Chim Trường Săn
Olivia đã ra một quyết định. Nếu Charlie không cách nào tìm được Henry, thì nó sẽ tìm. Nó không hé lộ cho một ai về điều này, nhưng nó quyết sẽ làm.
Trong giờ giải lao đầu tiên ngày thứ Hai, Olivia một mình thơ thẩn dạo quanh sân chơi. Bindi vẫn còn nghỉ ở nhà vì bị cú, và Olivia không muốn nhập bọn với đám con gái khác. Chúng đang thảo luận với nhau về vở kịch mới, vở kịch mà Olivia đã không được giao một vai cho ra hồn. Cô Marlowe, trưởng khoa kịch đã bảo rằng nó phải để những đứa khác có cơ hội tỏa sáng. Dù gì thì nó cũng đã đóng vai chính trong vở kịch Giáng Sinh rồi.
“Chuyện gì vậy Olivia?” Charlie đánh tiếng.
“Gì thế này? Sao lại tóc nâu?” Fidelio hỏi.
Hai thằng lững thững bước lại gần nó.
“Dạo này tớ quá bận rộn để mà lo đến tóc tai.” Olivia bảo. “Với lại, tớ cần một sư thay đổi. Có tin về Henry không?”
Charlie lắc đầu.
“Mình biết anh ấy bị nhốt trong khu bỏ hoang, nhưng mình không sao vô đó được. Mình vẫn đang bị theo dõi gắt gao. Coi kìa!”
Nó đảo mắt qua sân tới chỗ Zelda Dobinski và bạn nó, Beth Strong. Cả hai đứa nó đều đang dòm trâng tráo Charlie. Ở đầu kia, Manfred và Asa đang rảo bước cạnh bìa rừng. Manfred nhìn ngoái ra sau, trông thấy Charlie liền quay ngoắt lại.
“Asa tháo băng rồi.” Olivia nhận xét.
“Vậy tức là nó đã trở lại công việc.” Fidelio nghiêm nghị.
Đó là tin xấu. Olivia làm điệu bộ co rúm người, sợ sệt. Nó nhận ra bà Lucretia Yewbeam đứng bên cánh cửa vườn. Bà giám thị đang nhìn Charlie.
“Bà cô của đằng ấy vẫn còn đang đi tuần tra kia kìa.” Olivia nói.
Charlie kể cho con bé nghe về tai nạn của Ông cậu Paton.
“Ông cậu bảo là do họ gây ra đó, những bà chị ruột của Ông cậu cố ý cho xe đụng ông.”
“Sao kỳ vậy?” Olivia thắc mắc.
“Mình không chắc, nhưng mình nghĩ vụ này có liên quan gì đó tới bức tranh mà họ đưa cho mình. Đó là bức tranh vẽ một thầy phù thủy tên là Skarpo. Ông ta có thể sẽ giúp mình cứu Henry.”
“Bằng cách nào?” Fidelio hỏi. “Ông ấy không thể ra khỏi bức tranh mà?”
“Ừ, nhưng mình có thể đi vô.”
Cả Fideolio lẫn Olivia ngây người ra như phỗng.
“Nhưng đằng ấy phải tìm ra Henry trước đã.” Olivia lầm bầm.
“Mình biết,” Charlie thở dài. “Nhưng mình chưa biết sẽ phải tìm anh ấy như thế nào cả.”
Olivia ngước nhìn những mảng mây xám và mỉm cười bí hiểm.
“Không lâu đâu” nó nói.
Trước khi Charlie kịp hiểu ra nó ngụ ý gì, thì tiếng còi đi săn rúc lên, báo hiệu hết giờ giải lao, và Olivia vọt lẹ về lớp kịch câm của nó.
Tối hôm đó, trong khi bọn trẻ đang sắp sửa đi ngủ, thì Olivia một mình bắt tay vào trang bị cho một đêm dài trước mặt. Nó vặn chuông báo thức trên chiếc đồng hồ đeo tay của nó cho đúng nửa đêm, chân vẫn đi vớ da bên dưới lớp đồ ngủ, và đặt sẵn đôi giày đi ngoài trời ra sát đầu giường.
Nó chẳng cần phải phiền đến chiếc đồng hồ báo thức. Đến nửa đêm mà nó vẫn tỉnh như sáo. Nó vừa bồn chồn vừa phấn khích về viễn cảnh vẽ một mình nó đi vô khu bỏ hoang vào ban đêm.
Lẹ làng trườn khỏi giường, Olivia đi giày vô và quàng chiếc ao chùng tím lên vai. Nó kiễng gót đi qua phòng ngủ chung và vừa định mở cửa thì bỗng có một giọng thì thào.
“Bồ đó hả, Olivia?”
“Thì sao?”
“Bồ tính đi đâu đó?” Emma Tolly hỏi bằng giọng bí mật.
“Suỵt! Đi vô nhà tắm.”
“Không phải. Bồ định ra ngoài phải không?”
Rồi một tiếng “cọt” và ngay lật tức Emma đã đứng bên cạnh Olivia.
“Để mình đi cùng với bồ.”
“Không được. Chẳng có việc gì liên quan tới đằng ấy cả. Đi ngủ đi, không thì bị bắt cả đám bây giờ.”
Olivia mở cửa và chuồn thẳng ra hành lang.
“Mình muốn giúp.” Emma nói khi Olivia đóng cửa lại.
Tại sao Emma lại thân thiện đến vậy? Oliva tự hỏi khi con bé gấp bước dọc theo hành lang lạnh giá. Thật đáng nghi.
Nó càng thận trọng hơn khi đi ngang qua phòng ngủ chung của những nữ sinh lớn. Nó không muốn Zelda Dobinski hay Beth Strong xổ ra và túm lấy nó. Các phụ tá giám thị luôn mệt mỏi đến độ chắc chắn họ đã ngủ gật rồi. Chỉ còn lại mỗi bà giám thị Yewbeam, và chắc chắn bà ta đang bận rình rật ở gần phòng ngủ chung của Charlie.
Một luồng gió lạnh vừa thổi bạt những đám mây đi, để lộ mặt trăng tròn vành vạnh rọi ánh vàng qua các cửa sổ mà Olivia chốc chốc lại đi qua. Ánh sáng trong những hành lang dài đủ cho nó thấy đường ra tới cầu thang.
Khi vắng lặng, tiền sảnh có vẻ mênh mông hơn, và ở đây Olivia phải đi sát vô những bức tường ốp gỗ. Vừa băng sượt qua căn phòng lớn đất đá, nó vừa không rời đôi mắt lo lắng ra khỏi dãy cầu thang, nhưng không có ai xuất hiện cả. Nó tới được cửa vườn, kéo những cái chốt ra, và trườn vô màn đêm.
Ánh trăng sáng đến nỗi từng viên đá lát nền, từng cái cây, từng bụi rậm và từng mảng cỏ đều óng ánh lên như bạc. Olvia cảm thấy không thể cưỡng lại được. Bất thần, nó dang rộng áo chùng ra như đôi cánh, và lướt trên mặt đất đóng băng với những bức chân lâng lâng, nhún nhảy.
Và rồi, những bức tường đen ngòm của khu bỏ hoang đưa nó đáp trở về mặt đất. Đây là đoạn nó luôn e sợ. Nó cụp chiếc áo chùng quấn sát quanh người, và líu ríu chui qua lỗi vô vườn.
Trong thoáng chốc, Olivia tưởng như mình đang nằm mơ. Có một con mèo đang ngồi ngay chính giữa khoảnh sân lát gạch. Con mèo này màu đồng đỏ chói, và từng sợi ria, từng sợi lông của nó đang sáng rực lên. Con mèo rừ nhè nhẹ, và Olivia nhớ ra rằng nó đã trông thấy con mèo một lần rồi, ở bữa tiệc Giáng Sinh tại nhà cô Ingledew. Nếu như ở trong tiệm sách, trông con mèo đã khác thường, thì ở đây, trong bóng tối, trông con mèo càng đầy vẻ ma thuật.
“Phải mi là Dương Cưu phải không?” Olivia thì thào.
Con mèo rừ rừ, rồi quay lưng và chạy tới một trong những đường hầm tối đen dẫn vô lâu đài hoang. Miệng hầm bị những tấm ván dày chắn ngang, nhưng con mèo bước gọn lỏn qua một đống lỗ hổng ở dưới đáy.
Nếu nó làm được thì mình cũng làm được, Olivia nghĩ. Quỳ mọp xuống đất, nó ép người xuống dưới những tấm ván, giống như con mèo vừa mới làm; hai cánh tay vô trước, sau đó đến hai chân. Ngay khi lọt vô đường hầm tối đen dẫn vô lâu đài hoang. Miệng hầm bị những tấm ván dày chắn ngang, nhưng con mèo bước gọn qua một lỗ hổng ở dưới đáy.
Nếu nó làm được thì mình cũng làm được, Olivia nghĩ. Quỳ mọp xuống đất, nó ép người xuống dưới những tấm ván, giống như con mèo vừa mới làm; hai cánh tay vô trước, sau đó đến hai chân. Ngay khi lọt vô đường hầm rồi, Olivia đứng lên và bám theo con mèo rực sáng.
Đường hầm có một quãng lên dốc thật nguy hiểm. Mặt đất trơn tuột, và nước đen đúa rỉ ra từ những vách tường đá. Olivia dõi mắt bám theo con mèo. Con mèo đang dẫn nó đi đâu đó, và nó cần phải tin cậy con mèo.
Cuối cùng, chúng hiện ra ở một bìa rừng, và trước khi Olivia có thời gian để xác định mình đang ở đâu, thì con mèo lại vụt đi, luồn lách qua những thân cây, xuống đến một khoảng trống tối mù. Ở giữa khoảng trống, một con mèo màu cam và một con mèo màu vàng đang ngồi trên một tảng đá to, đen xì. Dưới ánh trăng, mắt chúng rực lên màu xanh lá cây và màu vàng óng.
Vịn vô những thân cây để giữ thăng bằng, Olivia bước xuống bờ dốc. Nó băng qua khoảng trống và tới chỗ tảng đá đen. Ba con mèo đứng sát rịt vô nhau, rực lên như một ngọn lửa.
Olivia nhìn xuống thì thấy đôi giày đen nặng chịch của nó bị những ngọn lửa chuyển thành màu vàng rực. và rồi nó nhận thấy một cái lỗ hẹp ở ngay sát hai bàn chân. Hình như tảng đá che lấy một cái hố. Phải chăng đó là hầm ngục? Nó quỳ xuống cỏ và gọi:
“Henry! Henry! Đằng ấy có ở dưới đó không?”
Một giọng yếu ớt vọng lên.
“Xin chào. Tôi nghĩ là tôi đây. Nhưng tôi cũng không chắc nữa.”
“À, còn tớ thì chắc.” Olivia bảo. “Đúng là đằng ấy là Henry rồi. Họ có bỏ đói đằng ấy không? Tớ quên mang đồ ăn theo rồi.”
“Zelda và Manfed có thả bánh mì qua cái lỗ hổng, và cả mấy chai nước.”
Olivia nghe thấy tiếng lết trườn, và ngay lập tức, có hai con mắt chĩa thẳng lên, nhìn nó qua cái lỗ.
“Chào Olivia.” Henry nói. “Rất vui được gặp bạn.”
“Gặp đằng ấy tớ cũng mừng, Henry. Nhưng không phải ở trong cái hố này. Làm sao họ bắt được đằng ấy thế?”
“Một thằng tóc trắng đã lừa tôi.”
“Billy Raven.” Olivia kêu lên. “Tớ không ngờ nó lại đổ đốn đến thế.”
“Manfred đã mang tôi ra đây, với một đứa con gái tên là Zelda. Chúng nó dán băng keo lên miệng tôi và hai cánh tay tôi! Đau quá là đau lúc tôi gỡ nó ra.”
“Trời!” Olivia kêu lên.
“Olivia, tôi đã gặp anh họ Zeke của tôi rồi.” Henry nói “Lão ta già khú và ác kinh khủng. Đến thời nay mà lão vẫn ghét cay ghét đắng tôi. Lão ra lệnh cho chúng mang tôi tới đây. Zelda di chuyển tảng đá chỉ bằng cách nhìn vô đó. Tôi không làm sao ra được. Tôi đã cố mấy lần rồi, nhưng không nhích tảng đá ra được lấy một phân.”
“Để tớ thử coi.” Olivia sốt sắng.
Olivia quăng toàn bộ trọng lượng của nó vô tảng đá, nhưng tảng đá vẫn trơ trơ. Trong vài phút tiếp theo. Olivia cố đẩy, lôi, đấm, đạp tảng đá, nhưng vô hiệu.
“Tớ xin lỗi, Henry tụi mình phải thử cách khác thôi.” Nó tiu nghỉu. “Để tớ báo cho Charlie biết chỗ đằng ấy bị nhốt rồi tụi này sẽ tích cách, tớ hứa đó.”
“Chủ nhật họ sẽ chuyển tôi đi đấy.” Henry tuyệt vọng nói “Tôi không biết tôi sẽ bị chuyển đi đâu. Tôi nghĩ mình sẽ không thể gặp lại ai trong số các bạn nữa… không bao giờ.”
“Tụi tớ sẽ đến đây vào thứ Bảy.” Olivia nói chắc nịch. “Ông cậu của Charlie sẽ giúp. Đằng ấy có ráng được tới đó không? Dưới đó lạnh lắm hả?”
“Ban đầu thì lạnh, nhưng những con mèo luôn sưởi ấm cho tôi. Chúng giúp tôi lên tinh thần. ánh sáng của tụi nó trông vui lắm. Lại còn cái cây nữa,”
“Cây nào?”
“Chắc chắn là nó ở gần đâu đây.” Henry nói. ” Bất cứ khi nào chán nản là tôi lại nghe thấy tiếng lá cây hát. Nó làm tôi thấy đỡ hẳn.”
Olivia ngẩn người ra. Lúc này là mùa đông, cây cối rụng trụi hết lá mà. Nó nhìn quanh, và vừa kịp lúc thấy hai bóng người khoác áo choàng len đang lao xuống bờ dối. Lũ mèo gào lên một tiếng báo động và xông về phía những kẻ lạ. Có hai tiếng rú khi Zelda và Beth vấp phải bọn mèo và lộn nhào xuống đất.
Olivia vội nhổm dậy và chạy về hướng đường hầm, nhưng Zelda cũng đã đứng lên được rồi. Nó vồ lấy Olivia và chộp được cánh tay con bé. Olivia quay ngoắt lại và thoi một thoi vô bụng Zelda.
“Cứu tôi với!” Olivia thét rầm lên, mặc dù xung quanh nó không còn ai khác.
Lũ mèo đang vật lộn kịch liệt với Beth Strong khổng lồ. Chúng vớ được chỗ nào trên cơ thể của con bé là chúng cắn chúng cào. Với một tiếng rầm điên giận, Beth thoát ra khỏi bọn mèo và lao thẳng vô Olivia, ôm dính luôn thắt lưng con bé.
“Bắt được mày rồi.” Beth ngạo nghễ thét lên.
“Cho mày toi luôn, Olivia Vertigo.” Zelda rít. “Bọn tao sẽ trói mày vô gốc cây, rồi không lâu sau một con thú già hung tợn sẽ mò tới, rình rập quanh đây. Tới sáng mai thì mày chỉ còn là một đống bầy nhầy.”
“Bọn bay sẽ phải trả giá cho vụ này.” Olivia gào “Mẹ tao sẽ … ”
“Mẹ mày sẽ quá trễ.” Beth nói. “Con gái hư không được ra ngoài ban đêm.”
Ré lên cười. Zelda lôi từ trong túi áo nó ra một sợi dây thừng. Đúng lúc nó bẻ oặt cổ tay Olivia ra sau lưng, mặt trăng thình lình bị một đám mây đen khổng lồ che mờ. Cứ như đám mây đang rớt ào xuống mặt đất. Nó rớt về phía đám người và giờ thì Olivia đã nhận ra đó là một con chim lớn khủng khiếp.
Đôi cánh rộng quạt một luồng gió soàn soạt xuống khắp khoảng trống, Zelda và Beth kinh hãi ngước lên nhìn. Thình lình, chúng đã ở tót trên không – cổ áo chùng bị móc lên, treo lủng lẳng vô những móng vuốt của một bàn chân chim thật lớn, đầy lông là lông.
“Quá á ác!” Con chim kêu.
Olivia co rúm người nấp vô những thân cây trụi lá và quan sát một cách kinh hãi, hốt hoảng. Zelda và Beth lượn lờ trên bầu trời đêm. Cái đầu Beth phất oặt ra trước, xỉu lơ, trong khi miệng Zelda ngoác banh ra trong một tiếng thét không thành tiếng.
Olivia hối hả chạy lên bờ đất, và bắt đầu trườn xuống dọc theo đường hầm. Lũ mèo cũng đã chạy vô cùng với nó và soi khắp đường hầm bằng thứ ánh sáng chói rực của chúng. Nhưng khi Olivia ép người chui qua miệng hầm bị chắn ván, lũ mèo vẫn ở lại đằng sau.
“Cảm ơn nhé.” Olivia thì thào.
Con bé chạy thục mạng qua khu vườn, không dám ngoái nhìn lại. Cánh cửa vẫn vô tiền sảnh vẫn không khóa. Không một bóng người ở đó. Olivia lỉnh lên cầu thang. Khi nó vô đến phòng ngủ chung, thì có tiếng một trong những cửa sổ đóng sập lại. Olivia thấy một bóng người nổi bật dưới ánh trăng.
“Ai đó?” Olivia hỏi nó.
“Tôi đây.” Dorcas trả lời. “Tôi ra đóng cửa sổ thôi mà. Trong phòng lạnh quá. Bạn vừa đi đâu về vậy?”
Dorcas cũng là một trong những đứa có pháp thuật, nhưng Olivia chưa bao giờ thấy bằng chứng nào là nó có phép thuật cả.
“Tớ vừa vô nhà tắm.” Olivia đáp.
“Bạn có thấy Emma đâu không? Nó cũng đi rồi.”
“À… có.” Olivia nói.
“Chúc ngủ ngon.” Dorcas kéo mấy tấm rèm lại và leo lên giường.
Trong vài phút, Olivia ngồi thừ trong bóng tối, thắc mắc về cánh cửa sổ. Ai đã mở nó ra? Emma đang ở đâu? Nghe nói Emma biết bay. Lẽ nào nhỏ này với con chim trong khi vườn hoang là một? Nếu thế thật thì Emma sẽ cần một lối khác để quay về.
Khi chắc chắn Dorcas đã ngủ say, Olivia rón rén ra khỏi phòng ngủ chung và mở một cửa sổ trong hành lang ra.
“Chúc may mắn, Emma!” nó thì thầm.
Sáng hôm sau Olivia gần như không mở mắt ra nổi. Trông Emma cũng mệt lử. Hai đứa con gái cùng nhau xuống ăn sáng. Chúng đuổi kịp Charlie và Fidelio ngay khi hai thằng đang đi vô nhà ăn lớn.
“Trông hai bồ cứ như đã thức trắng suốt cả đêm ấy.” Charlie� quan tâm.
“Chứ sao.” Olivia nói, cười toét với Emma. “Chúng tớ sẽ kể cho các đằng ấy nghe sau.”
Trong giờ nghỉ giải lao tiết đầu, hai con bé thấy Charlie và Fidelio đang ngồi trên một đống gỗ khúc ở bên ngoài khu bỏ hoang.
“Sao, có tin tức gì vậy?” Charlie hỏi.
Olivia kể cho chúng nghe về chuyến phiêu lưu của mình. Charlie nhìn Emma.
“Chim trường săn cất cánh rồi phải không?” nó nói.
“Tất nhiên.” Emma gật.
Đúng lúc đó, Gabriel lao vù tới.
“Mọi người nghe gì chưa?” Nó la lên, nhảy phóc lên ngồi trên đống gỗ. “Tìm thấy Beth và Zelda đang đi lang thang ở Khu Đồi Cao, mặc đồ ngủ. Tụi nó cứ ngơ ngơ ngác ngác và không nhớ làm sao mà mình tới được đó.”
“Tụi này thì biết.” Olivia nói.
Khi nó kể cho Gabriel nghe về con chim trường săn, Gabriel nhìn Emma bán tin bán nghi.
“Em không ăn chuột đấy chứ?” Nó hỏi một cách rành rọt.
Emma lắc đầu và tất cả bọn cùng phá ra cười. Nhưng khi tiếng cười tắt, một luồng gió lạnh toát thổi sượt qua cổ Charlie, và nó chợt nghĩ tới Henry.
“Em không đợi được tới cuối tuần.” Nó nói. “Có lẽ tối nay em cần mọi người giúp em.”
Fidelio trợn mắt nhìn Charlie.
“Ý em là… ”
“Em sẽ đi gặp Skarpo.”