Charlie Bone 8: Charlie Bone Và Hiệp Sĩ Đỏ

Chương 5: Lửa cháy trong đường hầm



Charlie thường hay thắc mắc về chị em sinh đôi nhà Branko. Nó biết nơi ở của tất cả những đứa được ban phép thuật khác – thậm chí nó còn biết về ba mẹ chúng nó nữa, mặc dù nó chưa gặp tất cả họ. Nhưng gia đình Branko là một bí ẩn. Điều này là do họ điều hành một cửa hàng mang tên Bảnh và Lạ — một loại tiệm bán buôn mà Charlie luôn cố tránh xa.

Vợ chồng Branko luôn tự kiêu rằng hầu như bất cứ món đồ gì đều có thể được bán ở cửa hàng nhà họ, miễn đó không phải là thú vật còn sống, và miễn là bạn không phiền đồ ăn của bạn đựng trong hộp thiếc. Gia đình Branko không ưa thú vật.

Mụ Branko trông hệt như một phiên bản phóng to của mấy đứa con gái mụ. Trước khi lấy chồng, tên mụ là Natalia Dobinsky, một phụ nữ nổi như cồn về uy lực siêu năng và những tài lẻ khác, toàn những tài thuộc loại quái chiêu. Mụ không chỉ di chuyển được đồ đạc bằng ý nghĩ, mà mụ còn có thể sản xuất ra bất cứ thứ gì – từ thịt vịt Bắc Kinh đóng hộp đến trái sa kê, từ súp lơ luộc đến nhện nấu cà ri.

Mụ Branko thích rảo quanh tiệm, dụ dỗ khách hàng tiêu tiền nhiều hơn khả năng họ có thể, trong khi ông chồng ngồi lì một chỗ đằng sau cái quầy lớn bằng gỗ sồi.

Ông Bogdan Branko thường tự hỏi làm thế nào mà mình lại cưới được Natalia Dobinsky. Ông ta đã quên mất họ đã gặp nhau như thế nào rồi. Ông ta là một người bé nhỏ, đãng trí với cái mặt hay hếch ngửa ra sau, cái cằm lẹm lẫn vô trong cái mũi tẹt, và vầng trán bèn bẹt nhăn nhúm giấu biệt bên dưới mảng tóc mỏng màu hung đỏ. Ông Bogdan sững sỡ khi cô nàng Natalia người ngoại quốc chọn ông trong số tất cả những kẻ theo đuổi ả. Dạo gần đây ông bắt đầu tự hỏi đó có phải là do trí nhớ trời đánh kinh hoàng của ông ta hay không. Nếu ta không thể nhớ nổi tại sao mình cưới vợ thì ta nên có khuynh hướng tự trách bản thân thì đúng hơn là trách bà vợ. Xem ra ta cũng đã quên sạch sành sanh tất cả những gì cô nàng đã làm từ trước tới nay.

Bên dưới cái quầy ông Bogdan ngồi là những cái thùng chứa tất cả mọi thứ, từ những bộ váy dạ hội cỡ 20 đến những đôi ủng cao su viền lông thú. Nếu có một khách hàng hỏi ông Branko để mua món gì đó bất thường, chẳng hạn như một cặp cà kheo sọc cầu vồng, ông Bogdan sẽ sục sạo bên dưới quầy trong khi mụ Branko nhìn chằm chằm vô đấy, từ bất kỳ địa điểm nào đó mụ ngẫu nhiên đang đứng trong cửa hàng, và cặp cà kheo ấy sẽ bắt buộc hiện hình trong phạm vi vài xăng- ti-mét so với đôi bàn tay đào bới cật lực của ông Branko.

Mỗi sáng thứ Bảy gia đình Branko sẽ đón một cuộc viếng thăm của mạnh thường quân nhà họ. Nói cách khác, đó là người đã cho gia đình Branko vay số tiền để mở cái tiệm này nhà họ, và là người mà, thỉnh thoảng,

tặng cho họ hơi nhiều tiền hơn để tân trang nơi này bằng các loại đèn lạ mắt, những ghế ngồi bọc gấm thêu kim tuyến và những cái kệ bổ sung.

Thứ Bảy tuần này, Natalia thậm chí còn bồn chồn hơn lệ thường. Mạnh thường quân sẽ tới thẩm định cái quán cà phê nhỏ mà ông ta đã đề nghị gia đình Branko nên mở ở đằng sau tiệm. “Chỉ sắm vài cái ghế cái bàn thôi,” ông ta nói, “thêm cái máy pha cà phê loại tốt và vài loại trà thảo mộc thơm ngon; tôi sẽ để toàn quyền lựa chọn thức ăn lại cho cô, Natalia à.” Ông ta nháy mắt với mụ Branko một cái ra điều biết cả rồi.

Mạnh thường quân đó cũng đề nghị gia đình Branko nên thay tên tiệm của họ đi. Từ Bảnh và Lạ đổi thành quán Cà phê Không Thú Kiểng.

Xem ra Natalia và vị mạnh thường quân này thấy lời đề nghị đó vô cùng hài hước, mặc dù ông Branko chẳng thấy có gì đáng để bật cười phá lên như thế. Tuy nhiên, truớc khi quên mất cái tên mới đó, ông đã xoay xở điện thoại cho người thiết kế và kẻ bảng hiệu, để rồi hôm nay tấm biển mới sẽ được trưng lên.

Lúc này là 8.30 sáng. Cửa hàng thường mở cửa lúc 9.00 sáng. Mụ Branko đã chỉ thị cho chị em sinh đôi, Idith và Inez, dọn dẹp các kệ, và giờ chúng đang ngồi trên quầy dùng siêu năng của mình để sắp xếp lại các loại đồ hộp. Hai chị em sinh đôi không phải lúc nào cũng hòa thuận với nhau, và hôm nay cả hai đứa đang càng lúc càng nổi tam bành, bởi vì số hộp mà Idith đã dọn ở kệ cuối cùng đã bị đứa sinh đôi với nó cho bay tuốt lên kệ trên cùng.

Ông Branko ngồi ở góc quầy đọc báo, trong khi ở bên ngoài, hai người đàn ông leo trên thang đang đóng đinh gắn tấm biển mới vô.

Đúng khoảnh khắc đó, Benjamin Brown, bạn thân của Charlie đang di dạo trên đường Spectral cùng với con Hạt Đậu của nó. Chúng đang đi vòng vo về hướng công viên.

Benjamin sống ở nhà đối diện với Charlie ở trên đường Filbert. Chúng là bạn từ hồi bốn tuổi, nhưng Benjamin không được ban phép thuật, cũng chẳng có tài xuất chúng về bất kỳ phương diện nào, cho nên nó không được vô trong học viện Bloor, một điều mà nó biết ơn thật lòng.

Benjamin đi gần hết đường Spectral thì trông thấy hai người đàn ông đứng trên thang đang gắn một tấm biển hiệu lên trên một cửa tiệm. Nó dừng lại xem bọn họ và nhớ ra rằng cái tiệm này đã từng có tên là Bảnh và Lạ. Benjamin đọc tấm biển mới và miệng nó há hốc ra. Nó dụi mắt, dường như không tin vô những gì mình đang nhìn đây.

“Quán Cà phê Không Thú Kiểng?” nó đọc to lên bằng cái giọng bị sốc. Xong, nó lặp lại một mình thậm chí còn to hơn và bị sốc hơn nữa, “Quán CÀ PHÊ KHÔNG THÚ KIỂNG?”

Hạt Đậu hộc ra ba tiếng sủa nhiệt thành, ra chiều rất đồng cảm với Benjamin.

“Mày bị mắc toi gì vậy?” Nguời đàn ông trên cái thang bên tay trái nói.

“Không… không… không…” Benjamin vừa lắp bắp vừa chỉ lên tấm biển.

“Cút đi!” gã kia quát, hắn vừa đóng xong cái đinh cuối cùng vô tấm biển. “Mày nói làm cho nơi này mang cái tên xấu.”

“Cái tên đó xấu òm rồi,” Benjamin hét to và Hạt Đậu sủa lên đồng tình.

“Con chó đó biết đọc,” gã đầu tiên nói và phá lên cười ha hả. “Cà phê Không Thú Kiềng! Ha! Ha!”

Cả hai gã leo xuống, gấp thang lại và bắt đầu cất thang vô trong xe thùng của họ.

Benjamin nhìn chòng chọc, chòng chọc vô tấm biển, rồi bỗng nhiên nó để ý thấy hai đứa con gái đang nhìn nó lom lom qua cửa sổ tiệm. Một trong hai đứa thè lưỡi ra chọc quê Benjamin. Hành động này khuấy một trận sủa tưng bừng bão tố từ Hạt Đậu. Một người phụ nữ từ trong tiệm hiện ra ở khung cửa. Trông mụ giống như đúc với hai đứa con gái kia, ngoại trừ mụ to lớn hơn và già hơn.

“Đến 9 giờ chúng tôi mới mở cửa,” người phụ nữ lạnh lùng nói. “Nếu cậu muốn vô thì phải đợi. Và phải dẹp con chó kia đi.”

“Tôi không muốn vô!” Benjamin quay lưng đi. Nó chỉ tấm biển. “Tại sao nó lại là Cà phê Không Thú Kiểng?”

“Đó là việc của tao,” nguời phụ nữ đáp.

Benjamin tự dưng nổi hứng muốn phải nhìn mặt hai đứa con gái. Ở tụi nó có nét gì đó rất quái đản. Benjamin có thể cảm nhận sự tập trung căng thẳng trong mắt bọn chúng. Lông của Hạt Đậu dựng xù lên như cây chổi. Benjamin lắc đầu và rùng mình. Hai đứa kia đang nhìn trừng trừng vô một trong những cái thang và chiếc thang đó đang trượt ra khỏi xe tải. Cái thang lơ lửng một thoáng thì bắt đầu di chuyển về phía Benjamin.

“THÔI!” người phụ nữ tóc đen gầm vang, lườm lườm nhìn bọn con gái bên cửa sổ. “Không phải lúc.”

Chiếc thang rung lên một cái và trượt lùi về chỗ cũ.

Hai người thợ nhìn nhau không tin nổi. “Gì vậy?” một người lầm bầm.

“Gió,” mụ Branko nạt và đùng đùng trở vô trong tiệm.

Benjamin đã chứng kiến đủ. Nó chạy thục mạng trên đường cùng với Hạt Đậu vừa chạy chồm chồm vừa sủa bên cạnh. Chúng chạy một mạch tới tận khi về tới nhà số 9 đường Filbert.

Benjamin phóng vù lên những bậc cấp và nhấn chuông, gọi ầm ĩ, “Charlie! Charlie!”

Cửa được mở bởi ngoại Maisie. “Lạy trời, Benjamin Brown, có gì rắc rối vậy?” bà hỏi.

“Có một quán cà phê khác, bà Jones ạ,” Benjamin nói và thở không ra hơi. “Chỉ có điều nó là quán Cà phê Không Thú Kiểng.”

Ngoại Maisie nhíu mày. “Có rất nhiều quán cà phê khác, Benjamin cưng,” bà nói dịu dàng.

“Nhưng không phải là quán Cà phê Thú Kiểng.”

Ngoại Maisie không biết phải hiểu câu này ra sao.

Benjamin là một thằng bé dễ thương nhưng đôi khi nó hay có ý nghĩ lầm lẫn cực kỳ. “Bà nghĩ là con cần gặp Charlie,” bà bảo. “Nó đi thăm ông Onimous rồi.”

“Quán cà phê Thú Kiểng!” Benjamin thốt lên. “Đó mới đúng là quán ấy.” Nói xong nó nhảy tót xuống vỉa hè và lao vùn vụt trên phố với con chó cẳng dài phóng đằng trước.

Ngoại Maisie nhìn theo chúng một lát, lắc đầu rồi đóng cửa lại.

“Ai đó?” một giọng gióng giả vọng ra từ phòng khách. “Thư từ hả? Ta đang đợi đây.”

“Không phải thư từ, Grizelda,” ngoại Maisie nói.

“Thế thì ai?” nội Bone đi vô hành lang. “Ta ghét bọn thám tử.”

“Không phải thám tử, ngoại Maisie bảo mụ. “Đó chỉ là Benjamin Brown. Nó nói linh tinh về một quán cà phê mà không phải dành cho thú kiểng.”

Thật ngạc nhiên đối với ngoại Maisie, nội Bone phá ra cười. “Ha, ha, ha! Thế thì ta sẽ dạy cho bọn chúng.”

Mỗi khi giọng cười của nội Bone trở nên cay độc là lại khiến ngoại Maisie lo lắng. Có lẽ Benjamin không hề lú lẫn tí nào.

Benjamin và Hạt Đậu lúc này đang chạy hết tốc lực, cạnh bên nhau, dọc theo đường Đồi Cao. Giờ vẫn còn sớm và chỉ có vài người đi mua sắm. Chúng quẹo khúc quanh vô hẻm Ếch và bất chợt gặp một cảnh tượng kinh hoàng. Chiếc xe tải cũ của gia đình Silk đang đậu ở quãng giữa con hẻm hẹp, với Charlie, Gabriel và bác Silk trai đang chất những cái thùng và đồ đạc vô xe. Cái sân nhỏ đằng trước quán cà phê để ngổn ngang ghế, bàn, tủ, thùng và một cái khung giường sắt to tướng. Có hai nguời ngồi thiểu não trên chiếc giường: ông và bà Onimous. Bà Onimous đang khóc sướt mướt, trong khi ông chồng cầm tay bà và ngó trơ trơ ra truớc mặt.

“Có chuyện gì xảy ra thế?” Benjamin thét hỏi.

“Cơ quan thi hành án lại,” Charlie hét trả lời khi nó cùng Gabriel khiêng một cuộn thảm thảy vô xe tải.

“Thi hành án? Nhưng mình tưởng…” Benjamin nhìn gia đình Onimous.

“Phải đó, Ben,” ông Onimous chua chát. “Cơ quan đó có quyền đuổi người ta nếu người ta chưa trả liền thuê nhà. Nhưng chúng tôi làm chủ quán cà phê Thú Kiểng và đóng thuế đầy đủ. Chúng tôi đâu làm gì để đáng bị như thế này. Đâu có làm gì.”

“Vậy thì tại sao?” Benjamin đi đến bên Charlie và Gabriel.

“Hội đồng thành phố,” Charlie nói. “Họ nói quán cà phê này không an toàn cho cộng đồng. Và gia đình Onimous không thể sống ở đây nữa bởi vì bức tường đằng sau quán sắp bị đổ.”

“Nó không hề đổ,” bác Silk nói, thảy tia nhìn giận dữ về phía gã thi hành án, một sinh vật trông bệnh hoạn, tóc xơ xác màu nâu đỏ. Hắn đang quẳng những cái bao từ khung cửa ra ngoài đường sỏi đá bùn lầy. Một cái bao vỡ bục và một đống tất cùng vớ da toài ra ngoài.

Ông Onimous bật dậy khỏi giường, chạy bay tới chỗ tên thi hành án, quát lớn, “Cẩn thận, đồ vô lại! Đó là tài sản của bọn tao.”

Tên thừa phát lại cuời khẩy và trở vô khoảng tối thui của quán cà phê trống trơn.

“Trông hắn không giống nhân viên thi hành án gì cả,” Benjamin nhận xét.

Charlie đồng ý cái rụp. Mặc dù nó chua bao giờ từng trông thấy người thi hành án nhưng nó chắc chắn rằng những người cả đời chuyên dọn dẹp đồ đạc nhà người ta thì phải cường tráng hơn cái gã lẻo khẻo đang vứt những bao tải ra hẻm kia. Tuy nhiên, tay trợ lý của hắn lại hộ pháp như một đấu sĩ quyền Anh hạng nặng. Hắn mặc độc chiếc áo lưới và quần rằn ri, vai hắn rộng bằng cái bàn mà giờ hắn đang khiêng qua khung cửa.

“Mình có một chuyện kinh khủng muốn nói với bồ,” Benjamin thủ thỉ với Charlie.

“Chuyện này kinh khủng rồi,” Charlie bảo.

Bác Silk đóng cửa sau của chiếc xe thùng lại và nói, “Xin lỗi, Orvil, chúng tôi không thể chất thêm được nữa. Để tôi chở mớ này lên khu Đồi Cao trước đã rồi quay lại chở nốt những thứ còn lại.”

“Ôi, để tôi đi với.” Bà Onimous tuột khỏi giường và chạy tới chiếc xe thùng. “Làm ơn đi Cyrus. Tôi muốn bảo đảm chắc chắn là có một nơi cho tất cả mọi thứ ờ trong chuồng gia súc nhà ông. Ông có chắc chắn là sẽ không có sự bất tiện?”

“Không sao đâu, Onoria. Lên đi!” Bác Silk mở cánh cửa phía bên hành khách ra. “Cả anh nữa, Orvil. Có đủ chỗ cho ba người trong cabin đấy. Bọn trẻ sẽ trông chừng đồ đạc của anh ở đây, đuợc không các cháu?”

“Dạ được!” cả ba thằng cùng nói.

“Anh tốt quá, Cyrus,” ông Onimous nói to và nhảy tới chiếc xe. “Tôi không biết chúng tôi sẽ làm thế nào…”

“Rất vui lòng mà, Orvil.” Bác Silk đi vô chỗ ngồi bên tay lái và đóng cửa lại trong khi ông Onimous leo lên ngồi cạnh vợ.

Bất thình lình, người đàn ông nhỏ bé lại nhảy ra khỏi xe và chạy đến chỗ Charlie. “Giữ cái này giùm ta,” ông nói, ấn một chiếc chìa khóa nhỏ bằng vàng vô lòng bàn tay Charlie. “Cháu biết nó dùng để làm gì rồi.” Ông nháy mắt với Charlie và chạy chở lại chiếc xe. Bác Silk nhấn còi một tiếng, chiếc xe lạch xạch lăn bánh trên con hẻm rồi quẹo vô đuờng Đồi Cao.

“Cái đó để làm gì vậy?” Gabriel hỏi khi Charlie đút chiếc đùa khóa vô túi quần.

“Nó dùng để mở cánh cửa đi vô đường hầm lâu đài,” Charlie nói khẽ.

Gabriel và Benjamin nhìn nó như thể chúng mong chờ nó nói thêm nữa.

“Nó sẽ có ích vào lúc nào đó,” Charlie nhún vai.

“Gia đình Onimous sẽ đến sống với nhà anh à?” Benjamin hỏi Gabriel.

Gabriel gật đầu. “Sẽ phải chen chúc một tí vậy, các chị của tôi sẽ không vui về việc này đâu, bởi vì tất cả họ phải ngủ chung. Nhưng gia đình ông Onimous đáng thương còn biết đi về đâu nữa? Nhà tôi có một khu chuồng gia súc khô ráo để chất đồ đạc của họ, còn lại một số sẽ cất trong nhà chuột của tôi, một lượng nhỏ thôi. Nhưng nhà tôi không thể chứa hết cả bàn và ghế của quán cà phê. Chúng đã bị mang đi rồi.”

“Em ước gì em có thể mời gia đình Onimous đến sống với em ” Benjamin rầu rĩ nói. “Bà Onimous làm đồ ăn cho thú cưng mê ly luôn.”

Vừa lúc đó tên thi hành án và trợ tá của hắn bước ra khỏi quán, đóng sầm cửa lại đằng sau chúng. Tên thi hành án rút ra một chùm chìa khóa, cẩn thận chọn ra một chiếc và khóa cửa lại. Hắn xoa hai bàn tay vào nhau, tuyên bố, “Xong!”

Khi hai gã đàn ông đi sượt qua chỗ bọn con trai đang đứng, tên áo lưới nói, “Coi bộ trời sắp mưa, bọn nhóc. Hy vọng cái đồ này không ướt!” Hắn xỉa ngón tay cái tới chiếc giường. “Có thể bị hư.”

Lũ con trai giương mắt nhìn hắn và sau đó, khi hai gã đàn ông bước ngược con hẻm, Charlie lẩm bẩm. “Nghĩ coi, trông tưởng hắn nam tính trong cái áo lưới đó chứ, nhưng em có thể nhìn thấy da gà nổi hột trên cánh tay hắn.”

Gã áo lưới dừng bước, quay nhìn lại với vẻ hầm hè trên nét mặt. Hạt Đậu phọt ra một tiếng sủa gằn trong cổ họng nổi đình đám của chú và gã đàn ông vội tếch theo đồng bọn của hắn.

“Hôm nay là một ngày kinh khủng, kinh khủng,” Benjamin rên rỉ ngay khi bọn kia đi khuất mắt.

“Bồ nói ngay chóc đấy,” Charlie tán thành.

“Ý mình còn tệ hơn cả kinh khủng nữa,” Benjamin la to, và nó kể cho cả bọn nghe về quán Cà phê Không Thú Kiểng, về hai chị em sinh đôi ớn lạnh và cái thang biết bay.

“Tụi Branko đó!” Charlie thốt lên. “Thì ra đó là chỗ bọn chúng sống!”

“Branko?” Benjamin chả hiểu gì.

“Chúng là những kẻ siêu năng,” Charlie giải thích. “Mình chắc chắn mình đã kể cho bồ nghe về chúng rồi mà. Chúng hay chơi trò di chuyển đồ khi tụi này đang chăm chú làm bài tập về nhà: sách, viết chì, đồ đạc. Có lần chúng đã kéo đổ một bức tường và suýt nữa thì chôn vùi tớ. Chúng là nô lệ của Manfred.”

Benjamin lại càng sung sướng hơn là nó không phải đi học ở trường của Charlie.

“Tôi cá là Manfred đã sắp đặt cho gia đình Branko phải làm như vậy,” Gabriel bực bội. “Ý tôi là, khi gọi là quán Cà phê Không Thú Kiểng thì giống như một cái tát vô mặt vậy, đúng không, khi mà hắn biết quán cà phê Thú Kiểng là quán yêu thích của tụi mình?”

“Coi kìa!” Charlie bất thần chỉ lên mái ngói xô nghiêng của quán cà phê. Ba con mèo sáng rực đã xuất hiện trên nóc. Sư Tử, con mèo cam đứng trên đỉnh chóp, hai con kia đứng hai bên nó.

“Chúng mất nhà của chúng rồi,” Gabriel âu sầu.

“Không phải, chúng là những kẻ lang thang,” Charlie bảo. “Nhà của chứng là khắp mọi nơi, không nơi nào cả. Em nghĩ chúng đang canh gác nơi này.”

Còn gì nữa mà canh gác,” Gabriel nói.

“Có một đường hầm bí mật ở bên dưới bức tường dẫn tới lâu đài,” Charlie nhắc nhở cậu. “Và em cá là chút xíu nữa bọn thi hành án sẽ trở lại đây để tìm nó cho mà xem. Gia đình Bloor luôn muốn tìm ra nó, và bây giờ là cơ hội của chúng. Ba em giấu một vật rất, rất quý, một vật mà lão Ezekiel thèm muốh, và giờ em tự hỏi ba có giấu nó ở cuối đường hầm đó không.

Gabriel và Benjamin nhìn chằm chặp vô Charlie với vẻ khó hiểu hằn trên trán và Charlie nhận ra mình phải kể nhiều hơn một chút. “Có một cái hộp,” nó tiếp, “ông cậu của em kể cho em về nó. Ông nghĩ rằng có một bản di chúc ở trong đó, một bản di chúc chứng minh rằng Billy Raven đáng lý ra phải được thừa kế Học viện Bloor và tất cả số tiền mà gia đình Bloor đã tẩu tán.”

“Wow!” Benjamin đổ sụp xuống cái khung giường khiến đống lò xo nảy lưng tưng, rên xiết.

Tuy nhiên, Gabriel vẫn nhìn chòng chọc Charlie với cái trán hằn sâu hơn sau mỗi giây.

“Cái gì?” Charlie nói. “Anh không tin em à?”

“Tại sao ngay từ đầu ba của em phải giấu nó đi,” Gabriel hỏi vói giọng từ tốn cố ý, “Nếu ba em biết trong đó có một món quan trọng đến vậy?”

“Ba em đã không biết,” Charlie kiên nhẫn. “Chiếc hộp không thể mở dược. Chìa khóa đã bị mất. Trước khi cha của Billy chết, chú ấy nhờ ba của em giữ gìn chiếc hộp. Chú ấy không nói trong đó có gì bởi vì chính chú ấy cũng không biết. Sau đó ba của em bị thôi miên, như mọi người đều biết và…” Charlie nhăn nhó – thật khó cho Charlie thừa nhận rằng ba nó vẫn chưa hoàn toàn hồi phục khỏi thử thách lâu dài ba đã phải chịu, và trí nhớ của ba nó vẫn chưa trở lại. Điều đó có nghĩa là Lyell Bone sẽ không bao giờ trở lại là người đàn ông dũng cảm mà một thời đã đối đầu với gia đình Bloor. Charlie thấy điều đó thật khó chấp nhận.

“Và cái gì?” Benjamin nhẹ nhàng thúc ép.

“Ba mình vẫn chưa nhớ hết tất cả mọi thứ đã xảy ra trước đây,” Charlie nói. “Nhưng ba mình sẽ nhớ cho coi,” nó tự tin nói thêm, “khi ba mình đi nghỉ trở về.”

“Dĩ nhiên rồi,” Benjamin nói.

“Nhưng gia đình Bloor không muốn chú ấy nhớ lại,” Gabriel tư lự. “Phải không, Charlie?”

“Đúng,” Charlie công nhận.

Bác Silk phải đi mất hai chuyến mới chở hết đồ đạc của gia đình Onimous lên khu Đồi Cao. Gabriel đi về cùng với ba của anh trong chuyến cuối, Benjamin và Charlie bị bỏ lại trong con hẻm vắng hoe. Chúng buồn bã nhìn quán cà phê im lìm, và khi chúng đi tới đường Đồi Cao, cả hai tha thiết hy vọng sẽ không lâu nữa quán cà phê Thú Kiểng sẽ lại đầy ắp những con thú nhai, nuốt, kêu tóp tép và những người chủ hạnh phúc không kém của chúng.

Ba mẹ Benjamin là những thám tử tư và thường làm việc vào ngày thứ Bảy. Nhưng hôm nay cả hai cô chú đều ở nhà và cô Brown đã hứa với Benjamin là nó sẽ có món thịt cừu với sốt thịt trong bữa trưa. Ngay khi

chúng về tới đuờng Filbert, Benjamin hớn hở chạy về nhà số 12, trong khi Hạt Đậu, kẻ đã ngửi thấy mùi xương hấp dẫn, chạy tong tả bên cạnh cậu chủ.

Bữa trưa của Charlie có món súp cà rốt và phó mát. Nội Bone thậm thụt cả ngày với mấy bà em, Ông cậu Paton đã lại lên đuờng rong ruổi cho một cuộc hành trình khám phá mới.

“Thu thập tin tức, đó là những gì ông cậu của con nói” ngoại Maisie bảo Charlie. “Ăn xong con có qua nhà Benjamin không?”

“Có ” Charlie nói dối, mặc dù, đồng thời đó không hẳn là nói dối bởi vì rất có thể nó sẽ tới nhà Benjamin. Chỉ là càng suy nghĩ thêm về việc đó, thì nó càng ngứa ngáy muốn trở lại quán cà phê Thú Kiểng.

Khi giúp ngoại Maisie rửa chén xong, Charlie đi vô phòng nó và làm bài tập về nhà. Đến lúc ba giờ rưỡi, hét um nhà lên “Tạm biệt ngoại Maisie”, nó rời nhà và đi trở lại quán cà phê vắng tanh. Áp sát mặt vô cửa sổ, nó tìm ánh đèn có thể còn sáng bên trong nhà bếp. Nhưng nơi đó tối om và im lặng. Không có gì chuyển động. Charlie khao khát cháy bỏng muốn vô trong quán cà phê, nhưng nó không có chìa khóa và nó đã thấy tên thừa phát lại khóa cửa rồi. Tuy vậy nó vẫn cố thử. Tay nắm cửa có xoay nhung cánh cửa không nhúc nhích. Charlie tự nhủ mình là thằng ngu – bất cứ ai muốn lục lọi noi này họ phải đợi cho đến khi đêm xuống. Nhưng đúng lúc đó nó bỗng nghe thấy tiếng những bước chân trong hẻm.

Charlie vọt lẹ ra bên hông quán và ép mình vô trong góc, nơi bức tuờng quán giáp ranh với bức tường thành cổ. Nó nghe thấy tiếng chìa khóa va vào nhau lách cách. Cánh cửa mở ra rồi đóng lại, Charlie nín thở chờ, và rồi nhón chân đi vòng ra cửa trước của tòa nhà. Nó nhìn qua cửa sổ, nhưng chẳng thấy gì. Thật khẽ hết sức, nó xoay nắm cửa và đẩy. Cánh cửa mở ra. Charlie lẻn vô.

Tiếng những bước chân cọt kẹt phía trên đầu nó. Bất cứ kẻ nào vô quán cà phê đều đang bắt đầu lục soát trên lầu. Charlie có cơ hội đến được chỗ nó muốn truớc khi bị ai đó trông thấy. Nó lén đi qua nhà bếp và vô hành lang dài. Nó càng đi sâu thì càng tối và hẹp. Chẳng bao lâu sau sàn nhà lát đá nhường chỗ cho một lối đi bằng đất nện. Và mái trần ốp gạch thấp đến nỗi Charlie có thể sờ những ngón tay vô. Cuối cùng nó tới một căn phòng nhỏ hình tròn nơi ông Onimous trữ thực phẩm cho quán. Những sọt táo, cùng với những bao tải, những cái thùng đựng trà kê tựa vô các bức tường. Có lẽ không bao giờ có kẻ nào tìm thấy nơi này, Charlie nghĩ. Tuy nhiên nó không hy vọng nhiều lắm về điều đó. Kẻ nào nhà họ Bloor đã quyết định lục lọi quán cà phê Thú Kiểng, thì kẻ đó nhất định không từ bỏ cho tới khi chúng đã khám xong từng căn phòng và từng lối đi. Chúng sẽ xê xịch từng bao hàng, từng cái hòm gỗ và cuối cùng chúng sẽ tìm thấy cánh cửa mà Charlie sắp sửa mở đây.

Hự lên một tiếng gắng sức, Charlie bắt dầu đẩy hai cái thùng đựng trà nặng trĩu ra khỏi tường cho tới khi nó làm lộ ra một cánh cửa cổ xưa, cao chưa tới một mét. Ép mình ra sau những thùng dựng trà, Charlie tra chiếc chìa khóa của ông Onimous vô ổ. Tiếng khóa xoay một cái tách nhẹ và cánh cửa kẹt mở ra. Đằng sau cánh cửa

là bóng tối đen đặc đến nỗi Charlie chùn lòng. Nó đã vô đường hầm này hai lần rồi, nhưng chưa bao giờ vô đây một mình. Đây là thời gian cho tài phép từ tổ tiên người xứ Wales của nó phát huy tác dụng.

Charlie được thừa hưởng hai dòng phép thuật. Tài đi vô tranh ảnh của nó là hưởng từ Vua Đỏ; và cây dũa phép là từ thầy pháp xứ Wales, Mathonwy. Cây đũa phép giờ là một con bướm trắng – một con bướm có đôi cánh bạc, có thể phát sáng tại nơi tối đen như mực. “Claerwen!” Charlie nói khẽ.

Nghe gọi tên mình, con bướm bò ra từ dưới cổ áo Charlie, nơi cô nàng đang ngủ. Dịch sang tiếng Anh, tên của Claerwen có nghĩa là “ánh sáng trắng”. Cô nàng đã chín trăm tuổi.

Con bướm trắng bay lướt vô đường hầm và Charlie đi theo, cúi đầu khi nó bước qua ô cửa thấp. Trước khi đi sâu vô tiếp, nó đóng cửa lại, hy vọng nó không bị nhìn thấy đằng sau hai thùng đựng trà. Phải chi Charlie khóa cửa luôn, thì chắc hẳn mọi sự sẽ khác đi. Nhưng nó đã quên mất.

Đường hầm nhớp nháp và yếm khí. Mấy lần Charlie trơn té vì mặt đất ướt. Ánh sáng của Claerwen khiến những bức tường ẩm sáng mờ hơi sương. Đường hầm bắt đầu cong quẹo và Charlie phải tì một tay lên tường để giữ thăng bằng. Đi xuống được nửa đường hầm, có một khe nứt dài hiện ra trong tường. Charlie ép người chui qua đó, vô một đường hầm khác, cái này hẹp đến nỗi nó phải lách đi theo chiều ngang. Con buớm nhỏ chao liệng phía trên làm cho nó vững bụng hơn, và sau năm phút dài lê bước nữa, Charlie đi vô một căn phòng kỳ lạ.

Bên ngoài, bầu trời xám đìu hiu, nhưng ở đây tất cả mọi thứ đều tắm đẫm trong ánh nắng mặt trời. Nền nhà lát những ô vuông màu, nhỏ li ti: màu vàng, đỏ và cam; một bức tranh ghép hình mặt trời tỏa sáng. Những bức tường khoe kiến trúc hình vòm màu vàng kim, vẽ những đám mây bạc và những lùm cây lá xum xuê, nơi có những người mặc áo thụng đi dạo cùng nhau, hoặc ngồi nghỉ trên những băng ghế dài bằng đá hoa cương. Và trên trần nhà hình vòm lại có một mặt trời vẽ xuất hiện, nhưng ở chính tâm lại là một vòng tròn mở thẳng ra bầu trời.

Charlie bước quanh chu vi của sàn nhà hình tròn, chạm vô những cây cột chống tại những quãng nghỉ giữa các bức tường vẽ tranh. Nó mong đợi sẽ tìm thấy gì? Một cái hộp gỗ để ngay ngắn đằng sau một cây cột, hay nhét vô giữa những kẽ nứt trong tường? Bởi vì căn phòng này rất đặc biệt. Trước kia nó từng là phòng của Vua Đỏ, biệt lập với thế giới. Bây giờ chỉ một số ít người biết về nó, và Charlie chắc chắn gia đình Bloor không ở trong số đó. Đây quả là một địa điểm cất giấu hoàn hảo.

Charlie sờ vô mặt tường láng; nó quỳ xuống và nghiên cứu kỹ sàn nhà lát gạch, rà bàn tay khắp những ô vuông màu. Nó nheo mắt nhìn lên trần nhà vòng cung và chọc chọc những viên gạch ở chân từng cây cột. Nhưng không có dấu hiệu nào của chiếc hộp. Hay là ba nó đã cất chiếc hộp ở trong lâu đài? Giờ này đã quá trễ để mà lùng sục

trong khu đổ nát. Charlie quyết định bỏ cuộc vào lúc này, nhưng khi nó ngó chằm chặp quanh căn phòng sáng rực, nó cảm thấy dấy lên tia hy vọng. Nó tin chắc là nó sẽ tìm thấy chiếc hộp. Có lẽ không phải hôm nay, mà lúc nào đó rất gần thôi. Và Billy sẽ có quyền thừa kế của nó – nếu thằng bé được cứu khỏi xứ Badlock.

Charlie lần trở lại dọc theo lối đi hẹp và bước vô đường hầm. Nó cần phải trở lại lối nó đã đi qua. Nếu nó đi tiếp vô khu đổ nát, nó sẽ bị kẹt ở trong sân trường.

Có ánh sáng của bướm Claerwen dẫn đường, Charlie bắt đầu bước trở lại cánh cửa nhỏ, hy vọng chưa có ai tìm thấy nó. Rẽ một khúc quành trong đường hầm, Charlie đột nhiên thấy mình bị chộp vô vòng sáng của một quầng lửa nhảy nhót.

“À ha!” một giọng móc mỉa. “Chúng ông có cái gì ở đây? Một thằng bé với một chiếc hộp, không sai.”

Charlie đứng ngây như phỗng tại chỗ. “Tôi không có chiếc hộp,” giọng nó đặc lại vì sợ hãi.

“Không á? Tao thì nghĩ là mày có!” Cái đốm lửa nhún nhảy tiến đến gần hơn, và Charlie có thể thấy bộ mặt nhơn nhơn của gã thi hành án trong quầng sáng lòe nhòe của một cây gậy dài tẩm nhựa.

“Ông đang cầm… cầm… cái gì đó?” Charlie hỏi lạc cả giọng.

“Lửa! Chứ còn cái gì,” gã thi hành án cười lục cục. “Amos Byme tới sưởi ấm cho mày đây, Charlie Bone.”


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.