Chuyện Dài Bất Tận

Chương 7: Tiếng hát âm thầm



Gã mỉm cười sung sướng thong dong bước vào khu rừng cột đang hắt những bóng đen xuống nền dưới ánh trăng vằng vặc. Cảnh vật chung quanh thật vô cùng yên ắng, ngay cả tiếng chân mình gã cũng không nghe thấy. Gã không còn biết mình là ai, tên gì, đã vào đây như thế nào và tìm kiếm gì ở chốn này. Gã sửng sốt nhưng chẳng lo lắng gì.

Nền toàn khảm hoa văn xoắn vào nhau hoặc những cảnh trí đầy bí ẩn. Atréju đi qua những tấm tranh khảm ấy, bước lên bậc thềm với những sân rộng mênh mông, xuống thềm khác, băng qua một lối đi dài hai bên đầy cột đá. Gã thích thú ngắm nhìn từng cây cột, vì mỗi cây được trang trí theo một kiểu riêng với những hình tượng khác nhau. Cứ như thế gã đi xa dần Cổng Không Chìa.

Sau khi đã đi không rõ bao lâu, cuối cùng gã nghe xa xa có tiếng ngân bồng bềnh nên dừng bước lắng nghe. Tiếng ngân gần lại hơn, hóa ra đó là một giọng hát rất du dương, trong như tiếng chuông, thanh như tiếng trẻ con, nhưng nghe buồn vô hạn, phải, đôi khi có tiếng nấc. Tiếng hát bi ai này luồn qua những cây cột nhanh như làn gió thoảng, khi chợt đứng yên một chỗ, khi chợt bổng lên trầm xuống, tiến lại gần rồi xích ra xa như bao quanh Atréju trong một vòng tròn lớn.

Atréju đứng yên chờ đợi.

Vòng tròn – mang tiếng hát quanh Atréju – cứ hẹp dần và giờ đây gã đã nghe được lời bài hát:

– “Ôi, tất cả mọi điều xảy đến chỉ một lần thôi,

nhưng đều phải xảy ra – dù chỉ một lần.

Ta sẽ tan trên núi non thung lũng, đồng ruộng.

Và gió sẽ cuốn ta đi…”

Atréju quay người nhìn theo tiếng hát đang không ngừng bay luồn giữa những cột trụ nhưng chẳng thấy ai cả.

– Người là ai? Gã kêu lên.

Có tiếng hỏi lại như tiếng vọng:

– Bạn là ai?

Atréju ngẫm nghĩ.

– Tôi là ai ư? Gã lẩm bẩm. Tôi không nói được. Dường như tôi đã từng biết mình tên gì. Nhưng có quan trọng không.

Tiếng hát đáp lại:

– “Bạn muốn kín đáo hỏi ta,

thì hãy nói với ta bằng thơ, có vần có điệu

vì hễ nói không vần không điệu,

thì ta không hiểu – ta không hiểu…”[1]

[1] Những đoạn thơ này đều có vần điệu, người dịch rất tiếc không chuyển được sang văn vần.

Atréju không rành thơ phú lắm nên thấy cuộc trò chuyện sẽ khá khó khăn nếu tiếng nói kia chỉ hiểu thơ thôi. Gả đành phải tập thử trước một lúc rồi mới đọc ra:

– “Nếu tôi được phép hỏi,

thì tôi muốn biết người là ai.”

Tiếng kia liền đáp:

– “Bây giờ thì ta nghe được bạn rồi,

và ta hiểu rất rõ!”

Rồi tiếng hát kia lại cất lên từ một hướng khác:

– “Ta cảm ơn bạn, vì bạn có hảo ý.

Ta chào mừng bạn là khách.

Ta là Uyulala, Tiếng-hát-âm-thầm,

trong Cung-điện-thăm-thẳm.”

Atréju để ý thấy tiếng hát kia khi to khi nhỏ, chứ không bao giờ im bặt hẳn. Ngay cả khi không hát hay lúc Atréju nói thì vẫn luôn có một âm thanh bồng bềnh liên tục quanh gã.

Vì tiếng ngân từ từ lùi xa nên Atréju chạy theo hỏi:

– “Nói đi, Uyulala, người còn nghe tôi nói không?

Tôi không nhìn thấy người, nhưng rất muốn.”

Tiếng kia thoảng qua bên tai gã như một làn gió nhẹ:

– “Chưa từng có ai

nhìn thấy ta.

Bạn không thấy ta,

nhưng ta vẫn ở đây.”

– Nghĩa là người vô hình chứ gì? Atréju hỏi. Rồi khi không nghe trả lời gã mới nhớ phải hỏi theo thể thơ:

– “Người chỉ vô hình ?

hay vô thể nữa?”

Một tiếng ngân khẽ không rõ cười hay nấc, rồi tiếng hát lại cất lên:

– “Đúng và sai; cả hai

không như bạn nghĩ.

Ta không hiện hình trong ánh sáng,

như bạn hiện hình.

Vì thân thể ta là tiếng ngắn cung bậc,

nên chỉ nghe được thôi,

bản thân tiếng nói này

là tất cả hiện hữu của ta rồi.”

Atréju sửng sốt đi theo tiếng ngân kia quanh kháp khu rừng cột. Một lúc sau gã nghĩ xong một câu hỏi:

– “Tôi có hiểu người đúng không?

Hình hài của người chỉ là tiếng ngân này ư?

Thế một khi người ngừng không hát nữa,

thì người không còn hiện hữu nữa sao?”

Rồi gã lại nghe tiếng trả lời thật gần:

– “Khi bài hát chấm dứt,

thì ta cũng sẽ héo tàn

như mọi sinh linh khác thôi.

Đó là quy luật của vạn vật.

Ta sống, khi nào ta còn ngân.

Nhưng chẳng còn bao lâu nữa.”

Lại nghe có tiếng nấc, Atréju không hiểu vì sao Uyulala khóc nên vội hỏi:

– “Vì sao người buồn, cho biết ngay đi!

Người còn trẻ quá mà, tiếng người như tiếng trẻ con.”

Lại nghe như có tiếng vọng:

– “Chẳng bao lâu nữa gió sẽ cuốn ta đi.

Ta chỉ là một bài hát bi ai.

Nhưng nghe đây: thời gian trôi,

vậy bạn hãy hỏi đi, hỏi đi!

Bạn muốn ta cho bạn biết điều gì?”

Tiếng kia vang lên đâu đó giữa những hàng cột, còn Atréju không nghe thấy nữa nên quay đầu tứ phía lắng nghe. Im ắng một lúc rồi tiếng hát từ xa lại tới gần thật nhanh, nghe gấp gáp như mất kiên nhẫn:

– “Uyulala là câu trả lời. Bạn phải hỏi Uyulala đi!

Nếu bạn không hỏi thì Uyulala không thể nói gì được!”

Atréju gọi với theo:

– “Uyulala, hãy giúp tôi, tơi muốn biết:

Tại sao người lại sắp héo tàn?”

Tiếng kia hát:

– “Nữ-thiếu-hoàng héo hon dần

và cả vương quốc Tưởng Tượng héo mòn theo.

Hư Không sẽ nuốt mất nơi ta ở,

và chẳng bao lâu ta cũng chung số phận.

Chúng ta sẽ biến mất vào cõi Không Đâu và chẳng Bao Giờ,

như thể chúng ta chưa hề hiện hữu.

Cần một tên mới cho Nữ-thiếu-hoàng,

thì bà mới bình phục được.”

Atréju lại hỏi:

– “Uyulala, hãy cho biết ai cứu được bà!

Ai có thể cho bà tên mới?”

Tiếng kia đáp:

– “Hãy nghe lời ta nói,

dù bạn chưa hiểu lúc này,

thì cứ khắc sâu vào tâm khảm,

trước khi bạn đi khỏi nơi đây,

để sau này, khi gặp dịp,

chúng sẽ trong tiềm thức sâu thẳm

trồi lên ánh sáng ban ngày,

trọn vẹn, như đang ngân vang lúc này.

Tất cả tùy thuộc bạn có làm được hay không.”

Tiếng ngân ai oán không lời vang lên một lúc lâu, rồi đột nhiên Atréju nghe như tiếng ai đó ghé sát tai gã:

– “Ai có thể cho Nữ-thiếu-hoàng một tên mới?

Không phải bạn, chẳng phải ta, không phải nàng tiên, hay thần sa mạc;

không ai trong chúng ta cứu được Nữ-thiếu-hoàng,

không ai giải thoát tất cả chúng ta khỏi tai họa,

không ai làm Nữ-thiếu-hoàng khỏe lại được.

Chúng ta chỉ là những nhân vật trong một quyển sách,

để làm những gì được tạo cho chúng ta.

Chỉ là những giấc mơ và những hình ảnh trong một câu chuyện,

thì chúng ta phải như thế thôi,

tạo ra cái mới thì dù là ông vua, bậc hiền giả hay đứa trẻ

cũng đều không làm được.

Nhưng ở thế giới bên kia của vương quốc Tưởng Tượng,

có một vương quốc gọi là Ngoại Giới,

và những người sống ở đó thật giàu trí tưởng tượng,

họ ở trong một hoàn cảnh khác hẳn!

Người ta gọi – rất đúng – những người sống trên trái đất

là con cháu Adam, con cháu Eva,[2]

và loài người là anh em ruột thịt của Lời Thật[3].

Ngay từ thuở tạo thiên lập địa

họ đã có năng khiếu đặt tên.

Bất cứ lúc nào họ cũng đem đến

cho Nữ-thiếu-hoàng đời sống.

Họ tặng bà tên mới, mỹ miều,

nhưng đã lâu lắm rồi;

con người không đến vương quốc Tưởng Tượng nữa.

Họ không còn nhớ đường.

Họ đã quên mất rằng chúng ta có thật

nên họ không còn tin điều ấy nữa.

Ôi, chỉ cần một đứa trẻ đến với chúng ta thôi,

là mọi chuyện được giải quyết ổn thỏa!

Ôi, ví dầu chỉ một người sẵn sàng tin

và nghe thấu lời chúng ta kêu gọi!

Họ đến với chúng ta thì gần,

còn chúng ta đến với họ thì xa, quá xa.

Vì thế giới của họ ở phía bên kia vương quốc Tưởng Tượng,

mà chúng ta lại không thể đến đó được,

còn bạn, người anh hùng trẻ tuổi,

có ghi nhớ được những điều Uyulala đã nói hay không?”

[2] Theo “Kinh Thánh” của đạo Cơ đốc thì Adam và Eva là “thủy tổ” của loài người (“Cựu ước”).

[3] Lời Thật: “Kinh Thánh” (đầu tiên là Lời).

– Có, có, Atréju hoang mang đáp. Gã gắng hết sức ghi nhớ vào tâm khảm, nhưng vì không biết tại sao cần nhớ nên gã không hiểu những điều kia nói về chuyện gì. Gã chỉ cảm thấy là rất quan trọng thôi, nhưng vì giọng hát kia đều đều, lại phải cố gắng nghe thơ, nói thơ nên gã buồn ngủ. Gã lẩm bẩm:

– “Tôi sẽ nhớ! Tôi sẽ nhớ,

nhưng xin cho biết tôi phải bắt đầu bằng việc gì?”

Tiếng kia trả lời:

– “Bạn phải quyết định lấy.

Thế là bạn đã được báo tin rồi đấy.

Đã đến giờ

hai chúng ta từ biệt.”

Atréju nửa tỉnh nửa mê hỏi:

– “Người đi ư?

Người đi đâu?”

Tiếng hát kia lại nấc lên và dần xa:

– “Hư Không đã đến gần rồi,

Lời Tiên Tri im tiếng.

Từ nay không còn nghe tiếng ngân,

lên bổng xuống trầm.

Bạn sẽ là người cuối cùng,

trong số những kẻ đã đến tìm ta.

Trong rừng cột đá

để được nghe giọng nói của ta.

Có thể bạn sẽ làm được,

điều chưa ai làm nổi,

nhưng muốn thành công,

thì hãy ghi nhớ những gì ta vừa căn dặn!”

Atréju lại nghe vẳng từ xa xăm:

– “Ôi, tất cả mọi điều xảy đến chỉ một lần thôi,

nhưng đều phải xảy ra – dù chỉ một lần.

Ta sẽ tan trên núi non thung lũng, đồng ruộng.

Và gió sẽ cuốn ta đi…”

Đó là lới cuối cùng Atréju nghe được.

Gã ngồi tựa lưng vào môt cây cột, nhìn lên bầu trời đêm trên cao, cố hiểu những điều vừa được nghe. Sự im ắng trùm lên gã như một chiếc áo khoác mềm nặng. Gã ngủ thiếp đi.

Khi thức giấc gã thấy quanh mình là bình minh lạnh lẽo. Gã nằm ngửa mặt nhìn trời. Những vì sao cuối cùng đang lặn. Tiếng của Uyulala vẫn còn âm vang trong tâm khảm. Đồng thời gã nhớ lại tất cả mọi chuyện đã trải qua và mục đích của cuộc tìm kiếm.

Rốt cuộc bây giờ gã đã hiểu phải làm gì. Chỉ có một đứa trẻ của loài người từ bên kia thế giới mới có thể đặt cho Nữ-thiếu-hoàng một tên mới được. Gã phải tìm được một đứa trẻ của loài người đem tới Nữ-thiếu-hoàng!

Gã nhỏm dậy.

“Ôi, Bastian thầm nghĩ, nếu được thì mình muốn giúp Nữ-thiếu-hoàng biết bao, giúp bà và giúp cả Atréju nữa. Mình sẽ nghĩ một cái tên thật mỹ miều. Giá mình biết cách đến gặp được Atréju thì mình sẽ đi ngay. Bạn ấy sẽ trố mắt khi đột nhiên thấy mình cho mà xem! Nhưng tiếc thay đâu có được, đúng không?”

Rồi nó nói khẽ:

“Nếu có cách nào đến với các bạn được thì nhớ bảo tớ nhé. Tớ sẽ đến ngay, chắc chắn, Atréju ạ! Rồi bạn sẽ thấy.”

Khi Atréju ngó quanh, gã thấy khu rừng cột với những bậc thềm, những sân nọ biến đâu mất hết cả. Quanh gã chỉ là vùng đất phẳng hoàn toàn trơ trụi gã đã thấy khi ngó qua ba cái cổng thần trước khi đi ngang. Nhưng bây giờ thì cả Cổng Không Chìa lẫn Cổng Gương Thần đều không còn đó nữa.

Gã đứng lên nhìn kỹ khắp mọi hướng. Bấy giờ gã phát hiện ra ngay giữa vùng đất bằng kia, không xa lắm, đã hình thành một chỗ giống như gã đã từng thấy trong rừng Haulewald. Nhưng lần này gần hơn nhiều. Gã quay người, ba chân bốn cẳng chạy về hướng ngược lại.

Sau một lúc lâu Atréju nhìn thấy nơi chân trời xa xa có một chỗ hơi gồ lên, có thể đó là vùng đá đỏ màu sắt gỉ, nơi có cái Cổng Vấn nạn lớn.

Gã chạy thẳng về hướng đó, mãi một lúc lâu mới tới đủ gần để phân biệt rõ chi tiết. Gã đâm ra hồ nghi. Đúng là nơi đó giống ít nhiều với cảnh trí vùng đồi núi đá nọ, nhưng sao không thấy một cái cổng nào cả. Những phiến đá cũng không đỏ nữa, mà lại xám hoặc không màu.

Chạy thêm một hồi lâu nữa gã nhận ra giữa những tảng đá đằng kia quả thật giống phần dưới của cái cổng kia, nhưng vòm cổng không còn nữa. Đã xảy ra chuyện gì?

Cuối cùng, mấy tiếng đồng hồ sau, khi đến được nơi đó thì Atréju mới tìm ra câu trả lời. Cái vòm cổng khổng lồ bằng đá đã sập, còn đôi nhân sư đã biến đâu mất!

Atréju len lỏi qua đống hoang tàn đổ nát rồi leo lên một đống đá hình kim tự tháp đưa mắt tìm nơi gã đóan là chỗ trú ngụ của hai ông bà lùn và của con Phúc long. Hay là cả ba cũng đã bỏ chạy trước Hư Không rồi?

Rồi gả thấy sau bức tường chắn bằng đá trên đài quan sát của ông Engywuck có một lá cờ trắng nhỏ xíu đang vẫy vẫy. Atréju đưa cả hai tay vẫy lại rồi khum làm loa gọi lớn:

– Mấy người còn đó không?

Gã kêu chưa dứt đã thấy một con Phúc long trắng lấp loáng màu xà cừ nhô đầu ra từ thung lũng của đôi vợ chồng ẩn cư: chính là con Fuchur!

Nó từ từ bay tới bay lui trên bầu trời, uốn lượn những động tác tuyệt đẹp, có đôi lần hào hứng quá mức nó lật ngửa mình, lượn nhanh như chớp thành những vòng lửa trắng chập chờn. Rồi nó đáp xuống ngay trước kim tự tháp đá, nơi Atréju đang đứng. Nó chống thân hình đồ sộ trên hai chân trước, cúi cái cổ cao ngòng nhìn Atréju, xoay tròn đôi mắt như hai quả bóng màu hồng ngọc, há họng thè lưỡi rổn rảng giọng chuông đồng:

– Atréju, bạn và cậu chủ của tôi! Cậu đã trở về, thật may mắn biết bao! Chúng tôi gần như tuyệt vọng rồi, ấy là tôi nói đôi vợ chồng ẩn cư sắp tuyệt vọng, chứ tôi thì không!

– Mình cũng mừng được gặp lại bạn, Atréju đáp. Nhưng chuyện gì đã xảy ra trong một đêm qua thế?

– Một đêm à? Fuchur kêu lên. Cậu tưởng chỉ một đêm thôi sao? Cậu sẽ kinh ngạc cho mà xem! Leo lên, tôi chở cậu đi!

Atréju nhún người leo lên lưng con vật khổng lồ. Đây là lần đầu gã cưỡi một con Phúc long. Tuy đã từng cưỡi ngựa hoang và không hề biết sợ hãi, thế mà mới đầu gã suýt ù tai, mờ mắt dù chỉ bay một đoạn ngắn. Gã bám chặt đám bờm bay phần phật của Fuchur, khiến nó phải cười sằng sặc kêu:

– Atréju, từ nay cậu phải quen dần đi thôi!

Atréju há miệng thở:

– Bạn đã khỏi hẳn rồi nhỉ!

– Gần thôi, con rồng đáp, chưa khỏi hẳn!

Rồi chúng đáp xuống trước cửa hang, nơi ông Engywuck và bà Urgl đứng bên nhau chờ đón.

– Cháu đã thấy những gì nào? Ông Engywuck liền huyên thuyên ngay tức thì. Cháu phải kể hết cho ta nghe! Phải đối phó với mấy cái cổng như thế nào? Các thuyết của ta đúng không? Uyulala là ai hay là gì?

– Thôi đi! Bà Urgl cắt ngang. Phải ăn uống đã chứ. Tôi nấu nướng đâu phải để bỏ đi. Sẽ còn đủ thì giờ cho sự tò mò vô bổ của lão!

Atréju từ lưng rồng leo xuống chào đôi vợ chồng lùn. Rồi cả ba người ngồi quanh cái bàn con đã bày sẵn đủ món ngon lành và một ấm trà thảo mộc nghi ngút khói.

Tháp chuông điểm năm giờ. Bastian buồn bã nghĩ tới hai phong sô cô la để trong hộc bàn ngủ ở nhà, phòng khi nó đói giữa đêm. Nếu biết trước rằng sẽ không bao giờ trở về nữa thì nó đã cầm theo làm lương thực dự trữ phòng khi nguy cấp rồi. Bây giờ thì đành chịu. Tốt hơn cả đừng nghĩ tới nữa!

Fuchur duỗi dài thân trong cái thung lũng đá hẹp, đầu kề bên Atréju hóng chuyện.

– Ông bà nghĩ mà xem, nó kêu, cậu chủ và là bạn tôi tưởng rằng mới chỉ đi vắng có một đêm thôi đấy!

– Không phải thế sao? Atréju hỏi.

– Bảy ngày bảy đêm đấy! Fuchur đáp. Cậu xem này, các vết thương của tôi gần khỏi hết rồi!

Mãi bấy giờ Atréju mới để ý thấy các vết thương của mình cũng đã khỏi. Miếng cao dán đã tuột mất. Gã sửng sốt.

– Sao lại thế được nhỉ? Cháu đi qua ba cái cổng thần, nói chuyện với Uyulala, rồi cháu ngủ thiếp đi.. nhưng cháu không thể nào ngủ lâu thế được.

– Không gian và thời gian, ông Engywuck nói, trong đó chắc phải khác ở đây ít nhiều. Tuy nhiên trước cháu chưa từng có ai ở trong Đền Tiên tri lâu đến thế. Đã xảy ra chuyện gì? Nói đi thôi!

– Nếu được thì trước hết cháu muốn biết chuyện gì đã xảy ra ở đây, Atréju đáp.

– Thì cháu thấy đấy, ông Engywuck nói, màu sắc biến đâu mất hết, tất cả mỗi lúc một thêm hư ảo, Cổng Vấn nạn lớn không còn đó nữa. Có vẻ sự hủy diệt cũng đã bắt đầu ở nơi đây rồi.

– Thế còn đôi nhân sư? Atréju hỏi. Chúng đi đâu? Chúng bay mất à? Ông bà có trông thấy không?

– Chẳng thấy gì sất, ông Engywuck lầm bầm, ta cứ mong cháu sẽ cho bọn ta biết được chút gì. Vòm cổng đá đột nhiên đổ ụp, mà không ai trong bọn ta nghe hay thấy chút gì. Thậm chí ta đã mò tới tận nơi xem xét. Mà cháu biết kết quả thế nào không? Vết gãy có từ xưa lắm rồi, rêu xám bám đầy, như đã phơi ra đó từ cả trăm năm trước, như thể chưa hề có Cổng Vấn nạn lớn vậy.

– Mà có cổng này thật, Atréju khẽ nói, vì cháu đã đi qua, cháu qua cả Cổng Gương Thần và Cổng Không Chìa nữa.

Rồi Atréju thuật lại hết những gì đã trải qua. Gã nhớ rành mạch từng chi tiết.

Ông Engywuck mới đầu còn hăm hở hỏi chen, đòi Atréju tả kỹ hơn, nhưng dần dần ít nói hẳn. Cuối cùng, khi Atréju nhắc lại hầu như đúng từng chữ từng điều Uyulala đã nói thì ông im thin thít. Khuôn mặt nhỏ nhăn nhúm của ông lộ vẻ vô cùng phiền muộn.

– Bây giờ thì ông rõ điều bí mật rồi đấy, Atréju kết thúc, ông nhất thiết muốn biết mà, đúng vậy không? Uyulala là một sinh linh được tạo nên bởi một tiếng nói duy nhất. Chỉ có thể nghe được hình dáng của cô thôi. Cô ở chỗ có tiếng ngân nga.

Ông Engywuck im lặng một lúc rồi bật ra mấy tiếng khàn khàn:

– Cháu muốn nói là bây giờ cô không còn ở chỗ đó nữa?

– Vâng, Atréju đáp, theo lời cô thì cháu là người cuối cùng mà cô trò chuyện.

Hai giọt lệ nhỏ lăn trên đôi gò má nhăn nheo của ông Engywuck.

– Ta đã hoài công! Ông rên rỉ. Ta đã nghiên cưú, quan sát bao nhiêu năm đằng đẵng, công việc suốt một đời ta… đổ xuống sông hết! Cháu là kẻ đem đến cho ta viên gạch cuối cùng cho tòa nhà khoa học của ta, lẽ ra ta có thể kết thúc được rồi, có thể viết chương chót được rồi… nào ngờ bây giờ chẳng còn ích lợi gì nữa, thừa thãi hoàn toàn, chẳng giúp được ai nữa cả, không còn đáng một xu teng, chẳng ma nào quan tâm đến nữa, bởi vì cái chuyện ấy không còn nữa! Hết, hết, thế là xong!

Ông nấc đến rung cả người, nghe như một cơn ho. Bà Urgl thương hại nhìn ông, vuốt ve cái đầu hói của ông, lẩm bẩm:

– Tội nghiệp lão già Engywuck! Tội nghiệp lão già Engywuck! Đừng thất vọng thế! Ông sẽ tìm được việc khác thôi mà.

– Này bà! Ông Engywuck quắc mắt. Người mà bà thấy trước mặt không phải là lão già Engywuck tội nghiệp, mà là một con người khốn khổ!

Rồi, như lần trước, ông chạy vào hang sập mạnh cửa. Bà Urgl thở dài lắc đầu lẩm bẩm:

– Ông không nghĩ vậy đâu, ông tốt bụng mà, chỉ tội quá điên khùng thôi.

Ăn xong, bà Urgl đứng dậy nói:

– Bây giờ bà đi thu xếp hành trang. Những thứ bọn ta mang theo được chẳng nhiều nhặn gì, nhưng gom góp cũng phải một mớ. Ừ, phải làm bây giờ thôi.

– Ông bà định bỏ đây mà đi à? Atréju hỏi.

Bà Urgl phiền muộn gật đầu.

– Bọn ta đâu còn con đường nào khác. Ở đâu sự hủy diệt lan tràn thì không còn gì mọc được nữa. Với lại đâu còn lý do gì để ông chồng ta ở lại đây nữa. Bọn ta phải xem tình hình sẽ như thế nào. Rồi sẽ ổn cả thôi. Còn hai đứa bay tính thế nào?

– Cháu phải làm như Uyulala đã căn dặn, Atréju đáp, cháu phải cố tìm một đứa trẻ loài người đưa đến Nữ-thiếu-hoàng để bà có một tên mới.

– Thế cháu định tìm đứa trẻ của loài người ấy ở đâu? Bà Urgl hỏi.

– Cháu cũng không biết nữa, Atréju nói, chắc là ở bên kia ranh giới của vương quốc Tưởng Tượng.

– Tụi mình sẽ tìm được mà, Fuchur cất tiếng chuông lanh lảnh, tôi sẽ chở cậu. Rồi cậu sẽ thấy tụi mình gặp may cho mà xem!

– Ừ, bà Urgl khẽ nói, vậy các cháu đi đi thôi!

– Hay là chúng cháu chở ông bà đỡ một quãng? Atréju đề nghị.

– Lại còn thế nữa cơ! Bà Urgl đáp. Chẳng đời nào ta chịu bềnh bồng trên không trung cả. Chỉ có đứng vững trên đất bằng thì người lùn mới thật là người lùn. Với lại đừng dềnh dang vì bọn ta, hai cháu có chuyện quan trọng hơn phải làm: vì tất cả chúng ta.

– Nhưng cháu muốn được bày tỏ lòng biết ơn của cháu, Atréju nói.

– Thế thì cách tốt nhất, bà Urgl càu nhàu, là cháu đừng mất thì giờ vì ba cái chuyện vô bổ, mà phải lên đường ngay đi!

– Bà nói phải, Fuchur nói. Đi, cậu Atréju!

Atréju rướn người đu lên lưng con Phúc long. Gã ngoái nhìn bà Urgl lùn một lần nữa, gọi:

– Hẹn tái ngộ!

Nhưng bà đã vào hang thu xếp hành lý rồi.

Mấy giờ sau, khi bà cùng ông Engywuck ra khỏi hang thì mỗi người địu trên lưng một cái giỏ đầy và họ đã lại hăm hở cãi cọ. Cứ thế họ bước đi trên đôi chân vòng kiềng nhỏ xíu, không ngoái lại một lần nào.

Xin nói thêm là về sau ông Engywuck trở thành rất nổi tiếng, thậm chí là người lùn nổi tiếng nhất dòng họ, nhưng không phải vì công trình nghiên cứu khoa học của ông. Nhưng đó lại là một chuyện khác để kể vào dịp khác.

Khi đôi vợ chồng ẩn cư cất bước lên đường thì Atréju đã bay thật xa trên lưng Fuchur trong bầu trời vương quốc Tưởng Tượng.

Bất giác Bastian ngó lên cửa tò vò, tưởng tượng nếu bất chợt thấy trên bầu trời đã sẩm tối một con Phúc long như một tia lửa trắng bay đến gần… nếu Atréju và con Phúc long bay đến đón nó đi… thì sao nhỉ?

“Chao ơi, nó thở dài, hay biết mấy!”

Nó có thể giúp hai đứa kia và hai đứa kia giúp nó. Thế là ai cũng sẽ được giải thoát.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.