Chiếc ấm của Feromel
Bà cô Venetia vẫy bọn trẻ và chúng lệt phệt tiến tới trước, đứa con gái dẫn đầu, thằng con trai hầu như không nhích tí nào.
“ Đây là Miranda.” Bà cô Venetia chộp bàn tay con bé và giằng tới đứng bên cạn mụ. “Nó nhỏ thó so với 7 tuổi, nhỉ? Nhưng Eric, ừm, trời đất, nhìn nó này. Ai mà nghĩ nó 6 tuổi cơ chứ?” Mụ lao xổ ra chỗ thằng bé, cố tóm tay nó nhưng nó lùi phắt lại và đứng dựa vào tựa sách.
“ Lại đây, thằng ngu.” Bà cô Venetia xỉa xói. Mụ quay qua cô Ingledew. “ Ta được cho biết là thằng cháu trai của ta hay tới đây vào chủ nhật.”
Cô Ingledew nói sẵng. “ Không phải luôn luôn.”
“Không thành vấn đề.” Bà cô Venetia nhìn Emma. “Ta cho là hôm nay mày sẽ gặp nó, phải không, Ella… hay gì gì đó?”
“Ờm…” Emma ấp úng.
“ Mày hãy chuyển chúng cho nó.” Bà cô Venetia bảo con nhỏ.
“ Chuyển chúng…” Emma lưỡng lự. “Ý bà là chuyển các con của bà?”
“ Chứ mày nghĩ gì?” Bà cô Venetia đẩy Miranda một phát về phía Emma.
“ Bà không thể để chúng ở đây được,” cô Ingledew căm phẫn.
Bà cô Venetia bước lên các bậc thang, tiếng giày cao gót nện đoàng đoàng như tiếng súng nổ. “Không có ai ở nhà số 9. Paton chắc chắn có ở nhà, nhưng hắn không bao giờ ra mở cửa. Vì vậy ta phải để bọn trẻ ở đây. Chị Eustacia của ta sẽ đón chúng lúc 5 giờ. Ta nghe nói cô làm bánh mì sandwich rất khéo, cô Ingledew.”
“Đây là tiệm bán sách, không phải nhà trẻ.” Cô Ingledew giận dữ đến nỗi cô dằn mạnh một cuốn sách quí xuống quầy.
“ Ta làm sao đưa chúng đi tuần trăng mật của ta được hả?” Xong, bà cô Venetia vừa hát vừa lướt ra ngoài đường. “Lũ trẻ nít…Hãy ngoan.”
Cánh cửa kính coong đóng đập lại bỏ lại cô Ingledew chết điếng, nhìn chăm chắm qua đầu Miranda tới Emma.
“Hừ!” Mãi cuối cùng cô Ingledew mới thốt lên lời. Chắc hẳn cô muốn trút gận xối xả, nhưng hai đứa trẻ trông thiểu não quá, cô nhận ra nếu mình than thở chỉ làm sự tình éo le hơn trước mà thôi. Bà cô Venetia đã lơi dụng bản tính tốt của cô.
Lúc này hai đứa trẻ đã dính chùm vô nhau. Chúng đứng nắm tay nhau giữa tiệm lấm lét dòm, trước tiên là Emma rồi tới cô Ingledew. Quả thật chúng quá nhỏ so với tuổi chủa chúng. Miranda có tóc màu lông chuột và mắt xám. Nó mặc quần jeans và áo khoác đỏ, chiếc áo hình như đã thu lại mấy cỡ. Ống tay áo thậm chí không che nổi hại cổ tay ốm như chân chim của nó. Mái tóc rối bù của Eric sậm màu hơn, rõ ràng đã lâu rồi chưa được cắt, rủ lộn xộn xuống vai nó thành những nùi rối bong. Nó mặc quần nhung kẻ màu xanh lá cây, bẩn bết nơi đầu gối, áo jacket đen mất tiêu vài cái nút.
Tim Emma se lại vì chúng. Con nhỏ vốn không thể chịu nổi khi thấy những sinh vật bé nhỏ khốn khổ. “ Đến gặp bạn của chị đi.” Nó chìa tay ra. “ Tụi chị đang vẽ chim. Các em có thích vẽ không. À mà, chị là Emma.”
Miranda nói “ Tụi em đi lấy con chó của mình được không?”
“Chó?” Cô Ingledew nhăn mặt. “ Nó đâu?”
“Chúng cháu phải để nó ở nhà. Nó rất cô đơn. Nó ghét ở một mình lắm.” Mắt Miranda rơm rớm nước.
Olivia chọn đúng khoảnh khắc này để thò đầu ra khỏi tấm rèm. “Ố!” Nó ré lên khi thấy bọn trẻ. “ Tớ không biết là có người ở đây. Tớ đang nằm bẹp đề phòng có người thấy con chim.”
“Chim nào?” Eric sáng rỡ lên.
“ Ồ. Thì con chim.” Olivia tỉnh bơ. “Em là ai?”
Bọn trẻ nhìn Olivia chòng chọc, im re.
“Đây là Miranda và Eric,” Emma nói, hơi quá đon đả. “Chúng là em họ…em họ kế mới của Charlie Bone, tớ nghĩ vậy.”
Oliva tròn mắt. “ Tội nghiệp không. Chị chả ham bà con gì với gia đình đó. Chị là Olivia.”
“Olivia!” Cô Ingledew gay gắt. “Làm ơn đừng nói kiểu đó về gia đình Charlie.”
“Úi!” Olivia rụt đầu vào.
“Làm ơn cho tụi cháu đi lấy con chó đi?” Miranda kèo nài.
Cô Ingledew gãi đầu. “Cô không biết, cưng. Ý cô là, làm sao cháu vô nhà được? Mẹ kế của cháu có để chìa khóa lại cho cháu không?”
Miranda lắc đầu.
Cô Ingledew thở dài. “ Chờ cô chút. Để cô hỏi ý kiến một người bạn.” Cô lấy chiếc moblie của cô từ trong túi quần ra và bắt đầu bấm số.
Emma lùa hai đứa trẻ vô nhà sau trong khi cô Ingledew gọi cho ông Paton Yewbeam. Miranda và Eric nghi hoặc ngó xung quanh căn phòng đầy sách và cuối cùng quyết định ngồi xuống ghế sô-pha, dính sát vào nhau.
“Dì của chị có lâu không?” Miranda hỏi. “ Chattypatra sẽ ư ử, ư ử đến chừng nào tụi em về với nó.”
“Tên oách quá.” Olivia nhận xét. “ Gốc gác từ đâu vậy?”
“Tên nó đã là Cleopatra,” Miranda nói. “Nhưng tại vì nó nhiều chuyện quá. Ờm, cứ sủa, tru rồi rên la. Vì vậy mà mẹ…” nó im bặt và nhìn Eric. Thằng bé bặm môi dưới lại nhưng không khóc. “Vì vậy mẹ.” Miranda tiếp, “Mẹ em gọi nó là Chattypatra(1) (Cleopatra là tên nữ hoàng Ai Cập. Vì con chó hay “nói nhiều” nên mẹ chúng đổi thành Chattypatra, chat tức là nhiều chuyện, tán gẫu.)”
”Hay ghê,” Olivia gật gù.
Cô Ingledew ngó vô phòng và bảo với chúng, chừng nào ông Yewbean tìm được chìa khóa nhà bà cô Venetia, ông sẽ sai Charlie mang tới đây.
“Vậy sẽ rất lâu?” Đôi môi rướm đỏ của Miranda khẩn nài nhìn cô Ingledew.
“Cô không nghĩ vậy đâu, cưng. Nào, mấy cưng có muốn giúp Emma làm bánh sandwich không?”
“Dĩ nhiên rồi,” Olivia mau mắn. “Đi thôi, tụi mình kẹp mật ong với chuối, hay là pho mát với nho khô, hay là bưởi với đậu phộng? Hay là xúc xích với cam.”
Cô Ingledew thở phào – Miranda, mê mụ đi theo Olivia vô nhà bếp, Eric bám sát gót.
Ngay khi cô Ingledew vừa quay ra tiệm thì ông Paton Yewbean gọi báo tin nội Bone đi vắng, đóng cửa rồi, và giờ không cách chi vô phòng bà ta tìm chìa khóa.
“Ôi, Paton, em không biết phải làm gì nữa. Lũ trẻ đáng thương lắm. Trông chúng rất đau khổ. Em nghĩ con chó sẽ làm chúng vui lên.”
“Bà chị quỷ quái của tôi nghĩ gì thế không biết?” ông Paton cằn nhằn, “Sao lại thảy chúng tới tiệm của em? Này, Julia, anh không biết có được hay không, nhưng anh đoán chắc chắn là bà Venetia hay để chìa khóa cửa dưới một bức tượng thần lùn khổng lồ, gớm ghiếc ở bậc thang trên cùng nhà bà ta.”
“Tượng thần lùn?” Cô Ingledew nói, cô chưa từng léo hánh đến nhà bà Venetia bao giờ.
“Sinh vật dữ tợn. Bằng đá. Tai to. Mũi dài. Có râu quai nón. Ngồi chồm chỗm. Bàn chân to đùng.”
“Em biết thần lùn,” cô Ingledew nói nhanh. “Em chỉ thắc mắc sự khôn ngoan của việc để chìa khóa của dưới tượng thần lùn là gì thôi.”
“Nó không phải là vật sống, Julia thân yêu.”
“Em biết nó không phải là vật sống.” Cô Ingledew thở dài não nề. Đôi khi ông Paton không sống cùng thế giới với người khác. “Ý em là nhỡ có người tìm thấy chìa khóa và vô nhà.”
“Nhà đó ai trên đời này muốn vào? Của cải quý giá của bà Venetia toàn những thứ để ếm bùa mà chỉ mình bà ta mới biết cách sử dụng thôi.”
Cô Ingledew chịu thua. “Cảm ơn, Paton. Bọn em sẽ nghĩ kĩ về nó.”
Về phần mình, Ông cậu Paton tự hỏi cô Julia sẽ nghĩ về cái gì. Ông rất yêu mến cô, nhưng đôi khi họ không ở trong cùng tần số. Ngay khi Charlie và đám bạn nó về nhà, ông sẽ bảo nó mau mau tới nhà bà Venetia coi có tìm thấy chìa khóa dưới bức tượng không. “Mà khoan, suy nghĩ lại, tốt hơn để chúng ăn trưa xong ta hẵng nói,” Ông cậu Paton độc thoại.
Trong khi đó Charlie, Billy và Benjamin đang chậm rãi thả bộ trên đường Piminy. Chúng vẫn chưa tìm thấy tiệm Ấm Đun, trong bụng đã bắt đầu nghĩ cái tiệm đó không tồn tại. Đường Piminy chi chít những tiệm nhỏ, kỳ dị, tất cả đều đóng cửa, dĩ nhiên, vì hôm nay là Chủ Nhật. Nào là tiệm pho mát, tiệm làm đèn cầy, tiệm làm giầy, tiệm làm đồ mộc, rồi thì tiệm làm bánh mì, tiệm bán hoa và thậm chí có cả tiệm đá.
“Tiệm Đá,” Charlie lầm bầm, ngó vô cửa sổ tối hù. “Vậy tức là sao?”
“Chắc là họ bán đồ dùng làm bằng đá?” Benjamin đoán mò.
Bất chợt Charlie nhận ra một hình khối cao lớn ở bên trong cửa sổ. Nó nhìn kỹ hơn và thốt lên:”Một bức tượng”. Khi mắt nó đã quen với bóng tối, nội thất của tiệm dần hiện rõ ra. Bây giờ nó có thể thấy những bức tượng khác: một nhóm tượng những người lính La Mã to bằng người thật; bên cạnh họ là ba người phụ nữ mặt mày hung hãn cằm dùi cui và rìu, lùi xa hơn nữa thì tới một người đàn ông trông giống yêu tinh hơn là con người. Ở gần cuối phòng, bên dưới cửa sổ mái, có một hiệp sĩ cưỡi ngựa cầm thương. Con ngựa của hiệp sĩ có cắm lông chim ở đầu, và bên dưới yên, thân mình nó phủ tấm mền được kết từ lá cây.
“Ông ta đang đấu thương,” Benjamin nói ra vẻ am tường.
“Tưởng tượng nếu họ sống thì sao nhỉ!” Billy thì thầm.
Charlie lùi một bước khỏi cửa sổ. Rất có thể, trong thành phố có những con người có khả năng khiến cho tượng sống dậy lắm chứ.
“Mình ngửi thấy mùi cá,” Benjamin nói. “Cả Hạt Đậu cũng ngửi thấy.”
Hạt Đậu đã bươn tới một cửa tiệm đằng phía cuối đường. Chú ta đang đứng giữa vỉa hè và sủa um lên bức xúc.
“Nó sủa vậy là vì nó thích cá hả?” Charlie hỏi khi nguyên đám chạy hộc tốc về phía con chó vàng.
“Ghét thì có,” Benjamin thở phì phò, tóm lấy vòng cổ Hạt Đậu.
Nhưng bên trong cửa sổ con chó đang sủa hoàn toàn trống trơn. Một tấm biển đề “CÁ”. Những mẫu tự màu xanh da trời in cẩu thả trên nền trắng, trông như viết đè lên dòng chữ gì khác nữa. Thật vậy, nếu nhìn kỹ hơn, ta có thể thấy chữ “Bán thịt” bên dưới tấm biển trắng.
“Các anh có biết em thấy nó mùi gì không?” Billy nói.
“Dagbert,” Charlie đáp.
Cả đám trố mắt nhìn cái tiệm trống hoác rồi nhìn lên cửa sổ tầng trên, tự hỏi đây có đúng là nơi Dagbert cư ngụ hay không. Và nếu đúng thì, loại người nào lại làm chủ một cửa tiệm vắng teo với tấm biển quấy quá như vậy.
“Những người rất lập dị,” tiếng ai đó vang lên, dường như đọc được tâm trí của bọn chúng.
Cả đám quay lại và thấy một phụ nữ đứng bên ngoài một ngôi nhà cách đó ba căn. Mái tóc màu đồng của bà láng đến nỗi trông như bà đội mũ bảo hiểm, chiếc áo bông màu đen bóng đến độ cứ tưởng nó làm bằng thép. Người bà to bề ngang, với đôi vai rộng tạo ấn tượng về một sức mạnh phi thường.
“Bà đang chờ mấy cưng mãi,” người phụ nữ nói. “Bà là bà Kettle, bạn của bà bếp trưởng. Có một con vật nhỏ đang nôn nóng gặp mấy cưng muốn chết.”
“Rembrandt!” Billy kêu lên, chạy thục mạng tới chỗ bà.
“Cưng là Billy đây mà? Còn cưng chắc chắn là Benjamin rồi, nhìn con chó là biết liền, và cưng là Charlie. Vô đi, mấy cưng, trời lạnh héo queo ngoài đó.” Bà Kettle đi vô tiệm, chắc chắn khác một trời một vực so với cái tiệm cá vắng hoe đằng kia.
Tất cả mọi thứ trong tiệm của bà Kettle hình như đều sáng bóng nhoáng. Chỉ khi mắt Charlie quen với ánh sáng chói lóa xung quanh, nó mới nhận ra vật gì cững đều là ấm đun nước. Đủ mọi hình thù, kích cỡ và màu sắc. Chỗ này ấm chen chúc nhau trên các kệ, chôc kia ấm khoa sắc trên bàn hoặc ngồi riêng lẻ, chễm chệ trên những chân đế. Ở vị trí danh dự đặt một cái ấm đồng lớn nhất mà Charlie từng thấy. Nó hiên ngang đứng đối diện giữa cửa sổ, có hàng loạt ấm khác nhỏ hơn bao quanh; ta có thể thấy hình ảnh lạ lùng, nghiêng nghiêng, mang các sắc thái màu đồng của toàn bộ cửa hàng phản chiếu lên mặt bên sáng hoáng của nó.
“Cái đấy chỉ để trưng thôi, mấy cưng.” Bà Kettle nói khi nhìn theo ánh mắt của Charlie. “Cái ấm chiến nhất của bà ở đằng sau phòng này cơ. Đi với bà nào.” Bà lướt qua một ô cửa vòm ở cuối tiệm và ra hiệu cho chúng vô một căn phòng khác, cũng chất đầy ấm đun nước, nhưng phòng này có nhiều không gian hơn một chút xíu. Bốn chiếc ghế bọc đệm chỗ ngồi, không có ấm ở trên, kê quanh một cái bạn nhỏ.
Billy chả bụng dạ nào để ý đến cái gì. Không sao kiềm chế nổi sự nôn nóng, nó buột mồm:”Nó đâu? Con chuột của cháu đâu?”
“Ái chà. Bà tự hỏi,” bà Kettle ghẹo nó, “cưng tưởng bà quên rồi ư?”
“Phải,” Billy lỡ miệng. “À không. Làm ơn đi, nó đâu rồi?”
“Có ngay đây!” Bà Kettle khoắng tay vào một trong hàng lô hàng lốc ấm và lấy ra một con chuột đen bóng.
Billy giật con chuột khỏi tay bà, thét tướng, “Rembrandt!”
“Nó yêu cái ấm đó lắm,” bà Kettle nói. “Nó đã thử tất cả rồi nhưng đó là cái ấm nó thích nhất.”
Benjamin trông lo lắng. “Ừm, bà bán ấm đung nước ạ?”
“Đừng lo, cưng,” bà Kettle nói. “Bà rửa sạch bên trong ấm thường xuyên mà. Chuột có thể là sinh cật dơ dáy đấy chứ?”
Charlie chợt nghe thấy có tiếng trống vọng đến từ đâu đó phía sau. Hạt Đậu nhắng nhít muốn gặp Rembrandt đến nỗi cái đuôi xù, ngoe nguẩy của nó đập tùng xèng vào hai cái ấm tráng men.
“Rembrandt không muốn chơi,” Billy nói, ôm rịt lấy con chuột.
Trước một hiệu lệnh từ Benjamin, Hạt Đậu đành miễn cưỡng thôi quật đuôi nhưng tiếng trống lập tức được thay thế bằng tiếng hú inh ỏi từ một cái ấm đang đun trên bếp.
Bà Kettle cởi áo khoác ra và bảo bọn trẻ làm theo mình. Xem ra nhiệt độ tăng lên ít nhất hai chục độ, Charlie cởi áo len rồi cởi áo jacket của nó ra luôn.
Bọn con trai ngồi xuống và và bà Kettle rót trà đậm đặc ra bốn cái tách. Benjamin không thích trà nhưng nó hiểu ra mình còn nhận được cái gì khác nữa ở nơi toàn những ấm là ấm này. Nói cho ngay, đó là thứ trà cực ngon, và sau vài ngụm, chúng hoạt bát hẳn lên, kể cả Benjamin. Cứ như là nuốt loại không khí mà làm cho ta thấy nhẹ tênh và tỉnh người ra vậy.
Trong khi uống trà, bà Kettle kể cho chúng về tiệm cá trên đường này, mặc dù chả đứa nào hỏi bà về chuyện đó.
‘Nơi đó từng là tiệm bán thịt,” bà Kettle nói. “Ông chủ tiệm rất dễ mến, hay cho bà thêm thịt vụn. Ừm, ông ấy bỗng nhiên một sáng thức dậy và ra đi. Không một lời từ biệt.’
“Chắc tại ông ấy nhận được một lời đề nghị mà ông ấy không thể từ chối,” Charlie đoán.
“Chắc chắn,” bà Kettle đồng ý. “Nhưng mấy cưng nghĩ coi, ai đã trả tiền mua cái nơi trái khoáy đó thì phải chuyển cái gì vô đáy chứ. Đằng này, bà chưa bao giờ trông thấy một cái vẩy cá trưng ở cửa sổ nữa là.”
“Nhưng nó có mùi cá,” Benjamin chỉ ra.
“Đích xác.” Bà Kettle chồm tới trước. “Mấy cưng biết không, bà nghĩ chữ “CÁ” treo lên cửa sổ chỉ để gải thích cho cái mùi đó thôi. Không phải vì họ bán ca steps gì hết.”
“Ồ,” Charlie ngây ra khi hiểu được ngụ ý của bà Kettle. “Nếu ý bà muốn nói có ai ở đó bốc mùi cá thì cháu biết là ai rồi.”
“Thật à?” Đôi mắt màu đồng của bà Kettlr căng tròn lên như trái cam.
“Nó tên là Dagbert Endless,” Charlie bảo với bà. “Hễ nó đi đến đâu, mùi cá theo nó đến đó. Nó nói no có thể dìm chết người. Cha nó là Lord Grimwald, và…”
“Chúng tôi biết rồi!” Bà Kettle kêu lên. “Hoặc đoán ra rồi. Bà bếp trưởng đã nghi ngờ, nhưng không chắc lắm. Ôi, bà bạn đáng thương của bà, bà hi vọng bà ấy không gặp rắc rối. Bà đã cảnh báo bà ấy đừng đến đây nữa, chúng ta là chỗ bạn thân thiết.”
Charlie nói, “ Nhưng cách đây đã lâu, khi Lord Grimwald làm điều ác độc đó…”
“Chắc chắn hắn đã cưới ai đó rồi,’ Billy thêm, “vì vậy hắn sẽ không quấy rầy bà bếp trưởng nữa.’
“Cũng chẳng có gì khác.” Bà Kettle uống hết tách trà của mình. Hình như trà khồn có tác dụng tăng lực cho bà chút nào. Mà đúng ra trông bà ủ ê. “Bà bếp trưởng là chỗ bạn thân thiết,” bà lặp lại, lắc đầu.
Để làm bà vui lên, Benjamin hỏi bà có cái ấm điện nào không.
Ai dè bà Kettle phẫn nộ. “Cưng gọi thứ đó mà là ấm? Bà thì không. Ấm nước sôi là bởi bếp lò nóng, chứ không phải khi bấm một cái nút.
Benjamin nở nụ cười tẽn tò. “Cháu xin lỗi.”
Charlie quyết định đã đến lúc ra về. Bọn chúng đến để lấy Rembrandt và chúng đã có con chuột rồi. Nó đứng lên cảm ơn bà Kettle đã mời trà.
“Không có chi, Charlie Bone. Cưng sẽ đến nữa chứ?”
Charlie đáp, “Dĩ nhiên ạ.”
Bà Kettle dẫn bọn chúng trở lại phòng trước, nhưng lúc sắp đi qua ô cửa vòm, Charlie chợt dừng lại. Nó chợt cảm thấy có cái gì ở phía bên trái giần giật rất khác thường. Nó phải dựa vô tường để giữ bình tĩnh, và một cảm giác nhồn nhột trong cổ họng khiến nó bật ho. Nó quay đầu lại, rất chậm, và thấy ở trên cái bàn tròn, khuất trong bóng tối xó một vật đen xì, tròn ủm. Trông kĩ hơn nó nhận ra đó là một cái ấm cổ, đen kịt khói muội.
“Bà đã bảo cưng là cái ấm tốt nhất của bà nằm khuất nẻo mà,” bà Kettle bảo khẽ.
“Cái ấm tốt nhất của bà đây sao?” Charlie tiến lại gần cái vật đen thui.
“Ừ, cho đến nay.” Bà Kettle nói khẽ đến nỗi Charlie hầu như không nghe thấy, nhưng nó cảm nhận được nỗi vui sướng của bà khi nói. “Nó do tổ tiên của bà, Feromel, rèn ra cách đây hơn năm trăm năm. Feromel là thợ rèn kiêm thầy pháp. Ông ấy đã rèn rất nhiều ấm sắt thần kỳ. Có trời biết bây giưof chúng đâu cả rồi.” Bà đến đứng ngay sau lưng Charlie. “Cưng là người chu du đúng không, Charlie? Bà đang thắc mắc cưng có cảm thấy nó không?”
“Cảm thấy?” Charlie đưa tay cầm quai ấm đen cháy, trông mục đến nơi. Nắp ấm có một núm tròn bóng loáng ở giữa. Charlie nhẹ nhàng nhấc nắp ấm lên. Nó nhìn vào vòng nước đen ngòm, “Trong đây đầy nước.”
“Nó luôn luôn đầy nước,” bà Kettle bảo. “ Luôn luôn. Không thể cạn. Nó có thể sôi cạn nước. Nhưng vào ngày điêu đó xảy ra sẽ là kết thúc…”
Billy rón rén tới gần họ. “Kết thúc cái gì ạ?”
“Thế giới?” ánh mắt của Charlie bị mặt nước đen phẳng giữ rịt lại.
“Kết thúc một cuộc đời,” bà Kettle nói. “Đậy nắp lại đi, Charlie, rồi đem nó về cùng với cưng luôn thể.”
“Cháu?” Charlie lật đật đậy nắp lại.
“ Chỉ một thời gian thôi,” bà Kettle nhẹ nhàng. “Đúng, Charlie. Feromel muốn cưng giữ nó.”
“Nhưng tại sao?” Charlie ngó trân cái vật hình tròn đen như than, hai tay nó buông thõng bên sường những ngón tay lật bật lo âu. Nó không muốn lấy cái ấm cổ xưa có khả năng dự báo chết chóc này. Bao nhiêu mạng người đã mất, Charlie tự hỏi, trong khi nó sôi cạn đi, hể hả, trong một góc tối ám khói, thấm độc không khí bằng hơi nước hiểm họa của nó.
“Nó không phải vật xấu đâu, Charlie.” Bà Kettle cầm vật gia bảo quý giá lên và trao cho Charlie. Thế là những ngón tay run run của nó nắm chặt quai ấm.
“Bà hi vọng nó sẽ không bao giờ sôi cạn đi vì cưng, Charlie,” bà Kettle nói. “Đây là thời điểm nguy hiểm cho những người như cưng, nhất là khi có dính đến thằng bé người cá đó, thành thử nó rất hay ấm lên. Không cần phải đặt nó trong lò. Cưng có thể đặt nó bất cứ đâu cưng muốn. Nếu có hơi hướng nguy hiểm xảy ra trong không khí, nó sẽ nóng lên. Càng nóng thì cưng càng phải cẩn thận.’ Bà mỉm cười khắp lượt với cả đám. “Nào, cứ yên tâm nhé, mấy cưng. Bà sẽ để mắt tới tiệm bán cá.”
Chuáng cảm ơn bà Kettle về trà lần nữa, và vài phút sau, Charlie bước trên đường Primmy với một cái ấm đen tung tẩy trong tay.
Đến cuối đường, chúng rẽ ngõ quẹo và đâm sầm vào Emma, Olivia và hai đứa bé xíu xiu.
“Ối, không, không Charlie Bone,” Olivia la bai bải rồi chạy mất tăm về phía đường Đối Cao.