Chiếc Áo Choàng Bị Đánh Cắp
Charlie và Benjamin bàng hoàng đến nỗi không thốt nên lời. Chattypatra liếm tóc Miranda, ư ử thảm thương, sau đó Hạt Đậu bắt đầu tru lên. Tiếng chó ai oán khiến bọn con trai bừng tỉnh. Charlie quỳ xuống và dè dặt chạm vô vai Miranda. Rất khẽ, nó gọi tên con bé.
Mí mắt Miranda động đậy. Con bé rên rỉ.
Một người đàn ông hiện ra ở ngưỡng cửa. Ông ta tóc nâu, ép vạt ra sau, đeo kính. Vừa thấy Miranda ông ta rú lên hoảng hốt và chạy ào xuống những bậc thang.
“Chuyện gì thế này?” người đàn ông thét.
“Cháu…” Charlie lắp bắp.
“Miranda! Miranda!” Người đàn ông cuối xuống con gái mình. “Ơn trời! Nó còn sống.” Ông ta bồng con nhỏ lên tay, ra lệnh cho bọn chúng. “Nói cho ta biết chuyện gì đã xảy ra!”
Charlie chỉ biết nói với ông ta sự thật, nghe thật lố bịch. “Bức tượng thần lùn…” Nó quay ngoắt lại. Bức tượng đã trở về chỗ cũ của nó bên cánh cửa, thinh lặng, không chớp mắt. Chỉ là một khối đá. Charlie hít một hơi thật sâu và nói, “Cháu biết ông không tin đâu, thưa ông, nhưng bức tượng đó đã bay xuống đây và đâm trúng lưng Miranda.”
Người đàn ông nhìn Charlie trân trối. “Ta tin cháu. Ta là Shelhorn, cha của Miranda. Ta nghĩ chắc hẳn cháu là Charlie.” Ông quay sang Benjamin. “Còn cậu là Benjamin, bởi vì có con chó. Miranda đã kể cho tôi nghe về các cậu.”
“Cháu nghĩ ông là ông dượng của cháu,” Charlie nói.
Ông Shelhorn có vẻ ngạc nhiên. “Chắc là vậy. Nào Charlie, cậu làm ơn đưa Chattypatra đi khỏi đây được không?”
Charlie lùi bắn lại. “Cháu nghĩ là không được, thưa ông. Miranda sẽ ra sao nếu không có nó?”
“Dĩ nhiên nó sẽ nhớ Chatty. Nhưng ta sợ sẽ có điều không hay xảy ra với con chó nếu nó ở lại đây. Thỉnh thoảng ta sẽ đưa Miranda tới thăm nó, nếu ta… nếu vợ ta…” Ông sợ sệt liếc tới cánh cửa để mở. “Ta phải đưa Miranda vô trong nhà. Làm ơn đi, các cậu. Làm ơn đưa con chó đi đi.”
Mắt Miranda chớp mở và con bé nói. “Có gì tống vô lưng con. Đau quá.”
“Ờ, cưng ơi. Để ba đưa con vô nhà nhé.” Ông Shelhorn bồng Miranda lên bậc cấp và vô nhà. Chattypatra lao bổ theo họ, nhưng cánh cửa đóng sập lại trước khi nó kịp lên tới nơi.
“Giờ sao?” Benjamin thở dài.
“Tụi mình phải giữ Chattypatra, chứ còn lam sao nữa?” Charlie nói.
Chattypatra lập tức rú lên những tiếng kêu tan vỡ trái tim. Bức tượng thần lùn nhìn nó. Charlie nhìn bức tượng. Và bức tượng giương ánh mắt trơ đá, hiểm độc về hướng Charlie.
“Được đấy, thần lùn! Giỏi gây tai họa đi!” Trao Benjamin cái ấm, Charlie phóng lên cầu thang, chộp lấy Chattypatra và nhảy một phát xuống vỉa hè. “Chạy!” nó thét.
Benjamin chạy, Charlie bay theo, với Chattypatra ngó ngoáy, kêu la dưới nách nó. Hạt Đậu chồm bên cạnh chúng, thúc giục chúng bằng những tiếng sủa động viên. Nếu chúng mà ở nào khác trong thành phố thì hẳn những cửa sổ đã mở tung ra với những giọng nói tức giận muốn biết việc gì mà náo loạn lên vậy rồi. Nhưng ở Ngách Tối này thì không. Hầu hết các ngôi nhà đều vắng chủ. Vài nhúm người ở đó thì cúi đầu xuống coi như không phải việc của mình. Họ không muốn biết những gì xảy ra ở ba căn nhà số 13.
“Ước gì Billy ở đây,” Charlie thở phì phò. “Nó có thể nghe được con chó khờ khạo này nói gì.”
“Đừng… gọi… Chatty là… khờ khạo.” Benjamin thở không ra hơi. Nó dừng lại, hít vô khó nhọc. “Coi kìa!”
Đang đi về phía chúng là ba con mèo. Chúng dàn hàng ngang bước, vai sát vai, đồng, cam, vàng. Những cái đuôi to nhổng lên cao, những cặp mắt vàng rực dán chặt vô Charlie. Hạt Đậu ngồi xuống, giương mắt nhìn chúng. Chattypatra im bặt. Nó thôi oằn oại mà nhìn những sinh vật sáng rực kia cho tới khi chúng đến đứng bên Charlie, rừ rừ đầy nhịp điệu.
“Chào, những con mèo lửa!” Charlie nói. “Các bạn cảm phiền nói gì đó với con chó này đi?”
Những con mèo lửa không cầm phải khích lệ. Sư Tử, con mèo cam, ngóc đầu lên và kêu một tiếng meeoo lớn hướng thẳng vô mũi con chó nhỏ. Dương Cưu, con mèo nối tiếp tiếng gọi, và rồi con mèo vàng, Nhân Mã, luyến láy đoạn kết.
Chattypatra mê lịm đi. Nó hít hít những con mèo lửa và vẫy đuôi rối rít.
“Tớ nghĩ chúng hoàn thành rồi đó,” Benjamin nói. “Bỏ nó xuống đi, Charlie, coi xem nó có chạy theo được không.”
Charlie đặt Chattypatra xuống vỉa hè. Nó ngồi xuống, sung sướng quật cái đuôi lông xù lập phập xuống đất.
“Dù chúng nói gì thì chúng cũng dụ được con chó rồi,” Charlie nói.
Sứ mạng của những con mèo lửa mới chỉ bắt đầu. Tiếng kêu của chúng tắt đi, chúng tiếp tục bước về phía ba ngôi nhà số 13. Trong phong thái nhanh nhẹn, hùng dũng của chúng có chủ đích chết người. Chúng đến để giữ an toàn cho một đứa trẻ, để bảo vệ con bé khỏi bức tượng thần lùn, khỏi bà dì ghẻ và thằng em chuyên ếm bùa.
“Giờ thì mình không cảm thấy quá lo nữa.” Charlie thở phào nhẹ nhõm. “Nếu có gì khống chế được bức tượng thần lùn phải ở nguyên vị trí của hắn thì đó là những con mèo lửa.”
Ba con mèo đã tới nhà bà cô Venetia. Chúng leo cầu thang tới bức tượng thần lùn và nhìn trừng trừng vô đó. Hài lòng là nó chưa động đậy, chúng tự động vào vị trí. Nhân Mã ở bậc thang trên cùng, Sư Tử ở cửa, và Dương Cưu ở bức tường hiên.
“Tụi mình về thôi,” Charlie nói.
Khi đám con trai bước ra khỏi hẻm tối, Chattypatra ngoan ngoãn đi theo chúng.
“CON VẬT NÀY LÀM GÌ Ở ĐÂY?” nội Bone quát ỏm tỏi.
Người cuối cùng Charlie muốn gặp khi về tới nhà là bà nội bẳn tính, ghét chó của nó.
“Con chó đó là của bà em tao. Mày ăn cắp nó!” nội Bone thúc cho Chattypatra một cái bằng mũi giày đen bóng lộn của bà ta.
“Đừng!” Charlie thét. “Nó không phải chó của bà Venetia. Nó là của Miranda. Cháu chăm sóc nó vì bà Venetia không thích chó.”
“Tao cũng không thích. Cho nó ra. Đuổi nó đi.” Bà ta xồ tới con chó nhỏ, khiến nó vội chạy tọt ra núp dưới gầm ghế trong hành lang.
“Tao không chứa chấp nó, mày nghe rõ chưa!” nội Bone rít giọng. “Đuổi con vật thối tha đó ra khỏi đây.”
Charlie kêu la. “Ông cậu Paton, cứu con!”
“Hắn không có nhà đâu,” nội Bone nói, thỏa mãn vô cùng. “Cả bà ngoại mày cũng không. Chỉ có mình mày với tao thôi, Charlie Bone. Vì vậy, tống con chó ra, không tao sẽ giết nó!”
“Aaaahhh!” Charlie thét vang. Nó quỳ thụp xuống sàn, bò xuống gầm ghế và lôi Chattypatra run rẩy ra. Kẹp con chó dưới nách, nó lao ra cửa, trong khi nội Bone chạy đi lấy vũ khí bí mật của mình: cây gậy kiếm ngụy trang bằng một cái dù đen.
“Aieeee!” Charlie mở cửa trước ra và nhảy xuống những bậc thang.
Benjamin đang đứng bên ngoài nhà nó. Nghe thấy tiếng thét la, nó định băng qua nhà số 9 xem sao thì Charlie đã bắn phọt ra khỏi cửa và băng ào qua đường.
“Nội Bone!” Charlie thét lạc cả giọng. “Bà ta đang phát khùng! Đòi giết Chattypatra.”
Nội Bone. Hạt Đậu hiểu cái tên này. Nó gừ một tiếng hung tợn và chắc hẳn đã xông qua nhà số 9 rồi nếu Benjamin không túm vòng cổ nó lại.
Charlie nháo nhào chạy lên bậc thang nhà Benjamin và cùng nhau cả bọn chụi tọt vô nhà số 12.
“Bớt ồn ào nào, các cậu,” chú Brown la từ trong phòng làm việc của chú. “Chúng tôi đang rất bận.”
“Bà Maisie không làm bữa trưa cho cháu hôm nay à?” tiếng cô Brown có vẻ thất vọng.
“Cháu sẽ không về nhà một thời gian,” Charlie đáp. “Nơi đó không an toàn.”
“Ố?” cô Brown xem ra không lấy gì làm lo lắng. Là một thám tử tư, cô vốn đã quen với những chốn hiểm nguy. Nội Bone khét tiếng là ác độc, nhưng bà ta chưa bao giờ giết ai cả – theo như cô Brown biết.
Benjamin nảy ra một ý. Nó ngó vô thư phòng. Ba nó đang ngồi trên bàn viết còn mẹ nó đang viết trên chiếc bàn nhỏ, vương vãi đầy giấy. Mãi rồi mới nhận ra Benjamin đứng ngoài, cô Brown ngước lên. “Ba mẹ vừa nhận một vụ án. Nó hóc hiểm, kích thích đến nỗi ba mẹ không thể buông nó ra được.”
“Có tin gì về cậu bé người sói không?” chú Brown hỏi. “Ba đã gọi cho ông thị trưởng rồi, nhưng ông ấy bảo Sói Hoang nằm ngoài quyền hạn của ông ấy. Việc tệ lắm, Ben, Rất tệ.”
“Dạ, không có tin chính xác,” Benjamin nói, rồi thêm. “Con không nghĩ ba mẹ sẽ ăn bữa trưa nay?”
Cô Brown nhìn với vẻ áy náy. “Mẹ nghĩ có bánh mì…”
“Không sao đâu mẹ,” Benjamin tươi tỉnh lên. “Tụi con sẽ tới quán Cà Phê Thú Kiểng.”
“Hay đấy.” Cô Brown mỉm cười nhẹ nhõm. “Có rất nhiều tiền trong hũ đường.”
Hũ đựng đường không có đường kể từ khi cô chú Brown quyết định kiêng đường luôn. Giờ nó được dùng đựng tiền để dành, mà thường vun lên đáng kể mỗi khi gia đình Brown lao vào một công vụ đòi hỏi phải thay đổi quần áo và hóa trang nhanh.
Đúng lúc đó Chattypatra chọn cách tự giới thiệu mình. Nó xấn xổ tới bên cô Brown, tin cẩn vẫy vẫy cái đuôi xù.
“Thôi không thêm chó nữa!” cô Brown than van, tuy có hơi mềm lòng khi cô vuốt cái đầu mềm mại của Chattypatra. “Nó dễ thương quá, nhưng thật tình là chúng ta…”
Charlie thò đầu qua cửa. “Không lo đâu cô Brown. Tụi cháu sẽ đưa nó tới quán Cà Phê Thú Kiểng.”
“Nó là chó lạc à?” chú Brown hỏi.
“Không ạ, nhưng hoàn cảnh của nó thương tâm lắm. Ben sẽ giải thích cho cô chú sau. Cô chú vui lòng báo cho ngoại Maisie biết tụi cháu đi đâu.”
Quán Cà Phê Thú Kiểng không đông như ngày thứ bảy. Còn vô số đĩa đựng đầy những món trông ngon mắt ở trên quầy. Charlie và Benjamin là hai vị khách duy nhất đang xếp hàng, chúng còn có thể chuyện trò chớp nhoáng với ông bà Onimous. Vừa nghe xong câu chuyện thảm thương về Chattypatra, ông bà đồng ý ngay sẽ giữ nó trong quán đến chừng nào số phận nó được định đoạt.
“Nhưng còn cô bé đó thì sao?” bà Onimous hỏi. “Ta rất tiếc phải nói thế này, Charlie, mấy bà cô của cháu đáng bị tống giam hết đi… cả bà nội cháu nữa.”
“Cháu cũng nghĩ vậy,” Charlie buồn bã.
Ông Onimous chồm qua khỏi quầy, bụm tay che miệng và nói khẽ. “Cậu có thằng em là một… một người làm đá sống dậy?”
“Xem ra đúng là vậy,” Charlie nói.
“Phiền toái rồi đây. Phải làm gì đó về vụ này. Bà Pike có khá lên chút rồi. Nhưng bà ấy sẽ khỏe hơn nhiều nếu tìm thấy con trai.” Ông Onimous nhoài xa hơn dọc theo quầy khi một phụ nữ nhỏ quắt, tóc trắng và một con ngựa lùn tí hon tới xếp hàng. “Cô Blankhoff, hân hạnh gặp cô,” ông Onimous đon đả. “Hôm nay Brunhilda thế nào?”
Charlie bưng hai đĩa pho mát ống, bánh nhân lý gai, bánh bích quy rắc quế tới một cái bàn bên cửa sổ. Benjamin theo sau với một cái tô lớn đựng thịt bít-tết thái miếng, gà viên và thận bào. Nó đặt cái tô xuống đất, và ngạc nhiên thấy Hạt Đậu lịch sự ngồi bên cạnh cái tô trong khi Chattypatra chọn xơi sạch sẽ những miếng bít-tết khoái khẩu nhất của cô nàng.
Chattypatra rụt đầu lại, sung sướng liếm mép, nhưng Hạt Đậu không nôn nóng tiến ngay đến cái tô mà đợi đến khi chắn chắc Chattypatra đã no nê rồi.
“Bồ có thấy chưa?” Benjamin nói. “Ý mình là, phải chăng đó là tình yêu.”
Charlie nhất trí, nhưng đầu óc nó đang lưu tâm đến thứ khác. Từ vị trí của nó bên cửa sổ có thể thấy rõ hẻm Ếch và, mặc dù không chắc chắn lắm, nó nghĩ mình vừa thấy một bóng người quen quen chạy men theo bức tường và biến mất vô một đàn dê đang lù lù đi tới.
“Năm con dê,” Benjamin nhận xét. “Có đủ chỗ cho tất cả chúng không?”
“Chúng bé tí tị hà,” Charlie lẩm bẩm. “Benjamin, hình như mình vừa mới thấy Joshua Tilpin ở đây.”
“Có gì ngạc nhiên đâu. Thằng đó luôn rình rập bồ mà, Charlie.”
“Kệ tụi nó.” Charlie cắn que phó mát.
Chúng phải kéo dài bữa trưa của chúng thêm một tiếng nữa. Bọn con gái hẹn tới chiều mới tới, và đến lúc chúng xuất hiện thì Charlie đã nhần hết hai mươi lăm que phó mát, theo như Benjamin. Charlie không hề đếm. Nó cảm thấy buồn nôn.
“Trà hoa cúc nhé,” bà Onimous đề nghị khi Charlie lảo đảo tới quầy, nấc cụt liên tục.
Charlie cầm ca trà và ngửi ngửi một cách hoài nghi. Những cánh hoa nổi trên mặt nước. Tỏa mùi khá dễ chịu. Nó lại ngồi xuống khi Lysander đến cùng với Gabriel Silk. Lysander vẫn chưa thuyết phục được Tancred xa rời cô bạn gái của anh. “Mối tình” của anh với Lauren đang trở nên thân thiết hơn, theo như anh thông báo với chúng. Lauren nhờ anh gởi lời chào tất cả bọn chúng, nhưng Chủ nhật nào chị ấy cũng phải đi thăm bà.
“Lauren tuyệt quá,” Benjamin tán dương.
Charlie chưa hề nói chuyện với Gabriel kể từ biến cố bực mình với Dagbert. Nó hơi ngượng ngùng khi Gabriel vô và ngồi xuống cạnh nó.
“Anh khỏe chứ, Gabe?” Charlie ngó ngang qua khuôn mặt dài, lúc nào cũng bí xị của Gabriel.
Gabriel không thể biểu cảm khác đi được. Trông thì ảo não nhưng hôm nay dường như trong lòng cậu có roi rói hơn. “Cũng ổn,” cậu nói, đặt Rita, con chuột cưng nhất của mình, lên bàn.
“Nè, có lẽ anh không ngờ nổi những gì thằng Dagbert dám làm đâu?” Charlie hỏi.
“Ừ.” Gabriel nở nụ cười buồn tênh, “Tôi không ngốc, em thấy đấy, Charlie. Tôi biết thằng người cá đang cố ý làm gì: chia rẽ tất cả tụi mình để tụi mình không còn giúp đỡ lẫn nhau được nữa. Hừm, chiêu đó không xi nhê với anh đâu.”
“Hay lắm, Gabriel Silk!” Olivia vỗ thụp một cái vô lưng anh chàng, khen ngợi.
Gabriel đỏ nhừ mặt lên. “Các vị định không cho tôi biết đang có chuyện gì xảy ra à?”
Đã có quá nhiều việc xảy ra. Trước tiên chúng phải kể cho Gabriel về cái ngày chúng đi lùng kiếm Asa thì gặp cái chết của ông Pike. Sau đó Gabriel và Lysander ngờ vực lắng nghe Charlie mô tả bức tượng thần lùn dịch chuyển và vụ giải cứu Chattypatra. Đến khi Olivia thuật lại việc hiệp sĩ yêu cầu bà Kettle rèn thanh gươm, thì Lysander không còn kìm chế được nữa.
“Ngài ấy là ai? Ngài định sẽ làm gì với thanh gươm?” Nỗi tò mò quá sức khiến cho giọng nói trầm của Lysander ré lên the thé như tiếng vẹt.
“Ngay cả bà Kettle cũng không biết,” Emma nói.
Gabriel coi bộ suy tư. “Gượm đã,” anh nói, nhét Rita trở vô túi áo.
“Anh nói gượm đã là sao?” Olivia hỏi.
“Gượm đã! Gượm đã! Gượm đã!” Homer quang quác từ trên vai của Lysander.
“Suỵt!” Charlie vỗ chân con vẹt.
“Suỵt!” con vẹt lặp lại.
Gabriel chờ đến khi thật im lặng mới nói. “Các bạn có chắc chắn là Hiệp sĩ mặc áo choàng đỏ khi các bạn trông thấy ngài không?”
“Chắc chắn,” Olivia đáp. “Cà lông chim đỏ cắm trên mũ giáp nữa.”
“Thú vị thật,” Gabriel nói.
“Sao vậy?” những đứa khác nhao nhao.
“Bởi vì tấm áo choàng của Vua Đỏ biến mất rồi,” Gabriel nhìn quanh những gương mặt chết điếng. “Các bạn biết tôi ám chỉ tới tấm áo choàng nào rồi chứ?”
Còn gì mà nghi ngờ? Charlie lo sợ tức khắc là chiếc áo sẽ rơi vào tay của những kẻ không thích hợp. Nó luôn tự hỏi làm sao mà tấm áo quý giá nhường ấy lại tồn tại được những chin thế kỷ. Nó biết rằng Guanhamara, con gái của Vua Đỏ, đã mang tấm áo tới Ý, khi nhà vua biến mất. Nó được lưu truyền qua bao thế hệ hậu sinh của bà, để rồi cuối cùng ngự trong một cái rương mòn vẹt trong ngôi nhà xiêu vẹo của Gabriel Silk ở trên đồi. Có lần, Charlie đã chứng kiến phép nhiệm màu vô song của tấm áo choàng đó. Bởi vì Gabriel đã mặc nó trong trận chiến với thầy bùa Harken. Gabriel ù lì, hiền như cây cỏ đã chịu đựng nổi cuộc tấn công chết người của lão thầy bùa mà vẫn bình an vô sự.
“Làm sao mà tấm áo… biến mất được, Gabe?” Lysander hỏi. “Anh muốn nói đến vật vô giá nhường đó? Một vật quý báu như vậy. Tấm áo choàng của chính Vua Đỏ.” Trong khi nói, Lysander bắt đầu vung cả hai cánh tay lên cuồng giận. “Bộ, em không khóa kỹ nó lại à?”
“Có chứ.” Bị xúc phạm sâu sắc, mặt Gabriel đỏ rần. “Nhà tôi là những vệ sĩ canh giữ tấm áo đó. Anh cho rằng gia đình tôi không xứng đáng với vinh dự này sao? Gia đình tôi gìn giữ nó là báu vật và canh chừng nó bằng cả mạng sống của mình.”
“Anh đã cất áo ở đâu, Gabriel?” Emma hỏi khẽ.
“Trong một cái hòm để dưới gầm giường của ba mẹ tôi. Thỉnh thoảng, khi tôi bị hành khó chịu, ba tôi lại cho tôi mặt nó vào. Ba tôi biết nó sẽ xoa dịu tôi. Cậu hiểu tài phép của tôi chứ?” Gabriel nhìn Charlie và Charlie gật đầu. “Ừm, tấm áo choàng là vật duy nhất từng có người mặc rồi mà tôi có thể mặc được. Cuối tuần vừa rồi, tôi cảm thấy bức bối trong người quá mức. Tôi đành xin phép ba cho tôi được mặc áo chỉ vài phút thôi. Ba tôi từ chối. Khi tôi nài nỉ mãi thì ba tôi mới bảo ‘Gabriel. Nó biến mất rồi. Chúng ta không còn có chiếc áo choàng nữa’.”
Cả bọn sững người nhìn Gabriel, hoảng hồn vía.
“Vậy là nó đã bị đánh cắp,” Lysander nói dứt khoát.
Lần đầu tiên Charlie thoáng nghĩ hiệp sĩ trên cầu có cứu chúng thật không. Rồi còn thanh gươm là sao? Lẽ nào bà Kettle nhầm lẫn? Coi chừng hiệp sĩ tới cửa nhà bà không phải là người đáng tin cậy. Có lẽ ông ta đã học biết được ngôn ngữ bí mật của họ, và dùng nó để chiếm đoạt thanh gươm nhiệm màu, một thanh gươm có thể được sử dụng để chống lại những người mà đúng ra đang khẩn thiết cần sự trợ giúp của ông ta.
Charlie đứng lên. “Chúng ta phải báo cho bà Kettle đề phòng. Em phải tới đó ngay đây, trước khi bà ấy trao thanh gươm cho một… kẻ mạo danh.”
“Charlie, khoan đã,” Lysander ngăn lại. “Chỉ vì tấm áo choàng bị mất, thì không nhất thiết phải nghi hiệp sĩ là kẻ mạo danh.”
“Nhưng cũng không có nghĩa là không phải.” Charlie đẩy ghế của nó lại.
Khoảng khắc tiếp theo, Charlie bị túm chặt bởi một bàn tay mạnh mẽ, đầy lông lá. “Charlie, cậu bé của ta,” ông Onimous nói. “Đừng đi vội. Ta đã định nói với cậu từ trước. Ta đã nhớ ra.”
“Gắng lên!” Homer la leo lẻo.
Lysander bụm tay che mỏ Homer. “Ông nhớ ra cái gì, ông Onimous?”
“Nó ở đâu… lối đi bên dưới lâu đài. Nơi mà cậu bé người sói có thể bị giam cầm.” Ông Onimuos cười tươi rói với cả bọn, tự hài lòng vì mình đã nhớ ra một thông tin quan trọng đến vậy. “Bà cố của ta đã từng làm việc ở trong học viện Bloor. Chỉ là lao công thôi, nhưng là một người rất xông xáo. Bà đã tìm một cửa sập ở đằng sau sân khấu. Bà đã mở nó ra và leo xuống, vô một căn phòng tối đen có bao nhiêu là quần áo cũ treo trong tủ. Bà ấy muốn đi xa hơn, nhưng đèn lồng của bà tắt, mà bà là người yếu bóng vía nên đành phải đi lên. Sau đó bà hỏi một nhân viên khác về nó. Đó là một ông già, một người hầu gì đó, sinh năm 1799 – hãy tưởng tượng coi – và ông ấy trả lời ‘À, đúng, có một lối từ căn phòng đó, đi sâu xuống, sâu xuống, sâu, sâu, sâu tít vô trong lòng đất tối tăm. Đó là một câu chuyện xưa, xưa lắm rồi, cách đây lâu, lâu, thật lâu, rằng lối đi đố dẫn đi mãi, đi mãi ra tới tận dòng sông’”.
“Tụi cháu đã vô căn phòng đó rồi!” Olivia vọt miệng, giọng nó vỡ lắc rắc vì phấn khích. “Nhưng ở đằng sau nó tối đến nỗi tụi cháu đã không dám đi vô quá xa.”
Ông Onimous vụt tắt nụ cười. “Vậy thì rất có nhiều khả năng bọn chúng đã nhốt cậu bé tội nghiệp dưới đó.” Ông nhìn Charlie. “Nhưng ta không bảo các cháu nên đi xuống đó đâu đấy, không, không đời nào. Ta không thích nghĩ rằng lời nói của ta đẩy các cháu vào một cuộc hành trình nguy hiểm chết người.”
Nhưng đã quá trễ cho ông Onimous rút lại lời của mình. Một khi đã nói ra, chúng có tác động tức khắc lên Charlie. Nó đã nhấp nhỏm nhắm tới lộ trình nguy hiểm chết người đó rồi.