Chùm Nho Phẫn Nộ

Chương 30



Trong trại toa xe, nước đọng lại thành vũng và mưa rơi, bùn bắn tung toé.

Con suối nhỏ dần dần bò lên ngập bờ và tràn vào bãi đất thấp phẳng trên đó các toa tàu đang đứng sừng sững.

Mưa đến ngày thứ hai thì Al gỡ mái bạt ngăn đôi toa. Hắn mang đi phủ lên nắp máy rồi hắn trở vào ngồi trên nệm. Cái màn ngăn được gỡ bỏ, gia đình Joad và Wainwright từ nay chỉ còn có một. Đàn ông ngồi túm tụm lại với nhau, tinh thần đã suy giảm. Mẹ lo lắng dè sẻn củi khô chỉ nhóm một bếp lửa củi vụng leo heo. Mưa xối xả trút thác xuống nóc toa hầu như bằng phẳng.

Ngày thứ ba, gia đình Wainwright đã bắt đầu tỏ ra bồn chồn.

– Dễ chừng chúng ta nên đi thì hơn, – bà Wainwright nói.

Mẹ cố gắng giữ họ lại:

– Ông bà định đi đâu? Mà có chắc tìm được một mái che không bị dột không?

– Tôi không biết sao, nhưng có cái gì như linh tính báo tôi biết là ta phải đi khỏi nơi đây.

Họ tiếp tục bàn luận, và Mẹ đưa khoé mắt nhìn Al.

Ruthie và Winfield cố gắng nô đùa một lát nhưng rồi chúng cũng rơi vào tâm trạng uể oải, ủ rũ.

Mưa đập tùng tùng luôn trên mái.

Ngày thứ ba, suối đã dâng thành thác, tiếng gầm thét át cả tiếng ầm ầm như tiếng trống.

Đứng ở ngưỡng cửa, Bố và chú John nhìn dòng nước đang ùn ùn dâng lên. Ở hai đầu trại, dòng nước tiến lại gần con đường cái những đến quãng ở giữa trại, nó trải ra thành một vành đai rộng, vì vậy mà khu trại đã bị bờ đường cao bao vây ở mặt sau, lại còn bị dòng thác ép sát mặt nước.

Bố nói:

– Chú thấy thế nào, chú John? Tôi nghĩ nếu nước cứ tiếp tục lên thế này, ta sẽ bị ngập.

Chú John há miệng và xoa xoa bộ râu rễ tre.

– Ờ – Chú nói – Rất có thể thế.

Rosasharn nằm liệt giường vì bị cúm nặng, má cô đỏ phừng phừng, mắt long lanh trong cơn sốt.

Mẹ ngồi bên cạnh cô, tay cầm tách sữa nóng.

– Nào. Con uống đi. Trong đó có lẫn mỡ thịt lợn muối, con ăn cho lại sức. Nào, uống đi con.

Rosasharn yếu ớt lắc đầu:

– Con không đói.

Bố đưa tay trỏ vạch một đường cong trong không khí.

– Nếu mọi người quyết cầm lấy xẻng đắp một cái như cái đập, tôi cam đoan là sẽ chặn được nước lũ. Chỉ cần đắp từ kia… đến kia.

– Đúng. – chú John đồng ý – Có thể lắm. Vấn đề là chẳng biết các nhà khác có đồng ý hay không.

Có lẽ họ muốn đi nơi khác.

– Nhưng ở trong toa khô ráo,- Bố nói – Tìm đâu ra một nơi khô ráo như thế này. Đợi xe…

Ông rút một que củi trong đống củi trên toa và chạy ra ngoài. Lội bì bõm trong bùn, ông tới cầm que củi thẳng đứng ở bờ suối, đúng chỗ mực nước.

Lát sau, ông quay về toa.

– Mẹ kiếp! Mới một chút mà đã ướt thấu xương.

Hai người chăm chú theo dõi chiếc que nhỏ. Họ thấy nước dâng cao bao quanh lấy nó và dần dần tuồn lên dọc bờ. Bố ngồi xổm trước cửa.

– Nước lên nhanh lắm, – Bố nói – Tôi nghĩ đã đến lúc bàn một tiếng với các nhà khác. Xem họ có thuận giúp chúng ta đắp cái đập không. Họ mà không muốn thì phải chuồn. Bố quay nhìn về phía toa bên kia. Al đang ngồi bên cạnh Aggie. Bố thâm nhập vào vùng độc chiếm của hai anh chị.

– Nước dâng, – Bố nói – Hay ta đắp một cái đập? Có thể làm được nếu ai cũng bắt tay vào.

Wainwright nói:

– Nhà tôi đang bàn chuyện đó.

– Theo tôi ta đi khỏi đây thì hơn.

– Ông quen thung thổ ở đây – Bố nói – Ông cũng biết chúng ta chẳng có nhiều may mắn gì để tìm ra được một chỗ trú như thế này. – Tôi biết. Nhưng dẫu sao thì… Al nói:

– Bố ơi, ông bà đây đi, thì con cũng đi cùng.

– Con không thể làm thế. Al ạ. – Bố chưng hửng đáp – Còn xe… nhà ta không ai biết lái xe nữa.

– Chẳng can gì đến con. Aggie với con, chúng con phải ở bên nhau.

– Khoan hẵng, Bố nói – Lại đây xem tí đã.

Wainwright và Al đứng lên đi lại gần cửa.

– Thấy không? – Bố miệng nó, tay chỉ – một cái đập đơn giản từ kia đến kia.

Ông nhìn chiếc que. Bây giờ nước chảy xoáy cuồn cuộn xung quanh và từ từ dâng bờ.

– Công việc vất vả lắm mà không biết có ăn thua gì không – Ông Wainwright phản đối.

– Nhưng dẫu sao thì chúng ta ngồi đây chả làm gì. Chi bằng ra tay. Chẳng tìm được nơi đâu những căn nhà khô ráo như thế này. Thôi, đi. Chúng ta sẽ bàn với các nhà khác. Nếu ai cũng cùng bắt tay vào thì có thể làm được.

Al nói:

– Aggie mà đi, con cũng đi.

– Nghe đã, Al – Bố nói – Nếu ai nấy đều không muốn giúp chúng ta thì thôi, chúng ta buộc cũng phải đi. Nào, đi, ta sẽ nói chuyện với họ.

Họ so vai lại, chạy xuống cầu ván ghép, leo lên cầu ván của toa bên cạnh rồi ùa vào trong.

Ngồi trước bếp lò, Mẹ giữ cho bếp lửa leo heo khỏi tắt, nhờ mấy cành củi khô. Ruthie tới nép vào lòng mẹ.

– Con đói, – nó mếu máo.

– Con nói chuyện vớ vẩn. – Mẹ nói – Con vừa mới ăn cháo đấy thôi.

– Con muốn có một hộp bích quy. Chúng con không làm gì cả. Chẳng biết chơi gì.

– Con sẽ chơi đùa thoả thích… sau này. – Mẹ nói – Đừng nôn nóng. Chả mấy chốc sẽ được chơi đùa. Ta sẽ có một căn nhà, một con chó… rồi con xem.

– Con muốn có một con chó – Con chó, cả một con mèo nữa. Con mèo vàng tuyền.

– Đừng làm phiền Mẹ – Mẹ nài nỉ – Lúc này đừng đến quấy rầy mẹ. Chị Rosasharn ốm. Con cố ngoan, tí chút nữa thôi, nghe, Ruthie? Sau này ta sẽ vui đùa.

Ruthie vừa rên rỉ vừa lượn lờ trong toa.

Từ tấm nệm nơi Rosasharn đang nằm trùm chăn, một tiếng kêu thét ngắn gọn vang ra. Mẹ quay ngoắt người chạy xô tới. Rosasharn nín thở, mắt khiếp đảm mở trừng trừng.

– Chuyện gì vậy con?

Người thiếu phụ lại thở hắt ra, rồi lại nín thở.

Thình lình Mẹ luồn tay dưới chăn. Rồi mẹ đứng lên, gọi to:

– Bà Wainwright! Ơ i bà Wainwright.

Người đàn bà to béo từ đầu toa kia đi lại.

– Bà gọi tôi đấy ư?

– Bà trông kìa.

Mẹ lấy tay chỉ gương mặt Rosasharn. Hàm răng của cô cắn sâu vào môi dưới, trán ướt đẫm mồ hôi, và sự kinh sợ lấp lánh trong đôi mắt.

– Tôi ngờ ngợ nó sắp sinh rồi! Thiếu tháng.

Người thiếu phụ trút ra một tiếng thở dài, duỗi người ra, hé răng và nhắm mắt lại. Bà Wainwright cúi xuống cô:

– Cháu có cảm thấy đau quặn khắp nơi, cùng một lúc không? Nào, mở miệng ra, nói đi.

Rosasharn yếu ớt gật đầu. Bà Wainwright quay về phía Mẹ – Phải rồi. Đúng thôi. Thiếu tháng như bà nói.

– Có lẽ cơn sốt làm nó sẩy.

– Dẫu sao cháu cũng phải đứng lên. Mà phải đi, phải đi đi lại lại.

– Nó không đi được. Yếu sức rồi.

– Dẫu sao cháu cũng phải đi lại.

Bà Wainwright nói với giọng chắc nịch trầm tĩnh do kết quả bao nhiêu năm kinh nghiệm.

Bà nói:

– Tôi đã đỡ đẻ đâu chỉ có một lần. Nào, ta đóng cửa lại, kín đáo bao nhiêu tốt bấy nhiêu. Tránh gió máy.

Hai người phụ nữ cố đẩy cánh cửa lùa nặng nề và gần như đóng hẳn nó lại, chỉ còn hở một chút.

– Tôi về lấy chiếc đèn bên tôi sang – bà nói.

Khuôn mặt bà đỏ lên vì kích động. Bà gọi con gái.

– Aggie. Con sang trông các em nhỏ.

Mẹ gật đầu: – Phải đấy. Ruthie, và mày nữa, Winfield hãy đến với chị Aggie. Nào gấp lên.

– Sao thế ạ? – Chúng hỏi.

– Vì người ta bảo mà. Rosasharn sắp có em bé.

– Con muốn xem. Mẹ ạ. Cho con.. xin Mẹ…

– Ruthie, mày có đi đi không? Đi ngay! Giọng bà đanh, chúng không dám ho he. Ruthie và Winfield lùi lại sàn phía đầu toa. Mẹ thắp đèn lồng. Bà Wainwright xách đèn dầu của bà tới, đặt lên sàn, và ngọn đèn toả sáng tròn rực cả toa.

Đứng sau đống củi, Ruthie và Winfield nghển cổ để nom cho rõ hơn.

– Chị ấy sắp có em bé. Chúng mình sẽ thấy tất. – Ruthie thì thầm – Nhất là đừng có làm ồn tí nào. Không có thì Mẹ không cho chúng mình nhìn đâu. Nếu mẹ quay lại phía này thì ngồi thụp xuống sau đống củi, thế thì mới xem được.

– Bọn nhóc thì mấy đứa đã xem được thế này – Winfield nói.

– Dào! Chả một mống nào được xem – Ruthie nói một cách tự hào – có hai đứa chúng mình thôi.

Ngồi xổm cạnh nệm, dưới ánh đèn sáng rực. Mẹ và bà Wainwright sôi nổi bàn luận, khẽ cao tiếng để át tiếng mưa rơi lộp bộp. Bà Wainwright lấy từ túi ra một con dao con và luồn nó xuống dưới đệm. Có lẽ làm thế chả có ích gì. – Bà nói như xin lỗi – Nhưng ở quê tôi, bao giờ người ta cũng làm thế. Dẫu sao cũng chẳng hại gì.

Mẹ gật đầu:

– Ở quê tôi, người ta dùng một lưỡi cày. Bất cứ gì sắc là được, miễn là nó trừ được cơn đau sinh đẻ. Con có thấy khá hơn không?

Rosasharn lo lắng lắc đầu.

– Sắp… có phải nó sắp rồi không?

– Hẳn rồi, – Mẹ nói – Con sắp có một đứa bé xinh xắn. Miễn là con phải giúp vào. Con xem liệu có thể đứng lên đi lại một chút không?

– Để con thử xem.

– À, nói thế mới là ngoan đấy. – Bà Wainwright nói – Cháu ạ, cháu ngoan lắm, tốt lắm. Cháu thân yêu, Mẹ và bác sẽ đỡ cháu, đi cùng cháu.

Hai mẹ giúp cô đứng lên, và lấy một tấm chăn choàng lên vai cô. Tiếp đó, Mẹ và Wainwright, mỗi người đỡ lấy một cách tay cô. Họ dẫn cô tới tận đống củi, từ từ quay lại, dẫn cô tới nệm, rồi bắt đầu làm lại. Mưa đập tùng tùng, giận dữ trên mái toa. Ruthie và Winfield căng mắt nhìn, lo lắng.

– Khi nào thì chị ấy có em bé – Winfield hỏi.

– Suỵt! Mày làm họ đến đây mất. Rồi không được nhìn nữa đâu.

Aggie đến với chúng phía sau đống củi. Khuôn mặt mảnh dẻ và mái tóc vàng hoe của cô nổi đậm trong ánh sáng đèn và bóng cái đầu in trên tường, với một cái mũi dài và nhọn.

Ruthie thì thầm:

– Chị đã trông thấy một bé sinh ra chưa?

– Hẳn là rồi – Aggie đáp – Thế vậy, bao giờ chị ấy có bé?

– Ồ, không lâu lắm đâu.

– Nhưng bao giờ?

– Có lẽ trước sáng mai.

– Eo ơi! Ruthie nói – Thế thì chả bõ xem. Ồ trông kìa.

Thình lình hai bà ngừng phắt, không đi lại nữa.

Rosasharn co rúm người, rên la đau đớn. Họ đặt cô nằm thẳng trên đệm, lau mồ hôi trán cho cô trong lúc cô làu nhàu và nắm chặt tay lại. Mẹ dịu dàng dỗ dành:

– Dễ thôi… Cứ tự nhiên, khắc xong.. một mình. Có điều con nắm tay thật chặt. Thế, bây giờ, cắn chặt môi vào. Thế… thế… Cơn đau biến mất. Họ để cô lấy lại sức một chút, rồi lại dìu cô đứng lên, và cả ba cùng đi đi lại không ngừng, giữa những cơn đau quặn của Rosasharn.

Bố thò đầu vào khe cửa. Nước trên mũ bố rỏ xuống ròng ròng:

– Sao lại phải đóng cửa thế?

Ngay lúc đó ông trông hai người đàn bà đang đi đi lại lại. Mẹ đáp:

– Con nó sắp sinh.

– Thế thì… ta sẽ không đi được, cho có muốn đi cũng chịu, phải không?

– Phải.

– Thế thì phải đắp đập?

– Phải đắp thôi.

Bố lại đi xuống sông, lội bì bà bì bõm trong bùn. Nhìn qua cái chuẩn, thấy nước đã lên bốn đốt ngón tay. Hai mươi người đã tụ tập dưới mưa.

Bố kêu to.

– Phải làm thôi. Con gái tôi đang lên cơn đau đẻ.

Người ta xúm quanh bác.

– Sắp sinh à?

– Ờ, Chúng tôi không đi được nữa.

Một người to cao phản đối:

– Không phải con chúng tôi. Chúng tôi cứ đi.

– Hẳn rồi – Bố nói – Các bác cứ đi. Ai ngăn được. Có điều, chỉ có tám cái xẻng.

Ông vội vã đi về phía bờ thấp và lấy cái xẻng ấn sâu vào bùn.

Khi nhấc xẻng lên nghe có tiếng kêu chùn chụt. Ông lại xúc tiếp, hất bùn vào chỗ trũng. Những người khác phân ra đứng dọc bờ và bắt đầu đắp một cái đập dài. Những ai không có xẻng thì cắt những cành liễu nhỏ đan phên rồi lấy gót đậm xuống chân đê. Một cơn điên khùng lao động, điên khùng vật lộn xâm chiếm mọi người. Một người vừa buông xẻng ra, người kia đã vội giật lấy. Họ cởi áo ngoài, bỏ mũ, áo lót và quần dính bết vào người, giày của họ chỉ còn là những cục đất biến dạng. Một tiếng kêu thất thanh vọng ra từ toa hàng nhà Joad. Đám đàn ông ngưng tay, lo lắng nghe rồi công việc lại tới tấp hối hả. Bức tường nhỏ bằng bùn dài ra, hai đầu đụng vào bờ đường.

Bây giờ họ đã thấm mệt, các tay xẻng hoạt động chậm hơn. Và con suối vẫn dần lên, dâng lên. Nước đã lên trên mức những xẻng đất đầu tiên.

Bố cười đắc thắng:

– Giá không có đập thì bây giờ ngập nước rồi! Dòng nước đang từ từ dâng lên bờ đập, bắt đầu xói lở tấm phên bằng cành liễu.

– Cao nữa! Bố hét. – Phải cho cao hơn nữa. Về chiều, công việc cứ tiếp tục. Họ không cảm thấy mệt nhọc nữa. Những khuôn mặt cứng đơ như mặt người chết. Họ làm việc như cái máy. Trời tối hẳn, các bà thắp đèn đặt ở trước cửa và pha cà phê nóng. Lần lượt hết người nọ đến người kìa, các bà chạy tới toa của nhà Joad và lạch vào bên trong.

Cơn đau dày hơn, kéo dài khoảng hai mươi phút.

Còn Rosasharn thì không cố nén nữa, mỗi cơn đau dữ dội lại kèm theo một tiếng hét xé tai.

Các bà láng giềng nhìn cô, vỗ nhẹ vào người cô để an ủi rồi trở về toa của họ.

Mẹ đã nhóm một bếp lửa to, và đặt tất thảy xoong chảo lên bếp đun. Chốc chốc, Bố lại tới, thò đầu vào cửa toa.

– Sắp chưa?

– Tôi nghĩ là sắp – Mẹ đáp.

Lúc bắt đầu tối, một người nào đó đem tới một chiếc đèn pin để dễ làm việc. Chú John xúc hối hả, hắt đất lên ngọn đê.

– Nhẹ nhàng thôi, chú John – Bố nói – Làm lấy chết à?

– Không dừng được. Nghe cháu nó la hét như vậy tôi không chịu nổi – Tôi nhớ lại, giống như hồi…

– Biết rồi, – Bố nói – Vừa vừa tay thôi.

Chú lẩm bẩm.

– Tôi phải đi trốn. Lạy Chúa, nếu phải ngừng tay thì tôi bỏ trốn mất.

Bố quay ra chỗ khác.

– Ta đã soát lại ngần nước mới chưa?

Người có chiếc đèn pin rọi vào chùm sáng vào khúc củi. Mưa rơi thành những mũi tên nhỏ trắng xoá cắt ngang vòng tròn ánh sáng.

– Vẫn lên. – Giờ nó lên chậm hơn – Bố nói – Trước tiên phải cho nước tràn ra xa, phía bên kia.

– Dẫu sao, vẫn lên.

Đám phụ nữ đổ đầy cà phê vào bình và một lần nữa lại đặt trước cửa toa. Đêm càng muộn, cánh đàn ông làm việc càng chậm hơn và như ngựa kéo xe họ nhấc chân lên một cách nặng nhọc hơn.

Bùn chồng chất thêm trên đê, lại thêm các phên liễu dận sâu trong bùn. Mưa vẫn tầm tã. Chùm ánh sáng đèn pin soi rọi những bộ mặt có đôi mắt đăm đăm, những gò má gân guốc nhô lên.

Trong toa tàu, tiếng la hét vang lên một hồi lâu và sau đó, im bặt.

Bố nói:

– Lúc nào con sinh xong, Mẹ mày gọi tôi.

Bố lại bắt đầu xúc bùn với vẻ buồn bã.

Dòng nước xoáy cuồn cuộn sục sôi đập vào bờ đê. Rồi đột nhiên, nghe tiếng răng rắc dữ dội ở phía đầu dòng. Nhờ ánh đèn pin, người ta thấy một cây dương to lớn đổ nhào xuống nước. Họ ngừng tay đưa mắt nhìn. Các cành cây cắm sâu vào nước rồi bị xoáy ốc cuốn đi trong khi nước tấn công các rễ còn lại. Thân cây từ từ bật rễ rồi thong thả trôi theo dòng nước. Người người kiệt sức, đứng nhìn, miệng há hốc. Thân cây từ từ trôi xuôi dòng một cách ngoác vào một gốc cây cụt, mác cứng và không chịu buông ra nữa. Thế là cái gốc cây tua tủa những rễ từ từ xoay ngang và đến húc vào con đê mới. Phía sau thân cây nước dâng lên đánh vào con đập. Cây chuyển cái phên kè.

Nước theo kẽ nứt ùa vào. Bố vội vã lấy bùn nhét vào lỗ thủng. Nước ùn ùn dồn vào thân cây. Bờ đê cứ lở dần, lở dần, và sụp đổ. Nước dâng lên mắt cá, rồi đến đầu gối.

Mọi người hoảng hoạn, tẩu tán, trong khi trên bãi đất nằm, dưới các toa, dưới các xe, dòng nước bình tĩnh trải rộng tràn lan. Chú John đã thấy nước phọt ra từ lỗ nước dò.

Tuy mưa mù mịt nhưng chú vẫn thấy được. Chú cảm thấy chân bị chôn chặt xuống đất và vì người chú nặng nên không nhích nổi. Chú khuỵu đầu gối và dòng nước giận điên đến xoáy tròn quanh ngực chú.

Bố thấy chú ngã, vội đến nâng chú đứng lên.

– Hê! Làm sao thế? Chú ốm ư? Về thôi, ở chỗ toa đất cao.

Chú John thu thập sức lực – Tôi không biết thế nào – Chú nói để xin lỗi – Tự nhiên chân nó cứ khuỵu xuống.

Bố dìu chú về toa.

Khi đập bị vỡ Al đã quay lưng chạy. Hắn thấy chân nặng như đá đeo. Nước ngập đến bắp vế thì hắn về tới xe. Hắn giật lấy tấm bạt phủ cabin và nhảy vào buồng lái. Hắn rồ máy, động cơ quay quay nhưng xe vẫn ì ra. Hắn kéo mạnh tay gạt của tắc te, động cơ ngấm nước quay mỗi lúc càng chậm, và không chịu để văng ra một tiếng ho khan.

Nó quay chậm, chậm, chậm hơn nữa. Al lần mò dưới ghế, túm lấy tay quay và nhảy ra ngoài xe.

Nước đã ngập bậc lên. Hắn chạy ra phía trước.

Cacte đã nằm dưới nước. Hoảng hốt, hắn tra tay quay vào rồi quay, quay mãi. Bàn tay hắn xiết chặt. Mỗi vòng quay lại làm nước bắn tung toé.

Cuối cùng thì sự điên khùng của nó chùng xuống.

Động cơ đã bị dìm, bình điện tắc nghẽn. Trên một vạt đất cao hơn ở gần đấy, hai chiếc xe hơi đã mở máy chạy, đèn pha bật sáng. Xe bì bõm trong bùn, sa lầy, và cuối cùng người lái tắt máy nhưng vẫn ngồi ở tay lái, đưa mắt ám đạm nhìn ánh đèn pha.

Mưa phóng xuống những mũi tên nhỏ trắng xoá ánh đèn pha. Al từ từ đi vòng quanh xe, luồn tay vào trong và khoá công tắc.

Lúc bố đến chỗ bậc lên, ông nhận thấy đầu cầu ván ghép ở dưới bập bệnh trong nước. Ông lấy gót chân dẫm nó lún sâu trong bùn nước.

– Liệu chú có lên được một mình không, John? – Bố hỏi

– Được thôi. Bác đi trước.

Bố thận trọng leo lên cầu ghép và phải nép người lại để lách qua cửa toa hẹp. Hai ngọn đèn vặn nhỏ. Mẹ ngồi trên nệm, bên cạnh Rosasharn và quạt vào khuôn mặt lim dim của con bằng một miếng giấy bồi. Bà Wainwright đẩy củi vào bếp lò, và khói ẩm ướt luồn qua các khe hở của nắp lò, và toả ra khắp toa một mùi cháy khét lẹt. Mẹ ngước mắt nhìn Bố lúc nghe ông bước vào, nhưng rồi cúi mắt xuống ngay.

– Con nó… thế nào – Bố hỏi Mẹ không ngước mắt lên nữa.

– Có lẽ ổn. Nó ngủ.

Không khí hôi hám, nặng mùi sinh nở. Chú John lảo đảo bước vào và bíu lấy thành toa. Bà Wainwright bỏ công việc đấy, đi lại gặp bố. Bà nắm lấy khuỷu tay ông và dẫn ông vào một góc toa. Rồi bà lấy đèn, giơ đèn soi phía trên một thùng đựng khoai tây đặt trong góc. Một xác chết khô đét xanh tím và nhăn nheo đặt trên một tờ báo. – Nó không thở nữa, – bà Wainwright nói khe khẽ – Chết từ trước.

Chú John quay lại và lê bước nhọc nhằn tới góc tối của toa. Bây giờ mưa rít nhẹ nhàng trên mái, nên họ nghe rõ tiếng khụt khịt mệt mỏi của chú John vẳng ra từ bóng tối om.

Bố ngước mắt nhìn bà Wainwright. Bố cầm lấy chiếc đèn ở tay bà và đặt xuống sàn. Ruthie và Winfield ngủ trên đệm, cánh tay che mắt cho khỏi chói đèn.

Bố từ từ bước lại chỗ Rosasharn. Bố muốn ngồi xổm nhưng chân ông bải hoải. Thế là ông phải quỳ xuống. Mẹ vẫn phe phẩy mảnh giấy bồi. Trong một lát mẹ nhìn Bố, đôi mắt chăm chằm, như người mộng ru.

Bố nói:

– Chúng tôi… đã làm… hết sức.

Tôi biết.

– Chúng tôi làm việc suốt đêm. Thế mà một cây đổ đã phá thủng bờ đập.

– Tôi biết…

– Người ta nghe nước chảy dưới gầm toa.

– Tôi biết, tôi có nghe.

– Theo ý Mẹ mày thì con nó có lại sức được không?

– Tôi không biết.

– Nhưng… có việc gì đó… việc gì đó mà ta không có thể làm được chứ?

Đôi môi của mẹ trắng bệch, nghiêm khắc

– Không. Chỉ có một điều phải làm.

– Chúng tôi đã làm việc đến kiệt sức, -Bố nói – Thế rồi một cái cây… Mưa có vẻ giảm đi một ít.

Mẹ ngước mắt nhìn trần rồi lại gục đầu xuống.

Bố lại tiếp tục, vì buộc phải nói.

– Tôi không biết rồi nước sẽ lên tới đâu. Có thể toa ngập mất.

– Tôi biết.

– Gì bà cũng biết.

Mẹ ngồi im lặng, mảnh giấy bồi vẫn tiếp tục đưa đi đưa lại.

Bố gặng thêm:

– Hay là chúng ta lầm lỡ? Có cái gì đó mà lẽ ra ta có thể làm được?

Mẹ nhìn ông một cách kỳ quặc. Đôi môi trắng nhợt của Mẹ phác một nụ cười mơ màng, dạt dào thương hại.

– Ông chẳng có gì đáng trách. Suỵt! Mọi việc sẽ ổn thoả. Sẽ có những thay đổi. Khắp nơi.

– Nhưng liệu chừng nước… liệu chừng ta có buộc phải đi không?

– Khi nào đến lúc phải đi… chúng ta sẽ đi… Chúng ta sẽ làm những gì phải làm. Bây giờ ông im đi kẻo lại đánh thức nó dậy mất.

Bà Wainwright bẻ những cành củi khô đẩy vào bếp lửa ẩm ướt và khói um.

Phía ngoài nghe có tiếng người nói giận dữ.

– Ông sẽ vào nói cho cái lão con nhà khốn kiếp ấy biết.

Và ngay ở trước cửa, tiếng của Al:

– Ê này, ông định đi đâu thế kia?

– Đi vào đây nói chuyện với lão Joad chó đẻ.

– Không chuyện trò gì hết. Có chuyện gì?

Nếu lão không đưa ra cái ý kiến ngu xuẩn là đắp đập, thì chúng ta đã đi từ lâu rồi. Bây giờ thì xe thế là đi đứt.

– Còn dễ chừng, xe nhà tôi đang bốc lửa trên đường cái ấy nhỉ?

– Tao đếch cần, tao cứ vào.

– Có dám đánh nhau thì cứ vào. Sẽ biết tay – Al tỉnh bơ.

Bố gắng đứng lên đi ra cửa.

– Để tao. Al tao ra đây. Al, mặc tao.

Bố vừa bước vừa trượt xuống cầu ván. Mẹ nghe tiếng ông nói:

– Nhà tôi có người ốm. Vậy ta xuống chỗ này nói chuyện.

Mưa quét lắc rắc nhẹ trên mái, gió bắt đầu nổi lên từng con nhỏ thổi những hạt mưa nhỏ ra xa.

Bà Wainwright rời bếp lò, lại nhìn Rosasharn – Bà Joad ạ, sắp sáng rồi. Sao bà không đi chợp mắt một tí? Để tôi ngồi với cháu cho.

– Không – Mẹ nói – Tôi không mệt.

– Bà nói thế? Thôi bà đi ngả lưng một chút.

Mẹ khẽ phe phẩy quạt.

– Bà tử tế với chúng tôi quá, bà ạ. Chúng tôi chịu ơn bà lắm.

Bà Wainwright to béo mỉm cười:

– Bà đừng nói chuyện ơn với huệ làm gì. Chúng ta cùng hội cùng thuyền bà ạ. Giả dụ nhà tôi gặp cảnh cơ cực, bà cũng giúp đỡ chúng tôi, phải không?

– Phải, hẳn là thế.

– Và ai cũng vậy.

– Vâng, ai cũng vậy. Hồi xưa, gia đình họ hàng trước hết. Nhưng bây giờ không thế nữa. Ai cũng có thể giúp mình. Cùng khổ cực hơn lại càng phải thế.

– Ta đã không thể cứu được bé.

– Tôi biết lắm – Mẹ nói.

Ruthie thở dài một tiếng và nhấc cánh tay đang che mặt. Nó hấp háy nhìn ánh đèn và quay đầu lại nhìn Mẹ.

– Bé sinh chưa? – Nó hỏi – Ra chưa?

Bà Wainwright nhặt một cái túi và trải trên thùng đựng khoai tây.

– Bé đâu rồi? – Ruthie hỏi.

Mẹ liếm liếm môi nói:

– Không có em bé. Đây không phải là em bé. Ta nhầm đấy.

– Dào! – Ruthie vừa nói vừa ngáp – Con thì con thích có em bé kia.

Bà Wainwright ngồi xuống cạnh Mẹ, cầm lấy mảnh giấy bồi ở tay Mẹ và tiếp tục phe phẩy cho Rosasharn. Mẹ ngồi hai tay đặt vào lòng, đôi mắt mệt mỏi không rời khuôn mặt của con gái đang ngủ, trong cơn kiệt sức.

– Bà nên biết điều – Bà Wainwright nói – ít ra cũng ngả lưng một chút. Bên cạnh cháu, bà sẽ thấy khá hơn. Chỉ cần cháu nó thở mạnh một chút là bà thức giấc ngay thôi mà.

– Vâng, thế thì tôi nghỉ một lát.

Mẹ nằm xuống nệm bên con gái. Và bà Wainwright ngồi trên sàn trông chừng.

Ngồi ở khung cửa ra vào toa. Bố, Al và chú John nhìn bình minh xám xịt. Mưa đã tạnh, nhưng bầu trời sâu và nặng mây. Những đám mây dày đặc chồng chất phản chiếu trên mặt nước, trong ánh sáng của rạng đông. Ba người nom thấy dòng nước trôi nhanh lôi cuốn theo những cành cây đen, những hòm, những tấm ván. Nước lụt cuốn xoáy xâm chiếm bãi đất để toa xe. Không còn dấu vết tích gì của bãi đập nhỏ. Trên bãi đất bằng, không còn dòng nước chảy. Một đường viền bọt nước màu vàng đánh dấu giới hạn của ngập lụt. Bố cúi xuống và cầm một que nhỏ chỗ cầu ván, đúng chỗ mực nước.

Họ thấy nước từ từ dâng, nhẹ nhàng nâng cái que lên và cuốn đi. Bố cầm một que khác, cao trên mực nước một in và lùi lại để quan sát.

– Theo Bố thì nước có lên tới toa được không? – Al hỏi bố.

– Không thể biết được. Nước trên núi còn đổ xuống ê hề. Không biết chắc được. Có thể lại mưa lại, Al nói:

– Con đang nghĩ đến một điều. Nếu nước tràn vào toa, thì đồ đạc nhà ta mất sạch.

– Ờ… – Thế này… nó không thể lên toa qua ba hay bốn bộ vì lúc đó, nó sẽ tràn qua đường và chảy sang phía bên kia.

– Làm sao mày biết?

– Con đã tính toán khi lấy chuẩn phía sau xe.

Hắn giơ tay ra – Nước sẽ cao gần tới mức này.

– Được rồi. Nhưng thế thì sao? Chúng ta sẽ không ở đây nữa.

– Phải ở đây chứ. Trước hết là cứu xe. Ta phải mất một tuần tát hết nước ở trong ra. Khi nước ở ngoài xe rút xuống.

– Thế mày định ra sao?

– Có thể tháo các ván thành xe ra, lấy ván bắc ngang những đòn kê xếp đồ đạc lên đó và cùng ngồi ở đây luôn.

– Ờ… nhưng nấu ăn làm sao… ăn làm sao?

– Thì ít ra đồ đạc cũng khô ráo.

Bên ngoài, ngày đã sáng tỏ chiếu ánh sáng xám kim khí lên cảnh vật. Que củi thứ ba bị nâng lên và cuốn đi. Bố lại cầm một que khác cao hơn một chút.

– Nước dâng lên. -Bố nói – Tao nghĩ có lẽ phải làm như mày nói.

Mẹ luôn luôn cựa quậy trong giấc ngủ. Mắt Mẹ mở thao láo. Mẹ kêu thét lên một tiếng kinh hoàng.

– Tom! Tom? Tom ơi?

Bà Wainwright dịu dàng an ủi bà. Mắt bà mẹ đột nhiên nhắm lại và do giấc mơ đè nặng, bà tiếp tục quằn quại trên nệm. Bà Wainwright đứng lên và đi đến cửa toa bà nói: “Chúng ta không sớm đi khỏi đây được đâu – Bà chỉ góc toa ở đó có hòm khoai. “Để nó đó chẳng có ích gì. Chỉ thêm đau đớn, cực nhục. Liệu có thể… ai đưa đi chôn ở đâu đó được không?” Mấy người đàn ông lặng im. Cuối cùng. Bố nói:

– Bà nói thế là phải. Để lại chỉ có thể đau lòng thêm. Nhưng luật pháp cấm chôn như thế này.

– Có hàng đống chuyện mà luật pháp cấm đoán nhưng người ta buộc phải làm.

Al nói:

– Phải tháo các ván vành xe ra trước khi nước lên.

Bố quay về phía chú John.

– Chú đưa đi chôn được không? Để tôi với Al tháo đinh ván.

Chú John sưng sỉa:

– Sao cứ phải tôi mới được? Sao không người khác? Tôi không thích việc đó – Rồi đột nhiên chú nghĩ lại – Được rồi. Tôi sẽ đi. Đi ngay. Nào! Trao cho tôi. – Chú to tiếng – Nào – Trao cho tôi đi chứ! – Khẽ chứ, kẻo lại đánh thức họ dậy – bà Wainwright nói.

Bà mang hòm khoai ra cửa và kín đáo phủ cái túi lên đó.

– Xẻng đựng ở phía sau chú – Bố nói – Ta đi kiếm ván.

Trong ánh sáng xám của bình minh, chú John từ từ lội trong nước và lúc tới chỗ xe nhà Joad chú đi vòng leo lên bờ đường trơn. Tới đó, chú đi dọc theo lòng đường và sau khi đã đi quá chỗ cắm trại, chú dừng lại ở chỗ mà dòng nước xiết bị ngăn cách với đường cái bởi một bụi liễu. Chú đặt xẻng xuống, hai tay ôm cái hòm ở trước bụng, chú luồn qua các bụi gai tới tận chỗ dòng nước xiết. Chú đứng lại một mình nhìn dòng nước xoáy mạnh, để lại ở sau bọt vàng bám vào các cành cây ở trên xuống, đặt hòm xuống nước và tay chú giữ chặt lấy nó trong chốc lát. Chú nói, với cái giọng giữ tợn:

– Đi mà nói cho chúng rõ. Hãy đi mà thối rữa giữa đường cái để cho chúng mở mắt ra. Mày chỉ có thể nói với chúng bằng cách đó thôi. Tao không biết mày là trai hay gái. Mà tao không muốn biết làm gì. Đi đi, đi mà ngủ trên các đường phố. Như thế, may ra chúng hiểu.

Chú nhẹ nhàng hướng cái thùng theo dòng nước và buông tay ra. Thùng bị ngập một nửa, tròng trành quay quay xoay tròn rồi từ từ lật úp. Cái túi trôi vật vờ, cái hòm bị dòng nước cuốn, trôi đi rất nhanh và biến mất sau đám bụi cây. Chú John cầm xẻng, vội vã trở về toa. Chú bì bõm vạch một đường đi tới chỗ xe tải mà Al và Bố đang hí húi tháo gỡ các tấm ván dài.

Bố liếc nhìn chú rất nhanh:

– Xong rồi?

– Xong.

– Thế này nhé – Bố nói – Chú vui lòng giúp Al để tôi đến cửa hàng kiếm gì ăn.

– Bố mua một miếng mỡ, – Al nói – Con cần ít thịt.

– Được rồi. – Bố nói, rồi nhảy ra khỏi xe nhường chỗ cho chú John.

Khi họ đẩy các tấm ván vào trong xe. Mẹ thức dậy và ngồi lên.

– Nhà làm gì thế?

– Làm một cái sàn để ngồi cho đỡ ướt

– Khéo vẽ. Ở đây cũng khô ráo chán

– Không ổn rồi. Nước đang lên.

Mẹ nặng nhọc đứng lên và ra cửa.

– Phải đi khỏi đây thôi.

– Không có cách nào, – Al nói – Đồ đạc chúng ta ở đây. Còn xe nữa, là tất cả những gì chúng ta đã có.

– Bố đâu?

– Đi mua cái gì ăn.

Mẹ nhìn nước dưới chân, chỉ còn cách sàn toa sáu in. Mẹ quay lại chỗ đệm và nhìn Rosasharn.

Về phía mình, cô nhìn Mẹ với đôi mắt to.

– Con thấy thế nào?

– Mệt lắm. Rã rời.

– Con sắp ăn sáng.

– Con không đói.

Bà Wainwright đến đứng cạnh Mẹ.

– Cháu nó nom khá lắm. Tai qua nạn khỏi.

Rosasharn đưa mắt hỏi dò Mẹ. Mẹ cố tránh né không đáp. Bà Wainwright tở lại bên bếp lò.

– Mẹ ơi! – Gì? Con muốn gì?

– Có phải… Bé có khỏe không?

Mẹ đành phải nói thật. Mẹ quì xuống sát nệm:

– Con sẽ có những bé khác. Nhà đã gắng làm hết sức, con biết đấy.

Rosasharn cựa quậy và định đứng lên:

– Mẹ!

– Chúng ta không thể làm gì hơn được.

Người thiếu phụ nằm xuống, khoanh tay lại che mặt. Ruthie len lén tới gần nhìn cô chị, vẻ vừa ngạc nhiên vừa khiếp đảm.

– Chị ấy ốm hở Mẹ? Chị sắp chết à? – Nó thì thầm khàn khàn.

– Đâu nào, chỉ nói dại, Chị ấy khoẻ… rất khoẻ…

Bố trở về, tay ôm mấy cái bọc.

– Con thế nào?

– Khá. Sắp khoẻ hẳn.

Ruthie báo cho Winfield:

– Chị ấy không chết đâu. Mẹ bảo thế.

Winfield vừa cầm cái dằm xỉa răng in như người lớn, vừa nói:

– Tao biết trước rồi.

– Sao mày biết?

– Tao sẽ nói sau, – Winfield vừa đáp, – vừa nhổ cái dằm ra.

Mẹ lấy củi cành còn lại, nhóm một bếp lửa to, và rán mỡ. Bố đã đem bánh mì ở tiệm về. Mẹ chau mày khi trông thấy thức ăn – Ta còn tiền không?

– Không, -Bố đáp – Nhưng đói quá.

– Thế mà ông lại vác bánh mì ở tiệm về – Mẹ nói như kết tội.

– Biết làm sao được! Đói quắt ruột gan. Làm suốt đêm mà! Mẹ thở dài:

– Chúng ta làm thế nào bây giờ?

Trong lúc họ đang ăn thì nước vẫn cứ lên từ từ tuần tự. Al nuốt vội thức ăn, rồi có Bố giúp một tay, hắn bắc một cái bệ rộng năm bộ, dài sáu bộ và cao bốn bộ. Nước mấp mé sàn, hình như tự do dự một lúc lâu, rồi từ từ vào toa. Bên ngoài, trời lại đổ mưa, như lúc mới đầu, hạt mưa nặng tung toé trên nước và dội ồm ồm trên mái.

– Nhanh lên! – Al nói – Khuân nệm, chăn lên không thì ướt hết.

Họ chồng chất của cải trên bệ trong khi nước xảo trá bò trên sàn. Rosasharn thì thầm gì đó vào tai Mẹ, bà buồn tay xuống dưới chân, mân mê vú con gái và gật đầu.

Ở đầu toa kia, gia đình Wainwright cũng đóng một cái bệ trong tiếng búa chan chát. Mưa dày hạt hơn và cuối cùng ngừng lại.

Mẹ nhìn dưới chân mẹ. Đã có một nửa in nước trong toa.

– Ruthie! Winfield! – Mẹ lo lắng gọi – Chúng mày có lên đây ngay không? Cảm lạnh bây giờ.

Mẹ thấy chúng đã ngồi yên ổn trên bệ, bên cạnh Rosasharn và tỏ ra lúng túng. Đột nhiên Mẹ nói:

– Phải đi khỏi đây.

– Đi làm sao được mà đi, – Bố nói – Như thằng Al nó nói, đồ đạc nằm đây cả. Ta sẽ nhắc cửa toa làm ván, thế là có thêm chỗ ngồi.

Lặng lẽ và cáu kỉnh, cả nhà ngồi co rúm trên hai cái bệ. Lúc nước ngập bờ đường và tràn khắp ruộng bông, thì trong toa đã có sáu in nước.

Suốt ngày suốt đêm hôm đó, đàn ông để nguyên cả quần sao ướt nằm ngủ cạnh nhau trên cánh cửa toa. Mẹ nằm cạnh Rosasharn. Thỉnh thoảng mẹ rỉ tai con gái nói gì đó, và có lúc Mẹ ngồi lên lặng lẽ, vẻ mặt lo lắng. Mẹ bo bo dấu mẩu bánh dưới chăn.

Bây giờ mưa rơi từng cơn, lúc mưa rào, lúc tạm ngớt. Sáng ngày thứ hai, Bố lần mò bì bõm ngang qua trại và đem về mười củ khoai tây bỏ trong cái túi. Mẹ rầu rầu nhìn ông lấy dao bổ lần vách bên trong của toa lấy cúi nhóm lửa và bỏ khoai vào luộc. Họ lấy tay bóc khoai ăn. Khi đã ngốn sạch thức ăn cuối cùng đó, họ ngồi ngắm làn nước xám và mãi tận tới khuya mới chịu đi nằm.

Trời sáng, họ thức dậy, lo lắng, Rosasharn thì thầm gì đó với Mẹ.

Mẹ gật đầu, nói:

– Ừ, giờ đã đến lúc rồi.

Mẹ quay về phía đám đàn ông đang nằm dài trên cánh cửa toa.

– Chúng ta đi thôi – bà nói gay gắt – Ta đi tìm một xó nào cao ráo hơn. Đi hay không thì tuỳ các ông. Tôi đưa Rosasharn với bọn nhỏ đi.

– Đi sao được! – Bố phản đối yếu ớt.

– Mặc kệ. Dẫu sao, ông cũng có thể cõng Rosasharn tới đường cái, rồi sau đó trở lại. Tranh thủ lúc này không mưa nữa.

– Được thôi… thì đi vậy, – Bố nói

Al nói:

– Mẹ ạ, con không đi với nhà ta đâu.

– Sao thế?

– Thì… Aggie… Mẹ hiểu cho, cô ấy với con… chúng con… chúng con…

Mẹ mỉm cười:

– Hẳn rồi. Mày ở lại đây, trông coi đồ đạc. Lúc nào nước rút… chúng ta sẽ về. – Mẹ nói với Bố.

– Đi nhanh kẻo lại mưa nữa, Rosasharn. Đi tới chỗ khô ráo.

– Con đi được.

– Có lẽ đi một tí thôi, nhưng chờ lúc lên đường cái đã. Nào, Bố nó cúi xuống cõng con.

Bố tuột xuống nước, chờ đợi. Mẹ dìu Rosasharn xuống khỏi bục và đỡ cô ra tận cửa. Bố bế lấy con, cố hết sức nâng thật cao và thận trọng lội qua nước sâu. Ông đi vòng chiếc xe và cuối cùng ra tới đường cái. Tới đây ông thả xuống cho cô tự đi lấy nhưng tiếp tục đỡ cô đi. Chú John đi theo, ẵm Ruthie. Mẹ trượt xuống nước, váy lòa xoà một lát xung quanh bà.

– Winfield, lên với Mẹ, mẹ cõng. Al ơi, khi nào nước rút nhà ta sẽ về, Al ạ. – bà ngừng bặt – Nếu, nếu anh Tom nó về, bảo nó nhà ta sẽ trở về. Bảo nó phải cẩn thận, Winfield, lên vai Mẹ cõng… Thế! Đừng có ngọ nguậy chân nữa.

Mẹ vừa bước lên, vừa lảo đảo, nước ngập tới ngực. Họ đỡ Mẹ leo lên bờ đường và bế Winfield xuống.

Tới đây, họ dừng lại một lát ngoái nhìn dải nước ở phía sau, các toa tầu in những vệt đỏ sẫm trước mặt nước phẳng lì, xe tải và xe hơi biến gần một nửa thân trong nước đang từ từ chảy. Và trong khi họ đang đứng đây thì mưa lại rơi lâm thâm.

– Phải đi nữa. – Mẹ nói – Rosasharn con thấy con có thể đi được không?

– Con thấy hơi chóng mặt, – cô đáp. Tưởng như có ai vào đầu.

Bố rên rỉ.

– Thì đi nữa, hay quá… Nhưng đi đâu?

– Tôi không biết. Nào, dắt lấy Rosasharn.

Mẹ nắm lấy cánh tay phải của con gái, còn Bố nắm lấy cánh tay trái.

– Ta cố tìm cho được một nơi khô ráo. Phải tìm cho được. Các ông ạ, đã hai ngày nay, các ông chẳng có tí quần áo khô nào đắp lên người.

Họ đi thong thả. Họ nghe tiếng nước rì rào dọc đường cái. Ruthie và Winfleld đi với nhau, lấy chân bắn tóe nước. Thong thả, thong thả, họ bước đi.

Trời tối sầm và mưa lại nặng hạt. Không có xe cộ đi lại trên đường.

– Nhanh lên, – Mẹ giục – Con bé khốn khổ này mà bị ướt đẫm thì chả biết rồi nó sẽ ra sao.

– Ừ. Thì nhanh, nhưng Mẹ mày chưa nói đi nhanh là đi đâu – Bố nhận xét châm chọc.

Đường cái nương theo đường cong của bờ sông.

Mẹ đưa mắt sục sạo toàn bộ vùng đất bao la ngập nước. Về phía trái, rất xa đường cái, một kho lúa đen ngòm đứng sừng sững trên một mô đất cao.

– Nhìn kìa! – Mẹ nói – Nhìn đằng kia kìa! Tôi chắc là ở nhà kho đó khô ráo. Cố đi tới đó chờ lúc tạnh.

Bố thở dài.

– Chắc chắn lại bị chủ kho thóc tống cổ ra ngoài.

Ruthie trông thấy một đốm đỏ bên đường phía trước mặt. Nó xông tới. Đó là một cây phong lữ thảo dại đã khô quắt, nhưng vẫn còn một bông hoa ướt lướt thướt trong mưa. Nó hái hoa, nhẹ nhàng dứt một cánh và dán lên mũi, Winfield chạy vội tới háo hức tò mò:

– Cho tao một cánh! – Nó van nài.

– Đừng hòng! Của tao chứ. Tao tìm thấy. Nó lại dán một cánh hoa khác lên trán, một cánh hình trái tim đỏ rực rỡ.

– Ôi! Cho tao một cánh nào, Ruthie! Cho tao một cánh với.

Nó đến giật hoa khỏi tay Ruthie, nhưng giật hụt, và Ruthie đưa bàn tay đang xòe ra, đập cho nó một cái giữa mặt. Winfield bàng hoàng một lát, nhưng rồi môi nó run run, nước mắt trào ra.

Những người khác theo kịp chúng.

– Mày lại còn giở trò gì thế, hở – Mẹ nói – Mày giở trò gì thế?

– Nó định cướp hoa của con.

Winfleld khóc thút thít.

– Con… Con chỉ muốn xin một… để dán lên mũi.

– Cho em một cánh, Ruthie

– Nó tìm lấy. Hoa này của con. – Ruthie cảm thấy sự đe doạ trong tiếng nói của Mẹ, bèn thay đổi chiến thuật.

– Đây, – nó nói với vẻ tử tế giả đò – Để tao dán cho một cái.

Những người khác tiếp tục đi. Winfield ghé mũi, Ruthie liếc vào cành hoa và dán mạnh lên mũi thằng em, – Đồ nhóc con khốn nạn.

Winfield mân mê cánh hoa và ép chặt lên mũi.

Chúng hối hả để kịp những người khác. Ruthie cảm thấy trò chơi hết thú vị.

– Đây – Nó nói – Một cánh nữa đây. Mày dán lên trán ấy.

Họ nghe tiếng rì rào chát chúa ở phía phải đường cái.

– Nhanh lên! Mẹ kêu – Mưa giông rồi. Chui qua bờ rào ở đây, nhanh hơn. Nào, nhanh lên. Cố lên Rosasharn, vững tâm lên.

Hầu như họ phải kéo lê Rosasharn qua con mương và đỡ cô leo qua bờ rào. Vào lúc này giông xối xả trút xuống đầu họ. Họ lội bì bõm trong bùn và leo lên cái dốc thấp. Mưa rít dữ, bắn tung toé gió thổi mạnh thêm cuốn theo mưa bay.

Rosasharn luôn luôn trượt chân, cô lê lết để mặc cho người ta kéo cô đi.

– Bố! Bố nó có thể bế con được không?

Bố cúi xuống, bế xốc con trong tay. Ông nói:

– Muốn sao thì chúng ta cũng ướt trụi rồi. Ruthie, Winfield, chúng mày nhanh lên! Chạy lên trước đi.

Họ tới được vựa lúa thì đã dứt thở, vừa lảo đảo vừa chui vào dưới chái hiên để xe. Về phía này không có cửa. Đây đó lăn lóc mấy bộ đồ nghề han rỉ: một lưỡi cày, một cái bừa gãy, một bánh xe sắt. Mưa đập tùng tùng trên mái và giăng màn che khuất lối ra vào. Bố nhẹ nhàng đặt Rosasharn lên một cái hòm bê bết dầu mỡ.

– Lạy chúa! – ông thở phào.

Mẹ nói:

– Ở trong có cỏ khô cũng nên. Xem kìa, có một cửa vào đấy! – Mẹ lay cửa, bản lề rỉ ken két. Mẹ kêu to – Nào, cả nhà vào đi.

Ở bên trong tối om. Một chút ánh sáng leo lét xuyên qua khe ván.

– Con nằm xuống, Ruthie, – Mẹ nói – Nằm xuống mà nghỉ. Mẹ sẽ tìm cách cho con hong khô.

Winfield nói:

– Mẹ ơi.

Nhưng tiếng của con nó chìm nghỉm trong tiếng mưa rơi sầm sầm trên mái nhà.

– Mẹ! – Cái gì vậy? Mày muốn gì?

– Nhìn kìa! trong góc ấy.

Mẹ nhìn, nhận ra hai hình người trong bóng sáng mờ mờ, bóng người lớn nằm ngửa và bóng một chú thiếu niên ngồi bên cạnh đang nhìn những người mới đến với đôi mắt hoảng hốt. Thấy bà nhìn mình, người thanh niên bèn chậm rãi đứng dậy và đi tới gặp bà. Anh nói giọng khàn khàn:

– Kho thóc này của bà sao?

– Không, – Mẹ đáp – Chúng tôi vừa mới tới đây trú mưa. Con gái tôi bị ốm. Liệu anh có tấm chăn nào khô cho em nó mượn tạm không, để nó thay đồ ướt. Chú thiếu niên trở về góc của mình và đưa đến cho bà một tấm khăn choàng cũ, cáu ghét và trao cho bà.

– Rất cám ơn anh. Ông kia làm sao vậy?

Chú thiếu niên trả lời, giọng khàn khàn, đều đều:

– Thoạt đầu ông ốm, nhưng bây giờ sắp chết đói.

– Thế sao?

– Vâng, chết đói. Ngã ốm lúc hái bông. Sáu ngày nay chưa ăn.

Mẹ bước lại góc nhà nhìn người ốm. Ông trạc năm mươi tuổi râu ria xồm xoàm, mặt xương xẩu, đôi mắt đơ dẫn. Chú thiếu niên đứng cạnh bà.

– Cha anh ư?

– Vâng! Ông vẫn nói là ông không đói hoặc bao giờ cũng nói là vừa mới ăn. Lúc nào cũng dành phần của ông cho cháu. Bây giờ ông yếu quá rồi. Chỉ hơi cựa quậy được thôi.

Tiếng âm thầm của trận mưa trên mái lắng xuống nhường chỗ cho một tiếng thì thầm dịu dàng êm ả. Người có khuôn mặt gầy hốc hác mấp máy môi. Mẹ quì xuống bên ông, ghé tai nghe ngóng.

Đôi môi ông lại mấp máy.

– Chắc chắn thế rồi – Mẹ nói – Anh đừng lo lắng. Ông sẽ qua khỏi. Đợi tôi giúp con gái tôi thay đồ. Nó ướt hết.

Mẹ đến với Rosasharn.

– Gạt tất cả các thứ đi. – Bà vừa nói vừa quàng tấm khăn choàng phía trước cô để làm một bình phong. Lúc cô cởi hết quần áo, bà lấy khăn bọc kín người cô lại.

Chú thiếu niên lại đến đứng cạnh bà và tiếp tục giải thích:

– Cháu không biết gì. Ông nói là đã ăn hoặc không đói. Tối qua cháu đập vỡ một tấm kính và ăn cắp một cái bánh. Cháu buộc ông phải nhai. Nhưng ông nôn ra hết và sau đó suy nhược thêm. Phải có cháo hay sữa cho ông ăn. Các bác, các bác có tiền mua sữa không?

– Suỵt! – Mẹ nói – Anh đừng lo, ta sẽ thu xếp.

Thình lình, chú thiếu niên hét to:

– Bố tôi sắp chết? Ông ấy đang sắp chết đói, bà ơi!

– Suỵt! – Mẹ nói. Đôi mắt của Mẹ dò hỏi ý kiến của Bố và chú John, cả hai đứng sừng sững trước người ốm và nhìn ông với vẻ lúng túng. Rồi bà quay về phía Rosasharn, thu lu trong tấm khăn. Đôi mắt bà lướt qua cô, rồi lại nhìn thẳng vào mắt cô. Và hai người phụ nữ nhìn thằng vào mặt nhau. Cô thở dồn dập, đứt quãng.

– Vâng – Cô nói.

Mẹ mỉm cười:

– Mẹ biết là con sẽ làm thế. Mẹ biết mà.

Mẹ nhìn đôi bàn tay con gái:

Rosasharn thì thầm:

– Cả nhà… cả nhà đi ra đi chứ?

Mưa rơi lất phất trên mái.

Mẹ cúi xuống đưa lòng bàn tay vuốt đám tóc rối bời của con gái ra phía sau và hôn lên trán con. Sau đó, bà đứng bật lên:

– Tất cả đi đi, đi vào kho đồ nghề.

Ruthie há miệng, định nói cái gì đó.

– Suỵt! Mẹ nói – Im đi, ra ngoài.

Bà dồn mọi người đi ra trước, dẫn chú thiếu niên đi ra cùng bà và đóng cửa lại.

Cửa cót két sau lưng bà.

Trong kho thóc đầy những tiếng rì rầm, Rosasharn ngồi im bất động một lúc. Rồi cô nhọc nhằn đứng lên, quấn chặt chiếc khăn lên vai thong thả cô đi lại góc nhà kho, và đứng sững trước mặt người lạ, ngắm khuôn mặt tàn tạ và đôi mắt to, lo lắng. Và từ từ, từ từ, cô nằm xuống cạnh ông. Ông lắc đầu yếu ớt Rosasharn vạch một góc khăn choàng lên, để lộ một bầu vú.

– Không. Phải thế mới được, – Cô nói. – Cô áp người vào ông và nhích đầu ông lại sát gần.

– Đấy! Thế, thế! Cô luồn tay ra phía sau và đỡ lấy đầu ông. Ngón tay cô dịu dàng vuốt ve tóc của ông. Cô ngước mắt lên, rồi cúi mắt xuống và nhìn khắp xung quanh qua bóng tối kho thóc, và môi cô khép lại với một nụ cười huyền bí.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.