“Billy Raven, trò đang nói gì đấy?” Manfred Bloor khệnh khạng đi vào phòng. Tay hắn xách một chiếc cặp táp đen to đùng, nhìn mới cứng.
“Ờ… không ạ. Em chỉ bảo Charlie dịch cuốn sách ra thôi.” Đôi mắt đỏ của Billy chớp chớp sợ hãi.
“Im lặng là vàng, nhớ đó, Billy.” Manfred ngồi vào chỗ của hắn ở cái bàn đối diện.
“Vâng, thưa thầy Man… à ngài.” Billy kịp thời sực nhớ ra Manfred bây giờ phải được gọi là “ngài”.
Dần dần, Phòng Nhà Vua cũng đầy hết. Lysander là người cuối cùng đi vào. Anh đóng cửa lại bằng một cú đá hậu, khiến Manfred nổi trận lôi đình. “Quỷ bắt mày đi, mày không thể cư xử bình thường được sao, Lysander Sage?”
“Cũng còn tùy xem thầy ngụ ý cái gì là bình thường,” Lysander điềm nhiên. “Ý của tôi là không ai trong chúng ta ở đây bình thường cả, đúng không? Thậm chí cả thầy cũng không.”
Bất ngờ quá, Manfred trợn mắt kinh hoàng nhìn Lysander, nhưng rồi nhanh chóng lấy lại bình tĩnh, hắn nạt nộ, “Ta thấy mi xấc láo đủ rồi đấy, Sage. Rồi mi sẽ phải trả giá cho lời nhận xét đó. Thôi, ngồi xuống và câm mõm lại.”
Nhún vai, Lysander ngồi xuống cạnh Tancred, và trước những cái nhìn chằm chằm của đám trẻ còn lại trong phòng, anh bày sách vở ra bàn.
Bầu không khí ngột ngạt trong Phòng Nhà Vua mỗi lúc mỗi ngột ngạt hơn. Charlie thấy tối nay cái bọn ngồi hai bên Manfred có vẻ tự mãn một cách đặc biệt. Chúng liên tục đá cho nhau những ánh mắt bí hiểm, và rồi lại trơ tráo dòm phóng qua bàn, tới chỗ Charlie và bạn bè nó.
Dorcas Loom đã có thời là một con nhỏ tròn trịa lúc nào cũng cười. Giờ nó trở thành một cô nàng mười hai tuổi ục ịch, mắt lúc nào cũng trợn ngược lên, với mái tóc vàng tết bím và nước da tái nhợt ốm yếu của kẻ cứ ở tịt trong nhà. Nó ngồi lèn giữa cặp sinh đôi giống nhau y đúc nhà Branko là Idith và Inez – đôi trẻ mặt trơ như búp bê, tóc đen, chỉ cười khi có đứa nào đó gặp chuyện điêu đứng.
Một trong hai đứa sinh đôi (ai biết là đứa nào) lúc này đang dòm Charlie hau háu, trong khi ánh mắt Charlie chĩa lên bức chân dung Vua Đỏ. Nó không tài nào tập trung được vào bài tập của mình. Vị trí bị thay đổi của cái bóng nghiệt ngã trong bức họa đã choán hết tâm trí nó. Việc này đã xảy ra thế nào? Và tại sao? Manfred từng bảo với nó rằng cái bóng đó là Borlath, người con cả của nhà vua, một tên bạo chúa tàn ngược. Nhưng bản năng mách bảo Charlie rằng điều đó không phải. Vậy thì cái bóng đó là ai?
“Bone! Làm bài tập đi!” Tiếng quát của Manfred kéo tuột Charlie trở lại mặt đất.
“Em đang… đang làm,” nó lắp bắp.
“Láo. Mi lại đang nhìn trợn nhìn trạo vào bức tranh chứ gì. Mi lúc nào mà chả vậy. Hừ, bỏ cuộc đi, Charlie Bone, bởi vì đó là bức tranh mà mi không bao giờ, không bao giờ có thể vào được. Hiểu chứ?”
“Vâng, nếu thầy nói vậy,” Charlie cúi đầu xuống bài tập của mình. Nó cố cưỡng lại niềm thôi thúc phải nhắc tới cái bóng, mặc dù nó chỉ ao ước muốn biết mấy đứa kia sẽ phản ứng ra sao với điều đó. Ngoài Billy, xem ra chưa đứa nào nhận thấy cái bóng đã dịch chuyển thì phải?
Ngay khi giờ làm bài tập kết thúc, Charlie thu gom sách vở lại và tất tưởi theo Billy ra khỏi phòng.
“Em có thấy cái bóng không?” Nó hỏi Billy khi thằng bé con vội vã đi dọc theo hành lang. “Có phải đó là chuyện em muốn nói với anh không?”
“Em đâu có tinh mắt lắm đâu,” Billy thận trọng nói. Rồi nó dừng lại, ngoái ra sau. “Họ đang chờ cái gì vậy?”
Quay lại nhìn, Charlie thấy Gabriel, Emma, Tancred và Lysander đang đứng bên ngoài Phòng Nhà Vua.
“Cậu có thấy cái đó không?” Emma gọi Charlie.
“Cái gì?” Charlie nói, bực mình vì bị phân tâm ngay lúc đang ráng moi thêm tin tức từ Billy.
“Asa tới khóa cửa ngay khi tụi mình rời khỏi phòng,” Emma bảo với Charlie.
“Bọn kia vẫn còn ở trong đó mà,” Gabriel thêm. “Bọn chúng âm mưu gì thế nhỉ?”
“Ai thèm quan tâm,” Lysander lững thững đi khỏi nhóm bạn.
“Mình thì quan tâm đấy,” chiếc áo chùng của Tancred bay phồng lên và một làn gió mạnh vù qua thổi bay tung tóc cả bọn. “Chúng đang làm gì thế? Mình muốn biết.” Anh áp tai vào cánh cửa, đúng lúc đó cánh cửa mở ra, khiến anh chúi nhủi về trước, tông ầm vào Asa Pike.
“Cút đi, đồ do thám!” Asa rít lên, hất ngửa Tancred ra.
Cùng với tiếng thét tức giận, Tancred hụt chân ngã ra sau, mất thăng bằng và té phịch mông xuống sàn.
“Tất cả tụi bay cút mau,” Asa ngó trừng trừng qua hành lang. “Trừ phi tụi bay muốn cấm túc.” Đoạn sập cánh cửa cái ình và ồn ào khóa lại từ bên trong.
Tancred đứng dậy và đang định xông vào Phòng Nhà Vua lần nữa, thì Emma vịn cánh tay anh lại. “Đừng, Tanc,” con nhỏ nói. “Không đáng đâu.”
Charlie thấy rõ rằng Tancred đang hăng tiết muốn phang hết sức vào cánh cửa đôi cao lớn, đen bóng kia, nhưng có gì đó trong giọng nói nhỏ nhẹ của Emma đã ngăn Tancred lại. “Ờ. Nói phải đó, Emma. Làm thế anh chỉ tổ lọt vào tay chúng thôi.”
Emma giúp Tancred thu dọn sách bút bị rơi rớt lại, sau đó, cắp chồng bài tập về nhà dưới nách, cậu bé bão tố hòa vào nhóm bạn đi về những phòng ngủ chung. Khi chúng băng qua chiếu nghỉ phía trên tiền sảnh, hai anh lớn rời bọn nhỏ và leo cái cầu thang thứ nhất lên tầng trên. Đi thêm chút nữa, Emma bắt đầu leo tiếp cầu thang thứ hai đến phòng ngủ chung nữ sinh.
“Chúc ngủ ngon, Emma. Hẹn g…,” Charlie đột nhiên dừng sững lại.
“Gì vậy?” Emma ngoái ra sau ngó.
Hành lang tối om om, và đã bắt đầu không còn nhìn thấy được những cánh cửa, nhưng Charlie biết mình đã nhìn thấy gì. “Chú Brown,” nó thì thào. “Ba của Benjamin. Chú ấy đang đi theo bọn mình. Mình chắc chắn như vậy đó.”
“Quái lạ,” Emma lầm bầm. “Nhưng tụi mình đành mặc kệ thôi,” con nhỏ ngáp. “Mình đi đây. Chúc các cậu ngủ ngon.” Rồi nó biến mất vào bóng tối của tầng tiếp theo.
Charlie và Billy xuôi tiếp dãy hành lang tối mò, tới phòng ngủ mà chúng đã ở cùng với nhau hồi học kỳ trước. Mỗi phòng đều có một danh sách dán ở cửa, và ngay tức khắc chúng nhận thấy mình lại được ngủ chung phòng.
Gabrile đã ở sẵn trong phòng ngủ chung. Cậu chàng đang ngồi trên một trong những cái giường, hít hít không khí. “Có mùi kỳ kỳ ở đây,” cậu bảo.
“Mùi hay không mùi tụi mình cũng là những đứa đầu tiên vào đây, vì vậy tụi mình được quyền chọn giường trước.” Charlie nhìn đồng hồ đeo tay của mình. “Chà, Manfred cho tụi mình ra sớm.”
“Để hắn còn bàn chuyện bí mật với Asa và đồng bọn chứ gì, chắc chắn,” Gabriel suy đoán. Anh chàng đi vào phòng tắm và hét lên một tiếng kinh hồn. “Ối! Gớm quá. Lại con chó đó nữa.”
“Ối, May Phúc, em quên phéng nó mất.” Khi Billy chạy ù tới buồng tắm, nó suýt vấp phải một con chó ú ị, lùn tịt đang ráng loạc choạc chạy ra trên bộ cẳng lũn cũn.
“Nó làm gì ở đây vậy?” Gabriel la chói lói. “Sao nó không biến đi cùng với những con thú còn lại?”
“Em đã định nói cho anh biết,” Billy vỗ vỗ đầu con chó già. “Nó đã vào đây khi em dỡ đồ đạc ra, và hình như là, em đã vô tình nhốt nó ở trong buồng tắm khi em đi làm bài tập.”
“Nhưng chuyện đó không giải thích được việc nó đã tránh cuộc lánh nạn đại trà của bọn muông thú ra sao,” Gabriel nói khi quay trở vào buồng tắm.
“Nó già rồi,” Billy chỉ ra. “Rất nhiều con vật già không đi nổi, hoặc không cảm nhận được cơn địa chấn, hay cơn gì gì đó.”
Billy đẩy May Phúc lên cái giường mà nó đã chọn cho mình. “Thật ra thì nó có cảm thấy được cú rùng mình đó,” thằng bé bảo Charlie. “Nhưng lúc đó nó đang ở bên bà bếp trưởng, và bà ấy bắt nó ở đâu phải ở yên đấy. Khi tất cả kết thúc, nó bò ra ngoài và thấy có một thứ gì đó làm cho nó rất, rất sợ. Phải vậy không, May Phúc?”
Con chó già phụt ra vài tiếng gù gừ trầm đặc và nằm xoài ra trên chiếc gối của Billy. Charlie ngồi ở cuối cái giường kế giường Billy. Nó không hiểu làm sao mà Billy có thể chịu đựng nổi mùi hôi khủng khiếp mà May Phúc chắc chắn đã để lại trên gối, chưa nói đến đất cát, lông với lại bọ chét.
“Ừm, thế nó đã trông thấy cái gì?” Charlie hỏi Billy.
Thằng bé bạch tạng hạ thấp giọng. “Nó thấy một phù thủy có hai cái bóng.”
“Cái gì!” Charlie thét lên.
Gabriel vọt bắn ra khỏi nhà tắm. “Gì hả?”
Charlie lặp lại những gì Billy vừa nói với mình.
“Ý em nói là, một phù thủy?” Vẻ khiếp hãi lan cùng khắp gương mặt dài của Gabriel, khiến chú chàng trông giống như một con thỏ sửng sốt. “Làm sao May Phúc biết đó là một phù thủy?”
“Từ đó là từ em nói,” Billy thừa nhận. “Nguyên văn May Phúc nói là một phụ nữ giống quỷ.”
“Một phụ nữ giống quỷ,” tóc đằng sau gáy Charlie dựng lên như bụi mâm xôi. “Thế nghe lại còn ghê hơn.”
“Thế thì mắc mớ gì tới hai cái bóng chớ?” Gabriel hỏi, hy vọng tự trấn an được mình bằng một lời giải thích hợp lý. “Em có nghĩ con chó nhìn một thành hai không? Ý anh là nó già quá rồi còn gì.”
“Thị lực của nó tốt cỡ thị lực em,” Billy sửa lại cặp mắt kiếng tròn của nó và nói với May Phúc bằng thứ tiếng gì đó nghe như tiếng làu bàu, rên rỉ.
May Phúc hộc lên một tiếng lo lắng, rồi lăn ngửa người ra và phọt thêm một tràng sủa giật cục nữa.
“Chính xác là hai cái bóng,” Billy nói sau khi con chó già dừng lại. “Bởi vì một trong hai cái bóng đã biến thành một cái gì đó nữa, trong khi bóng của người phụ nữ giống quỷ thì vẫn ở nguyên với bà ấy.”
“Biến thành cái gì?” Gabriel và Charlie cùng buột miệng đồng thanh hỏi.
“Với một con chó thì mô tả được như vậy là giỏi lắm rồi,” Billy nói vẻ khâm phục. “Lúc ấy nó ở trong tiền sảnh, núp sau cái tủ com-mốt cũ. Người phụ nữ đó đi xuống cầu thang chính với hai cái bóng tỏa xuống nền đá trước mặt. Và khi bà ấy ra tới cánh cửa chính thì cái… cái bóng kia, hình như là, đứng lên. Đầu tiên nó màu xám, giống một đám mây bụi, rồi sau đó nó chuyển màu xanh lá cây có những mảng vàng chói.”
Billy liếc nhìn May Phúc và hạ thấp giọng. “Nó bảo đó là một cái áo choàng ngủ dài, nhưng em nghĩ cái đó giống như kiểu áo thụng dài thời Trung cổ.” Thằng bé toét miệng cười thân thiện với May Phúc một cái. “Không phải lỗi của nó. Ý em là, nó chưa thấy áo thụng dài thời Trung cổ bao giờ. Còn em thì em chỉ thấy nó trong những bức tranh của…”
“Em làm ơn nói tiếp về cái bóng được không?” Charlie thúc hối.
“Xin lỗi. Nhưng cảm xúc của chó là rất quan trọng.” Billy ho nhẹ một cái. “À mà nó nói là cái bóng có gương mặt của một người đàn ông, tóc nâu, gần tới vai, đi giày dài và nhọn, và…”
Cánh cửa bất thình lình mở tung và một đàn con trai ùa vào phòng.
“Úi! Không phải con chó già cú đế bốc mùi đó nữa chứ,” một thằng bé năm thứ nhất tên Bragger kêu rêu, cái thằng này mập thù lù, to bành và được gọi là Óc Nổ.
May Phúc rú lên một tiếng hoảng hốt, nhảy bắn khỏi giường và lọt tọt chạy thục mạng ra cửa.
“Gớm ghiếc,” Bragger làu bàu, đi tới cái giường xa khỏi giường Billy nhất. “Con chó đó bốc mùi tởm nhất trần đời.”
“Tôi nghĩ còn có mùi khác ác chiến hơn nữa kìa,” Fidelio nói, đặt túi xách lên cái giường Charlie đã giành cho nó.
“Mẹ cho em thuốc khử mùi này nè,” Rupe Small, một thằng bé năm thứ nhất bé tẹo la quác quác. “Sẽ có lại mùi dễ chịu ngay thôi mà, Bragger.” Đoạn nó chìa ra một cái hộp bằng thiếc to tướng màu hồng và xịt tứ tung khắp phòng cái mùi thậm chí còn ghê hơn mùi của May Phúc.
“Nó có tên là Cánh Hoa Thơm,” Rupe xăng xái la tiếp, trong khi mười một thằng bé cùng lao bổ lên giường mình và vùi mặt giấu vào gối, vào áo ngủ và bất kỳ thứ gì chúng vớ được.
Những tiếng thét nghẹt ứ:
“Thôi ngay!”
“Còn kinh tởm hơn ấy!”
“Dẹp đi!”
“Đứa nào bóp chết thằng kia mau!”
văng ra từ những nạn nhân, trong khi Rupe vẫn vô tư rải đầy phòng ngủ chung cái mùi ngạt thở của Cánh Hoa Thơm.
Xem ra không có gì có thể ngăn chặn được kẻ xịt hương kiên quyết kia, mãi đến khi có tiếng thét thành tràng xé tai vang lên từ tầng trên. Kẹt giữa luồng hơi phụt nửa chừng, Rupe đứng há hốc mồm, trong khi bọn con trai vùn gkhỏi giường và chùm nhum chạy phóng qua nó.
Charlie là đứa đầu tiên chạy lên tới lầu của bọn con gái. Nó đứng ở bậc thang trên cùng, gót chân chòng chành và chỉ chực té bổ ra sau, trong khi Gabriel, bấu hẳn cả hai bàn tay vào Charlie, ngó vòng qua người nó tới hành lang đằng kia.
“Ố, KHIẾP!ỐI MẸ ƠI!” Gabriel rống lên, ngã chỏng ngửa xuống hàng con trai đứng đằng sau.
Chẳng màng đến những tiếng kêu la đau đớn và cáu kỉnh ở dưới cầu thang, Charlie trố mắt nghi hoặc nhìn cái sinh vật lù lù trước mặt mình. Một con cá sấu châu Mỹ khổng lồ màu xám – xanh lá cây choán chật cả hành lang. Con vật hấp háy đôi mắt vàng khè và há ngoác cái miệng sâu như hang động, nhồi nhét đầy những chiếc răng quỷ, sắc như dao cạo, chưa từng thấy, kể cả trong những phim kinh dị.
Sàn nhà phía sau con quái vật rải rác những hình hài trong đủ kiểu áo ngủ nằm úp mặt xuống sàn, trong khi đó vẻ mặt hồn siêu phách lạc của đám con gái chưa xỉu thập thò ló ra đầy những cánh cửa các căn phòng; nhìn thấy con cá sấu, chúng rú lên rồi bỏ chạy vào. Hành lang dội vang tiếng ình oàng của những cánh cửa sập vội.
Bỗng dưng sinh vật khổng lồ rống lên một tiếng xé cổ họng và xồ tới Charlie. Bám chắc lấy con tiện tay vịn cầu thang, nhưng, không thể nhúc nhích, Charlie thét lớn đến nỗi sinh vật đó dừng phắt lại giữa đường.
“CHUYỆN GÌ ĐÓ?”
Charlie nhận ra giọng bà cô Lucretia Yewbeam của mình, cũng là bà giám thị. Thừa biết bà ta ghét mình cỡ nào nên nó chẳng mong bà ta tới giải cứu, nhưng thật ngạc nhiên làm sao, con quái vật bắt đầu tan rã ra. Trước tiên là cái đuôi vô hình dần, lan lên tấm lưng cóc cáy mụn cơm, tới cái đầu gầm gừ, rồi cho tới khi con cá sấu hoàn toàn bị nuốt chửng vào hư không.
Đến lúc bà Lucretia Yewbeam leo qua được những thằng bé bị thương và lên tới chỗ Charlie thì hành lang đã trống trơn, ngoại trừ mấy đứa con gái bất tỉnh.
Mục kích cảnh tượng hãi hùng trước mắt, bà giám thị gào to. “CHARLIE, MÀY LÀM CÁI QUÁI QUỶ GÌ ĐÓ HẢ, THẰNG KIA?”
“Cháu á?” Charlie kêu lên. “Đâu có.”
“Mày bảo thế này mà là đâu có à?” Bà giám thị chỉ đám con gái ngã rạp, vài đứa trong bọn giờ đang hồi tỉnh.
“Con không làm chuyện đó,” Charlie cãi.
“Nó làm đấy,” một giọng quỷ quyệt vang lên. Dorcas Loom đã thò mặt ra khỏi một trong những phòng ngủ chung. “Nó làm một con cá sấu châu Mỹ. Hừ, nói cách khác, nó tạo ra ảo ảnh một con cá sấu Mỹ.”
“Không bao giờ,” Charlie la ầm lên. “Bạn biết rõ là không phải tôi mà. Nghe mọi người kêu thét tôi mới lên đây mà.”
“Như thế không có nghĩa là mày không làm,” Dorcas sừng sộ.
“Đi gặp hiệu trưởng ngay lập tức,” bà giám thị quắc mắt ngó xuống Charlie.
“Tại sao?” Charlie hỏi, ngạc nhiên thật sự.
“Để giải thích mày vừa mới làm gì.”
“Nhưng mà…” Charlie ngước nhìn lên bộ mặt lạnh như tiền to chù vù phía trên cao. Họ lúc nào cũng hệt như nhau, bà nội và ba bà cô của nó. Họ luôn luôn chống lại nó. Tranh cãi cũng vô ích.
Nó vừa dợm chân bước xuống cầu thang thì một giọng thánh thót vang lên. “Bạn ấy không làm đâu, thưa bà giám thị. Thật đấy. Cháu biết chắc chắn bạn ấy không làm mà.”
Charlie quay qua thì thấy Olivia Vertigo đang bước vội dọc theo hành lang. Con nhỏ mặc bộ pi-ja-ma quái chiêu chưa từng thấy. Cả quần lẫn áo đều bằng nhung đen thêu những bông hoa vàng óng to chùm bụp, hợp “tông” vô cùng với mái tóc sợi vàng sợi đen của con nhỏ.
“Không phải việc của trò, Olivia,” bà giám thị sủa um.
“Là việc của cháu chứ,” Olivia phản đối. “Dorcas nói láo. Charlie vô tội.”
“Vô tội cái chân ta ấy,” bà giám thị đẩy Olivia một cái mạnh bạo. “Đi ngủ đi.”
“Cảm ơn đã cố giúp mình, Liv,” Charlie nói. “À mà này, trông bồ hết sẩy luôn.”
“Tao đã bảo mày đi gặp tiến sĩ Bloor mà,” bà giám thị rít rú. “Đi, mau!” Bà ta túm lấy vai Charlie và đẩy nó lảo đảo xuống cầu thang.
Fidelio đang chờ ở bên ngoài phòng ngủ chung. “Chúc may mắn,” nó gọi với theo.
Charlie cười toe toét, “Tiến sĩ Bloor không làm em sợ đâu.”
Rồi chúng nghe thấy tiếng bà giám thị đi rầm rập trong hành lang lầu trên, quát tháo ra lệnh và đẩy đỡ những đứa con gái khóc thút thít đứng dậy.
“Tội nghiệp tụi nó!” Charlie lẩm bẩm khi bỏ đám nhốn nháo lại đằng sau. Lúc tới cầu thang chính, nó chợt nghe thấy có tiếng bước chân nhẹ bên dưới, liền nhìn xuống. Tiền sảnh có vẻ vắng tanh. Charlie bắt đầu đi xuống. Được nửa đường, chợt nó thấy một cái bóng chạy tọt vào phòng để áo khoác xanh da trời. Chú Brown, nếu Charlie không lầm.
Benjamin có biết cha mẹ nó đang làm việc tại Học viện Bloor không? Charlie tự hỏi. Nó tiến tới cánh cửa nhỏ dẫn đến khu nhà của gia đình Bloor ở chái phía tây. Một ngọn đèn chơ vơ, mờ tỏ soi lối tới tầng trệt của ngọn tháp phía tây. Từ đây một cầu thang xoáy trôn ốc leo lên tháp canh, nhưng ngay ở lầu đầu tiên, Charlie đã quẹo qua một cửa vòm vô một hành lang trải thảm dày, đồ đạc trưng dọc hai bên.
Chỉ đến lúc này nó mới bắt đầu nghe thấy tim mình đập thình thịch trong lồng ngực. Nó ghét khu vực này của học viện, bởi cái vẻ tương đối ấm áp và thoải mái ở đây làm cho nó cảm thấy như mình là kẻ xâm nhập. Nó bắt đầu tự hỏi mình sẽ chứng minh sự vô tội của mình như thế nào đây mà không để lộ danh tánh của thủ phạm thật sự. Bằng mọi giá phải giữ cho điều đó còn ở trong vòng bí mật.
Olivia đã phát hiện ra tài phép của bản thân vào học kỳ trước. Chỉ có Charlie, Fidelio và Emma biết chuyện này, và chúng quyết định phải giữ bí mật. Càng ít người biết về cái tài đó càng tốt. Olivia đã hứa chỉ sử dụng tài phép của mình trong những trường hợp khẩn cấp nhất, vậy mà, cái gì đã khiến con nhỏ cho hiện nguyên một con cá sấu châu Mỹ ở ngay bên ngoài khu ngủ của nữ sinh?
Charlie đã tới được cánh cửa cao sừng sững, ốp gỗ sồi của thư phòng tiến sĩ Bloor. Nó ngập ngừng gõ cửa.
“Vào đi!” Giọng lạnh băng của tiến sĩ Bloor từ trong phòng vọng ra.
Charlie đi vào rồi đứng đực bên trong cánh cửa. Tim nó tụt xuống khi thấy ngoài tiến sĩ Bloor còn có cả lão già Ezekiel đang ngồi cạnh lò sưởi trong chiếc xe lăn của lão. Trông lão già hắt già hiu hơn cái tuổi một trăm lẻ một nhiều, với bộ mặt tựa cái đầu lâu mọc lưa thưa vài sợi tóc trắng.
“Việc gì mà tới đây vào giờ trễ nải thế này hả, Charlie Bone?” Tiến sĩ Bloor hạch hỏi.
“Bà giám thị chuyển cháu tới đây.” Những lời nói tắc tị trong cổ họng Charlie và phọt ra lục bục tựa như nó đang súc miệng.
“Cái gì?” Lão Ezekiel giơ một tay áp lên tai. “Nói rõ coi, nhóc.”
“Bà giám thị chuyển cháu tới,” Charlie quát.
“Không cần phải quát,” tiến sĩ Bloor mắng nó. “Chúng tao không điếc.”
“Phải, thưa ngài.”
“Hử? Tiếp đi, tại sao bà giám thị chuyển mày tới đây? Mày vừa mới bày trò gì vậy?”
“Mày không bao giờ tránh để không gặp rắc rối được hay sao?” Lão Ezekiel nhe hàm răng đen ngòm vào Charlie.
“Cháu luôn cố tránh ấy chứ,” Charlie nói. “Nhưng đôi khi cháu bị buộc tội sai.”
“Ta hy vọng mi không đổ lỗi cho những thành viên của giáo ban,” ông hiệu trưởng xỉa vào Charlie một tia nhìn chết người.
Charlie ngọ nguậy hết chân này đến chân kia. “Không đúng đâu ạ.”
“Không đúng à. Thế mi bị buộc tội gì, Bone?”
“Tội làm các bạn gái xỉu, thưa ngài.”
Tiến sĩ Bloor nhướn đôi lông mày. “Úi lạy trời, mi đã làm điều đó như thế nào?”
“Thì thế, thưa ngài, cháu có làm đâu,” Charlie buột miệng. “Có một con cá sấu trong hành lang, một ảo ảnh và…”
“Cái gì?” Lão Ezekiel lăn phụt chiếc xe ra khỏi lò sưởi đến đậu ngay trước mặt Charlie. “Thì ra là mày. Mày, kẻ bấy nay đã tạo ra ảo ảnh, hù người ta sợ đến chết.”
“KHÔNG!” Charlie gào lên. “Không phải. Cháu không thể làm được. Nếu cháu mà làm được thì cháu đã làm cách đây cả thế kỷ rồi.”
Đôi mắt đen téo tẹo của lão Ezekiel Bloor quét tạt khắp mặt Charlie, như lùng sục tìm kiếm sự thật từ những thay đổi nhỏ nhất trên nét mặt nó.
“Nó không làm đâu, ông nội,” tiến sĩ Bloor bảo. “Tôi tin là có đứa vừa mới khám phá tài phép của mình. Và Charlie biết đứa đó là đứa nào.”
“Phảảii!” Lão Ezekiel nhổ phẹt cái từ đó ra. “Phảiii! Nó biết. Ai vậy, Charlie?”
“Cháu không biết.”
“Láo này!” Cây ba toong của lão già bị khuất trong nếp gấp của tấm mền kẻ ô vuông lão trùm lên người khiến Charlie không trông thấy, cho tới khi, một vụt màu trắng khảo vào hai đầu gối nó.
“Úiii!” Charlie thét ầm cả lên.
“Mày biết đứa nào à,” lão Ezekiel xỉa xói. “Và bây giờ bọn tao phải biết. Bọn tao phải biết, mày hiểu chưa. Mọi đứa trẻ được ban pháp thuật đều phải để bọn tao biết đến.”
“Ừm,” Charlie nói, vừa suy nghĩ thật nhanh vừa xoa xoa đầu gối, “Cháu không biết gì hết. Không ai trong tụi cháu biết gì cả. Tất cả đều sửng sốt. Ý cháu là, chúng ta có mười hai người có phép thuật phải không nào – nếu cụ kể cả Manfred – cho nên cụ tưởng tượng coi, chúng ta sẽ cảm thấy thế nào khi bất thình lình có ai đó tự nhiên tạo ra ảo ảnh.” Charlie dừng lời, lo sợ mình đã đi quá xa. “Có lẽ đó là một người trong đám giáo viên.”
“Đừng có ngu!” Lão Ezekiel lại huơ cây ba toong nhưng Charlie đã kịp nhảy tránh được.
“Để nó đi đi, ông nội,” tiến sĩ Bloor nói chậm rãi, giọng toát lên vẻ thâm độc. “Cứ đến lúc là chúng ta sẽ tìm ra thôi. Và khi đó, ái chà, chúng sẽ biết tay. Cái đứa con nít ranh ma, hư hỏng đó. Cả mày cũng vậy nữa, Charlie Bone, vì cái tội nói dối.”