẫn phân vân chưa nỡ đi ngay mà đứng một lát ở lối ra cửa trước. Sau đó, cô quay lưng vội vã chạy ra xe như sợ mình sẽ thay đổi quyết định. Trong vòng vài ngày, việc xa Katie sẽ phải trở thành một phần thói quen của cô. Cô đã nghĩ tới việc mang Katie đến phòng tranh cùng cô, nhưng một đứa bé sẽ khiến cô không thể tập trung làm việc được. Và cho dù không công khai cấm, nhưng chắc chắn người chủ phòng tranh cũng không đồng ý nếu cô đưa con đến.

Cô ghét việc phải xa con mình hơn tám tiếng mỗi ngày, cô ghét cảm giác nôn nao bất an trào ngược lên trong lòng. Những nghi ngờ luôn ám ảnh cô, cô sợ rằng mình không phải một người mẹ tốt. Cô bị đeo bám bởi ý nghĩ là cho dù Kelly là dì của Katie, nhưng em cô không thể yêu con bé như chính bản thân mình. Mặc dù thấy ân hận nhưng cô hiểu điều này là cần thiết và không sớm thì muộn cô phải đối mặt với nó.

Đến mười giờ sáng hôm đó, Maryellen đã gọi điện cho em gái không dưới ba lần. Katie ngủ gần như cả buổi sáng như mọi ngày. Lần cuối cùng khi cô gọi điện, Kelly đã nói rằng cô đã hâm lại sữa và sẽ cho con bé ăn đúng giờ.

Maryellen tin em gái mình nhưng cô lo rằng Kelly sẽ không bế đứa bé như mình vẫn bế. Cô lo rằng môi trường lạ sẽ làm thay đổi nhịp sinh học của con bé. Lo rằng con bé sẽ bằng trực giác sẽ biết được nó không ở nhà mình, không nằm trên chiếc giường của mình, và nó sẽ khác.

Chuông cửa báo hiệu có người vào ở phòng tranh kêu lên khi Maryellen vừa đặt ống nghe xuống. Phải mất vài giây để làm dịu con tim đang đập liên hồi, cô cố gắng tỏ ra thân thiện và chuyên nghiệp để đón khách. Khi bước vào phòng chính để gặp người khách đầu tiên, cô mỉm cười.

Vẻ mặt đầy tính công việc của cô nhanh chóng thay đổi khi nhìn thấy đó là Jon. Cô rất hài lòng khi gặp anh vì ít nhất cô đã có ai đó để nói chuyện về Katie.

Anh nhìn cô cau mày và nói. “Anh đã nghĩ đúng”.

“Anh nghĩ gì chứ?” Cô lập tức thấy cáu tiết. Nỗi vui mừng khi nhìn thấy anh lập tức biến mất. Cái cô cần là sự chia sẻ, không phải một bài thuyết giáo.

“Anh cho rằng anh phải kiểm tra xem ngày đầu tiên em đi làm như thế nào. Chắc phải khó khăn lắm em mới rời được Katie phải không?”.

Cô muốn vờ đóng kịch rằng anh đã hoàn toàn lầm tưởng về cô, nhưng cô không làm được điều đó. Cô nhận thấy ngày càng khó che giấu cảm xúc của mình trước Jon. Trước khi sinh Katie, cô đã rất giỏi khi đánh lạc hướng mẹ và em gái về những suy nghĩ và tình cảm của mình. Nhưng Jon có một khả năng bẩm sinh trong việc nhìn thấu cô.

“Thật là khủng khiếp”, cô thú nhận.

“Con bé có khóc ầm lên không?”.

Maryellen lắc đầu, và đúng như cô lo sợ, nước mắt cô đang tuôn trào. Điều này thật đáng xấu hổ.

Jon đỡ cánh tay cô và đưa cô vào phòng trong. Anh quay người cô lại đối mặt với mình, và đặt tay lên vai cô. “Katie sẽ hoàn toàn ổn khi được Kelly chăm sóc”.

Maryellen gật đầu. “Chỉ là em ghét vì không được ở cùng con bé”.

Jon thở dài thành tiếng, và chậm rãi như thế ngược với ý muốn của anh, anh kéo Maryellen vào vòng tay mình. “Anh biết”.

“Làm sao mà anh biết được?”, cô nghi ngờ hỏi anh, cô muốn được anh an ủi dỗ dành nhưng lại ghét thực tế rằng cô cần điều đó. Cô nhắm mắt và cảm nhận vòng tay anh, tận hưởng sự ấm áp nơi anh, mùi hương rất nam tính của anh. Cô không muốn anh nhận ra ở bên anh cô thấy yếu đuối như thế nào. Cách duy nhất để chống lại những cảm giác này đó là phản ứng tự vệ.

“Anh biết chứ Maryellen”, anh nói giọng đều đều, “vì chính anh cũng cảm thấy không chịu đựng được khi không được ở bên con”.

“Ồ,” Điều này không thể khó khăn với anh được, cô lập luận. Anh ấy không thể trải qua những ăn năn và nghi ngờ như mình.

“Em … chắc em là một bà mẹ tồi”. Gần Jon như thế này khiến cô như người say; cô không thể diễn tả được hết cảm xúc của mình. Cô cần phải thoát khỏi trạng thái say mê này, phải rời xa anh và cô cần phải làm điều đó ngay bây giờ.

Những cảm xúc này chính xác là điều mà cô lo sợ kể từ lần đầu tiên họ hôn nhau. Anh khiến cô có cảm giác thật yên bình và yếu đuối khi được dựa vào anh. Nếu cô không bứt ra ngay từ bây giờ, anh sẽ có thể trở thành một phần vĩnh viễn không thiếu được trong cuộc đời cô. Và đó là điều mà cô không dám mạo hiểm. Anh là cha của Katie, nhưng sẽ không bao giờ là chồng của Maryellen.

“Em không phải một người mẹ tồi, em chỉ là một người mới làm mẹ,” Jon tự tin nói với cô. “Em còn phải học nhiều. Cả hai chúng ta đều phải học.” Anh nhẹ nhàng vuốt tóc cô khiến cô hầu như không thể rời khỏi vòng tay anh.

Phải gắng sức lắm cô mới dứt khỏi anh. Hai tay khoanh trước ngực, cô tựa hông vào bàn. “Em sẽ ổn thôi”.

“Em có chắc không?”.

Không dám nhìn vào mắt anh, cô khẽ gật đầu. “Em … chỉ vì đây là ngày làm việc đầu tiên. Chắc chắn đây là ngày khó khăn nhất”.

“Đó là những gì trong sách cho các bà mẹ trẻ đã nói đấy”.

Cô cố mỉm cười yếu ớt. “Anh thật chu đáo khi đã ghé qua thăm em”.

Jon cho hai tay vào túi. Cô nhận thấy rằng, bất cứ khi nào anh không chắc chắn về chính mình anh lại làm như thế. Cô cảm nhận rằng anh không muốn ở đây, nhưng anh cũng không thể bỏ mặc cô được. Cô hoàn toàn có thể hiểu được cảm giác của anh. Cô không muốn cho Jon lại gần cuộc sống của cô. Nhưng anh đã ở đây và cô không thể ngăn anh quan tâm đến Katie. Ngày Katie chào đời đã hình thành một sợi dây liên kết giữa hai người, họ vừa là cha mẹ, vừa là bạn bè, và cả hai đều không biết phải làm gì với những cảm xúc đó. Cách đây vài tuần, khi hôn anh, cô lại thấy mọi việc thật phức tạp.

“Anh đang trên đường đến chỗ làm phải không?”, cô hỏi, gợi ý để anh đi.

Jon hiểu ý cô. “Ừ, anh phải đi rồi”.

Lúc này cả hai đã cảm thấy thoải mái. “Cám ơn anh đã đến với em”.

Anh hướng ra phía cửa, và đột nhiên, không báo trước, anh quay lại, ôm lấy vai cô và hôn cô. Một nụ hôn nhanh chóng nhưng thật sự nóng bỏng. Nó khiến cô run rẩy.

Chuông cửa báo hiệu lại kêu khi anh bước ra. Phải làm điều gì đó ngay. Jon đã trở nên quá quan trọng trong cuộc đời cô.

Tối thứ tư, cả Allison và Eddie đều đang trong phòng ngủ làm bài về nhà, theo như Rosie nghĩ. Chẳng có gì trên tivi để xem nên cô đem một đống to quần áo cho vào máy giặt. Cô vẫn muốn giặt giũ tại nhà. Máy giặt tự động mới ở căn hộ đã phải có ít nhất hai mươi năm tuổi và nó đã làm hỏng một chiếc áo của cô.

Với ngân quỹ hạn hẹp, cô không muốn mạo hiểm làm hỏng bất cứ thứ gì trong tủ quần áo của mình nữa.

Chuông điện thoại reo Rosie biết Allison sẽ nghe máy. Allison luôn coi việc chộp lấy điện thoại khi bất cứ ai gọi đến là quyền của nó. Nó không bao giờ để điện thoại kêu mà không trả lời như Rosie vẫn làm như vậy trong thời gian gần đây, đặc biệt là vào buổi tối.

Năm giây sau hồi chuông đầu tiên, con gái cô thò đầu ra khỏi phòng ngủ.

“Điện thoại của mẹ” con bé nói bằng giọng hoài nghi. “Bố gọi”.

Thật tuyệt! Rosie nghĩ rằng lần này Zach gọi điện là để than phiền về việc gì đó.

“Mẹ đừng nói chuyện lâu nhé,” Allison nói bằng một giọng chanh chua. “Con đang chờ điện thoại gọi đến”.

Đây là một lời nhắc nhở tế nhị rằng bà thẩm phán kỳ cục – người đưa ra phán quyết quyền nuôi con chung đã trao ngôi nhà cho Allison và Eddie. Vì vậy điện thoại cũng thuộc về bọn trẻ – có phải đó là suy nghĩ của Allison không.

“Mẹ không nghĩ rằng bố mẹ có thể nói chuyện lâu được đâu” Rosie cam đoan.

Allison đóng cửa phòng ngủ không nói gì thêm.

Rosie trả lời điện thoại ở trong bếp vì cô cho rằng đây là nơi ít bị nghe trộm nhất. Cô hít một hơi thật sâu trước khi cầm ống nghe. “Alô,” cô nói rất vui vẻ.

Cô muốn tạo cho anh cảm giác là cô đang rất vui và cuộc gọi của anh là một sự gián đoạn.

“Tôi, Zach đây” anh nói bằng một giọng kiên quyết. “Tôi nghĩ rằng cô sẽ muốn biết cô có bạn trai gọi tới”.

Bạn trai của cô? Đây hoàn toàn là một tin mới mẻ với Rosie. À chắc hẳn anh ấy muốn nói tới Bruce. Lạy Chúa, cô mới chỉ gặp anh ta buổi tối hôm đó. Chỉ một lần đó cũng để cả hai nhận ra rằng điểm chung duy nhất giữa hai người là sự mất mát.

Họ vẫn rất thân mật và thỉnh thoảng có trò chuyện với nhau, nhưng tất cả chỉ có vậy.

“Tôi nghĩ cô nên biết điều đó.” Anh lại lặp lại.

“Tôi xin lỗi nếu cuộc gọi đó làm phiền anh.” Rosie nói, cố tỏ ra nhẹ nhàng.

“Chắc là anh ấy quên tối nay tôi không có nhà,” Cô cố ý tỏ ra cho Zach nghĩ rằng cô và Bruce thường xuyên gặp nhau.

“Anh ta có thường gọi không?”. Zach gặng hỏi, và chợt ngừng lại. “Không sao, tôi không có quyền hỏi như vậy”.

“Đúng, anh không có quyền.” Cô cảm thấy hả hê khi nói ra điều đó. “Cám ơn đã cho tôi biết. Tôi sẽ gọi lại cho Bruce ngay đây”.

“Trước khi gác máy, chúng ta có thể nói chuyện một chút được không?”, anh hỏi, “chỉ một lát thôi”.

“Được, nhưng tôi đã hứa với Allison là không giữ máy lâu vì con bé đang chờ điện thoại”.

“Nó thì lúc nào cũng chờ điện thoại.” Zach làu bàu. “Mấy ngày hôm nay hai mẹ con có vui vẻ với nhau không?”.

“Rất tốt, tại sao anh lại hỏi như vậy?”. Nếu Rosie và Allison mỗi người ở một góc thì cũng không cần thiết phải cho Zach biết điều đó.

“Con bé không nói gì với tôi mà luôn tỏ thái độ bướng bỉnh.” anh miễn cưỡng thú nhận.

Rosie nhận thấy điều này chắc phải rất khó khăn với anh vì Zach và Allison đã luôn rất thân thiết với nhau. “Tôi rất tiếc khi biết điều này”.

“Gần đây mấy giờ cô đi làm về?”, anh hỏi.

“Vẫn như mọi khi, khoảng năm giờ, thỉnh thoảng thì năm rưỡi. Tuỳ thuộc vào việc tôi dạy thay cho ai. Điều gì khiến anh phải hỏi như vậy?”.

“Allison về nhà lúc nào? Hai rưỡi à?”.

“Có lẽ thế.” Những hoạt động sau giờ học của con gái họ đã giảm dần sau khi họ ly hôn. Gần đây con bé đã bỏ bóng chuyền, một môn thể thao mà nó từng yêu thích. Allison cũng quyết định không tham gia vào câu lạc bộ kịch. Điều này khiến Rosie rất thất vọng vì cô vẫn tin Allison thực sự có năng khiếu, nhưng không ai có thể khiến con bé thay đổi quyết định của mình.

“Tôi nghĩ Allison có quá nhiều thời gian tự do một mình”.

“Tôi cũng nghĩ vậy” Rosie không còn đóng kịch nữa. Cô đang hết sức lo lắng về con gái, đặc biệt là những gì có thể xảy ra giữa con bé và cậu bạn trai.

May mắn là hai tuần qua không thấy bóng dáng Ryan đến nhà, nhưng điều đó không có nghĩa là cậu ta không đến. Vì trường học của Eddie tan lúc gần bốn giờ. Allison có thừa cơ hội để gặp Ryan mà không ai có thể biết nó đi đâu, với ai. Ý nghĩ đó khiến Rosie đau đầu.

“Chúng ta phải làm gì?”, cô hỏi Zach.

“Cô có cách gì không?”.

“Không có cách gì hết”. Cô thú nhận.

“Tôi cũng vậy”.

“Tôi cho rằng chúng ta phải nói chuyện nhiều với nhau về vấn đề này” Rosie nói. “Xem có vạch ra được phương án nào không”.

Zach đồng ý. “Tôi hỏi một chút nhé”. Anh nói tiếp. “Cô và anh chàng Bruce có hợp nhau không?”.

Cô đang định nhắc anh rằng việc cô hẹn hò với ai không cần anh phải bận tâm, nhưng cô lại thay đổi. “Chúng tôi khá hợp nhau”.

“Thế bọn trẻ nghĩ thế nào về anh ta?”.

“Tôi chưa giới thiệu anh ấy với bọn trẻ”. Cô không có ý định làm vậy, vì cô không có ý định đi chơi với anh ấy lần thứ hai.

“Vậy à” Zach thốt lên. “Rosie, tôi muốn cô biết rằng tôi thực sự chúc cô và Bruce hạnh phúc. Tôi nói điều này một cách chân thành”.

Rosie như muốn khóc và cô cố gắng giữ niềm kiêu hãnh của mình. “Cám ơn anh.” cô lí nhí. “Nếu Janice mang lại hạnh phúc cho anh, thì đó cũng là điều tôi mong muốn”.

Cả hai đều im lặng khoảng nửa phút.

“Việc quan trọng nhất đối với tôi bây giờ là trở thành một người cha tốt với các con”, Zach nói.

“Các con đối với tôi bây giờ cũng là điều quan trọng nhất.” cô nói với anh.

Nhưng khi cô gác máy, Rosie phân vân tự hỏi liệu có phải trước hết sự thất bại trong vai trò của một người vợ, người mẹ đã đưa cô đến tình thế này không?

Cha xứ Dave Flemming có ý định chơi một trận gôn trước khi những cơn mưa tháng mười một ập đến. Thông thường thứ hai là ngày ông rảnh rỗi, và ông đã thu xếp để tận dụng đợt nắng thu cuối cùng này. Ông bước chân lên thảm cỏ xanh mướt ở sân gôn McDougal Woods và thật ngạc nhiên khi ông gặp Bob Beldon. Bob và vợ anh, Peggy gần đây đã đến dự lễ ở nhà thờ Hội giáo lý vịnh Cedar. Peggy dạy một lớp học vào chủ nhật cho nhà thờ và Bob đã đồng ý huấn luyện cho đội bóng rõ thiếu niên. Dave rất thích Bob, còn Peggy là một đầu bếp cừ nhất mà ông được biết. Buổi lễ nhà thờ gần đây nhất chị đã mang đến món đào trộn đường, và nó đã trở thành món ăn ngon nhất của ngày hôm đó.

“Cha đang tìm người chơi cùng sao?”, Bob hỏi.

“Đúng vậy”. Dave niềm nở nói, ông hoan nghênh tất cả những người cùng chơi với mình.

Họ bắt đầu phát bóng từ cọc thứ nhất, sau đó nhảy lên xe.

“Thực sự không phải tình cờ mà Cha và con gặp nhau ở đây chiều nay.” Bob thú nhận. “Con gọi đến nhà thờ và thư ký của Cha nói là Cha sẽ đến đây”.

Vẫn không dừng lại, Dave với lấy cây gậy có đầu bịt sắt. “Con đang có chuyện gì sao?”.

“Đúng vậy Cha ạ”.

Nhìn chằm chằm sang Bob, Dave nhận thấy anh ta rất xanh xao với những quầng thâm dưới mắt. Kể từ lần gặp trước, Bob già đi trông thấy.

“Con hy vọng Cha có thể cho con vài lời khuyên”.

“Ta sẽ làm hết sức mình”.

Cú đánh hếp theo của Bob bị chệch lên cây. Anh lầm bầm:

“Con không giỏi môn này lắm”.

Dave tỏ ra thông cảm. Ông cũng không phải là một người giỏi chơi gôn nhưng ông không bình luận gì, ông để cho Bob có dịp nói ra những chất chứa trong lòng.

Đến tận khi đánh lỗ thứ tư Bob mới nói tiếp. “Con đã liên tiếp có những cơn ác mộng suốt ba mươi năm kể từ khi con quay về từ Việt Nam”.

Dave đứng gần chiếc xe chở gậy gôn. “Đây có phải điều mà con muốn bàn luận không?”.

Bob gật đầu và tựa mạnh vào xe. “Những sự kiện trong giấc mơ thực sự đã xảy ra … con cảm thấy hoảng sợ và kinh hoàng, một cảm giác sợ hãi đến tê liệt. Con nghe thấy và nhìn thấy một cách chi tiết, sinh động. Con đã sống lại cảm giác đó”.

Anh trèo lên xe chở gậy gôn và nhắm mắt. “Sau khi quay về từ Việt Nam, con mượn rượu để quên đi mọi chuyện.” Giọng Bob nhỏ tới mức Dave phải cố hết sức mới nghe ra được.

“Vậy là con bắt đầu uống rượu?”, ông hỏi lại để chắc chắn.

Bob gật đầu, mở mắt ra. “Sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự, con quay trở về với Peggy. Và chẳng bao lâu sau con gần như đã phá vỡ cuộc hôn nhân và cuộc sống của con bằng việc núp sau vỏ bọc là một kẻ nát rượu. Trong một vài năm, con dường như có thể quên đi quá khứ, nhưng sau đó ngay cả rượu cũng không giúp ích gì được nữa. Khi đó con đã xin vào Hội Những người cai rượu. Và đó là lý do duy nhất khiến bây giờ con trở lại là một người tỉnh táo”.

Dave bắt đầu quan tâm đến những lời Bob nói. Bob trông càng xanh xao hơn. “Ta có thể làm gì cho con?”.

“Trong mười hai quy định của Hội Những người nghiện rượu muốn giấu tên, chúng con được yêu cầu phải bồi thường bất cứ lúc nào có thể. Con không thể xoá bỏ những gì đã xảy ra trong cuộc chiến ngày ấy. Peggy là người duy nhất biết tất cả các chi tiết, người duy nhất mà con kể lại. Dan có lẽ cũng đã nói gì đó với Grace trước khi anh ấy bỏ đi”.

“Dan Sherman à?”.

Bob lại gật đầu. “Chúng con đăng ký đi Việt Nam sau khi học hết trung học và đã cùng nhau trải qua mọi biến cố của cuộc chiến”.

“Vậy là Dan Sherman cũng cùng đi với con trong cuộc đánh du kích?”.

“Vâng.” Bob che một tay lên mặt. “Con nghi rằng đây chính là lý do khiến anh ta tự sát. Có Chúa biết chính con cũng từng có ý định như vậy với mình, đặc biệt trong những ngày khi con còn nghiện rượu. Theo như con biết, rất nhiều người đã chọn lối thoát này. Con có thể hiểu được tâm trạng của họ”.

“Ta không hề biết con và Dan đã là bạn thân của nhau”.

“Bọn con chỉ chơi thân với nhau hồi còn đi học và trong chiến tranh thôi. Sau chiến tranh, con và Peggy đã di chuyển tới rất nhiều nơi. Con làm thợ mộc ở những công trường xây dựng lớn. Chúng con mới quay trở về vịnh Cedar được sáu năm”. Bob tựa người ra sau ghế và tay anh xoay tròn theo bánh lái.

Anh nhìn phía xa xăm. “Con không muốn việc này tạo gánh nặng cho Cha, nhưng con cho rằng con có một số rắc rối ở đây”.

“Ta không coi đó là gánh nặng.” Dave cam đoan với anh. “Cứ nói xem ta có thể giúp được gì cho con không”.

Tay Bob nắm chặt bánh lái. “Con cần biết con nên làm gì?”.

“Về những việc xảy ra trong chiến tranh?”.

“Vâng … và Dan nữa”.

“Vào thời điểm này chúng ta không làm được gì cho Dan.” Có lẽ Bob đang nghĩ bằng cách nào đó anh nên giúp Grace, nhưng Dave lại không nghĩ là Bob có thể giúp được gì cho cô.

Bob lắc đầu. “Con biết, con biết …”.

Có điều gì đó mà Bob không nói ra, anh đang cố giữ nó lại. Dave quyết định không dò hỏi. Bob sẽ nói cho ông nghe khi nào anh ta thấy sẵn sàng.

“Con đã kể cho Cha việc đôi lúc khi con bị mộng du hay chưa, con đã đi ra khỏi giường và đi xung quanh nhà. Vài năm trước đây, Peggy còn thấy con chuẩn bị đi ra ngoài. Lúc đó con vẫn đang mặc pijama và tay cầm chìa khoá xe trong khi con hoàn toàn đang ngủ”.

Dave gật đầu, hy vọng việc mình không bình luận gì sẽ khuyên khích Bob nói tiếp. Có nhiều chi tiết trong những chuyện Bob kể khiến Dave nghi ngờ là đã có chuyện không hay nào đó xảy ra, bắt đầu bằng việc anh ta nói về giấc mơ, mặc dù điều này hiển nhiên gắn liền với cuộc chiến tranh xảy ra ở Việt Nam.

Bob gục mặt vào tay. “Con đã đánh peggy khi cô ấy cố gắng ngăn con đi ra khỏi nhà. Con thề có Chúa con không hề biết những gì con đã làm”.

“Ta biết chắc những điều đó là thật.” Dave đáp lại nỗi đau đớn của Bob. “Trong trạng thái mộng du, con hoàn toàn không ý thức được hành động của mình mà”.

Sau một khoảng lặng dài, Bob hạ thấp giọng và thì thầm. “Con đã gặp ác mộng trong đêm xảy ra cơn bão to, khi John Doe đến.” Hàm anh nghiến chặt và Dave nhận thấy các cơ trên mặt anh ta co giật.

“Con có mộng du không?”.

Khuôn mặt Bob biến dạng. “Con không biết. Peggy cũng không nghĩ vậy, nhưng sáng hôm sau cả hai chúng con đều cảm thấy mệt mỏi và cô ấy không chắc”.

Mọi rắc rối bắt đầu sáng tỏ. “Con có nghĩ con có liên quan tới cái chết của người đàn ông đó à?”.

Bob im lặng lâu tới mức Dave phân vân không biết Bob có nghe thấy mình không. “Bob?”.

“Con không biết.” anh trả lời sau một hồi suy nghĩ. “Có vẻ không phải như vậy nhưng …”. Anh bỏ lơ lửng câu trả lời.

“Cảnh sát đã hỏi con chưa?”.

“Họ đã hỏi ngay từ đầu và sau một thời gian ngắn cũng hỏi lại con về điều này. Nhưng con nghĩ họ sẽ còn nói chuyện với con nữa”.

Dave không hỏi tại sao anh ta lại có suy nghĩ đó. “Con đang lo lắng về những gì mà họ có thể tìm ra?”.

“Con không hề biết chuyện gì đã xảy ra vào đêm hôm đó. Nhưng cũng không hẳn là không biết. Con băn khoăn về việc Dan tự sát – và sự thực là người lạ mặt đó trông … rất quen”.

“Quen? Ý con là như thế nào?”.

Bob ngoảnh đầu và nhìn vào đường lăn bóng. “Con cứ có cảm giác là con biết anh ta. Con đã cố gắng nhiều lần nhưng không thể nào nhớ ra một cái tên cho gương mặt đó”.

“Con đã trình bày việc này cho Roy McAfee chưa?”. Dave hỏi.

Bob quay lại và bắt gặp ánh mắt Cha. Dave nhận thấy Bob rất ngạc nhiên khi nghe lời gợi ý của ông.

“Cha nghĩ rằng con nên nói chuyện với Roy à? Tại sao con phải làm như vậy?”.

“Roy từng là một cảnh sát.” Dave nói. “Anh ta có thể cho con những lời khuyên tốt hơn ta rất nhiều về việc cảnh sát có thể tìm kiếm những gì. Nếu con có liên quan tới cái chết này, Roy có thể tư vấn giúp con và có thể tìm cho con luật sư”.

Vai của Bob chùng hẳn xuống. “Cha thực sự nghĩ anh ta có thể giúp con sao?”.

“Cha thực sự nghĩ như vậy.” Dave nói. Ông đẩy chiếc xe chở gậy bên cạnh Bob. “Nhưng còn một điều khác mà chúng ta có thể làm được”.

“Điều gì thưa Cha?”.

“Chúng ta có thể cầu nguyện”.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.