NGÀY HÔM SAU, SỰ CĂNG THẲNG CỦA TÔI VẪN vô cùng sống động. Khi tôi đến chỗ làm và kể cho Arlene nghe chuyện đã xảy ra, chị ôm tôi thật chặt, mà nói, “Chị muốn giết chết thằng đốn mạt đã gây ra chuyện này cho Tina tội nghiệp!” Chẳng hiểu sao, câu nói của chị làm tôi thấy dễ chịu hơn rất nhiều. Charlsie cũng chia sẻ niềm cảm thông tương tự, tuy nhiên nó liên quan đến cú sốc của tôi nhiều hơn là cái chết đau đớn của con mèo. Sam thì trông có vẻ đằng đằng sát khí.
Anh ấy nghĩ tôi nên gọi cảnh sát trưởng, hay Andy Beliefleur, và kể cho họ nghe về chuyện đã xảy ra. Cuối cùng, tôi gọi cho Bud Dearborn. “Thường thường những chuyện như thế này luôn xảy ra thành chuỗi,” Bud nhận xét. “Vậy nhưng không có ai khác thông báo thú nuôi của họ mất tích hay bị chết. Ta e rằng đây có thể là chuyện cá nhân, Sookie à. Anh bạn ma cà rồng của cháu có thích mèo không?”
Tôi nhắm mắt lại và hít thở thật sâu. Tôi đang dùng điện thoại trong văn phòng Sam, và anh đang ngồi sau bàn tính toán đơn đặt hàng rượu tiếp theo.
“Bill đang ở nhà khi kẻ giết Tina vứt xác nó lên hiên nhà cháu,” tôi nói bình tĩnh hết mức. “Cháu gọi cho anh ấy ngay sau đó, anh ấy trả lời điện thoại.” Sam ngước nhìn với vẻ giễu cợt, và tôi đảo tròn mắt để cho anh biết ý kiến của tôi về những nghi ngờ của ngài cảnh sát trưởng.
“Và anh ta nói với cháu rằng con mèo bị bóp cổ,” Bud tiếp tục màn thẩm tra chán ngắt.
“Vâng.”
“Có sợi dây nào không?”
“Không ạ. Cháu thậm chí còn không dám nhìn nó.”
“Vậy cháu làm gì với con mèo đó roi?”
“Bọn cháu chôn nó.”
“Đó là ý cháu hay ý của Compton?”
“Của cháu ạ.” Bọn tôi còn làm gì khác với Tina được nữa chứ?
“Có lẽ chúng ta cần đào xác con mèo lên. Nếu có cả sợi dây và con mèo, có lẽ chúng ta sẽ biết được phương thức siết cổ có giống như cách tên sát nhân dùng để giết Dawn và Maudette không,” Bud giải thích bằng giọng đều đều.
“Cháu xin lỗi. Cháu chưa nghĩ đến chuyện đó.”
“Ồ, nó cũng chẳng phải vấn đề quan trọng. Nếu không có sợi dây.”
“Vâng ạ, tạm biệt bác.” Tôi dập máy, có lẽ hơi mạnh hơn cần thiết. Chân mày của Sam nhướn lên.
“Bud là một gã dở hơi,” tôi nói với anh.
“Bud không phải cảnh sát tồi đâu,” anh khẽ nhận xét. “Chúng ta chưa ai từng gặp vụ giết người nào bệnh hoạn đến vậy.”
“Anh nói đúng,” tôi thừa nhận sau một lúc. “Em đã không công bằng. Ông ta cứ lải nhải ‘sợi dây sợi dây’ như thể tự hào mình vừa học được một từ mới vậy. Em rất tiếc vì đã nổi nóng với ông ta.”
“Em đâu cần phải thành người hoàn hảo, Sookie.”
“Ý anh là em cứ việc hết lần này đến lần khác cáu điên lên và bớt cảm thông độ lượng đi chứ gì? Cảm ơn nhé, ông chủ.” Tôi mỉm cười với anh, cảm nhận được đó là một nụ cười méo xẹo, rồi rời khỏi chỗ tựa ở mép bàn lúc nãy đã ngồi khi gọi điện. Tôi vươn vai. Chỉ đến khi nhận ra Sam đang chăm chú nhìn mình, tôi mới trở nên e dè. “Làm việc tiếp thôi!” Tôi nói vội, rồi sải bước rời khỏi phòng, cố gắng không lắc hông.
“Tối nay em trông bọn trẻ vài giờ được không?” Arlene hỏi với vẻ hơi ngượng ngùng. Tôi nhớ lại lần trước hai chị em nói đến chuyện trông con hộ chị, và tôi nhớ tôi đã bị tổn thương thế nào trước vẻ miễn cưỡng của chị khi để con mình ở gần một ma cà rồng. Tôi đã không suy nghĩ dựa trên quan điểm của một người mẹ. Và bây giờ, Arlene đang cố xin lỗi tôi.
“Em rất sẵn lòng.” Tôi đợi xem Arlene có đề cập đến Bill nữa không, nhưng chị không nhắc đến một lời. “Mấy giờ đến mấy giờ ạ?”
“Ừm, chị và Rene sẽ đi xem phim ở Monroe,” chị nói. “Vậy sáu rưỡi được không?”
“Được ạ. Bọn trẻ sẽ ăn tối trước đó chứ?”
“Ừ, chị sẽ cho chúng ăn. Hẳn được gặp dì Sookie chúng sẽ vui lắm.”
“Em cũng thế.”
“Cảm ơn em,” Arlene nói. Chị dừng một chút, dường như định nói gì đó, nhưng rồi có vẻ như đã nghĩ lại.
“Gặp lại em lúc sáu rưỡi nhé.”
Tôi về nhà khoảng năm giờ, gần như suốt cả quãng đường đều phải phơi mình dưới ánh nắng chói chang như đang nhìn tôi chằm chằm. Tôi thay bộ quần áo lửng màu xanh, chải tóc rồi cặp lại bằng chiếc kẹp dọc. Tôi ăn một chiếc sandwich, bồn chồn ngồi một mình ở bàn bếp. Căn nhà có vẻ quá rộng rãi, quá trống trải, và tôi thấy mừng khi nhìn thấy Rene đánh xe đưa Coby và Lisa đến.
“Arlene đang gặp rắc rối với một cái móng tay giả của mình,” anh giải thích, có vẻ ngượng ngùng khi phải trình bày lại một vấn đề phụ nữ như vậy. “Còn Coby và Lisa thì rất háo hức được đến đây.” Tôi nhận ra Rene vẫn đang mặc bộ đồ đi làm – bốt thô, dao phết hồ, mũ và đủ thứ khác. Arlene chắc chắn sẽ không đời nào cho phép anh ta đưa mình đi đâu nếu anh ta không gội đầu và thay đồ.
Coby tám tuổi còn Lisa mới lên năm, và cả hai đứa đu lấy người tôi trong lúc Rene cúi xuống hôn tạm biệt chúng. Sự yêu thương bọn trẻ của Rene để lại trong tôi ấn tượng rất tốt, và tôi mỉm cười tán đồng với anh ta.
Tôi nắm tay bọn trẻ dẫn vào bếp ăn kem.
“Bọn anh sẽ về khoảng lúc mười rưỡi, mười một giờ,” anh nói. “Nếu được.” Anh ta đặt tay lên nắm đấm cửa.
“Chắc chắn rồi,” tôi đồng ý. Tôi định đề nghị giữ bọn trẻ lại qua đêm, như những lần trước, nhưng rồi hình ảnh cái xác mềm oặt của Tina trở lại. Tôi quyết định rằng tối đó bọn trẻ tốt hơn không nên ở lại. Tôi lùa hai đứa vào bếp, và một vài phút sau nghe thấy tiếng chiếc xe bán tải cổ lỗ của Rene chạy ầm ĩ trên lối đi.
Tôi bế Lisa lên. “Dì có khi chẳng nhấc nổi cháu nữa đâu, cô bé à, xem cháu lớn thế nào rồi này! Và cả Coby nữa, cháu phải dùng đến dao cạo râu chưa đấy?” Chúng tôi ngồi quanh bàn bếp tận hưởng ba mươi phút dễ chịu khi bọn trẻ vừa ăn kem vừa ba hoa chích chòe về một lố thành tích chúng đạt được kể từ lần cuối mấy cô cháu gặp nhau.
Sau đó Lisa muốn đọc sách cho tôi nghe, vậy nên tôi liền lấy cho cô bé cuốn sách tô màu in những chữ cái sặc sỡ, và cô bé tự hào đọc cho tôi nghe. Coby, tất nhiên, phải chứng tỏ mình đọc thạo hơn nhiều, và sau đó chúng đòi xem chương trình ti vi yêu thích. Trước khi tôi kịp nhận ra, màn đêm đã buông xuống tự bao giờ.
“Bạn của dì tối nay sẽ đến chơi,” tôi nói với bọn trẻ. “Tên chú ấy là Bill.”
“Mẹ có kể rằng dì có một người bạn đặc biệt,” Coby nói. “Cháu sẽ thích chú ấy. Chú ấy phải đối xử tốt với dì.”
“Ôi, chú ấy tốt với dì lắm,” tôi trấn an Coby, thằng bé đang ưỡn ngực ra, sẵn sàng bảo vệ tôi nếu người bạn đặc biệt kia không đủ tốt với tôi theo nhận định của thằng bé.
“Chú ấy có tặng hoa dì không?” Lisa hỏi với vẻ mơ màng.
“Không, vẫn chưa. Cháu có thể gợi ý cho chú ấy biết dì thích hoa không?”
“Ôiiiiii. Được chứ, cháu làm được thế mà.”
“Chú ấy đã hỏi cưới dì chưa?”
“Ồ, chưa. Nhưng dì cũng chưa hỏi chú ấy.”
Đúng lúc đó, Bill gõ cửa.
“Em có khách đấy,” tôi mỉm cười nói khi ra mở cửa cho anh.
“Anh nghe thấy tiếng rồi,” anh đáp. Tôi nắm tay anh dẫn vào trong bếp. “Bill à, đây là Coby, còn thiếu nữ xinh đẹp đây là Lisa,” tôi giới thiệu với vẻ trang trọng.
“Tuyệt quá, chú mong gặp hai đứa từ lâu rồi,” Bill nói, trước sự ngạc nhiên của tôi. “Chú ở đây chơi với dì Sookie của các cháu được chứ, Lisa, Coby?”
Bọn trẻ nhìn anh cân nhắc. “Thật ra dì ấy không phải dì của bọn cháu,” Coby nói, vẻ thăm dò. “Dì ấy là bạn thân của mẹ cháu.”
“Đúng vậy à?”
“Vâng ạ, và dì nói chú chẳng bao giờ gửi tặng hoa cho dì cả,” Lisa nói. Lần này, giọng cô bé vang lên trong vắt như pha lê. Tôi vui mừng nhận thấy cô bé đã sửa được cái tật líu ríu của mình.
Bill liếc sang tôi. Tôi nhún vai.
“Chúng hỏi em mà,” tôi đáp với vẻ bất lực.
“Hừm,” anh nói với vẻ đắn đo. “Có lẽ chú phải sửa sai thôi, Lisa. Cảm ơn cháu đã nhắc nhở nhé. Cháu có biết khi nào là sinh nhật dì Sookie không?”
Tôi cảm thấy mặt mình nóng bừng. “Bill,” tôi cao giọng. “Thôi đi.”
“Cháu có nhớ không, Coby?” Bill hỏi thằng bé.
Coby lắc đầu với vẻ tiếc nuối. “Nhưng cháu biết đó là vào mùa hè vì lần trước khi mẹ đưa dì Sookie đến Shreveport ăn trưa để mừng sinh nhật cho dì ấy, hôm đó là giữa hè. Chúng cháu ở cùng chú Rene.”
“Cháu nhớ được thế là thông minh lắm đấy, Coby,” Bill nói với thằng bé. “Cháu còn thông minh hơn ấy chứ! Chú thử đoán xem cháu đã học được gì ở trường hôm nọ nào.” Và Coby bắt đầu thao thao bất tuyệt. Suốt thời gian Coby nói, Lisa chăm chú quan sát Bill, và khi Coby ngừng lại, con bé nhận xét, “Trông chú trắng quá, chú Bill.”
“Ừ,” anh đáp. “Đó là nước da bình thường của chú đấy.”
Bọn trẻ liếc nhìn nhau. Tôi dám chắc chúng đã kết luận rằng “nước da bình thường” đó là một căn bệnh, và chúng quá lịch sự nên không hỏi thêm gì cả. Đôi khi, trẻ con chứng tỏ chúng rất lịch thiệp.
Lúc đầu Bill hơi thiếu tự nhiên, nhưng càng lúc anh càng tỏ ra thoải mái hơn. Tôi sẵn sàng thừa nhận rằng đến chín giờ thì mình đã mệt lử, nhưng anh vẫn hăng hái chơi cùng bọn trẻ cho đến tận khi Arlene và Rene đến đón chúng lúc mười một giờ.
Tôi giới thiệu hai người với Bill, và họ vừa bắt tay nhau một cách hoàn toàn bình thường thì một vị khách nữa xuất hiện.
Một ma cà rồng đẹp trai với mái tóc đen dày bồng bềnh sải bước ra từ phía bìa rừng đúng lúc Arlene lùa bọn trẻ vào trong xe còn Bill và Rene đang trò chuyện. Bill vẫy tay chào gã ma cà rồng đó, và anh ta cũng vẫy lại, rồi sau đó nhập hội với Bill và Rene như thể anh ta đã được chờ đón vậy.
Từ chiếc xích đu trước hiên nhà, tôi quan sát Bill giới thiệu hai người, rồi tay ma cà rồng và Rene bắt tay nhau. Rene há hốc miệng ngạc nhiên nhìn vị khách mới, và tôi có thể đoán chắc anh ta đã nhận ra ma cà rồng này.
Bill liếc nhìn Rene đầy ẩn ý và lắc đầu, vậy là Rene không bình luận gì hết.
Vị khách vừa đến khá vạm vỡ, cao hơn Bill, anh ta mặc quần bò cũ cùng áo phông “Tôi đã đến Graceland”.
Đôi bốt thô của anh ta đã sờn gót. Anh ta cầm một chai máu nhân tạo có ống hút, và thỉnh thoảng anh ta lại chiêu một ngụm. Ngài Kỹ năng Giao tiếp.
Có lẽ tôi đã được đánh động bởi thái độ của Rene, nhưng càng nhìn tay ma cà rồng đó, cảm giác quen thuộc càng rõ hơn. Tôi cố gắng tưởng tượng ra anh ta với màu da ấm áp hơn, thêm một vài nếp nhăn, để anh ta đứng thẳng hơn và thổi một chút sức sống vào gương mặt đó.
Ôi Chúa ơi.
Đó chính là gã ở Memphis.
Rene quay người rời gót, còn Bill bắt đầu dẫn vị khách mới hướng về phía tôi. Khi còn cách khoảng mười bước chân, tay ma cà rồng hỏi to, “Này, Bill vừa kể rằng có kẻ đã giết con mèo của cô!” Giọng hắn đặc sệt chất miền Nam.
Bill nhắm mắt lại trong một giây, còn tôi chỉ gật đầu chẳng nói gì.
“Tôi thật sự lấy làm tiếc. Tôi thích mèo lắm,” tay ma cà rồng cao ráo nói, và tôi nhận ra rất rõ rằng ý anh ta không phải là thích vuốt ve mèo. Tôi mong rằng bọn trẻ không nghe được câu nói đó, nhưng gương mặt lộ rõ vẻ kinh tởm của Arlene đã hiện ra ở cửa sổ xe. Toàn bộ thiện chí mà Bill đã tạo dựng từ trước đến giờ có lẽ coi như đổ xuống sông xuống bể cả. Rene lắc đầu sau lưng tay ma cà rồng, rồi trèo vào ghế lái, vẫy tay tạm biệt trong lúc khởi động máy. Anh ta thò đầu ra ngoài cửa sổ một lúc khá lâu để nhìn lần cuối vị khách mới đến. Hẳn Rene đã nói gì đó với Arlene vì chị cũng thò đầu ra ngoài cửa sổ, nhìn chăm chăm về phía chúng tôi. Tôi thấy chị ngạc nhiên đến độ há hốc cả miệng khi nhìn kỹ hơn người đứng cạnh Bill. Rồi đầu chị biến mất vào trong xe, và tôi nghe thấy một tiếng rít chói tai khi chiếc xe lăn bánh.
“Sookie,” Bill nói bằng giọng cảnh báo, “đây là Bubba[3].”
[3] Trong truyện, Bubba là một ma cà rồng đặc biệt, các nhân vật khác trong thế giới “chết trước hoàng hôn” đều nhận ra anh ta chính là một ca sĩ nổi tiếng xuất thân từ Memphis, tuy rằng tác giả không bao giờ nói thẳng tên thật của Bubba, nhưng rất nhiều người hâm mộ trên các diễn đàn sách quốc tế đều cho rằng anh chính là một nhân vật cực kỳ nổi tiếng – ông hoàng nhạc Rock & Roll Elvis Presley!
“Bubba,”tôi lặp lại, không tin tưởng lắm vào những gì mình vừa nghe được.
“Phải, Bubba,” tay ma cà rồng đáp lại vui vẻ, sự thân thiện tỏa rạng từ nụ cười rụt rè đó. “Đó chính là thằng này. Rất vui được gặp cô.”
Tôi bắt tay anh ta, cố mỉm cười đáp lại. Chúa ơi, tôi chẳng bao giờ có thể ngờ được rằng một ngày nào đó mình sẽ được bắt tay với anh ấy. Nhưng chắc chắn anh ta đã thay đổi theo chiều hướng tồi tệ hơn.
“Anh đợi tôi ngoài hiên này một lát được không, Bubba? Để tôi giải thích với Sookie sự sắp xếp của chúng ta đã.”
“Thế cũng được,” Bubba đáp lại bằng giọng thản nhiên. Rồi anh ta ngồi xuống chiếc xích đu, vô cùng vui vẻ và vô tư lự.
Chúng tôi bước vào phòng khách, nhưng trước đó, tôi đã để ý thấy từ lúc Bubba xuất hiện, hầu như mọi âm thanh của ban đêm – tiếng sâu bọ, ếch nhái – đều đã im bặt. “Anh đã hy vọng có thể giải thích mọi chuyện cho em trước khi Bubba đến đây,”
Bill thì thầm. “Nhưng không được.” Tôi hỏi lại, “Đó có phải là người mà em nghĩ không?”
“Phải. Vậy nên bây giờ em đã biết rằng ít nhất có một vài câu chuyện đồn thổi là hoàn toàn có thật. Nhưng đừng gọi anh ta bằng tên cũ. Cứ gọi là Bubba thôi! Đã có chuyện không ổn khi anh ta chuyển hóa – từ người thành ma cà rồng – có lẽ là do những thứ hóa chất trong máu anh ấy.”
“Nhưng anh ta chết thật rồi, phải không?”
“Cũng… không hẳn. Trong bọn anh có một ma cà rồng làm quản lý nhà xác, đồng thời cũng là một người hâm mộ cuồng nhiệt của Bubba, và hắn có thể nhận ra chút ít sự sống còn lại, nên đã biến đổi anh ta, một cách hơi hấp tấp.”
“Biến đổi ư?”
“Biến anh ta thành ma cà rồng,” Bill giải thích. “Nhưng làm thế là sai lầm. Theo như bạn anh kể lại thì anh ta chẳng bao giờ bình thường được. Anh ta cứ đụt đụt như vậy nên phải kiếm sống bằng cách làm việc vặt cho bọn anh. Bọn anh không thể để anh ta ra trước bàn dân thiên hạ được, em hiểu tại sao mà.”
Tôi gật đầu, miệng vẫn há hốc. Tất nhiên là không rồi. “Chúa ơi,” tôi lẩm bẩm, choáng váng sững sờ trước con người vĩ đại đang đứng trong sân nhà mình.
“Em hãy nhớ rằng anh ta ngu ngốc đến thế nào, bốc đồng đến thế nào… nên đừng ở một mình với anh ta, và cũng đừng gọi anh ta bằng bất kỳ cái tên nào khác ngoài Bubba. Thêm vào đó, anh ta thích thú nuôi, như anh ta nói với em đấy, và việc kiêng khem máu cũng không biến anh ta thành kẻ đáng tin hơn chút nào đâu. Nào, về lý do anh mang anh ta đến đây…” Tôi đứng khoanh tay trước ngực, háo hức chờ đợi sự giải thích của BNI.
“Cưng à, anh phải ra đi khỏi đây một thời gian,” Bill nói.
Sự bất ngờ làm tôi hoàn toàn chưng hửng.
“Cái gì… tại sao chứ? Không, đợi đã. Em không muốn biết.” Tôi xua xua tay trước mặt, tỏ rõ anh không cần phải giải thích công việc riêng của anh cho tôi nghe.
“Khi nào về anh sẽ kể cho em nghe,” anh nói vẻ kiên quyết.
“Vậy tay bạn anh – Bubba – thì liên quan gì?” Tuy nhiên tôi có một cảm giác khó chịu là mình biết thừa câu trả lời rồi.
“Bubba sẽ bảo vệ em khi anh đi vắng,” Bill nói một cách thiếu tự nhiên.
Tôi nhướn mày lên.
“Được rồi. Anh ta không phải người đáng tin cậy trong…” Anh cố tìm từ. “…bất kỳ trường hợp nào,” cuối cùng anh thừa nhận. “Nhưng anh ta khỏe mạnh, sẵn sàng làm bất kỳ điều gì anh bảo, và anh ta sẽ đảm bảo rằng không ai có thể đột nhập vào nhà em được.”
“Anh ta sẽ ở ngoài rừng chứ?”
“Ồ, tất nhiên rồi,” Bill quả quyết. “Anh ta thậm chí còn không được lại gần nói chuyện với em. Buổi tối, anh ta chỉ việc tìm chỗ nào đó tiện quan sát ngôi nhà rồi canh gác đến hết đêm.” Tôi sẽ phải nhớ kéo hết rèm cửa vào. Chẳng có gì thú vị khi nghĩ đến chuyện có một ma cà rồng ngu độn đang nhòm vào cửa sổ nhà mình. “Anh thực sự nghĩ chuyện này là cần thiết?” tôi hỏi với vẻ bất lực. “Em không nhớ là anh đã hỏi ý kiến em đấy.”
Bill thở hổn hển, đây là kiểu hít thở sâu của riêng anh. “Cưng à,” anh bắt đầu bằng giọng kiên nhẫn quá độ, “Anh đang cố hết sức để làm quen với cách đối xử mà các thiếu nữ ngày nay mong muốn. Nhưng chuyện này trái với bản tính của anh, đặc biệt là khi anh sợ em gặp nguy hiểm. Anh đang cố hết sức để có thể thanh thản đi lo mọi chuyện. Ước gì anh không phải đi, và đây cũng chẳng phải chuyện anh muốn, chỉ có điều anh buộc phải làm vậy, vì hai ta.”
Tôi nhìn vào mắt anh, “Em hiểu rồi,” cuối cùng tôi nói. “Em không thấy chuyện này có gì to tát, nhưng vào ban đêm em sẽ sợ, và em nghĩ… thôi được rồi.”
Thành thật mà nói, tôi không nghĩ chuyện mình đồng ý hay không lại có thể thay đổi được gì. Xét cho cùng, làm sao tôi có thể bắt Bubba bỏ đi nếu anh ta không muốn cơ chứ? Ngay cả những nhân viên thực thi luật pháp trong cái thị trấn bé nhỏ này cũng không có đủ phương tiện để đương đầu với ma cà rồng, và nếu phải đối mặt với tay ma cà rồng này thì chắc hẳn họ sẽ há hốc miệng ra mà đứng chết trân ở đó lâu đến mức anh ta thừa sức xé tan xác tất cả ra rồi. Tôi vô cùng cảm kích vì sự quan tâm Bill giành cho mình, và tôi biết mình phải bày tỏ thái độ hợp lẽ. Tôi khẽ ôm anh.
“Thôi được, nếu bắt buộc phải đi thì anh nhớ phải cẩn thận nhé,” tôi nói, cố không để lộ sự đau khổ. “Anh có chỗ ở rồi chứ?”
“Rồi. Anh sẽ đến New Orleans. Có một phòng trống ở khách sạn Máu Trong Phố.”
Tôi đã từng đọc một bài báo về khách sạn này, nơi đầu tiên trên thế giới phục vụ riêng cho ma cà rồng. Khách sạn đã cam đoan đảm bảo an ninh tuyệt đối cho khách khứa, và tính cho đến nay thì nó đã thực hiện được lời hứa đó. Nơi này nằm ngay giữa Phố Pháp. Và khi bóng tối buông xuống, khu vực này đầy nhóc nhân tình răng nanh và du khách đang ngóng chờ sự xuất hiện của các ma cà rồng.
Tôi bắt đầu cảm thấy ghen tị. Cố không tỏ ra như một chú cún u sầu bị chủ bỏ lại nhà, tôi cố nhoẻn miệng cười. “Anh đi vui nhé,” tôi vui vẻ nói. “Anh sắp xếp hành lý rồi chứ? Đi đến đó cũng mất vài giờ đấy, mà trời đã tối rồi.”
“Xe sẵn sàng rồi.” Đến giờ tôi mới nhận ra chuyến đi của anh đã bị trì hoãn để anh có thời gian bên tôi và bọn trẻ con Arlene. “Anh nên đi thôi.” Anh trù trừ, có vẻ như cố tìm từ phù hợp. Rồi anh chìa tay ra trước mặt tôi. Tôi nắm hai bàn tay anh, và anh khẽ kéo tôi lại gần. Tôi lao vào vòng tay của anh. Tôi dụi mặt mình vào áo anh. Vòng tay tôi cuốn quanh anh, áp anh lại gần.
“Anh sẽ nhớ em lắm,” anh nói. Giọng anh khẽ như hơi thở, nhưng tôi vẫn nghe rõ. Tôi cảm nhận nụ hôn của anh trên trán, rồi anh lùi lại, đi ra khỏi cửa trước. Tôi nghe thấy tiếng anh ở trước hiên nhà khi anh căn dặn Bubba những lời cuối cùng, rồi tôi nghe tiếng xích đu cọt kẹt khi Bubba đứng dậy.
Tôi không nhìn ra ngoài cửa sổ cho đến khi nghe thấy tiếng xe Bill chạy trên đường. Rồi tôi thấy Bubba đi thong dong vào rừng. Đứng tắm dưới vòi hoa sen, tôi tự nhủ rằng chắc hẳn Bill rất tin tưởng Bubba nên mới giao cho anh ta trách nhiệm canh gác cho tôi. Nhưng tôi vẫn không biết mình sợ ai hơn: kẻ sát nhân mà Bubba đang canh chừng hay chính tay Bubba đó.
HÔM SAU, lúc ở quán, Arlene hỏi tôi lý do tay ma cà rồng đó đến nhà tôi. Tôi chẳng bất ngờ trước sự tò mò của chị.
“Ừm, Bill có việc phải rời thị trấn, và anh ấy lo lắng, chị biết mà…” Tôi hy vọng mình có thể dừng ở đây. Nhưng Charlsie đã trờ tới (tất cả chúng tôi đều không bận rộn lắm: Phòng Thương mại đang tổ chức ăn trưa kèm tọa đàm ở quán Fins and Hooves, trong khi nhóm Những Củ Khoai Tây Và Lời Nguyện Cầu Của Các Quý Bà thì đang tập trung nướng bánh khoai tây ở căn nhà cổ rộng thênh thang của bà Bellefleur) “Ý em là,” Charlsie tròn mắt, “bạn trai em sắp xếp cả một vệ sĩ riêng cho em?”
Tôi miễn cưỡng gật đầu. Hiểu như thế cũng chẳng sao.
“Thật lãng mạn quá,” Charlsie thở dài.
Hiểu như thế lại càng chẳng sao hết. “Nhưng đáng ra chị phải thấy anh ta,” Arlene nói với Charlsie, sau khi đã phải hết sức giữ mồm giữ miệng rồi. “Anh ta trông hệt như…!”
“Ôi, không, nói chuyện với anh ta rồi thì chị không còn thấy giống nữa đâu,” tôi xen vào. “Chẳng giống chút nào luôn.” Đó đúng là sự thật. “Và anh ta thực sự không thích bị gọi bằng cái tên đó.”
“Ôi,” Arlene thì thầm, cứ như thể Bubba có thể nghe được giữa ban ngày ban mặt vậy.
“Em cảm thấy an toàn hơn khi có Bubba ở trong rừng,” tôi nói, ít nhiều cũng đúng sự thực.
“Ồ, anh ta không ở trong nhà sao?” Charlsie hỏi, rõ ràng hơi thất vọng. “Chúa ơi, không!” tôi nói, thầm xin lỗi Chúa vì đã nhắc tên ngài một cách vô ích. Dạo này tôi hay làm thế lắm. “Không, ban đêm Bubba sẽ ở trong rừng, canh chừng ngôi nhà.”
“Chuyện về những con mèo là thật à?” Arlene lộ vẻ ghê tởm.
“Anh ta chỉ đùa thôi. Không phải là người hài hước lắm hả?” Tôi nói dối ngọt xớt. Tôi thực sự tin rằng thức uống khoái khẩu của Bubba là máu mèo.
Arlene lắc lắc đầu với vẻ không tin. Đã đến lúc đổi chủ đề rồi. “Chị và Rene đi chơi vui vẻ chứ?” tôi hỏi.
“Tối qua Rene tuyệt lắm, phải không?” chị hỏi, má ửng hồng.
Một phụ nữ mấy đời chồng đang e thẹn. “Chị kể em nghe xem nào.” Arlene thích những trò đùa hơi tục tĩu một chút.
“Ôi cái cô này! Ý chị là, anh ấy đã rất lịch sự với Bill và kể cả với Bubba nữa.”
“Tại sao anh ấy lại không thế chứ?”
“Anh ấy vốn không ưa ma cà rồng, Sookie.” Arlene lắc đầu. “Chị biết chị cũng thế,” chị thú nhận khi thấy đôi chân mày của tôi nhướng lên. “Nhưng Rene quả thật có vài định kiến. Lúc trước, Cindy từng có thời gian hẹn hò với một gã ma cà rồng, chuyện đó làm Rene lo lắng kinh khủng.”
“Cindy vẫn ổn chứ?” Tôi vô cùng quan tâm đến tình hình sức khỏe của người từng hẹn hò với ma cà rồng. “Chị chưa gặp cô bé,” Arlene thừa nhận, “nhưng Rene đến thăm nó hàng tuần. Nó vẫn ổn, giờ thì bình thường cả rồi. Cô bé được nhận vào làm ở căn tin trong bệnh viện.”
Sam đang đứng phía sau quầy để cất máu nhân tạo đóng chai vào tủ lạnh bèn xen vào, “Biết đâu Cindy lại muốn quay về nhà. Lindsey Krause vừa xin nghỉ để chuyển đến Little Rock đấy.”
Chuyện này chắc chắn là tâm điểm chú ý của chúng tôi. Merlotte đang trở nên thiếu thốn nhân viên trầm trọng. Vì một lý do nào đó, trong vài tháng vừa qua, công việc phục vụ không đòi hỏi nhiều kỹ năng đã không còn thu hút mọi người nữa. “Anh đã phỏng vấn ai khác chưa?” Arlene hỏi.
“Anh phải xem hồ sơ đã,” Sam mệt mỏi đáp. Tôi biết trong số các hầu bàn, phục vụ bàn, người chạy bàn (hay bất cứ cái tên nào khác mà bạn muốn gọi) chỉ có tôi và Arlene được Sam gắn bó quá hai năm. Không, cũng không hẳn thế, còn Susanne Mitchell làm lệch ca với chúng tôi nữa. Sam đã dành rất nhiều thời gian cho công việc thuê, và thỉnh thoảng là sa thải, nhân viên. “Em ngó qua đống hồ sơ hộ anh được không, Sookie, xem thử liệu có ai em quen đã chuyển đi, hay đã có việc làm rồi, hoặc giới thiệu giúp anh một người phù hợp được không? Như thế sẽ tiết kiệm thời gian cho anh được phần nào đấy.”
“Không vấn đề gì,” tôi nói. Tôi nhớ hai năm trước Arlene cũng làm chuyện tương tự khi Sam thuê Dawn. Chúng tôi có mối quan hệ xã hội rộng hơn Sam, anh có vẻ như chẳng bao giờ tham gia vào bất cứ cái gì. Sam đã ở Bon Temps được sáu năm, và tôi chưa từng gặp ai có vẻ biết về cuộc đời của Sam trước khi anh mua lại quán bar ở thị trấn này.
Tôi ngồi xuống bàn Sam bên đống hồ sơ dày cộp. Sau vài phút, tôi có thể nói mình đã làm nên chuyện. Tôi sắp xếp hồ sơ thành ba chồng: người đã chuyển đi, đã có việc làm ở nơi khác, và những người phù hợp. Rồi tôi thêm vào đó chồng thứ tư và thứ năm: những người tôi không thể làm việc cùng vì không thể chịu nổi họ, và những người đã chết. Hồ sơ đầu tiên ở chồng thứ năm là của một cô gái chết vì tai nạn ô tô Giáng sinh năm ngoái, và một lần nữa, khi nhìn thấy cái tên ghi trên đầu hồ sơ, tôi lại cảm thấy tiếc thương cho gia đình cô. Một ứng viên khác có tên là “Maudette Pickens”.
Maudette đã xin việc ở chỗ Sam ba tháng trước khi chết. Tôi đoán công việc ở Grabbit Kwik không mấy sáng sủa. Khi liếc qua những ô trống đã được điền, và để ý đến nét chữ viết tay cùng lỗi chính tả của Maudette tội nghiệp, tôi lại cảm thấy ngập tràn thương cảm. Tôi cố tưởng tượng ra lối tư duy của Jason cho rằng ngủ với cô nàng này – lại còn quay phim nữa chứ – là một cách tiêu tốn thời gian đáng đồng tiền bát gạo, và tôi lấy làm ngạc nhiên trước tâm tính kỳ lạ của ông anh trai mình. Kể từ hôm Jason đưa cô nàng Desiree đó về, tôi vẫn chưa gặp lại anh. Tôi mong anh về nhà được bình yên vô sự. Cô nàng đó cũng chẳng phải tay vừa đâu. Giá mà Jason chịu yên ổn với Liz Barrett: nàng ta đủ sức chịu ông anh tôi mà.
Dạo gần đây cứ mỗi lần nghĩ về Jason là một lần tôi lại thấy lo. Giá như anh ấy không thân thiết với Dawn và Maudette đến thế! Có vẻ như rất nhiều gã trong vùng này biết cả hai, biết sơ sơ cũng có mà quan hệ tình dục với nhau rồi cũng có. Cả Dawn và Maudette đều đã bị ma cà rồng cắn. Dawn thích bạo dâm, còn Maudette thì tôi không rõ lắm. Đàn ông trong vùng không thiếu người mua xăng hay uống cà phê ở Grabbit Kwik, và cũng rất nhiều gã đến đây uống rượu. Nhưng chỉ có mỗi ông anh ngu ngốc của tôi là đi quay phim những cảnh giường chiếu nóng bỏng của mình với Maudette và Dawn.
Tôi nhìn chăm chăm vào chiếc cốc nhựa to đùng đựng trà đá trên bàn Sam. Dòng chữ “Big Kwencher của Grabbit Kwik” màu cam sáng chạy ngang thân cốc xanh. Sam cũng biết cả hai cô gái. Dawn từng làm việc trong quán, còn Maudette thì đã có lần xin việc ở đây.
Sam chắc chắn không thích tôi hẹn hò với ma cà rồng. Có thể anh chẳng thích bất kỳ ai hẹn hò với ma cà rồng.
Đúng lúc đó Sam bước vào, và tôi nhảy dựng lên như vừa làm chuyện gì xấu vậy. Mà đúng thế thật. Nghĩ xấu về bạn mình cũng là một hành động tồi tệ rồi.
“Chồng hồ sơ nào có vẻ ổn đây?” anh hỏi, nhưng nhìn tôi với vẻ bối rối. Tôi đưa anh một chồng mỏng gồm khoảng mười bộ hồ sơ. “Cô này, Amy Burley,” tôi nói, chỉ vào bộ hồ sơ trên cùng, “có kinh nghiệm, mới chỉ làm nhân viên thay thế ở quán Phút Giây Hạnh Phúc, và từng có thời làm cùng với Charlsie ở đó. Anh có thể hỏi qua ý kiến của Charlsie trước.”
“Cảm ơn em, Sookie. Thứ này giúp được anh khối chuyện đấy.”
Tôi gật đầu cụt lủn để đáp lại.
“Em ổn chứ?” anh hỏi. “Trông em hôm nay có vẻ xa cách lắm.”
Tôi nhìn anh chăm chú. Anh trông vẫn y hệt như bình thường. Nhưng tâm trí anh hoàn toàn khép kín đối với tôi. Làm sao anh làm vậy được? Tâm trí duy nhất hoàn toàn đóng lại trước tôi là của Bill, vì anh là ma cà rồng. Nhưng Sam chắc chắn không thuộc giống loài ấy.
“Chỉ vì em nhớ Bill thôi,” tôi đáp thận trọng. Liệu anh có lên giọng giáo huấn về những tai họa khi hẹn hò với ma cà rồng không?
Sam đáp, “Ban ngày mà. Làm sao anh ta bình an đến đây được.”
“Tất nhiên là không rồi,” tôi nói cứng nhắc, định thêm vào, “anh ấy đã rời thị trấn.” Nhưng rồi tôi tự hỏi liệu đây có phải hành động khôn ngoan không khi trong thâm tâm tôi đã có sẵn một mối nghi ngờ, dù chỉ chút xíu, đối với ông chủ của mình? Tôi rời khỏi văn phòng đột ngột đến nỗi Sam kinh ngạc nhìn theo chăm chăm.
Một lúc sau, khi tôi thấy Arlene và Sam nói chuyện rất lâu với nhau, ánh mắt liếc ngang liếc dọc của họ đủ cho tôi hiểu mình chính là chủ đề của cuộc nói chuyện. Sam trở lại văn phòng, trông có vẻ lo lắng hơn bao giờ hết. Nhưng từ đó cho đến hết ngày, chúng tôi không chuyện trò với nhau thêm lần nào nữa.
Trở về nhà tối đó là một việc thật sự khó khăn bởi tôi biết mình sẽ cô đơn cho đến sáng. Vào những buổi tối cô đơn trước đây, tôi vẫn lấy làm an tâm rằng Bill chỉ cách mình có một cú điện thoại thôi. Giờ thì không phải thế. Tôi cố tỏ ra thoải mái với việc được trông chừng khi màn đêm buông xuống, lúc Bubba bò ra khỏi cái hố chết tiệt được anh ta dùng làm chỗ ngủ, nhưng tôi không thể làm vậy được.
Tôi gọi cho Jason, nhưng anh ấy không có nhà. Tôi gọi đến Merlotte, nghĩ rằng anh ấy có thể ở đó, nhưng Terry Bellefleur trả lời điện thoại và thông báo anh ấy không đến quán. Tôi băn khoăn không biết Sam làm gì tối nay. Tôi băn khoăn không hiểu tại sao anh lại có vẻ ít hẹn hò đến thế. Không phải vì muốn làm cao, tôi đã chứng kiến chuyện này nhiều rồi mà. Dawn quả thật là một cô nàng hung hăng.
Tối đó, tôi chẳng nghĩ ra được bất cứ điều gì có thể làm mình thoải mái cả.
Tôi bắt đầu tự hỏi liệu Bubba có phải tay sát thủ chuyên nghiệp – ma cà rồng sát thủ chuyên nghiệp? – mà Bill đã gọi để giải quyết ông cậu Bartlett không. Tôi băn khoăn không hiểu tại sao Bill lại chọn một kẻ tối dạ như thế để canh gác cho tôi.
Mọi cuốn sách tôi cầm lên không hiểu sao đều có vẻ không phù hợp. Mọi chương trình ti vi tôi cố xem đều có vẻ hoàn toàn ngớ ngẩn. Tôi cố nhồi tờ tạp chí Times vào đầu, nhưng rồi lại trở nên cáu tiết với quyết tâm tự tử đang ám ảnh người dân rất nhiều nước. Tôi liệng tờ báo sang bên kia phòng.
Tâm trí tôi sục sạo khắp nơi như một chú sóc đang cố thoát khỏi lồng. Không thể nghĩ ra việc gì cho thông suốt, không thoải mái được trước bất cứ chuyện gì.
Khi điện thoại reo, tôi lao ngay đến. “Alô?” tôi hỏi gắt lên.
“Jason ở đây rồi,” giọng Terry Bellefleur vang lên. “Cậu chàng muốn mời em một ly đấy.”
Tôi khó chịu nghĩ đến chuyện phải ra ngoài lấy xe lúc trời đã tối thế này; lại còn lúc trở về căn nhà trống trải, ít nhất cũng là một căn nhà mà tôi buộc phải hy vọng là trống trải. Rồi tôi thầm mắng mình vì, xét cho cùng, vẫn có người đang trông chừng ngôi nhà, một người cực kỳ khỏe mạnh, nếu không kể đến việc anh ta quá thộn.
“Được rồi, em sẽ đến ngay,” tôi đáp. Terry dập máy. Ngài Ba Hoa.
Tôi mặc chiếc váy vải bông kèm áo phông màu vàng, nhìn trước ngó sau chán chê rồi băng qua sân đến chỗ để xe. Vừa vào trong xe, tôi khóa ngay cửa lại.
Đây chắc chắn không phải một cuộc sống đáng mong chờ.
ĐẾN MERLOTTE, tôi máy móc đánh xe vào bãi để xe của nhân viên. Có một chú chó đang quanh quẩn cạnh mấy cái thùng rác, và tôi vỗ vỗ lên đầu nó trên đường bước vào. Tuần nào chúng tôi cũng phải một lần gọi cho trung tâm nhốt chó mèo lạc để họ đến mang hết tụi chó hoang đi, sự mắn đẻ của chúng chỉ làm tôi phát bệnh.
Terry đang đứng sau quầy.
“Chào anh,” tôi nói, nhìn quanh quất. “Jason đâu rồi?”
“Anh ta đâu có ở đây đâu,” Terry đáp. “Tối nay anh không gặp anh ta. Anh nói trên điện thoại rồi mà.”
Tôi há hốc miệng nhìn anh ta.
“Nhưng sau đó anh đã gọi lại bảo anh ấy vừa đến mà.”
“Không, anh có làm thế đâu.”
Chúng tôi nhìn nhau không chớp mắt một lúc. Tôi dám chắc Terry đang có một buổi tối tệ hại. Đầu óc anh ta đang đau đớn vật vã với hình ảnh về những con rắn hồi anh ta tại ngũ, và cuộc vật lộn với rượu và ma túy. Ở bên ngoài, ta có thể thấy anh ta mồ hôi mồ kê nhễ nhại bất chấp điều hòa đang bật, động tác của anh ta thì vụng về lóng ngóng. Terry tội nghiệp. “Anh không gọi thật sao?” tôi hỏi lại lần nữa, cố gắng để giọng bình thường hết mức.
“Chẳng phải anh đã bảo thế là gì?” Giọng anh ta đã trở nên mất bình tĩnh.
Tôi mong rằng tối đó sẽ không vị khách nào gây chuyện với Terry.
Tôi rút lui kèm theo nụ cười cầu hòa. Chú chó vẫn đứng ở cửa sau. Nó rên rỉ khi thấy tôi.
“Đói hả, anh bạn?” tôi hỏi. Nó đi thẳng đến chỗ tôi thay vì co rúm lại như những con thú lạc khác. Khi con chó di chuyển đến chỗ sáng hơn, tôi nhận ra nó chỉ vừa bị chủ bỏ lại, một kết luận hiển nhiên dựa trên bộ lông bóng mượt của nó. Nó thuộc giống chó Ê cốt, ít nhất là gần như vậy. Tôi định vào trong nhà để hỏi đầu bếp xem có miếng đầu thừa đuôi thẹo nào cho anh bạn này không, nhưng rồi tôi nảy ra một ý tưởng còn tuyệt hơn nhiều.
“Tao biết anh già xấu bụng Bubba đang ở nhà, nhưng mày có thể vào trong nhà cùng tao,” tôi nói bằng giọng nựng nịu quen dùng với bọn thú những khi chắc mẩm không có ai ở gần. “Mày tè trước ở ngoài nhé, để chúng ta không làm loạn nhà lên? Được chứ, cún ngoan?”
Cứ như thể hiểu tôi nói gì, con chó Ê cốt hướng thẳng đến cạnh thùng rác. “Ngoan lắm! Lên xe không nào?” Tôi mở cửa xe, thầm mong con chó không dây bẩn lên ghế. Nó chần chừ. “Vào đi, cưng. Tao sẽ cho mày món gì đó ngon lành khi về đến nhà, được không nào?” Hối lộ không phải bao giờ cũng xấu.
Sau khi nhìn ngó và hít ngửi tay tôi, con chó cuối cùng cũng nhảy lên ghế phụ và ngồi nhìn qua kính chắn gió như thể đã sẵn sàng chấp nhận chuyến phiêu lưu này.
Tôi khen con chó và gãi gãi tai nó. Bọn tôi khởi hành, và con chó rõ ràng đã quen với việc đi xe lắm rồi.
“Nghe này anh bạn,” tôi nói với con chó bằng giọng kiên quyết, “khi về đến nhà, chúng ta sẽ đi thẳng đến cửa ra vào, được chứ? Có một gã yêu tinh ở trong rừng chỉ mong được xơi tái mày thôi đấy!”
Con chó ve vẩy đuôi đáp lại.
“Ôi, hắn sẽ không có cơ hội nào đâu,” tôi xoa dịu nó. Thật dễ chịu biết bao khi có đối tượng để tôi nói chuyện. Và cũng thật tuyệt biết bao khi kẻ đó không thể đáp lại lời tôi, ít nhất cũng là tạm thời. Và tôi cũng chẳng cần phải giữ rào chắn tâm trí của mình, bởi nó có phải con người đâu. Thư giãn. “Chúng ta phải nhanh lên thôi.”
“Gâu,” người bạn đồng hành của tôi tán đồng.
“Tao cũng phải nghĩ cho mày một cái tên gì đó nữa,” tôi nói. “… Buffy thì sao?”
Con chó gầm gừ.
“Thôi được. Rover vậy nhé?”
Rên rỉ.
“Cũng không thích hả. Hừm” Tôi rẽ vào con đường lái xe vào nhà.
“Có lẽ mày đã có sẵn tên rồi?” tôi hỏi. “Để tao kiểm tra cổ mày xem nào.” Sau khi tắt máy, tôi lùa ngón tay mình qua lớp lông dày. Cả vòng cổ chống rận cũng không có nữa. “Người ta chăm sóc mày thật tệ, cưng à,” tôi nói. “Nhưng bây giờ thì không thế nữa đâu. Tao sẽ là một bà mẹ tốt.” Nói xong câu đó, tôi lôi sẵn chìa khóa nhà ra rồi mở cửa xe. Nhanh như chớp, con chó lách qua tôi mà đứng ra giữa sân, nhìn quanh với vẻ cảnh giác. Nó hít ngửi không khí, rồi gầm gừ trong cổ họng.
“Chỉ là một ma cà rồng tốt thôi, cưng, anh ta đang canh chừng ngôi nhà đấy. Mày vào trong đi.” Với vài lời dỗ ngon dỗ ngọt, tôi đã dụ được con chó vào nhà. Tôi khóa cửa lại ngay lập tức.
Con chó rảo bước quanh phòng khách, hít ngửi săm soi. Sau khi quan sát nó một lúc để chắc chắn nó sẽ không nhai bất cứ thứ gì hay ghếch chân lên, tôi vào bếp kiếm thức ăn cho nó. Tôi đổ nước đầy một bát to. Tôi lôi ra một chiếc bát nhựa bà thường dùng đựng rau salad và đổ nốt chỗ thức ăn cho mèo của Tina vào đó, cộng thêm một ít thịt bánh taco còn thừa. Tôi nghĩ rằng nếu đang đói lả thì bữa ăn như thế đã là chấp nhận được rồi. Con chó cuối cùng cũng đi vào bếp, hướng về hai cái bát. Nó hít ngửi bát thức ăn, rồi ngước lên nhìn tôi một lúc lâu.
“Tao xin lỗi. Tao chẳng có chút thức ăn cho chó nào cả. Đó là những thứ tốt nhất mà tao có thể tìm được rồi. Nếu mày muốn ở lại đây, tao sẽ mua ít Kibbles ‘N Bist.” Con chó nhìn tôi thêm vài giây nữa, rồi cúi đầu xuống chiếc bát. Nó ăn chút thịt, tợp ngụm nước, rồi lại ngước lên nhìn tôi chờ đợi.
“Tao gọi mày là Rex được không?” Lại một tiếng gầm gừ nho nhỏ.
“Vậy Dean thì sao?” tôi hỏi. “Tên Dean hay đấy chứ.” Một anh chàng dễ mến ở hiệu sách Shreveport thường giúp đỡ tôi tên là Dean. Đôi mắt anh ta trông khá giống mắt con chó này, tinh khôn và lanh lợi. Và Dean cũng là một cái tên khá đặc biệt; tôi chưa từng gặp chú cún nào tên Dean. “Tao cá là mày còn thông minh hơn cả Bubba nữa,” tôi trầm ngâm nói, và chú chó đáp lại bằng một tiếng sủa đanh gọn.
“Được rồi, đi nào Dean, đến giờ đi ngủ rồi,” tôi nói, thích thú khi có kẻ để nói chuyện. Con chó theo tôi vào phòng ngủ, kiểm tra kỹ càng mọi đồ nội thất trong phòng. Tôi cởi váy áo quẳng sang một bên, rồi chui ra khỏi chiếc quần trong và mở móc khóa áo lót. Con chó nhìn tôi không chớp mắt trong khi tôi lôi ra một chiếc đầm ngủ sạch sẽ rồi vào phòng tắm. Khi tôi bước ra, sạch sẽ và nhẹ nhàng, Dean đang ngồi trên ngưỡng cửa, đầu ngả về một bên.
“Làm thế để cho sạch sẽ, con người thích tắm táp mà,” tôi nói với nó. “Tao biết chó thì không thế. Tao đoán đó chỉ là chuyện của loài người thôi.”
Tôi đánh răng và tròng bộ đồ ngủ vào người. “Sẵn sàng đi ngủ chưa, Dean?”
Để trả lời, con chó phóc ngay lên giường, cuộn tròn lại và nằm xuống. “Này! Đợi đã!” Tôi thật sự không thấy hứng thú với chuyện đó. Bà sẽ nộ khí xung thiên nếu biết có một con chó đang nằm trên giường mình. Bà tin rằng các loài thú nuôi thì cũng tốt thôi, miễn là chúng ngủ đêm ở bên ngoài. Người ở trong, thú ở ngoài luôn là quy luật của bà. Thế đấy, giờ thì tôi có một gã ma cà rồng ở ngoài, và một con chó trên giường.
Tôi nói “Mày xuống ngay đi!” và chỉ vào tấm thảm sàn.
Con chó chậm rãi và miễn cưỡng nhảy khỏi giường. Vừa ngồi xuống thảm, nó vừa nhìn tôi trách móc. “Mày ở nguyên đó đấy nhé,” tôi nghiêm khắc nói và chui vào chăn. Hôm nay tôi đã quá mệt mỏi rồi, và sự lo lắng đã vơi bớt khi có con chó nằm cạnh, mặc dù tôi chẳng biết mình có thể trông đợi gì ở nó nếu có kẻ đột nhập vào nhà, vì nó chưa đủ thân thiết với tôi để có thể bày tỏ sự trung thành. Nhưng vào lúc này, bất cứ thứ gì xoa dịu được tâm trí tôi đều đáng giá, và tôi bắt đầu thư giãn, chìm dần vào giấc ngủ. Ngay khi vừa thiu thiu, tôi cảm thấy chiếc giường lún xuống bởi sức nặng của con chó.
Một cái lưỡi nhỏ liếm nhẹ má tôi.
Con chó nằm xuống cạnh tôi. Tôi quay qua vuốt ve nó. Thật dễ chịu biết bao khi có nó ở đây.
Tôi mở mắt ra thì trời đã sáng rồi. Tôi có thể nghe rõ tiếng chim líu lo, cảm thấy thật tuyệt khi được cuộn mình trên giường. Tôi cảm nhận được hơi ấm của con chó qua lằn váy ngủ; chắc hẳn ban đêm nóng quá nên tôi đã tung chăn ra. Tôi vỗ vỗ lên đầu con chó, rồi bắt đầu vuốt ve lông nó, những ngón tay uể oải vuốt lớp lông dày. Nó nhích lại gần hơn nữa, ngửi ngửi mặt tôi, vòng tay qua người tôi. Tay ư?
Tôi bật ra khỏi giường, hét lên một tiếng kinh hoàng.
Trên giường tôi, Sam đang chống khuỷu tay xuống, ánh nắng nhuộm vàng cơ thể anh, anh nhìn tôi với vẻ thích thú.
“Ôi, Chúa ơi! Làm sao anh vào đây được, Sam? Anh làm gì ở đây thế? Dean đâu?” Tôi lấy tay che mặt và quay lưng lại, nhưng tất nhiên tôi đã thấy hết những gì không nên thấy của Sam.
“Gâu,” Sam trả lời bằng giọng của anh, và tôi điếng người nhận ra sự thật.
Tôi quay lại đối mặt với anh, tức giận đến nỗi sắp nổ tung đến nơi.
“Tối qua anh đã nhìn em thay đồ… anh… anh… đồ tồi!”
“Sookie,” anh phân trần. “Nghe anh đã”
Thêm một suy nghĩ khác lóe lên trong tâm trí tôi. “Ôi, Sam à. Bill sẽ giết anh mất.” Tôi ngồi thụp xuống chiếc ghế lùn ở góc phòng cạnh cửa phòng tắm. Tôi chống khuỳu tay lên đầu gối, gục đầu xuống, “ôi, không,” tôi thốt lên, “Không, không, không.” Anh quỳ trước mặt tôi. Lông ngực anh cũng xoăn xoăn vàng sẫm như mái tóc, kéo thành một đường thẳng xuống… Tôi nhắm mắt lại.
“Sookie, anh rất lo khi nghe Arlene kể em sẽ phải ở một mình,” Sam bắt đầu.
“Chị ấy không kể cho anh nghe về Bubba sao?
“Bubba?”
“Gã ma cà rồng mà Bill nhờ canh gác ngôi nhà.”
“Ồ. Có, cô ấy bảo hắn giống một tay ca sĩ nào đó.”
“Tên anh ta là Bubba. Anh ta thích tiêu khiển bằng cách uống máu động vật.”
Tôi khá mãn nguyện khi thấy (qua kẽ tay) gương mặt Sam tái xanh lại.
“Ồ, vậy thì đúng là may mà em cho anh vào nhà,” cuối cùng anh nói.
Đột nhiên nhớ lại hình hài của anh đêm qua, tôi hỏi, “Anh là gì hả Sam?”
“Anh là người biến hình. Anh nghĩ đã đến lúc em nên biết rồi.”
“Anh phải làm điều đó bằng cách này sao?”
“Thật ra,” anh nói, có vẻ ngượng ngùng, “anh đã định rời khỏi đây trước khi em dậy. Nhưng anh ngủ quên mất. Chạy bằng bốn chân suốt khiến anh mệt nhoài.”
“Em tưởng người ta chỉ biến thành sói thôi chứ.”
“Không. Anh có thể biến thành bất cứ thứ gì.”
Tôi quá hứng thú đến nỗi thả cả hai tay xuống và cố dán mắt vào mặt anh. “Có thường xuyên không?” tôi hỏi. “Anh có được chọn không?”
“Anh phải đợi đến lúc trăng tròn,” anh giải thích. “Nếu không, anh phải thực sự quyết tâm; sẽ khó hơn và cần nhiều thời gian hơn. Anh sẽ biến thành bất cứ loài động vật nào anh nhìn thấy trước khi biến hình. Nên trên bàn cà phê, anh luôn để một cuốn sách về loài chó mở đúng trang có bức ảnh chó Ê cốt. Loài chó này to lớn nhưng hiền lành.”
“Vậy anh cũng có thể biến thành chim sao?”
“Ừ, nhưng bay khó lắm. Anh luôn sợ bị mắc vào đường dây cáp, hay đâm vào cửa sổ.”
“Tại sao? Tại sao anh lại muốn em biết?”
“Em có vẻ ứng phó khá tốt chuyện Bill là ma cà rồng. Thật ra em còn có vẻ thích thú nữa. Nên anh muốn xem liệu em có thể ứng phó với… tình trạng của anh không.”
“Nhưng việc anh như thế này,” tôi cắt ngang, “không thể giải thích bởi vi rút được! Anh hoàn toàn thay đổi kia mà!”
Anh chẳng nói gì hết. Anh chỉ nhìn tôi, đôi mắt giờ đã chuyển thành màu xanh, nhưng vẫn toát lên vẻ lanh lợi và thông minh.
“Làm người biến hình là một khả năng siêu nhiên. Nếu như vậy thì những khả năng khác cũng thế. Vậy…” tôi nói chậm rãi và cẩn trọng, “Bill chẳng mắc vi rút gì cả. Thật ra không thể giải thích việc biến thành ma cà rồng bằng chứng dị ứng với bạc, tỏi hay ánh sáng mặt trời… Đó chỉ là những thứ vớ vẩn mà ma cà rồng tuyên truyền, phổ biến… để họ được chấp nhận dễ dàng hơn, như với các bệnh nhân nhiễm phải những căn bệnh khủng khiếp. Nhưng thực sự, họ đã… họ thực sự đã…”
Tôi lao vào phòng tắm và nôn thốc nôn tháo. May mà tôi nôn vào bồn cầu.
“Phải,” Sam nói vọng từ cửa vào, giọng buồn buồn. “Anh xin lỗi, Sookie. Nhưng Bill chẳng mắc vi rút nào cả. Anh ấy đã chết, thực sự đã chết rồi.”
TÔI RỬA MẶT và đánh răng hai lần liền. Tôi ngồi xuống mép giường, cảm thấy quá mệt mỏi không thể tiếp tục câu chuyện này. Sam ngồi cạnh tôi. Anh vòng tay ôm tôi, vỗ về an ủi, và sau một lúc, tôi nhích sát vào người anh hơn, áp má vào vai anh. “Anh biết không, một lần em nghe đài NPR,” tôi nói, hoàn toàn ngẫu nhiên. “Họ phát một chương trình về kỹ thuật làm lạnh, về việc rất nhiều người chỉ muốn ướp lạnh đầu vì như thế rẻ hơn rất nhiều so với ướp lạnh cả cơ thể.”
“Ừm?”
“Anh biết họ phát bản nhạc gì khi kết thúc chương trình không?”
“Bản gì vậy, Sookie?”
“‘Put Your Head on My Shoulder.’” (Hãy ngả đầu vào vai anh).
Sam bật ra một âm thanh gần như bị mắc nghẹn, rồi gập người lại mà cười.
“Nghe này, Sam,” tôi nói khi anh đã bình tĩnh lại. “Em đã nghe những gì anh kể với em, nhưng em vẫn phải làm rõ chuyện này với Bill. Em yêu Bill. Em chung thủy với anh ấy. Và anh ấy lại không có mặt ở đây để bày tỏ quan điểm của mình.”
“Ôi, không phải anh đang cố cướp em từ tay Bill đâu. Mặc dù làm được vậy thì tuyệt thật.” Và Sam nở nụ cười rạng rỡ hiếm hoi. Anh có vẻ trở nên thoải mái với tôi hơn sau khi tôi đã biết bí mật của anh.
“Vậy thì mục đích của anh là gì?”
“Chỉ là muốn giữ em sống sót cho đến khi tên sát nhân bị bắt thôi.”
“Vậy ra đó là lý do khiến anh thức dậy, khỏa thân trên giường của em? Để bảo vệ em?”
Anh có vẻ ngượng ngùng. “Thôi được, có lẽ anh nên chuẩn bị kế hoạch chu đáo hơn. Nhưng anh đã nghĩ em cần có ai đó ở bên cạnh, vì Arlene kể với anh là Bill đã rời khỏi thị trấn rồi. Anh biết em sẽ chẳng đời nào cho anh ở lại trong hình thức một con người.”
“Bây giờ thì anh đã biết Bubba đang trông chừng ngôi nhà rồi, anh yên tâm được rồi chứ?”
“Ma cà rồng rất khỏe và tàn bạo,”
Sam thừa nhận. “Anh đoán Bubba nợ Bill thứ gì đó, nếu không còn lâu hắn mới giúp anh ta. Ma cà rồng không tận tâm giúp đỡ nhau đâu. Chúng có rất nhiều hệ thống tổ chức xã hội trong thế giới của mình.”
Đáng ra phải chú tâm hơn vào lời Sam, nhưng tôi lại đang mải nghĩ đến chuyện tốt nhất là mình không nên giải thích về nguồn gốc của Bubba.
“Nếu đã có anh và Bill thì em nghĩ chắc hẳn phải có hàng đống sinh vật siêu nhiên khác,” tôi nói, nhận ra có cả một kho báu tri thức đang chờ mình phía trước. Kể từ khi gặp Bill, tôi chưa từng nghĩ phải suy tính đến những vấn đề mang tính hệ thống, nhưng chẳng hại gì nếu chuẩn bị sẵn sàng. “Hôm khác anh sẽ phải kể hết cho em đấy.” Quái vật Big Foot thì sao? Cả quái vật hồ Loch Ness nữa? Tôi vẫn tin rằng quái vật hồ Loch Ness là có thật.
“Thôi, chắc anh phải về nhà thôi,” Sam nói. Anh nhìn tôi đầy hy vọng. Anh vẫn đang không mặc gì.
“Phải, em nghĩ anh nên về. Nhưng, không, chết tiệt, anh… Ôi, khỉ thật.” Tôi lao lên trên gác tìm quần áo.
Hình như Jason vẫn cất vài thứ trong tủ phòng trường hợp khẩn cấp.
Quả vậy thật, có một chiếc quần bò xanh và áo sơ mi công sở ở phòng ngủ ngay trên gác. Ở trên này nóng quá, vì tầng này nằm ngay dưới mái tôn và trên bộ ổn nhiệt. Tôi quay xuống dưới nhà, nhẹ cả người vì những luồng gió mát mẻ từ điều hòa phả ra.
“Đây,” tôi nói, đưa cho Sam chỗ quần áo. “Hy vọng anh mặc vừa.” Anh có vẻ muốn nối lại câu chuyện lúc nãy, nhưng bây giờ tôi đã ý thức quá rõ trên người mình chỉ là một bộ váy ngủ mỏng tang, còn anh thì chẳng mặc gì.
“Anh mặc quần áo vào đi,” tôi nói kiên quyết. “Và ra phòng khách mà mặc.” Tôi đuổi anh ra ngoài rồi đóng sập cửa lại. Tôi nghĩ nếu khóa luôn cửa lại thì xúc phạm anh quá, nên đành thôi. Tôi thay quần áo với tốc độ kỷ lục, mặc bộ đồ lót sạch kèm chiếc váy vải bông và áo sơ mi màu vàng của ngày hôm qua. Tôi phủ thêm một lớp phấn trang điểm, đeo khuyên tai và buộc vổng tóc lên, chồng cái buộc tóc màu vàng ra ngoài sợi dây chun. Tôi cảm thấy phấn chấn hơn khi nhìn bóng mình trong gương. Nhưng nụ cười tắt lịm khi tôi nghe thấy tiếng xe đang chạy vào sân.
Tôi lao như bay ra khỏi phòng ngủ, mong rằng Sam đã mặc quần áo xong và trốn đâu đó rồi. Anh thậm chí còn làm tốt hơn. Anh đã lại biến thành chó. Quần áo vương vãi trên sàn nhà, tôi liền vơ lấy tống vào tủ quần áo trong hành lang.
“Giỏi lắm!” Tôi phấn khởi nói và gãi gãi tai chú chó. Dean đáp lại bằng cách dụi chiếc mũi đen lành lạnh vào váy tôi. “Thôi ngay trò đó đi nhé,” tôi nói, rồi liếc mắt ra ngoài cửa sổ phòng. “Andy Bellefleur đấy,” tôi nói với con chó.
Andy nhảy ra khỏi chiếc Dodge Ram, vươn vai trong vài giây rồi sải bước về phía cửa trước. Tôi mở cửa, Dean đứng bên cạnh.
Tôi nhìn Andy với vẻ dò hỏi. “Anh trông như đã thức trắng cả đêm qua đấy, Andy. Anh dùng cà phê chứ?” Con chó quẫy đuôi không ngừng bên cạnh tôi.
“Thế thì tuyệt quá,” hắn ta đáp. “Tôi vào nhà được chứ?”
“Tất nhiên rồi.” Tôi đứng sang một bên. Dean gầm gừ.
“Cô có chú chó vệ sĩ được việc thật đấy. Lại đây nào, anh bạn.” Andy ngồi xổm xuống, chìa bàn tay về phía con chó – tôi không sao coi nó là Sam được. Dean hít ngửi bàn tay Andy một lát, nhưng không liếm. Thay vào đó, nó vẫn đứng chắn giữa tôi và Andy.
“Vào bếp thôi nào,” tôi nói, vậy là Andy đứng dậy đi theo tôi. Tôi cho cà phê vào trong máy pha và nhét vài lát bánh mì trong lò nướng. Mất thêm vài phút để lấy kem, đường, thìa và cốc chén, nhưng rồi tôi vẫn phải tự hỏi tại sao Andy đến đây. Gương mặt hắn ta thật sầu não, trông như già đi gần mười tuổi. Đây rõ ràng không phải chuyến thăm viếng xã giao.
“Tối qua cô ở nhà à, Sookie? Cô không đi làm à?”
“Không. Tôi ở đây suốt, chỉ tạt qua Merlotte một lúc thôi.”
“Bill có ở đây cùng cô lúc nào không?”
“Không, anh ấy đang ở New Orleans. Anh ấy ở một khách sạn mới mở dành riêng cho ma cà rồng trong Phố Pháp.”
“Cô chắc chắn anh ta ở đó chứ?”
“Vâng.” Khuôn mặt tôi đanh lại. Có chuyện không ổn rồi đây.
“Tôi đã thức trắng cả đêm qua,” Andy nói.
“Tôi biết.”
“Tôi vừa từ hiện trường một vụ án mạng nữa về.”
“Vâng.” Tôi xâm nhập vào tâm trí hắn ta. “Amy Burley à?” Tôi nhìn chăm chăm vào mắt hắn, cố để chắc chắn rằng mình không nhầm. “Amy, người làm việc ở quán Phút Giây Hạnh Phúc?” Cái tên nằm đầu tiên trên chồng hồ sơ những nhân viên triển vọng, cái tên tôi đã đưa cho Sam. Tôi cúi nhìn con chó. Nó nằm trên sàn, mõm để giữa hai bàn chân, trông buồn bã và kinh ngạc như tôi vậy. Chú chó rên rỉ thê lương.
Đôi mắt nâu sẫm của Andy nhìn xoáy vào tôi. “Sao cô biết?”
“Thôi chuyện tào lao ấy đi, Andy, anh biết thừa là tôi có thể đọc được tâm trí người khác. Chuyện này chẳng làm tôi vui vẻ gì đâu. Amy tội nghiệp. Cái chết tương tự à?”
“Phải,” tay cảnh sát đáp. “Giống hệt các lần trước. Chỉ có điều những vết cắn thì mới hơn.”
Tôi nhớ lại cái đêm cùng Bill đến Shreveport theo lệnh triệu tập của Eric. Có phải chính Amy là người đã cho Bill uống máu tối đó không? Tôi chẳng thể nhớ chính xác là bao nhiêu ngày rồi, mấy tuần qua, lịch trình của tôi đã bị đảo lộn hết cả bởi hàng loạt sự kiện kỳ lạ và khủng khiếp.
Tôi ngồi phịch xuống chiếc ghế gỗ, lắc lắc đầu lơ đãng trong vài phút, ngạc nhiên với những thay đổi trong cuộc sống của mình.
Cuộc đời của Amy Burley thì chẳng thể thay đổi được nữa rồi. Tôi cố xua đuổi cảm giác thờ ơ, đứng dậy rót cà phê.
“Bill không ở đây từ tối hôm kia,” tôi nói.
“Và cô ở đây suốt đêm à?”
“Phải. Chú chó này có thể làm chứng.” Tôi mỉm cười với Dean, nó rên ư ử khi được chú ý. Nó đến gác chiếc đầu lông lá lên đầu gối tôi trong khi tôi uống cà phê. Tôi vuốt ve tai nó.
“Cô có nghe tin gì từ anh trai mình không?”
“Không, nhưng tôi nhận được một cuộc điện thoại kỳ cục nói rằng anh ấy đang ở Merlotte.” Sau khi tồng tộc thế, tôi mới nhận ra chắc hẳn Sam chính là người gọi cuộc điện thoại đó, cố dụ tôi đến Merlotte để anh có thể theo tôi về nhà. Dean ngáp dài, một cái ngáp sái quai hàm đủ để chúng tôi thấy rõ hết những chiếc răng trắng sắc nhọn của nó.
Tôi ước gì mình đã giữ mồm giữ miệng.
Nhưng giờ thì tôi phải giải thích mọi chuyện cho Andy, hắn đang ngồi gà gật trên ghế, chiếc áo trơn nhăn nhúm dính vết cà phê, còn cái quần ka ki thì nhàu nhĩ. Andy đang mong được ngủ không kém gì một chú ngựa khao khát được về chuồng. “Anh nên nghỉ ngơi một lát,” tôi nói nhẹ nhàng. Ở Andy Bellefleur có một nét u sầu nào đó, vẻ chán nản nào đó.
“Vì những vụ sát hại này đấy,” hắn ta nói, giọng run run vì mệt mỏi. “Những người phụ nữ tội nghiệp này. Và họ đều giống hệt nhau trên rất nhiều phương diện.”
“Không học hành đàng hoàng, lao động chân tay ở quán bar? Và không ngại yêu đương ma cà rồng bất cứ lúc nào?”
Hắn ta gật đầu, đôi mắt díu lại.
“Nói cách khác là những người phụ nữ giống hệt tôi?”
Mắt hắn ta mở to. Hắn có vẻ hốt hoảng vì sai lầm của mình.
“Sookie…”
“Tôi hiểu, Andy,” tôi đáp. “Trên một số phương diện, chúng tôi giống hệt như nhau, và nếu anh tán thành suy luận vụ tấn công bà tôi thật ra là được nhắm vào tôi, thì vậy đấy, tôi đoán tôi là người duy nhất còn sống sớt.”
Tôi băn khoăn không biết tên sát nhân còn định giết ai nữa. Liệu tôi có phải người duy nhất còn sống phù hợp với những tiêu chuẩn của hắn? Đó là suy nghĩ đáng sợ nhất của tôi trong ngày hôm đó.
Andy đang gà gật trên tách cà phê của mình.
“Anh vào ngả lưng ở phòng ngủ dành cho khách nhé?” tôi gợi ý nhẹ nhàng. “Anh phải chợp mắt chút đi. Lái xe thế này nguy hiểm lắm.”
“Cô thật tử tế quá,” Andy đáp lại với giọng ê a. Hắn ta có vẻ hơi bất ngờ, như thể không ngờ sẽ nhận được sự tốt bụng từ tôi. “Nhưng tôi phải về nhà, đặt chuông đồng hồ. Tôi có thể ngủ khoảng ba tiếng.”
“Tôi hứa sẽ gọi anh dậy,” tôi nói. Tôi không muốn Andy ngủ ở nhà mình, nhưng cũng không muốn hắn ta gặp tai nạn trên đường về nhà. Bà Bellefleur sẽ chẳng đời nào để tôi yên, có lẽ Portia cũng thế. “Anh nằm ở phòng này nhé.” Tôi dẫn hắn ta vào phòng ngủ cũ của tôi. Chiếc giường đơn đã được dọn gọn gàng. “Anh nằm lên giường đi, tôi sẽ đặt báo thức.” Tôi vặn dây cót trong khi Andy quan sát. “Nào, chợp mắt chút đi. Tôi còn vài việc vặt phải làm, nhưng tôi sẽ quay lại ngay.” Chẳng cần tôi thuyết phục thêm, Andy ngồi phịch xuống giường ngay khi tôi sập cửa lại.
Con chó vẫn lẽo đẽo bám theo trong lúc tôi đưa Andy vào phòng, và bây giờ tôi nói với nó, bằng một tông giọng khác hẳn, “Anh mặc đồ ngay bây giờ đi!”
Andy thò đầu ra khỏi cửa. “Cô đang nói chuyện với ai đấy, Sookie?”
“Con chó,” tôi đáp ngay tắp lự. “Nó luôn đeo vòng cổ, và tôi ngày nào cũng phải đeo cho nó.”
“Sao cô lại tháo nó ra?”
“Chuông kêu suốt đêm làm tôi không ngủ được. Thôi, anh đi ngủ đi.”
“Được rồi.” Có vẻ thỏa mãn với câu trả lời của tôi, Andy đóng cánh cửa lại.
Tôi lấy đống quần áo của Jason ra khỏi tủ, đặt lên cái ghế trước mặt con chó, rồi ngồi xoay lưng lại. Nhưng tôi nhận ra mình có thể thấy hết qua tấm gương treo trên bệ lò sưởi.
Quanh con chó Ê cốt cuộn lên một lớp sương mỏng, dường như chúng đang kêu o o và rung nhẹ đầy năng lượng, rồi sau đó, hình hài đó biến đổi giữa lớp điện tích dày đặc. Khi lớp sương mù tan, Sam đang quỳ trên sàn, trần như nhộng, ôi, cái vòng ba mới tuyệt làm sao chứ. Tôi buộc mình phải nhắm mắt lại, và nhắc đi nhắc lại với bản thân rằng tôi phải chung thủy với Bill. Vòng ba của Bill, tôi kiên quyết tự nhủ, là chuẩn không cần chỉnh.
“Anh xong rồi,” giọng Sam vang lên, sát sạt đến nỗi thiếu điều tôi nhảy dựng lên. Tôi đứng phắt dậy và quay lại đối diện với anh, nhận ra mặt anh chỉ cách tôi có vài phân.
“Sookie,” giọng anh tràn ngập hy vọng, tay anh đặt trên vai tôi, xoa nhè nhẹ. Tôi nổi giận, vì một phần trong tôi cũng muốn đáp lại.
“Nghe đây, anh bạn, anh đã có thể nói sự thật cho em biết trong suốt mấy năm qua rồi. Chúng ta biết nhau bao lâu rồi, bốn năm phải không? Mà có khi còn lâu hơn! Ấy vậy mà, Sam à, dù rằng em gặp anh hằng ngày, anh vẫn phải chờ đến lúc Bill quan tâm đến em thì anh mới…” Và không biết nên tiếp tục thế nào, tôi đành vung tay lên trời.
Sam lùi lại, tốt đấy.
“Anh không hề nhận ra những thứ vẫn hiển hiện trước mắt mình cho đến tận khi chúng sắp sửa bị lấy đi,” anh khẽ đáp.
Tôi chẳng biết nên đối đáp thế nào nữa. “Anh nên về đi,” tôi nói. “Và tốt hơn hết là đừng để ai bắt gặp. Em nghiêm túc đấy.”
Chẳng có gì chắc chắn là sẽ không có một kẻ độc mồm độc miệng nào đó kiểu như Rene nhìn thấy Sam trong xe tôi vào buổi sáng sớm và đưa ra những phán đoán sai lầm. Và đưa chuyện đến tai Bill.
Vậy là chúng tôi đi, Sam ngồi thụp xuống ghế sau. Tôi cẩn trọng dừng xe đằng sau Merlotte. Một chiếc xe tải đã chờ sẵn ở đó, màu đen, với những vệt xanh và hồng ở hai bên thành xe. Xe của Jason.
“Ôi,” tôi thốt lên.
“Cái gì thế?” Giọng Sam hơi nghèn nghẹt khi ở trong tư thế đó.
“Để em đi xem sao đã,” tôi nói, bắt đầu thấy hơi lo. Tại sao xe của Jason lại đỗ trong bãi xe nhân viên chứ? Và có vẻ như trong xe đang có người. Tôi mở cửa xe. Tôi đợi một lúc để tiếng ồn đánh động người đang ở trong xe. Tôi quan sát xem có dấu hiệu chuyển động nào không. Khi chẳng thấy có gì xảy ra, tôi bắt đầu sải bước trên nền sỏi, chưa bao giờ sợ đến thế giữa ban ngày ban mặt. Khi đến gần cửa sổ xe hơn, tôi có thể nhận ra người bên trong xe chính là Jason. Anh đang ngồi sụp xuống sau vô lăng. Tôi có thể thấy áo anh bị vấy bẩn, cằm gục hẳn xuống ngực, tay buông sõng soài trên ghế, và trên gương mặt điển trai có một vết xước đỏ dài. Tôi có thể nhìn thấy cuộn băng video nằm ngay trên bảng đồng hồ xe, không nhãn mác gì hết.
“Sam,” tôi gọi, căm ghét sự run sợ trong giọng mình. “Anh đến đây được không.”
Nhanh như chớp, Sam đã ở ngay bên cạnh tôi, rồi anh lách qua tôi để mở cửa xe. Vì chiếc xe có vẻ như đã nằm đây mấy tiếng đồng hồ – sương vẫn còn đọng trên nóc xe – trong một ngày đầu hè, và các cửa sổ đều đóng kín, nên mùi trong xe vẫn còn khá đậm, một hỗn hợp của ít nhất ba nguyên liệu: máu, tình dục, và rượu. “Gọi xe cứu thương đi!” tôi hối thúc trong lúc Sam bắt mạch Jason. Sam nhìn tôi với vẻ nghi ngờ. “Em có chắc muốn làm vậy không?” anh hỏi lại. “Tất nhiên! Anh ấy bất tỉnh rồi kìa!”
“Đợi đã, Sookie. Nghĩ cho kỹ xem.” Nhưng tôi mới cân nhắc được có một phút thì đúng lúc đó, Arlene đã tấp chiếc Ford xanh lơ cà tàng vào bãi đỗ, vậy là Sam đành thở dài rồi vào trong chiếc xe moóc của mình để gọi điện thoại.
Tôi quá ngây thơ. Đó chính là kết quả của việc gần như cả đời làm một công dân luôn tuân thủ pháp luật.
Tôi đưa Jason vào một bệnh viện nhỏ, không biết rằng cảnh sát đang khám xét từng li từng tí chiếc xe tải của Jason, cũng chẳng nhận ra xe tuần tra đã theo đuôi chiếc xe cứu thương, và hoàn toàn tin tưởng tay bác sĩ trong phòng cấp cứu khi hắn bảo tôi về nhà, nói rằng sẽ gọi tôi ngay khi Jason tỉnh lại. Tay bác sĩ vừa nhìn tôi với vẻ tò mò vừa cho biết Jason đang ngủ dưới tác dụng của rượu và ma túy. Nhưng trước đây Jason chưa bao giờ say đến mức thế, và anh không dính dáng đến ma túy: cô em họ Hadley của chúng tôi từng sống lang bạt giang hồ, và chuyện đó đã gây ấn tượng sâu sắc lên cả hai anh em tôi. Tôi kể hết với tay bác sĩ, hắn lắng nghe, rồi đuổi tôi đi.
Không biết nghĩ gì nữa, tôi trở về nhà, nhận thấy Andy Bellefleur đã bị cấp trên điều động. Hắn ta viết giấy nhắn để lại cho tôi như vậy, và chẳng có gì khác nữa. Sau này, tôi mới biết thật ra hắn đã ở trong bệnh viện cùng lúc với tôi, và chờ đến khi tôi ra về để còng tay Jason vào giường bệnh.