Chúa Đảo Xa

Chương 5: Lâu đài kellaway



Nhìn qua cửa sổ, tôi thấy bọn họ gồm có một người đàn ông và một cậu bé đang đi lên bờ, hai người chèo thuyền ở lại con thuyền.Người đàn ông cao tầm thước, tóc dày màu nâu nhạt; cậu bé thuộc loại nhỏ con tưởng chừng chỉ mới mười bốn tuổi.Tôi vội đi xuống cầu thang, nơi bà Kellaway đang đứng chờ. Bà nói -Thuyền đã tới, cô Kellaway.

Trong lúc người đàn ông và cậu bé đi vào nhà trọ, người ta chuyển hành lý của tôi ra xe ngựa. Bà Pengelly đon đả rối rít chạy ra.

– Ôi, ông Tregardier, vậy là cuối cùng ông cũng đã tới. Cô Kellawa và chúng tôi đợi đỏ cả mắt.

Người đàn ông đưa tay ra, chúng tôi bắt tay nhau. Ông nhìn tôi dò xét…chăm chú. Ông nói – Tôi rất sung sướng được gặp cô, vậy là chúng ta đã gặp nhau. Tôi là Wiliam Tregardier, quản gia của ông Kellaway. Ông chủ muốn tôi tới nói với cô rằng, ông tha thiết, mong đợi cô tới. Thật may mắn cho chúng tôi, biển hôm nay lại đẹp như thế này.

– Ôi, biển sáng nay thật yên tĩnh.

– Nó hiền lành như mặt hồ. Cô có thể yên tâm, chúng tôi sẽ đưa cô vượt biển an toàn. Chúng tôi mong muốn cô có ấn tượng tốt khi lần đầu tiên bước chân lên đảo.

Ông mỉm cười rất tự tin. Bà Pengelly vội nói ngay: – Ông phải làm một chút gì cho tươi tỉnh trước khi xuất phát chứ ông Tregardier.

– Chúng tôi rất vui lòng, bà Pengelly.

– Chúng tôi sẽ mang rượu, bánh ra ngay. Tất cả đều do tay tôi làm để mọi người nếm thử.

– Cám ơn, bà là người hiểu biết chúng tôi hơn ai hết,bà Pengelly.

– Tại sao ông không ngồi xuống làm quen với cô Kellaway nhỉ, trong lúc tôi mang vài món ra đây.

Bà Pengelly quay vào trong nhà, ông Tregardier nhìn tôi mỉm cười.

– Bà ta xởi lởi và tốt bụng lắm – Ông nói – bà luôn chăm lo tới những việc ở trên đảo, bây giờ con trai bà ta cũng làm việc cho chúng tôi. Cô hãy ngồi xuống, nói chuyện và làm quen với chúng tôi… Ông Jago vui mừng biết bao, với quyết định đi tới đảo của cô. Ở trên đảo có thể không được tiện nghi cho lắm, nhưng cô sẽ tìm thấy gia đình họ hàng của cô. Thật sự tôi không muốn để cho cô phải than phiền về chúng tôi.

– Than phiền ư? Ồ, sao tôi có thể như vậy được?

– Đó là mong muốn của Jago, cũng là mệnh lệnh chúng tôi phải thi hành.

– Đây là lần đầu tiên tôi được gặp người thân và gia đình. Thật đáng tiếc là tôi biết về mọi người quá ít.

– Mẹ của cô không bao giờ kể chuyện…

– Mẹ tôi mất khi tôi mới lên năm tuổi.

Ông gật đầu nói – đúng vậy, Jago là người chỉ huy, giống như một lãnh chúa lớn ở trên đảo.Tôi làm quản gia dưới quyền chỉ huy của ông. Ông ta xứng đáng là thủ lĩnh bảo vệ đảo. Chị của ông và cháu gái cùng ông sống chung một nhà. Bà ấy làm nhiệm vụ trông coi nhà cửa đã nhiều năm nay rồi.

– Tôi có quan hệ họ hàng như thế nào với Jago?

– Ông ta sẽ giả thích tất cả cho cô. Tôi cũng không rõ lắm…

– Thật kì lạ phải không, bao nhiêu năm trôi qua mà chúng tôi không hề biết gì về nhau.

– Đó là chuyện xưa kia, nhưng bây giờ đã khác rồi.

Ăn uống xong, phải mất nửa giờ chúng tôi mới xuất phát đi đảo.Gió hiu hiu nhẹ thổi, chỉ đủ làm cho biển gợn sóng lăn tăn, mặt trời tươi vui rạng rỡ chiếu lấp lánh trên biển.Trước mặt tôi là Đảo Xa, nơi tôi sinh ra, nơi họ hàng và gia đình thân thiết của tôi đang sinh sống. Tôi xao xuyến xúc động…

– Nó đó! -William Tregardier nhắc tôi – đảo của chúng ta thật trù phú phải không?

– Chà, thật là tuyệt! – Tôi kêu lên.

– Đảo Xa, trong đó đảo Kellaway nổi trội hơn cả, – ông giảng giải.

Kellaway, một cái tên đáng tự hào biết bao, nó cũng là họ của tôi – một dòng họ đã nổi tiếng hàng trăm năm nay, và cũng là tên của hòn đảo tuyệt đẹp này.

– Còn có nhiều đảo khác nữa kìa, -Tôi kêu lên.

Ông chỉ tiếp: – Đó là đảo Đá Xanh, ở đấy không có trồng trọt được như ở đảo chính, trên đảo chỉ toàn đá với sỏi. Cô có thể nhìn hòn đảo kia giống như một cái bướu nổi lên ở giữa biển, tuy không có người, nhưng đó là noi tụ họp của quạ chân đỏ và mòng biển.

Tôi quay trở về đảo chính đá xếp chồng lên đá, có những mũi đá khổng lồ nhô hẳn ra biển mà ngay dưới chân nó là bãi cát ôm lấy bờ vịnh với nhiều con thuyền đang neo đậu ở đó.

– Chúng ta đang đi vào đảo, phải không? – Tôi hỏi.

– Không, – William Tregardier trả lời – chúng ta sẽ cập bến nơi khác.Đi vào bờ theo hướng này rất nguy hiểm, bởi có nhiều đá ngầm. Phải hết sức cẩn thận, ngay cả khi nhìn thấy rồi nhưng nước xoáy vẫn xô thuyền đập vào chúng.

– Trên Đảo có bao nhiêu người?

– Gần đây, chúng tôi tính, có khoảng một trăm người. Mọi người trên đảo sống chung với nhau. Rồi sinh con đẻ cái. Đảo mỗi ngày một sinh sôi nảy nở, đông vui hơn.

Tiến vào gần, diện mạo của đảo hiện ra chi tiết hơn. Những ngôi nhà trắng xinh xắn màu cam thấp thoáng sau các bụi cây thạch lam màu tía, hòa quyện với màu vàng của bụi cây sơn tước. Đảo sống động rực rỡ trên nền biển xanh biếc bao la.

– Thật đáng yêu, – Tôi kêu lên.

– Tất cả rừng cây nhiệt đới mọc xung quanh đảo, hình thành bức tường che chở bão gió cho chúng tôi. Ven đảo còn có cả cọ nữa. Các giống rau và hoa quả được mang từ đất liền vào trồng ở thung lũng kín gió phát triển khá tốt.

– Tôi sẽ chú ý khám phá để hiểu biết về đảo nhiều hơn.

– Hẳn Jago sẽ rất vui.

Thuyền chúng tôi lượn vòng cặp sát bờ cát, nơi có hai người với cả ngựa nữa đang đứng đợi chúng tôi.

– Tôi không ngờ là cô biết cưỡi ngựa, – William Tregardier nói – ông Jago cho người mang ngựa tới, tất nhiên dành cho cô.

– Thật ngạc nhiên làm sao ông ta biết được điều đó.

– Đó là điều kì lạ ở Jago…rồi cô sẽ được cưỡi ngựa đi khắp mọi noi trên đảo. Con đường chạy xung quanh đảo là tốt nhất đấy.

Những con ruồi trâu sà xuống đậu vào cánh tay để trần của tôi, vì quá mừng vui nên tôi đa quên khuấy mất cái khăn choàng. Cái mũ thanh lịch cùng với những đồ mang theo không giúp gì cho tôi lúc này. Toàn bộ hành lý của tôi đã được hai người chèo thuyền mang lên bờ, ngay khi thuyền cặp bến.

– Cô Kellaway, tốt hơn cả là cô thử cưỡi con ngựa cái nhỏ, – Tregardier nói – Chỉ lát nữa thôi là cô được cưỡi con ngựa tốt nhất mà Jago đã chọn. Ông ta là người huấn luyện ngựa rất giỏi.

Tôi cưỡi con ngựa cái đã được thuần phục rất hiền lành. William Tregadier cưỡi một con ngựa khác, chúng tôi cùng phóng lên đảo.

– Lâu đài gần ngay đây thôi, – ông nói.

– Lâu đài! -tôi thốt lên ngạc nhiên – còn có cả lâu đài trên đảo cơ à?

– Lâu đài Kellaway, chúng tôi thường gọi vậy. Đây là cái tên gọi đã có từ xưa, từ khi gia đình đầu tiên đặt chân tới đây.

Chúng tôi phóng lên ngọn đồi cao ở phía trước mặt.

Đúng là có một lâu đài thật, nó bao gồm các bức tường thành chạy dài cùng với tháp canh xây bằng đá rất kiên cố, tất cả bao bọc một dinh thự vuông vắn ở giữa. Ở trên tường thành là các tháp canh lỗ chỗ lỗ châu mai.Cổng ra vào nằm dưới một tháp canh khác xây bằng đá lầm lì dữ dội, có khả năng ngăn chặn mọi sự xâm phạm dù táo tợn nhất ở bên ngoài vào. Chúng tôi đi qua cổng gác vào trong một cái sân trải sỏi, đi qua một cái cổng mái vòm kiểu Norman thông với một cái sân khác… tại đây có một người hầu đang đợi sẵn chúng tôi ở đó.

– Hãy dắt ngựa đi. Albert. Đây là cô Kellaway, người sẽ tới chỗ chúng ta.

Abert vuốt tóc trên trán, tới trước tôi nói – Chào cô Kellaway.

Cậu ta dắt ngựa của tôi và ngựa của William Tregadier đi ra cửa, tiếng móng sắt nặng nề gõ lên đường xa dần. Tôi nghĩ là cô cần tắm rửa, nghỉ ngơi trước khi gặp Jago – ông ta nói – Tốt nhất, tôi đưa cô về phòng riêng.

Tôi sửng sốt, không thể hình dung nổi một công trình kiến trúc cổ xưa như thế này được xây dựng trên đảo cách đất liền năm cây số. Một lâu đài cổ thật vĩ đại tuy không đồ sộ, nhưng nó cũng lớn hơn lâu đài của lãnh chúa Hydrock, và uy nghi hơn biệt thự của một bá tước. Chúng tôi bước qua mội cái cửa, đi sâu vào trong, dừng lại trước một căn phòng giống như trong phòng khách. Giữa phòng đặt một bộ bàn ghế, góc phòng trưng bày các binh khí cổ, một bộ giáp sắt có cả mũ và khiên…để sát tường. Nó gợi ra…tôi đã từng nhìn thấy chúng ở đâu đó.

Dường như, tất cả căn phòng trong nhà đều mở cửa chờ đợi, sẵn sàng đón tiếp. Không bao lâu, chúng tôi đã bước vào phòng chính của lâu đài.

– A, Janet – William Tregardier nói – đây là cô Kellaway.

Janet hơi nhún thấp người cúi chào.

– Hãy đưa cô Kellaway về phòng riêng và đem mọi cái cần thiết lên cho cô.

– Ôi, vâng,thưa ngài – Janet nói.

– Cô hãy vào đi… – ông nhìn tôi… – Khoảng nửa giờ nữa nhé?

– Vâng, được thôi, tôi nói, vậy là tốt lắm rồi.

– Janet đưa cô Kellaway đi trong nửa giờ thôi đấy

– Cám ơn ông – tôi nói.

– Chăm sóc cô là niềm vui của chúng tôi, – ông nói.

– Xin vui lòng đi theo tôi,cô Kellaway – Janet lễ phép nói.

Thật tuyệt vời, khi tôi đi theo cô.Chúng tôi đi qua những căn phòng bằng đá, leo lên những cầu thang cũng bằng đá xoắn ốc. Sau đó chúng tôi đi tới phòng trưng bày tranh, một căn phong sáng sủa, trang trọng, dáng vẻ thoáng mát, tạo ra một không khí dễ chịu thoải mái.

– Đi đường này cô Kellaway.

Cô mở cửa, chúng tôi bước vào một căn phòng, trên tường treo những tấm tranh thảm cổ xưa với một tông màu hồng và xám. Nền nhà bằng đá màu mài sáng bóng, ghép thành hình một con cá chép hồng khổng lồ. Màn cửa sổ bằng vải nhung hồng xếp nếp có diềm tua vàng mềm mại. Một chiếc giường đệm nhung cũng màu hồng làm cả phòng sáng rực một màu hồng lộng lẫy.

Tôi leo lên bậc lát, đứng trước cửa sổ của phòng lồi, cái cửa sổ hình bán nguyệt với một nghệ thuật ghép đá khéo léo, đá uốn cong ôm lấy khung cửa kiêu hãnh nhìn ra ngoài.Dẫu cho lâu đài nằm tách biệt ở một khu sườn đồi, tôi vẫn nhìn thấy khu dân cư trù phú với những ngôi nhà xinh xắn, mái lợp màu cam trông thậy lạ mắt. Nơi đó hẳn là một khu phố nhỏ có cả cửa hàng và nhà trọ, chắc chắn một thị trấn manh mún đang hình thành. Tôi còn nhìn thấy những ngôi nhà vườn, được xây dựng mát mắt, nằm giữa những cánh đồng trồng lương thực, hoa màu những vườn cây ăn trái, những cánh rừng nhỏ được xếp đặt hài hòa tự nhiên. Đảo phì nhiêu, màu mỡ đang nuôi dưỡng một cộng đồng phát triển thịnh vượng. Tôi lướt nhìn các hòn đảo khác, đảo Đá Xanh, một hòn đảo rất gần với đảo chính, chỉ cách tôi khoảng nửa cây số. Tôi đắm đuối nhìn về phía xa xa đất liền chỉ cách chúng tôi một cái vịnh nhỏ, vậy mà đành phải chịu sự chia cắt đất liền và Đảo Xa. Tôi chợt nhớ tới Michael Hydrock, không biết giờ này anh đang lam gì, anh có biết, chính anh làm cho tôi một mối liên hệ gắn bó với đất liền.

Quay vào căn phòng, tôi buột lời thán phục: – Thật là tuyệt!

Cô hầu gái trẻ nói – thưa cô, ông Jago nói đấy là phòng dành riêng cho cô. Nó chính là một trong những căn phòng tốt nhất của lâu đài.

– Ông Jago thật tử tế, – tôi trả lời

Cô cười khúc khích,nói – tất cả chúng tôi đã được thông báo về cô.Chúng tôi phải chuẩn bị, dành cho cô một sự quan tâm đặc biệt.

Đúng vậy, tôi đã được tiếp đón thật chu đáo.

– Nếu cô cần bất cứ điều gì, thưa cô – Janet đi tới nắm lấy cái dây màu đỏ xen lẫn màu vàng – cô cứ việc kéo cái dây này, tiếng chuông vang lên… tôi sẽ tới phục vụ cô ngay.

Một lát sau, một cậu bé đi vào, mang theo hành lý của tôi.

– Thưa cô, cô muốn tôi giúp không ạ? – Janet hỏi.

– Cám ơn, – tôi nói – đồ đạc không có nhiều, vả lại cô còn nhiều việc khác để làm, đúng không Janet?

-Vậy, bây giờ tôi sẽ mang nước nóng tới cho cô.

Khi cô vừa đi khỏi, tôi ngắm nhìn tiện nghi của căn phòng bao gồm: Một cái trường kỷ, một cái tủ lớn, một cái lò sưởi mà trên mặt của nó đặt một bộ đèn cầy lớn. Trần nhà rất cao được chạm khắc, trang hoàng kha đẹp.

Tôi mở túi lấy ra một cái váy. Cái váy dùng cho tuần trăng mật của tôi, cái váy lụa màu xanh saphia, một cái váy đầy ắp kỉ niệm. Tôi còn nhớ chính Phillip đã đưa tôi đi thử, anh lén đi vòng ra phía sau cửa và thốt lên, – Ellen, em đấy ư, thật không ngờ anh đã lấy được một nàng tiên.

Tôi đau khổ cố xua đi những hồi ức, nhưng không thể được. Lời của Phillip nói về dự định của tuần trăng mật như văng vẳng bên tai: – Venice, cùng với những con thuyền thơ mộng lênh đênh trôi trên dòng sông nhạc êm đềm…

Trong lúc tôi mơ mộng, Janet mang nước nóng đi tới.Cô buột miệng khen:-Cái váy thật là đẹp.

Tôi gật đầu.

Janet thông báo: – Thưa cô, ông Jago đã tới. Ông muốn gặp cô.

– Tôi sẽ đi gặp ông ta sau khi tôi tắm xong – Tôi trả lời.

Janet kéo màn cửa phòng tắm, bên trong có một cái chậu tắm lớn, một bình đựng nước. Cô đổ nước nóng vào chậu cho tôi tắm, rồi đi ra treo bộ váy cũ của tôi lên tủ.

Tắm xong, tôi mặc bộ váy áo mới.

Janet nói: – Cô đã nhận được thông báo về bữa ăn chưa, thưa cô?

Tôi chưa kịp trả lời, vừa lúc có tiếng gõ cửa. Cậu bé Jim ló đầu vào : – Ông Jago ở phòng khách. Ông Jago ở phòng khách. Ông Jago không thích đợi lâu đâu.

Tôi run lên vì hồi hộp. Tôi sắp gặp một con người bấy lâu nay chỉ hiển diện trong trí tưởng tượng của tôi, một con người nghiêm khắc dữ tợn.

Tôi đi xuống phòng khách của Jago, một căn phòng sáng sủa với vòm cửa sổ lớn nhìn ra biển; trong phòng có một cái lò sưởi đặt trước một tấm thảm lớn trải chính giữa nền nhà, tường nhà treo nhiều tranh thảm; trần nhà được trang trí chạm khắc những họa tiết hình thoi, tạo ra một không khí thân thiện ấm áp. Cái tên “phòng khách riêng” không hợp lắm, bởi đây là một căn phòng sang trọng, lịch sự, khiến người ta phải chú ý nhiều tới nó.

Janet gõ vào cánh cửa mở sẵn, tôi bị hút vào căn phòng vắng lặng. Bất chợt tôi nghe thấy có tiếng cười sau lưng. Tôi quay lại. Đối diện với tôi, một người đàn ông đang chăm chú nhìn tôi một cách thích thú. Tôi kinh ngạc…thốt lên – Ông!Ông…Jago Kellaway!

Đối diện với tôi chính là Jago Kellaway, người đàn ông ngăm ngăm đen mà tôi đã gặp trong đêm nhạc ở nhà Carington, và cả biệt tự Finlay Square nữa.

Một cảm giác ngỡ ngàng lạnh buốt rân rân chạy trong cột sống. Đó là sự ngỡ ngàng pha trộn với sự bàng hoàng khủng khiếp. Tôi thì thầm lắp bắp – Tôi…tôi không sao hiểu nổi…

– Ồ, tôi đã làm cho cô phải ngạc nhiên – giọng nói của anh vang lên trộn với tiếng cười thoải mái. Anh đưa tay nắm lấy cánh tay tôi. Người tôi đã áp sát bên một thân thể lực lưỡng, cuồn cuộn sôi động…bên cửa sổ, anh ôm vai tôi, âu yếm nhìn vào mắt tôi nói – Ellen, vậy là cuối cùng tôi đã gặp cô!

– Không, tôi muốn biết tất cả về ông ngay bây giờ…

– Dĩ nhiên, cô sẽ được toại nguyện. Bởi cô là một cô gái trẻ hiếu kỳ. Tôi đồng ý với cô rằng ở đây có một chút kỳ quặc.

– Một chút kỳ quặc ư! Không biết tôi có nằm mơ không. Ông đã tới London để làm gì? Ông làm gì trong đêm nhạc ấy? Ông làm gì trong biệt thự Finlay Square? Tại sao ông không cho tôi biết ông là ai, ông ở đâu, dù sao, ông cũng phải cho tôi biết ông là ai chứ?…

– Cô có nhiều câu hỏi, tôi không sao trả lời ngay một lúc được. Đầu tiên tôi chúc mừng cô đã tới Đảo Kellaway, tôi rất vui. Cô đúng là một Kellaway… cô sẽ nhận được tất cả những gì cha cô để lại. Thật đáng tiếc ông đã qua đời…

– Xin vui lòng giải thích…

– Tất nhiên tôi sẽ giải thích cho cô. Hãy tới đây Ellen thân mến. Cô hãy ngồi xuống đây thong thả tôi sẽ trả lời hết những câu hỏi của cô.

Anh ấn tôi ngồi xuống một cái ghế bành to có tay vịn, mặt trải thảm dày, khiến tôi ngồi lún sâu vào trong. Rất khoan thai, vui vẻ… anh cố làm vơi đi sự căng thẳng đang dồn nén trong tôi. Anh ngồi xuống một cái ghế khác, giống như ngai vàng của một ông vua, một cái ghế bành lớn có khảm đá vân xanh màu da trời.

Lúc này, tôi mới kịp nhìn thấy anh ấn tượng và sâu sắc hơn…khi anh ở London. Ở anh, vẫn nổi bật mái tóc dày xanh xám, đôi mắt sáng ngời tiềm ẩn đầy uy lực nhưng bây giờ đang chan chứa niềm vui hài lòng. Anh mặc bên ngoài một cái áo khoác bằng nhung màu xanh thẫm, bên trong áo ghi-lê màu tàn thuốc, cà-vạt trắng. Tay của anh đặt trên thành ghế thoải mái, ngón tay út nổi lên một cái nhẫn mặt khảm chữ “K”.

Anh nói: – Đầu tiên, tôi sẽ trả lời câu hỏi tôi là ai. Tôi xin phép được nói, tôi là Jago Kellaway. Hẳn là cô sẽ hỏi, tôi có quan hệ với cô như thế nào? Đúng vậy, Ellen thân mến, chuyện hơi phức tạp một chút. Tốt hơn hết, tôi sẽ kể cho cô nghe về chính tôi, để tôi khỏi bị ngờ vực bởi những câu chuyện đã bị bóp méo. Nó khá buồn cười – Có lẽ hơi khiếm nhã khi mà cô phải nghe chuyện này. Nhưng không. Cô đã lớn lên từ London, cuộc sống văn minh sẽ giúp cô hiểu rõ bản chất của sự việc, về điều tự nhiên của con người. À… những sinh hoạt binhg thường của một gia đình…cô có hiểu ý tôi nói không?

– Tôi vẫn nghe đây, ông cứ nói đi, – tôi đáp gọn lỏn, bởi chính anh ta đã nhiều lần làm tôi ấm ức. Ngay cả lúc này cũng thế, anh biết tôi đang khao khát nên anh càng nhỏ giọt chậm rãi để đùa giỡn. Hành động của anh ở Lodon thật kỳ cục hẳn anh có lý do để đùa giỡn vì chính cái tính chất bông lơn dung tục này chăng? Anh còn đùa giỡn cả trong thư từ làm cho tôi nhầm tưởng anh là “người bảo hộ”.Nhưng bây giờ tất cả đã khác, anh đang phải đối mặt với vị quan tòa nghiêm khắc nhất, nhưng đầy thiên kiến…bởi lòng tôi tràn đầy căm giận và tức tối.

– Đây là câu chuyện về Bà Sinister – anh nói tiếp – ông là tổ tiên lâu đời của chúng ta, tức ông là cha của cô. Cụ có một người em gái tên là Gwennnol xinh đẹp và dữ dội. Ảnh của bà còn treo ở gallery, lúc nào đó tôi sẽ chỉ cho cô. Kellaway là một dòng họ vĩ đại. Họ là chủ nhân của một Đảo lớn được coi như một vương quốc độc lập. Một đám cưới trọng thể được chuẩn bị cho tiểu thư Gwennol. Nhưng đúng vào ngày cưới, tiểu thư kiêu hãnh tuyên bố mình đã có con. Tiểu thư không chịu nói tên cha đứa bé là ai, mặc cho cha tiểu thư tức giận điên cuồng, hăm dọa đuổi tiểu thư ra khỏi lâu đài nếu không chịu khai ra. Kết quả tiểu thư đã rời khỏi lâu đài cùng với mấy người hầu. Đó là tình yêu hay là tội lỗi, tôi cũng không biết, nhưng tiểu thư đã tuyên bố: “Con quỷ chính là cha của đưa trẻ” – Mắt của anh lại giật giật rất tức cười. – Có thể đó là một sự thật với tất cả chúng ta, mỗi người Kellaway đều có con quỷ ở bên trong. Cô có đồng ý thế không Ellen? Nhưng, dĩ nhiên, không phải tất cả đều vậy. Trong cô không có con quỷ đó. Cô đã lớn lên từ một gia đình đáng kính trọng, thuộc một chi nhánh khác. Về tiểu thư Gwennol, tiểu thư đã đi tới Đảo Đá Xanh cách đây có nửa cây số.Có lẽ, thế nào cô cũng có dịp ra đó.

– Hòn đảo ấy, tôi đã được ông Tregarder chỉ cho biết và tôi có thể nhìn thấy nó qua cửa sổ.

– Đá Xanh, hòn đảo đã trở thành chỗ nương náu của tiểu thư, rừng và măng đã nuôi sống nàng. Tiểu thư đã dựng được một ngôi nhà để ở, ngôi nhà đó bây giờ vẫn còn. Người con trai của tiểu thư đã sinh ra từ đó. Ông chính là cha của tôi.

– Tôi đã bắt đầu hiểu mối qua hệ của chúng ta. Chúng ta là anh em họ.

– Thời gian xa xưa, chúng ta cùng là người Kellaway. Cha tôi mất khi tôi còn rất trẻ, tôi đã được đưa về lâu đài sống với người chị họ của tôi là Jenifry. Cha của cô và tôi học cùng một trường, chúng tôi cùng nhau. Ông và tôi cùng quản lý vương quốc Đảo Xa. Khi cha của cô bị bệnh nặng, tôi đã đảm nhiệm tất cả. Vài năm sau thì ông qua đời…

– Bao nhiêu năm trời mà ông không hề muốn biết tôi ở đâu ư?

Jago lặng lẽ nhìn tôi lắc đầu nói – trước khi nhắm mắt ông đã nghĩ tới cô. Ông yêu cầu tôi tìm cô. Mẹ của cô đã không liên lạc với ông từ khi rời bỏ đảo.

– Ông ấy biết, bà đã trở về gia đình của bà.

– Cha của cô không nói một điều gì về họ. Nhưng khi xem báo, tôi mới biết rằng cô chuẩn bị cưới. Vậy là tôi đi tới London ngay.

– Thật kì lạ, ông đã không chịu nói với tôi ông là ai.

– Ồ bản tính của tôi có một chút kỳ quặc…rồi cô sẽ biết. Tôi thích những cảm xúc mạnh. Tôi muốn hiểu biết về cô trước khi cô biết về tôi. Vậy là…vào ban đêm nhạc ở nhà Carrington tôi đã tới gặp cô.

– Vì sao, cả nhà Carrington không ai biết ông?

– Có thể tôi là một vị “khách không mời” mà đến. Điều này thật dễ dàng đối với người có bản lĩnh tự tin..đi qua cổng mà không cần có giấy mời, đối với tôi là một trò đùa.

– Phải thật…trâng tráo, đúng không?.

– Đúng, riêng tôi có phần còn nhiều hơn thế…

– Ông đã vào biệt thự ở Finlay Square như thế nào? Ông nói người quản lý đã đưa chìa khóa cho ông, nhưng thực chất ông ta chỉ có hai chìa khóa đã đưa cho chúng tôi giữ.

– Đó là điều người quản lý đã nói với cô.Cô phải biết thực chất cái nhà mới là điều cần quan tâm của người quản lý. Ông ta muốn bán được ngôi nhà càng nhanh càng tốt, trong lúc nhà Carrington còn đang do dự trả giá.

– Sao ông lại vào đúng vào lúc tôi đang ở trong nhà?

– Tôi đã theo dõi đợi cô bên ngoài cho tới lúc cô bước chân vào nhà, điều này thật dễ hiểu phải không? Hãy cho phép tôi được nói: Bảo hộ cho cô đó là bổn phận của tôi. Tôi muốn tìm hiểu gia đình Carrington có cưới cô chắc chắn hay không.

– Hẳn, ông đã nhanh chóng khám phá nhà Carrington có vấn đề?

– Đúng tôi đã khám phá nhiều điều về họ…Sau đó, khi thảm kịch xảy ra, tôi đã viết thư yêu cầu cô tới đây ngay. Bây giờ cô đã thấy mọi việc đã trở nên rõ ràng rồi chứ?

– Vâng, tôi đã hiểu.

– Tôi hi vọng, Ellen… – giọng anh trở nên chân thành thiết tha – cô sẽ ở lại đây lâu dài với chúng tôi chứ?

– Ông mới tốt làm sao!-Tôi đáp lại.

Thật không ngờ, sao anh ta lại thản nhiên đến như vậy, khi mà vết đau đớn khủng khiếp trong lòng tôi còn ứa máu chưa kịp kín miệng.

– Tôi mong muốn, cô sẽ yêu thích nơi này – anh nói tiếp – và tôi tin như vậy. Đây là ngôi nhà của tổ tiên chúng ta, cũng là nơi mẹ cô sanh ra cô… và đưa cô ra đi, nhưng bây giờ cô đã quay trở về chính ngôi nhà này cùng với chúng tôi. Ellen, cô vừa bị bủa vây bởi một thảm kịch cay đắng… tôi hi vọng, chúng tôi sẽ giúp cô thoát ra khỏi nó.

Tuy chưa tin, nhưng bây giờ tôi đã phát hiện ra ở anh có nhiều điều đáng được quan tâm.

– Tôi sẽ gọi anh như thế nào?

– Jago. Dĩ nhiên là tên của tôi. Và xin đừng có quên, tôi là anh họ xa,đồng thời là người bảo hộ quan trọng của cô nữa đấy.

– Thực tế, tôi không mong cầu có ai bảo hộ. Tôi đã đứng vững trên đôi chân của mình.

– Nhưng theo pháp luật, cô phải có một người bảo hộ, Ellen. Cho dù cô có muốn hay không, anh ta là người thánh thiện hay độc ác, thì anh ta vẫn phải kiên định làm tròn bổn phận của người bảo hộ. Bởi, đó còn là lời hứa danh dự của anh ta. Vậy cô hãy gọi tôi là Jago, chúng ta sẽ là bạn của nhau. Jago, đó là một từ tiếng Anh cổ thời kì đầu James.Với cương vị một cựu sinh viên tôi hi vọng sẽ giúp cô hiểu về thời kì James, ngôn ngữ La – tinh không hoàn toàn thuần khiết Tây Ba Nha. Một số người nghĩ là Tây Ban Nha thuần khiết, bởi trong thời kỳ này người Tây Ba Nha đã thống lĩnh khắp đại dương. Thời Elizabeth – chúng ta đã không ngừng nổi dậy chống lại họ… và khi Armada mắc phải sai lầm đã làm hỏng tất cả… tàu bè đã bị đắm hết ở đây… Nhưng thật đơn giản, Jago là từ Anh cổ…không phải là từ Anh hiện đại. Ellen. cô có biết lịch sử cổ đại nhiều không?

– Rất ít, tôi chỉ biết về thời kỳ hiện đại, nhưng không nhớ nhiều lắm.

– Chúng ta là người Anh thuần khiết, không phải là người Anh lai tạp. Cộng đồng người Anh của chúng ta vì ở Đảo Xa, nên chúng ta đã tránh được sự xâm nhập từ bên ngoài vào, chúng ta vẫn giữ được bản chất Anh tinh khiết… thói quen Anh. Trong thời gian ở đây, cô sẽ tìm hiểu điều đó. Từ mấy thế kỷ trước, Kellaway đã là tài sản riêng của tổ tiên chúng ta, bây giờ chúng ta có quyền thừa kế. Kellaway của chúng ta là một hòn đảo tuyệt vời, phì nhiêu, màu mỡ… khí hậu phù hợp với mọi giống cây trồng. Xung quanh đảo được che chắn bởi những bức bình phong bằng đá, gió lạnh từ hướng tây thổi tới, bão tố từ tây – nam đổ vào đều bị chặn lại. Đảo luôn được sưởi ấm bởi dòng nước nóng Gulf. Tôi sẽ chỉ cho cô biết kế hoạch phát triển nhà vườn. Chúng ta đã có phố xá nhà thờ, nghĩa trang, nhà nghỉ…tất cả mọi cái, chúng ta không phụ thuộc vào đất liền. Kalleway…là một cộng đồng riêng của chúng ta.

Tôi thấy anh tràn đầy tự hào và kiêu hãnh. Trong lòng anh chan chứa một tình yêu tự tôn Kellaway…giống như một ngọn lửa hừng hực bốc cao, cuốn hút tất cả…Đó chính là nhiệt tình, là sự thuyết phục. Tuy tôi chưa hiểu hết, nhưng âm hưởng của nó làm đã làm cho lòng tôi ấm lên rạo rực: “Niềm kiêu hãnh Kellaway”.

Tôi bỗng khao khát muốn nghe anh nói nhiều hơn. Anh mỉm cười mãn nguyện… có lẽ anh đã tìm thấy dấu ấn Kellaway được thắp sáng trong mắt tôi. Anh nói – chúng ta có nhiều lễ hội rất long trọng và vui vẻ, đấy là lễ hội mùa hè Eve, bao gồm có: thi đấu vật, phóng lao, múa hát, đốt lửa trại… cùng những lễ hội truyền thống cổ xưa còn hơn cả đất liền, tổ chức vào ngày Chúa giáng sinh. Nhưng trước tiên cô phải biết về gia đình của chúng ta: Chị Jenifry của tôi, một phụ nữ góa chồng. Chồng của chị chết đã từ lâu, trong nạn dịch thương hàn lây lan từ đất liên vào. Chị Jenifry lớn hơn tôi vài tuổi có thể gọi là bà chủ lâu đài cũng được. Bây giờ chị đang đi thăm một người nông dân ốm liệt giường. Cô nên biết, ở đây chúng tôi luôn quan tâm đến tất cả mọi người, những người lao động chăm chỉ nghèo khổ, nhưng đáng tin cậy. Gwennol là con gái của chị Jenifry, cô ta trạc khoảng lứa tuổi cô. Bây giờ… Ellen, cô hãy nói về cô đi… về cuộc sống của cô trong nhà người dì họ ấy.

Tôi bắt đầu kể cho anh nghe về dì Agatha. Căng thẳng và mệt mỏi, nhưng dường như anh cảm nhận được tất cả… Anh nói – ôi, đến như vậy ư, thật không dễ chịu một chút nào. Bà ta có một người con gái cùng lứa tuổi với cô? Tôi đã hình dung ra rồi. Bà ta luôn bắt cô phải ghi nhớ công sức cùng với sự hào phóng, lòng rộng lượng của bà ta.

– Một câu chuyện thật tầm thường – Tôi nói.

– Không tầm thường chút nào, vậy là chàng công tử bột con nhà giàu đó tới. Họ muốn chàng ta cưới cô con gái của họ. Nhưng chàng trai khôn ngoan đã lựa chọn cô, và sau đó anh ta tự sát, phải không?

– Không… sự thật không phải thế. Anh ấy không có thể hành động như vậy được. Nếu anh biết Phillip chắc chắn anh cũng khẳng định, điều đó không thể xảy ra.

– Thôi tất cả chuyện cũ đã qua rồi – anh xót thương an ủi – hãy chôn sâu qua khứ vào dĩ vãng. Chúng ta sẽ không bao giờ nhắc lại chuyện đó nữa. Chúng ta hãy nghĩ về hiện tại… và tương lai. Vậy kế hoạch của cô trước khi nhận được thư của tôi là gì?

– Tôi đang chuẩn bị làm gia sư, cho một gia đình người bạn của dì Agatha.

– Cô đã thất vọng?

– Tôi căm ghét công việc đó.

– Tôi cũng nghĩ vậy! Ellen – một gia sư! Ôi thật đáng tiếc cô không thể làm công việc đó được. Niềm tự hào không cho phép. Ellen cô chỉ có thể làm gia sư cho chính đàn con dễ thương của cô thôi.

– Nhưng tôi không lấy chồng đâu.

– Một cô gái duyên dáng như Ellen sẽ không chịu nổi cô đơn mãi được.

Tôi lắc đầu nói – nhưng tôi chẳng còn ham thích gì về chuyện đó nữa.

– Ellen có thể nói không, nhưng đàn ông – những kẻ ngưỡng mộ cô vẫn lao tới. Trong cương vị của một người bảo hộ, tôi rất thích chứng kiến một đám cưới hạnh phúc của cô. Thôi được ngay bây giờ Ellen cần phải nghỉ ngơi đã. Cô có thích căn phòng dành riêng cho cô không? Nếu Ellen cần bất kì cái gì, hãy rung chuông báo cho Janet, cô ta sẽ phục vụ cho Ellen.

Tôi cùng anh đứng dậy. Anh đi tới kéo dây chuông, rồi quay lại đứng đối diện với tôi, đặt tay lên vai tôi siết chặt. Tôi nhận được sức mạnh truyền cảm từ ngón tay anh.

Người hầu xuất hiện. Anh nói – Hãy đưa cô Ellen về phòng riêng – Tay bóp nhẹ vai tôi. Anh mỉm cười trìu mến, rời khỏi tôi.

Tôi trở về phòng riêng với một tâm trạng kì lạ. Anh đúng là người đàn ông khác thường, khó tin. Ấn tượng xấu về anh trong cuộc gặp gỡ bất ngờ tại biệt thự Filay Square vẫn còn ám ảnh tôi. Con người của anh thoắt ẩn thoắt hiện thật khó lường… Không biết tôi sẽ phải làm gì đây, để đối phó với Jago – người anh họ, người bảo hộ của tôi.

Tất nhiên tôi làm sao có thể nghỉ ngơi yên tĩnh được. Kích động và căng thẳng, tôi cần phải được thư giãn. Trước giờ ăn, tôi dạo xung quanh lâu đài. Đây chính là gia đình của tôi, gia đình mà tôi sẽ gửi gắm cả cuộc đời của tôi vào đó.

Tôi đi xuống cầu thang nối giữa phòng của tôi và tháp canh. Tôi bước đi trong khi cô đơn trống vắng tất cả đều lạ lẫm. Ngôi nhà khác xa với tưởng tượng của tôi: Một lâu đài đồ sộ trên đảo cùng với một ông anh bảo họ chưa qua ba mươi – một Chúa Đảo kỳ quặc và một bà chị – Bà chủ lâu đài cùng với cô con gái…thuộc chi nhánh quỷ ám. Trước mắt, tôi phải chịu phụ thuộc hoàn toàn vào một người đàn ông, anh ta sẽ khuấy động cuộc sống buồn thảm, đáng thương của tôi. Nhưng vì sao mẹ của tôi phải vội vàng chạy chốn? Cuộc đời của tôi sẽ khác biết bao nếu mẹ tôi vẫn ở lại đây. Điều này thật khó hiểu, phải chăng đây là một bí mật mà tôi cần phải khám phá.

Trong lúc đứng ở đài quan sát, tôi hãi hùng chợt nhận ra sự thiếu thận trọng của tôi. Ôi đây là gia đình của tôi ư? Jago đã gây cho tôi một cú sốc choãng váng ở biệt thự Finlay Square. Jago là loại người mánh khóe khó lường! Anh đã thừa nhận là người thích cảm giác mạnh, hẳn anh ta là một bạo chúa.

Tôi thầm hỏi đây là cảm nhận tự nhiên hay áp lực của thành kiến? Tôi rùng mình khó chịu y như lần đầu tiên bước chân vào biệt thự Finlay Square. Nhưng căn phòng này có vẻ cổ xưa hơn, bởi nó trưng bày đầy binh khí: Nào là gươm bắt chéo, nào là rìu, nào là giáo bắt chéo với kích…treo la liệt trên tường. Nó đánh thức kí ức của tôi nhớ về phòng binh khí của lâu đài Tretham Tower, noi Phillip mang khẩu súng ngắn ra khoe, mà khẩu súng chính là thủ phạm độc ác giết chết anh. Trong ký ức tăm tối, sự nguy hiểm vô hình mơ hồ hiện lên trong tâm trí của tôi, trước kia là biệt thự Filay Square và bây giờ là lâu đài Kellaway.

Tôi bước đi về phía cửa, căn phòng dậy vang âm thanh gót giày khua trên nền nhà lát đá cẩm thạch. Tôi dừng lại. Im lặng! Không có một tiếng động. Tôi trở nên nhỏ bé và ngốc nghếch trước một lâu đài cổ kính đồ sộ. Tôi nghĩ phòng binh khí này ắt hẳn phải chứa đựng rất nhiều sự kiện kịch sử đã có hàng trăm năm xưa. Nếu như mỗi viên đá kia biết nói, hẳn tôi sẽ nghe được hết những điều bí mật! Những niềm vui hoan hỉ, những nước mắt khổ đau trộn lẫn những bi hài…trải qua nhiều thế hệ. Rồi có lúc tôi sẽ nắm bắt được tất cả nhờ những viên đá thầm thì tiết lộ những bí mật mà nó đã giấu kín bên trong.

Nhưng đó chỉ là sự tưởng tượng của tôi trong giây phút ngây thơ.

… Tôi đã tới một cái sân nhỏ với cái cổng vòm mở ra trước mặt. Phía dước cổng có một cái sân nhỏ hơn có tường vây quanh, trên tường có trổ vài cừa sổ hướng ra phía ngoài và một cái cổng vòm khác dẫn tới một hành lang dài nằm giữa hai bức tường đá.Tôi đi vào hành lang…

Đi đã khá xa tôi bỗng nghe thấy có tiếng gù của chim bồ câu. Đi tiếp tôi tới một cái sân nhỏ khác, thì ra tiếng chim gù xuất phát từ đây. Trên sân đầy chim bồ câu, chúng thi nhau mổ hạt bắp vung cãi khắp trên sân.

Tôi nhẹ bước tiến đến gần một số con hoảng sợ vụt bay lên cái chuồng xinh xắn đặt ở trên tường, những con khác phía xa vẫn thản nhiên mổ bắp coi như không có chuyện gì sảy ra. Hầu hết những con chim bồ câu ở đây đều màu xám xanh chỉ có một số ít màu nâu, một màu lạ mắt khác thường.

Trong lúc tôi đứng ngắm, chợt có bóng người cúi thấp lom khom dưới cửa sổ. Hẳn ai đó đang quan sát tôi.

Tôi quay phắt lại. Bóng người đó biến mất.

Tôi lại quay trở lại với đàn chim. Bóng người lại xuất hiện phía sau.

Tôi kêu lên: – Chim bồ câu của ông phải không?

Không một tiếng trả lời. Tôi đi sát cửa sổ nhìn vào nhưng không thấy một ai.

Tôi gõ cửa. Cánh cửa khép hờ chuyển động. Đứng bên ngoài tôi nghe thấy hơi thở khá nặng nhọc của người đứng bên trong, tôi vội đóng cửa sổ lại.

Thật kì lạ! Đúng là chủ nhân không muốn tiếp tôi, họ không muốn bị quấy rầy. Tôi liều tới gõ cửa một lần nữa.

Bên trong vẫn không có tiếng trả lời.

Tôi kêu lên: – Tôi chỉ muốn hỏi một chút về chim bồ câu thôi mà.

Vẫn im lặng.

Thậy kỳ cục biết bao. Sao họ lại bất lịch sự đến thế. Tôi nhún vai bỏ đi, cho rằng đó chỉ là kẻ tầm thường không cần phải bận tâm. Tôi rời xa đàn bồ câu, quay trở về con đường tôi vừa đi tới.

Có lẽ thật ngu ngốc, nếu bắt đầu việc khám phá chỉ có một mình. Sẽ chậm một chút, nhưng tốt hơn hết nếu tôi có một người chỉ dẫn. Tôi tin thế nào cũng tìm được một người vui vẻ giúp tôi làm việc này.

Tôi quay trở về phòng riêng, thay đồ ăn tối. Tôi quyết định mặc cái váy màu phong lan, cái váy mà tôi đã mặc trong đêm vũ hội Esmeralda, đêm Phillip cầu hôn…

Lúc này quá khứ như bắt tôi quay trở về. Tôi chưa hoàn toàn thoát khỏi chúng. Phải chăng bộ váy đã khơi dậy ký ức cũ? Tôi mơ màng…tưởng như đang cùng với Phillip lênh đênh trên con thuyền xuôi theo dòng Grand Canal trong tuần trăng mật.

Xót xa, tôi khép chặt ký ức cũ.

Lâu đài Kellaway, đêm đầu tiên, dù thế nào cũng phải lưu lại trong kí ức mới mẻ của tôi.

Một người hầu tới, báo cho tôi biết mọi người trong gia đình đang đợi tôi. Tôi đi xuống phòng khách, nói Jago đang đứng trước lò sưởi, hai tay chắp đằng sau lưng, mắt sáng vui vẻ. Nổi bật bên cạnh anh là một người phụ nữ chừng khoảng bốn mươi, hẳn đó là Jenifry – chị của anh, gần ngay đó là cô gái rất trẻ cùng lứa tuổi với tôi, hẳn là Gwennol – cháu gái của anh.

– Hãy tới đây Ellen – Jago gọi tôi và nói – tới làm quen với gia đình. Đây là Jenifry chị của tôi.

Tôi cúi thấp người chào chị, trong lúc chị tiến lại nắm lấy chặt tay tôi. Chị cũng có nước da ngăm ngăm y như Jago, cũng cái mũi cao kiêu kì thân hình cao lớn mạnh mẽ xứng với nòi giống Kellaway.

Chị cất cao giọng nói nồng nhiệt: – chúng tôi vui mừng vì cô đã tới Ellen – nhưng mắt chị lại điềm tĩnh quan sát đánh giá. Tôi cảm thấy ở chị cũng có những bí ẩn khó lường, giống như em trai của chị.

– Thật may mắn, tôi đã được đón tiếp vui vẻ – tôi tiếp lời chị.

– Dĩ nhiên chúng tôi rất vui vì cuối cùng cô đã tới. Gwennol hãy làm quen với cô Ellen đi.

Gwennol cũng ngăm ngăm đen y như thế. Cô có mái tóc đen huyền màu nâu xám mơ mộng, cái mũi hơi nhếch miệng rộng tất cả lộ ra một Gwennol lanh lợi. Gwennol tươi cười nói – Chào Ellen, chúc mừng cô đã tới đảo Kellaway.

– Hai cô sẽ là bạn của nhau – mẹ cô nói.

– Cháu phải chỉ dẫn cho Ellen đi thăm lâu đài Gwennol – Jago nói và mỉm cười nhìn đi một nơi khác.

Vừa lúc đó một người hầu vào báo, tiệc đã chuẩn bị xong. Jago khoác tay tôi đi sang phòng ăn, nói – Đây là một ngày rất đặc biệt, chúng ta mở tiệc đãi ở phòng đại sảnh, nơi tiếp khách ăn uống trong những dịp đặc biệt hơn dịp này?

Toàn bộ phòng đại sảnh gây cho tôi ấn tượng mạnh mẽ về một lâu đài cổ, phong cách Anh truyền thống.

Đại sảnh rộng lớn thênh thang, có một cửa dẫn tới bếp và một cửa khác đi tới gallery, sàn lát gỗ lớn nằm chính giữa. Phía ngoài trước phòng gallery đặt một bộ gạc hươu và những tấm tranh thảm nơi thể hiện uy quyền với mái vòm cao sang, binh khí treo la liệt trên tường.

Khách dự tiệc ngồi kín toàn bọ các dãy bàn bằng gỗ sồi đặt trên sàn. Jago giới thiệu cho tôi biết họ chính là những chủ của các dịch vụ ở trong khu phố, chủ trang trại, chủ quản lý các ngành nghề, rồi các viên chức, thư kí và kế toán, và cả những người thợ lành nghề nổi tiếng, cuối cùng là những người giúp việc thân tín.

Một bữa tiệc thịnh soạn linh đình của vua chúa thời xa xưa hiện lên trước mắt tôi.

Những trang lịch sử oanh liệt của Kelleway thời trung cổ được mở ra sau cánh cửa của Gallery: Những nhân chứng, vật chứng của lịch sử đã được tôn vinh, những chiến tích vinh quang của những chiến công hiển hách, những truyền thống anh dũng kiên cường đã trở thành danh dự và niềm tin kiêu hãnh Kellaway trường tồn hàng thế kỷ, khiến tôi xúc động.

Tất cả mọi người ở trong phòng đã đứng cả dậy, khi Jago khoác tay tôi bước lên sàn. Anh đứng bên tôi công bố:

– Tôi rất vui mừng được giới thiệu với tất cả mọi người cô Ellen Kellaway người em họ của tôi, người mà tôi bảo hộ đã tới thăm chúng ta, tôi hi vọng cô sẽ ở lại đây mãi mãi. Đây là dịp để cho tất cả Đảo Kellaway tỏ lòng mến mộ, gặp mặt cô. Xin cảm ơn tất cả các vị.

Mọi người đứng hết cả dạy vỗ tay rào rào tán thành vang dội cả đại sảnh. Đó là điều bất ngờ, nằm ngoài sự mong đợi của tôi. Tôi chỉ biết mỉm cười cám ơn và ngồi xuống bên cạnh Jago.

Mọi người kéo hết ghế ào ào ngồi xuống.Món súp nóng được múc ra các tô lớn đặt lên bàn.Tất cả bắt đầu vào cuộc ăn uống sôi nổi.

– Ellen cô có cảm nghĩ gì? – Jago thì thầm hỏi.

– Thật không thể tin được tôi không thể tưởng tượng nỗi mọi cái lại như thế này.

Anh đặt tay lên tay tôi vỗ nhẹ.

– Tất cả là vì cô đấy, Ellen – anh nói – chúng tôi muốn tỏ rõ chúng tôi mạnh mẽ như thế nào, chúng tôi có đủ tất cả mọi cái, kể cả lòng nhiệt tình say sưa hết mình.

– Cám ơn Jago. Anh thật tốt. Trong đời tôi chưa bao giờ lại được đón tiếp như thế này.

– Đấy là tấm lòng chân thật của chúng tôi.

Sau món súp nóng là món thịt hươu nướng tuyệt vời trong tiếng nhạc du dương nhự nhàng, toi chợt nhận ra Kellaway thời nay có cái khác hơn thời xa xưa.

Jenifry ngồi bên phải Jago, còn Gwennol ngồi bên cạnh tôi. Tôi chú ý tới cái liếc nhìn kín đáo của người hầu, trong lúc họ vẫn tận tụy với công việc phục vụ, thực hiện đúng những nghi thức trang trọng đang diễn ra ở đây. Tôi nhận thấy kỹ năng phục vụ của họ thật thành thạo. Sự thành thạo đó chắc chắn là nhờ chúa Đảo.

– Vào ngày lễ Giáng Sinh chúng tôi chuẩn bị lễ hội theo nghi thức cổ truyền – Jago nói. Đại sảnh được đặt một cây ô rô to xum xuê với dây thường xuân leo bám vào làm thành cây Noen rất đẹp. Mọi người đồng thanh hát thánh ca, diễn kịch tất cả đều diễn ra ở đây và đã trở thành thói quen lâu đời của gia đình chúng ta.

– Tôi thấy anh rất ngưỡng mộ những thói quen ấy – tôi nói.

– Tất cả chúng ta đều thích làm theo thói quen, đúng không? – anh nói, chị Jenifry và Gwennol gật đầu đồng tình.

Chị Jenifry tiếp lời – chúng tôi đang cố khám phá, tìm ra ngày đầu tiên khởi công xây dựng lâu đài Kellaway. Dĩ nhiên hàng năm nó đều được xây dựng thêm. Nguyên thủy nó chỉ là một pháo đài để bảo vệ đảo, nếu để ở sinh hoạt thì rất bất tiện. À, cô cùng lứa tuổi với Gwennol, thật tuyệt vời, phải không?

– Tôi sinh ra cùng năm với chị – Gwennol nói – ban đầu chị nên khám phá tìm hiểu bên ngoài lâu đài, những sắp xếp ở trên đảo.

– Cô thích vậy chứ, Ellen – Jago nói – cô thử đi thăm xung quanh noi đây một lần. Chính tôi sẽ chỉ dẫn cho cô. Ngài mai chúng ta sẽ tiến hành. Tôi biết cô cưỡi ngựa được mà.

– Ồ, vâng ở London chúng tôi thường cưỡi ngựa đi chơi, dĩ nhiên chỉ ra ngoại ô thôi. Tôi cưỡi ngựa cũng khá tốt.

– Vậy thì tốt. Chúng tôi không phải lo dạy cho cô cưỡi ngựa. Chúng tôi sẽ chọn cho cô một con ngựa thật tốt.

– Tôi rất vui vì điều đó.

– Đó chính là mong muốn của chúng tôi – Jago nó với một giọng thiết tha khiến phụ nữ phải mủi lòng – chúng tôi muốn làm cho cô có nhiều thú vị cuốn hút, làm cô không thể xa rời chúng tôi.

– Còn quá sớm khi nói tới điều này – tôi nhắc nhở anh – anh còn chưa biết vị khách của anh muốn gì cơ mà.

– Không, cô phải nói cho tôi biết.

– Thật thú vị, sau một ngày chào đón nồng nhiệt chủ nhà đã vội hỏi khách ngay như vậy.

– Cô không phải là khách,Ellen. Cô là người nhà, có đúng vậy không?

– Dĩ nhiên rồi – chị Jenifry nói.

– Trước hết hãy nói cho tôi biết về đảo – tôi nói- Tôi rất muốn tìm hiểu nó.

– Từ từ sau này cô sẽ tha hồ mà tìm hiểu – Jago nói – đảo rộng lớn không hề ngăn cản cô đâu, Ellen.

– Có chứ nó sẽ ngăn cản cô – chị Jenifry đưa ra ý kiến – đó là khi thời tiết xấu không có khả năng vào đất liền được.

– Và nó có thể kéo dài vài ngày – Gwennol nói thêm – hoặc vài tuần.

Jago ngắt lời chị, anh nói- Ellen có biết khi đó chị ấy sẽ không biết làm thế nào giúp cho nhà trọ ở Polcrag có thuyền chở khách đến Đảo Xa được. Trong những ngày thời tiết xấu, mọi người ở đây mất hết mối liên hệ với đất liền. Chúng tôi sống không thể thiếu thông tin, thiếu khách tới thăm đảo. Vì thế chúng tôi cũng có nhà trọ.

– Nhà trọ chỉ đủ đặt bốn cái giường cho khách – Gwennol nói – nó chỉ là loại nhà trọ công cộng cho mọi người tới đảo vui chơi ăn uống, tìm bạn.

– Có thể còn tốt hơn thế – Jago nói – nhưng chúng tôi không muốn sự yên tĩnh trên đảo bị quấy rối với lượng người vào đảo quá nhiều.

Tôi nhận thấy anh và đảo thật gắn bó với nhau. Anh yêu đảo, đảo tín nhiệm tôn thờ anh làm Chúa Đảo, chính là Jago, anh tự hào vì nó.

– Trên đảo không cần có nhà tù?

– Thế thì rất nguy hiểm, bởi nó rất cần thiết cho những kẻ phạm tôi.

– Trên đảo thực hiện luật sử như thế nào?

– Tôi làm quan tòa xét xủ, chủ yếu là hòa giải. Dĩ nhiên những trường hợp phạm tội nặng, nghiêm trọng như giết người chẳng hạn, chúng tôi sẽ chuyển về đất liền. Nhưng với tội bình thường, chúng tôi luôn giải quyết sao cho êm thấm, công bằng và hợp lý.

– Bây giờ trên đảo có sự nguy hiểm nào không?

Jago bật cười to – Ellen thân mến, cô không phải sợ hay thất vọng bởi những tội lỗi cướp bóc ở đây. Trên đảo không có bất kì một nguy hiểm nào đe dọa. Cô không phải lo có kẻ đột nhập vào phòng riêng của cô trấn lột tiền nong, hay đe dọa mạng sống của cô. Không có một nguy hiểm nào, không có một sự khủng khiếp nào xảy ra trên đảo, cô cứ yên tâm, Ellen.

Gwennol nói – Cũng có những cái đáng sợ chứ: Ma! Ôi, đêm đêm trên đảo đều có ma ám ảnh. Đó là những hồn ma của kẻ địch bị Kellaway giết chết. Chúng không theo luật pháp nào cả, chúng luôn hăm dọa làm mọi người khiếp sợ. Tự nhiên, mọi người không ai muốn làm gì qua đêm ở bên ngoài một mình.

– Tôi muốn nhìn thấy chúng – tôi nói.

– Vậy thì cô sẽ được toại nguyện – Jago nói – ở đây rồi có ngày cô sẽ khám phá ra điều đó.

– Vừa mới rồi, trước bữa ăn, tôi cũng khám phá ra một điều kì lạ nhỏ. Tôi đã nhìn thấy một đàn chim bồ câu, một loài bồ câu rất lạ, tôi chưa từng thấy bao giờ.

– Chúng tôi luôn có chim bồ câu ở trên Đảo Kellaway – Jago nói – chị Jenifry, hãy kể chuyện về bồ câu nâu cho Ellen nghe đi.

Một người trong số các cụ tổ của chúng ta có giam giữ tù binh – chị Jenifry kể – tôi nghĩ, người tù đó là người Italy thì phải, ông ta bị bắt trong một trận đánh. Bỗng có một con bồ câu nhỏ màu nâu tới đậu vào cửa sổ của phong giam. Họ đã trở thành bạn của nhau. Bồ câu được chia sẻ khẩu phần ăn của người tù. Ông ta huấn luyện cho bồ câu đưa thư, hi vọng sẽ có ngày bạn bè từ phương xa nhận được thư của ông. Nhưng dường như hi vọng đó thật xa vời, cả một thời gian dài ông không có một hồi âm nào. Trừ phi có một phép màu nào đó làm cho bồ câu trở thành sứ giả của số mệnh. Ông ta đã kiên trì, tiếp tục nuôi bồ câu nâu và làm bạn với chúng. Chính bởi vậy, trên đảo có loại bồ câu nâu và chỉ có trên đảo Kellaway mới có chúng.

– Một câu chuyện thật cảm động, cô có đồng ý thế không? – Jago hỏi.

– Thật hấp dẫn – tôi đáp.

Khi bữa ăn đã xong, Jago đứng dậy, chị Jenifry, Gwennol và tôi cùng đứng dậy theo. Chúng tôi đi ra cửa, mọi người cũng đứng cả dậy đi ra theo. Trên bà la liệt bát đĩa trống trơn, nhắc nhở những người phục vụ nghi thức đã xong, họ có thể thoải mái dọn dẹp và chuyện trò với nhau.

Chúng tôi đi tới phòng khách, noi đã có sẵn trà và cà phê phục vụ.

Một không khí thân thiết gắn bó, nảy nở giữa chúng tôi. Tôi ngồi bên cạnh Gwennol, cô ta muốn tôi kể về Lodon, vậy là tôi đành kể về ngôi nhà cạnh công viên Hyde Park như thế nào, chúng tôi đi dạo chơi ở vườn hoa Kenisington như thế nào, chúng tôi cho vịt trời ở hồ Roun Pon ăn vui như thế nào và cả chuyện chúng tôi bị lạc trong mê lộ nhằng nhịt ở vườn hoa Pon Garden nữa.

Chúng tôi cũng có một mê lộ trong vườn hoa – Jago nói – chúng tôi cũng có cả một cái hồ bên vườn hoa nữa – Dường như anh muốn khoe đảo có đủ tất cả những cái thú vị mà tôi được biết ơ Lodon. Có lẽ, đó vừa là niềm tự hào vừa là nỗi khát khao của anh làm cho tôi có cảm tình với hòn đảo nay.

Gwennol càng thiết tha hơn, muốn được nghe tôi kể về các bữa của nhà Agatha, của nhà Carington, về tiệc trà ở cung điện Gunter trong mùa đông với thảm đỏ trải trước nhà, tiếp đón khách sang trọng như thế nào.

Còn về phần tôi, tôi cũng chăm chú lắng nghe nhiều hơn về cuộc sống của họ trên đảo, bởi nó khác xa với cuộc sống của tôi trong nhà dì Agatha.

Đến tận mười rưỡi tối, khi đó Jago mới ra tín hiệu cho mọi người để tôi được đi nghỉ. Jago nói – chị Jenifry sẽ đưa Ellen về phòng riêng.

Chị Jenifry cầm lấy cây đèn trên bàn sẵn sàng đưa rôi đi.

Tôi cám ơn Jago và chúc anh ngủ ngon.

– Sáng mai chúng ta sẽ cưỡi ngựa đi vòng quanh đảo nhé – Jago dặn dò.

Chị Jenifry và tôi rời khỏi đại sảnh. Trong ánh sáng lung linh yếu ớt của cây đèn cầy, binh khí treo la liệt trên tường chập chờn trong bóng tối khiến căn phòng càng thêm cổ xưa hơn.

Chị Jenifry nói – Đây là con đường dẫn tới phòng riêng của cô. Rồi cô sẽ sớm thuộc đường đi – Chúng tôi đã vượt qua đại sảnh, leo lên cầu thang, chị nói thêm – nhưng phải mất vài ngày thì cô mới không bị lạc đường.

– Lâu đài thật là rộng – tôi thốt lên thán phục.

– Bởi nó có rất nhiều phòng, bây giờ chúng ta không còn là một gia đình lớn nữa. Lâu đài xưa kia rất đông đúc, đó là một đại gia đình.

Chúng tôi đã leo lên đỉnh của cầu thang vượt qua phòng gallery và leo lên một cầu thang khác, lúc này tôi mới nhận ra hành lang dẫn tói phòng của tôi.

Chị Jenifry mở cửa. Bóng tối làm căn phòng trở nên xa lạ. Tấm rèm cửa đã buông xuống che kín cửa sổ hình bán nguyệt. Cửa sổ nhìn ra biển đã bị khép kín. Trên giường, đệm đã được trải ra êm ái, sẵn sàng ru tôi vào giấc ngủ.

– Đợi tôi một lát – chị Jenifry nói, đồng thời thắp sáng các cây đèn cầy đặt trên bàn trang điểm, trên mặt lò sưởi. Căn phong bật sáng, lung linh huyền ảo. Hẳn, đêm nay sẽ là một đêm khó ngủ đối với tôi. Số mệnh dường như đã an bài như vậy.

– Chắc rằng tôi dã được đáp ứng đủ mọi cái – tôi đưa cây đèn cầy trả chị và nói – cám ơn, chị thật chu đáo với tôi.

Chị nhìn tôi mỉm cười âu yếm. Tôi tưởng như mình bé bỏng trở lại, trước sự ân cần chăm sóc của một người chị.

Nhìn vào gương tôi – một cô gái ăn mặc hấp dẫn hiện ra, mắt sáng long lanh má ửng hồng. Trông khác hẳn với tất cả những người dân ở đây. Thật lạc lõng và xa lạ.

Sau đó tôi bất chợt nhìn thấy Jenifry ở trong gương. Một khuôn mặt Jenifry khác hẳn, mắt lườm lườm nhìn tôi, môi mím lại hà khắc dữ tợn, tất cả toát ra một sự không hài lòng. Tôi quay phắt lại. Ngay lập tức khuôn mặt chị rạng rỡ trở lại, chị nhìn tôi mỉm cười.

– Thật là tốt nếu cô thấy đầy đủ mọi cái. Chúc ngủ ngon Ellen.

– Chúc ngủ ngon Jenifry.

Chị đi tới cửa vẫn còn ngoái đầu lại nhìn tôi mỉm cười một lần nữa, chị nói – ngủ ngon nhé!

Cánh cửa khép lại. Tôi ngay người ra một lát như người mất hồn. Trong lúc tiếng bước chân của chi khua lên vội vã khác thường đang xa dần. Tôi nhìn lại vào gương, nhớ lại bộ mặt già nua hiện lên với bao vết nhăn nhúm làm biến dạng vẻ đẹp của một thì con gái, một khuôn mặt tàn tạ cũ kỹ từ hai trăm năm về trước. Có lẽ, đó là sự bóp méo của cái gương, nhưng dù sao nó cũng một phần phản ánh một sự thay đổi trên nét mặt chị: chị soi mói nhìn tôi! Phải chăng có một con quỷ đang ẩn nấp ở trong chị, nó căm ghét tôi.

Tôi ngồi xuống chải đầu, thả tóc buông xõa trên vai, mái tóc đen dày dài phủ kín hết lưng.tôi thầm nghĩ, sự thật vẫn là sự thật, tôi đã quá quen với những sự thật cay đắng như thế này, tôi dễ dàng nhận ra và không tin vào tình cảm bề ngoài của chị Jenifry. Nhưng dù sao đó cũng là điều đáng sợ. Tôi chậm rãi chải tóc, thong thả tết chúng lại trong sự trầm tư. Tôi cố xua đi cái bóng đáng sợ đó đi để đầu óc thư thái, chuẩn bị cho giấc ngủ. Tôi kéo rèm che cửa sổ nhìn ra biển. Tất cả những ngôi nhà trên đảo bắt đầu chìm vào trong giấc ngủ. Biển êm ái lộ rõ vẻ đẹp, dưới ánh trăng non nghiêng nghiêng chiếu sáng trên mặt nước bao la tĩnh lặng khác hẳn với biển trong lòng tôi đang dậy sóng.

Tôi đã thức trắng đêm, suy nghĩ miên man về tất cả những gì đã xảy ra với tôi trong ngày hôm nay. Tôi chờ đợi để gặp một Jago xa lạ, nhưng anh ta không hoàn toàn xa lạ. Tôi chờ đợi ngôi nhà nhỏ bé khiêm tốn, thì lại là lâu đài Kellaway to lớn – niềm kiêu hãnh của Jago chúa Đảo. Cuối cùng, dẫu cho tôi có tìm thấy họ hàng thân thiết bị thất lạc từ lâu thì đó cũng là những bất ngờ nằm ngoài sự mong đợi. Đêm nay tôi lại thức cả đêm ngồi ngắm biển, chờ đợi trời mau sáng để ngày mai tiếp tục khám phá thêm nhiều bất ngờ khác.

Tôi quay lại ngồi vào bàn trang điểm. Nhìn vào gương, trong ánh sáng mờ ảo lung linh của ngọn nến, tôi thấy khuôn mặt già nua tàn tạ hiện ra nguyên hình mặt một con quỷ nhe nanh cười dữ tợn. Mặt chị Jenifry! Tôi phải bật cười chế nhạo sự ngờ nghệch của chính mình, bởi mặt con quỷ đã biến mất ngay sau khi tôi đưa cây nến vào sát mặt của gương.

Đột nhiên, tôi nghe thấy có tiếng động phía sau lưng.Tôi giật mình đứng dậy, vội nắm lấy đế đèn giơ lên cao, một giọt nến nóng bỏng rớt ngay xuống tay tôi, nhưng tôi vẫn nắm chặt cây đèn đi xung quanh căn phòng.

Im lặng không có gi.

Tôi quay ra cửa, cánh cửa vẫn đóng chặt. Tôi lại nghe thấy tiếng động sột soạt một lần nữa, ngay phía cái tủ. Tôi đi tới, bật phì cười tự giễu mình sao mà nhút nhát vậy. Tôi mở tủ. Bộ váy mày xanh của tôi treo trong đó đã bị rớt xuống làm thành một đống ở dưới đáy. Tôi cầm cái váy lên định treo vào chỗ cũ, bất ngờ tôi nhìn thấy có dòng chữ viết trong thành tủ, với nét nghệch ngoạc.

Tôi buông cái váy ra, đưa đèn lại gần và đọc: “Tôi bị giam ở đây, S.K.”

Tôi ngạc nhiên, không hiểu chữ SK có nghĩa gì đối với người tù. Tôi đoán đó là chữ của một đứa trẻ bởi nét chữ rời rạc giống như mới tập viết, hẳn đứa trẻ này bị phạt giam ở phòng này.

Tôi đặt cây đèn cầy trở lại vị trí cũ trên bàn trang điểm. Tình tiết xảy ra càng làm cho tôi không buồn ngủ, tôi nằm trên giường băn khoăn với câu hỏi: Ai đã từng nằm ngủ trên cái giường này hàng trăm năm qua? Ai là người mang tên có hai chữ cái S.K?

Tôi đã không thể thổi tắt đèn, bởi ánh sáng làm cho tôi yên tâm hơn. Tôi nhìn lên trần nhà ngắm nhìn những đường nét hoa văn hiện ra mờ mờ…

Bất ngờ tôi giật mình có tiếng bước chân bên ngoài cửa. Tôi đứng dậy rón rén bước chân ra khỏi giường, dỏng tai nghe.

Im lặng

Tôi thầm nghĩ: – Mình đã tưởng tượng ra. Không có gì cả. Tại sao mình không ngủ đi nhỉ.

“Chính tôi đã gây ra”, đã có lúc tôi thú nhận với Esmeralda. Đó là những ngày tôi thường đóng giả ngáo ộp để dọa nạt cô cho vui. Vậy mà bây giờ, sự tưởng tượng ấy quay lại hù dọa chính tôi.

Tôi lại vào giường nằm, khi đã yên tâm nhìn thấy cái ổ khóa vẫn đóng chặt kiên cố trong cánh cửa. Tôi thổi tắt đèn…nằm im trên giường, nhưng trong đầu vẫn lảng vảng hiện lên các sự kiện xảy ra trong ngày. Mệt quá, tôi ngủ thiếp đi lúc nào không biết.

Giấc mơ định mệnh lại hiện về.

Hình ảnh căn phòng trải thảm đỏ, với cái bàn đặt sát ngay cửa sổ, lò sưởi bằng gạch, tấm tranh con tàu với bão biển…Gió mạnh bỗng nổi lên, cuốn phăng đi tấm thảm treo trên tường, cánh cửa bật ra. Thật khủng khiếp!

Sự phán quyết nghiệt ngã của số phận đã làm tôi tỉnh giấc. Tôi ngơ ngác không biết mình ở đâu. Định thần một lúc tôi mới nhớ ra, mình đang ở trong lâu đài Kellaway.

Tim tôi đập thình thịch liên hồi. Tôi run lên vì sợ hãi.

Mặc dù đã tự trấn an, đó chỉ là giấc mơ, nhưng tôi linh tính cảm thấy: “Ngày phán quyết của số phận đã tới gần”.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.