Quán cà phê thú kiểng
Mất vài giây, Charlie và Ông cậu nhìn nhau, im lặng hoàn toàn. Thế rồi, Ông cậu Paton ngồi xuống bên bàn và nói:
“Phải chi ta biết trước điều này, nhưng thành thật mà nói, Charlie, ta chỉ biết phép thuật của mày có thể dẫn tới cái gì thôi.”
“Con không hiểu” Charlie bối rối. Sâu xa trong óc nó vẫn nghe văng vẳng cái giọng như tụng kinh đầy đe dọa kia.
“Số là thế này,” Ông cậu Paton kề cà. “Như mày biết đấy, ta đang viết về lịch sử nhà Yewbeam và tổ tiên của họ là Vua Đỏ. Việc này đòi hỏi ta phải nghiên cứu rất nhiều. Trong quá trình nghiên cứu, ta đã gặp rất nhiều nhân vật có phép thuật giống như của mày, và giống như của mấy đứa bạn mày. Trong số họ, có một người tên là Charles Pennybuck. Thoạt tiên, ông ta nghe được những bức chân dung nói chuyện, vì ông ấy sống trước thời có hình chụp rất lâu mà; cuối cùng là ông ấy bị dẫn đi vô những bức chân dung ấy, và nói chuyện với… ta có thể nói thế nào nhỉ… với những người ở trong tranh.”
“Ý Ông cậu là những người trong hình vẽ cũng có thể trông thấy ông ấy?” Charlie hỏi.
“Ừ, phải,” Ông cậu Paton thở dài. “Rủi một cái là Pennybuck có một kết cục bi thảm. Ông ấy bị kẹt vô bức chân dung của một kẻ vô cùng hiểm ác, Bá tước xứ Corbeau, nếu ta nhớ không lầm. Rồi phát điên thật sự.”
“Ai điên? Pennybuck hay là bá tước?” Charlie hỏi.
“Tất nhiên là Pennybuck,” Ông cậu Paton đáp. “Ối trời ơi, đáng lý ra ta không nên kể cho mày nghe chuyện đó, Charlie. Giờ thì mày cấm không được lo lắng. Ta đảm bảo là sẽ không có chuyện gì xảy ra với mày đâu.”
“Nhưng còn Skarpo thì sao?” Charlie thấp thỏm. “Ông cậu nói rằng nếu ông ta đã trông thấy con thì… ”
“À, Skarpo!” Ông cậu Paton đi tới tủ lạnh và lấy ra một chai rượu táo.
“Hừm.” Ông cậu lấy thêm hai cái ly từ tủ đựng chén dĩa và mang tất cả về lại bàn.
“Skarpo,” Charlie hối thúc. “Ông cậu đang nói về ông ấy… ”
“Skarpo sống cách đây chừng năm trăm năm. Bức vẽ này đã cũ lắm rồi.”
Ông cậu Paton gõ lên mặt sau của bức tranh.
“Hắn là loại phù thủy ác độc kiểu như lão Ezekiel Bloor, nhưng lão Ezekil Bloor già nua không bao giờ có khả năng làm được những điều mà Skarpo làm.”
“Chẳng hạn như là cái gì?” Charlie hỏi.
“Mày đừng nên biết thì tốt hơn,” Ông cậu Paton cầm chai rượu lên. “Làm một chút chứ chú mày? Ta chắc là chú mày dùng được.”
Nói rồi Ông cậu rót một ly cho mình.
“Không ạ,” Charlie thấp thỏm. “Ông cậu Paton, Ông cậu cho con biết thêm chút xíu về cái ông Skarpo này đi. Giờ ông ấy đã trông thấy con rồi thì chuyện gì sẽ xảy ra với con?”
“Ta không biết,” Ông cậu Paton nói. “Có lẽ chẳng có gì cả. Với lại, biết đâu mày có thể lợi dụng quyền phép của hắn ta. Theo như những cuốn sách của ta nói thì hắn có rất nhiều quyền phép. Cảnh giác, Charlie! Cứ hễ lúc nào mày thấy mày hành xử khác thường thì phải báo ngay cho ta biết, rồi ta với mày tính cách.”
Vậy cũng chẳng được an tâm cho lắm, nhưng Charlie nhận thế là tốt nhất rồi. Nó quyết định nhấp một ngụm rượu táo mà Ông cậu Paton đưa, xong lại nhấp thêm một ngụm nữa.
“Yến tiệc trong bóng tối đấy,” mẹ Charlie bỗng cất tiếng, bật đèn lên.
“Hự!” Ông cậu Paton la lên, vội lái mắt ra khỏi bóng đèn. “Coi chừng, Amy, hôm nay tôi đã gây ra một tai nạn rồi.”
“Xin lỗi, Ông cậu Paton,” mẹ Charlie vội tắt đèn đi và lui cui pha một bình trà trong ánh nến.
Charlie cầm ca trà của nó lên phòng ngủ. Khi nó rời nhà bếp, Ông cậu Paton đang khoái chí dỏng tai lắng nghe mẹ nó tả lại từng màn của vở kịch Những Chiếc Trống Thần. Do gặp phải vấn đề làm bể bóng đèn, mà từ nhỏ tới giờ Ông cậu Paton chưa hề dám đi xem kịch hay phim lần nào. Ông thích thú lắng nghe lối kể chuyện sống động của mẹ Charlie. Cô quả là người kể chuyện rất có duyên, khi cô dám làm điều gì đó vượt ra khuôn khổ thông thường.
Chiều hôm sau, Charlie và Ông cậu lên đường đi quán Cà phê Thú Kiểng. Đến cuối đường Filbert, họ gặp Benjamin và Hạt Đậu.
“Sao Ông cậu của bồ lại cắm cúi đọc sách thế kia?” Benjamin hỏi, như thể Ông cậu Paton không có ở đó.
Quả là Ông cậu của Charlie hầu như không nhận thấy Benjamin, mà cứ dí sát mũi vô một cuốn sách lớn, tập trung cao độ.
Charlie giải thích rằng đó là một thử nghiệm.
“Hả,” Benjamin nói, cười toét ra điều đã hiểu chuyện. “Mình với Hạt Đậu đi cùng nha? Có thể bồ sẽ cần tụi này trợ giúp.”
Thế là hai đứa cặp kè hai bên Ông cậu Paton, trong khi con Hạt Đậu tong tẩy phía trước. Hôm đó là một ngày chủ nhật giá buốt, u ám và mau là không có nhiều người lại qua. Charlie cảm thấy hơi xấu hổ khi đi bên cạnh một người đàn ông cứ chúi mũi vô một cuốn sách to sụ.
Khoảnh khắc nín thở là khi họ tới ngã tư, nơi có đèn giao thông. Ông cậu Paton vừa định vượt qua đèn đỏ thì hai đứa vội thét lớn:
“KHÔNG!”
Ông cậu giật mình ngẩng lên, và Charlie hấp tấp thì thầm:
“Đừng nhìn vô đèn, Ông cậu Paton!”
“E hèm,” Ông cậu ậm ừ. Rồi bước lùi lại lề đường.
“Phù!” Benjamin thở phào. “Xém nữa thì… ”
Chúng lại đi tiếp, cố hết sức tránh đèn giao thông và dẫn đường cho Ông cậu Paton vượt qua những quãng đông đúc nhất. Cuối cùng, chúng tìm thấy đường Đầm Nước, đi thêm chút nữa thì thấy một ngõ hẻm, với tấm biển vẽ hình một con ếch treo trên tường.
“Trông không ra cái bảng tên đường.” Benjamin bình luận.
“Chắc chắn đây là hẻm Con Ếch,” Charlie bảo, “bởi vì nó ở sát bên đường Đầm Nước.”
Nó không dám đề nghị Ông cậu tư vấn giùm, bởi vì có một cửa sổ sáng đèn ngay bên dưới tấm biển hình con ếch.
Hạt Đậu giải quyết ổn thỏa ngay. Con chó chạy vô ngõ hẻm và sủa inh ỏi, khiến hai thằng bé không còn lựa chọn nào khác hơn là chạy theo nó. Coi bộ đây không phải là đường đến quán cà phê, nhưng vừa đi xa khỏi đường cái, thì chúng bắt đầu nghe thấy tiếng sủa, tiếng gừ và tiếng tru của nhiều loài vật.
“Nghe như là sở thú vậy,” Benjamin nhận xét.
Hạt Đậu đã biến mất ở chỗ khúc quẹo cuối con hẻm, và giờ đang sủa điên cuồng. Charlie đặt tay lên cánh tay Ông cậu và lái ông quẹo ngay góc hẻm.
Và kia, quán Cà Phê Thú Kiểng! Có vẻ như nó được xây dựng ốp vô một bức tường cổ, và choán hết phần còn lại của ngõ hẻm. Ở một bên, một cánh cửa nhỏ màu xanh lá cây để mở ra đường, và phía bên kia, một đàn chó đang đứng túm tụm, hăng tiết sủa con Hạt Đậu qua một cửa sổ mắt cáo khổng lồ. Phía trên cửa sổ có một tấm biển vẽ đủ các loại thú, cùng với dòng chữ Cà Phê Thú Kiểng uốn lượn giữa những đuôi, móng vuốt, ria, cánh và chân cẳng.
“Đây rồi,” Charlie nói, dắt Ông câu Paton đi qua cửa.
Benjamin chộp lấy xích cổ của con Hạt Đậu và cả hai cùng đi vô.
Tiếng thú vật thét gào trong một không gian kín ầm ĩ đến độ Charlie hầu như không nghe được tiếng của chính nó.
“Mình thấy có cái quầy ở phía sau,” Charlie hét lên với Benjamin.
Chúng chưa kịp bước tới quầy, một người đàn ông vạm vỡ, tóc đen, quăn tít đã hiện ra ngay trước mặt. Ông mặc áo sơ-mi dài, vẽ hình những cái đầu voi.
“Thú?” Ông hỏi.
“Không,” Charlie đáp. “Tụi cháu là người.”
“Tôi biết,” người đàn ông nói một cách nóng nảy. “Bạn đồng hành của mấy người đâu? Không ai được vô quán nếu như không có một con thú, một con chim hay một loài bò sát đi kèm.”
“Ồ,” mặt Charlie thuỗn ra.
“Chúng có có một con chó,” Benjamin nói to. “Nó ở đằng kia kìa, đang nói chuyện với một con chó tha mồi.”
“Mỗi người mang một con,” người đàn ông quát. “Còn những người kia, đi ra!” Ông ta chỉ tay ra cửa.
Ông cậu Paton khó lòng tập trung vô cuốn sách. Ông dí cuốn sách sát vô mặt, cố tránh nhìn những bóng đèn đang nhấp nháy dưới mái trần thấp.
“E hèm,” Ông cậu lầm bầm.
Rồi bằng giọng đùng đục, ông nói:
“Mùi kinh khủng, đi thôi.”
Charlie đang phân vân không biết làm gì, thì Gabriel xuất hiện, tay cầm một hộp gỗ lớn. Cậu lôi hai con chuột bạch ra khỏi hộp, đưa một con cho Charlie và nhét con kia vô túi áo Ông cậu Paton.
“Ê… không,” Ông cậu Paton phản đối, chạm phải mũi con chuột. Nhưng đã quá trễ.
Người đàn ông to con bảo:
“Tốt rồi.”
và dẫn tất cả tới quầy. Ở đây, chúng phải đối mặt với một lựa chọn khó khăn. Dọc theo suốt quầy, xen kẽ giữa những đĩa đựng các loại bánh bích quy thông thường là những tô xúc xích, bánh nướng mùi cá, những viên tròn chắc hẳn là sô-cô-la (hoặc không phải) và những loại hạt đủ mọi kích cỡ.
“Gọi xúc xích đi,” Gabriel đề nghị. “Ngon lắm.”
“Trông như để cho chó ấy,” Charlie nói.
“Chớ sao,” Gabriel bảo. “Vẫn ngon mà. Tụi chuột của tôi thích lắm.”
“Cho bánh bích quy và ba ly nước,” Charlie chọn giải pháp an toàn.
Người đàn ông sau quầy lên tiếng:
“Phải Charlie Bone không vậy?”
Charlie chớp mắt. Cuối cùng nó nhận ra ông Onimous, người diệt chuột. Nụ cười nhe hàm răng nhọn đã tố giác ông. Trông ông khác hoàn toàn trong cái nón trắng và tạp dề của người nấu bếp. Lần cuối cùng gặp ông, Charlie thấy ông mặc áo khoác giả lông, và áo ghi-lê nhung.
“Ông làm gì ở đây vậy, ông Onimous?” Charlie hỏi.
“Để giúp vợ tôi một tay,” ông Onimous nói. “Đây là quán cà phê của bà ấy. Toàn bộ ý tưởng là của bà ấy đấy. Hay chứ hả?”
“Tuyệt ạ,” Charlie gật. “Nhưng những con mèo lửa có ngại những vị khách khác không? Ý cháu là, chúng sống cùng với ông, phải không ạ?”
“Những con mèo lửa?” Ông Onimous nhướn đôi lông mày chổi xể lên. “Chúng thường không ở đây, cầu cho Thượng đế phù hộ chúng. Chúng quá bận rộn với các bổn phận. Đêm xuống mới đảo về để ăn chút gì đó, ngủ một chút rồi lại đi. Dĩ nhiên là trừ khi chúng cần tôi. Khi đó tôi sẽ phải đi theo chúng.”
“Ra vậy,” Charlie trả tiền đồ ăn. Giá rất rẻ.
“Rất vui gặp lại cậu, Charlie,” ông Onimous bảo. “Giờ thì bảo trọng đấy!”
“Cảm ơn ông, ông Onimous.”
Hàng người xếp hàng phía sau Charlie đang đông dần lên, vì vậy, nó cầm lấy khay của mình và tới chiếc bàn các bạn nó đang ngồi. Nó phải lách mình qua một đàn chó mới tới được chỗ. Gabriel đã chọn chiếc bàn ở ngay cạnh cửa sổ, và chúng có thể trông thấy những vị khách hàng kỳ quặc đang tiến tới quán cà phê.
Ở bàn bên, một con nhện đen bò quanh chiếc nón rơm màu đỏ. Người phụ nữ đội nón xem ra rất sung sướng với cảnh tượng này. Thỉnh thoảng, bà bẻ một mẩu đồ ăn đưa lên cho con nhện. Sợ miếng đó là con vật sống, Charlie quay đi chỗ khác.
“Anh tính cho tụi này coi cái gì vậy?” Nó hỏi Gabriel.
Gabriel lôi ra một bọc nhựa từ dưới gầm bàn lên.
“Nhìn đây!”
Cậu thò tay vô bọc, lôi ra một cái áo vải tuýt cũ nhàu và một chiếc áo chùng tách te tua.
“Đồ hóa trang của Asa,” Charlie buột miệng.
“Chính xác. Tôi thậm chí còn tìm được cả ria mép nữa.” Gabriel giơ lên một nhúm ria màu trắng. “Nằm trong con hẻm bên ngoài sân nhà tôi. Tôi đoán là gió từ Ngôi Nhà Sấm thổi tới đó. Chắc chắn Asa đã giấu mấy thứ này ở trong rừng.”
Charlie rùng mình. “Ý anh chính Asa đã ở trong rừng. Asa đội… đội lốt con gì mà nó biến được trước khi trời tối.”
Benjamin hỏi. “Nó phải cởi hết đồ ra trước khi biến thành thú chứ hả?”
Gabriel nhíu mày. “Chuyện này nghiêm trọng, Benjamin à.”
“Xin lỗi, em chỉ thắc mắc thôi.”
“Tại sao Asa lại lặn lội lên tận Khu Đồi Cao?” Charlie lẩm bẩm. “Nó có sống ở đó không?”
“Tôi không biết nó sống ở đâu,” Gabriel bảo. “Nhưng tôi nghĩ nó muốn dọa để đuổi tụi mình đi. Nó muốn chắc chắn là tụi mình không trở lại Ngôi Nhà Sấm nữa.”
“Nhưng tại sao?” Charlie hỏi dồn.
Gabriel nhún vai. “Có lẽ có điều gì đó liên quan đến anh họ Henry của cậu. Lão già ác độc đẩy anh ấy xuyên thời gian đã biết anh ấy đã trở lại. Chắc hẳn lão đang tức điên lên.”
“Tất nhiên,” Charlie đồng tình. “Lão Ezekiel Bloor ra lệnh cho Manfred và Asa phải tìm Henry. Nhưng chúng biết tụi mình – anh, em, Lysander và Tancred – sẽ bảo vệ anh ấy. Vì vậy chúng ra sức quấy phá tụi mình, làm cho tụi mình suy yếu. Anh có nói cho Lysander biết về mớ quần áo này chưa vậy?”
“Không thể liên lạc được,” Gabriel bảo. “Tôi sẽ gặp cậu ấy vào ngày mai.”
Trong lúc đó, có một bóng người thập thò nơi cửa sổ. Charlie ngước lên thì thấy Asa Pike đang nhìn chúng trừng trừng qua tấm kính. Môi thằng này trễ xuống, miệng phát ra một tiếng gừ khinh khủng. Đôi mắt vàng đảo quanh bàn và dừng lại ở túi đồ.
“Của tao đó,” nó gầm gừ. “Đưa đây cho tao, bọn nhãi!”
Sự xuất hiện của Asa gây nên tình trạng náo động trong quán. Chim chóc hoảng sợ đập cánh, kêu thất thanh, bay lên trần nhà; chó rụt đầu lại mà tru; mèo rít lên, cào cấu; thỏ chui tọt xuống gầm bàn; còn tất cả những loại thú khác thì chạy đi núp sau những chậu cây kiểng dựng quanh phòng.
“Coi bộ nó không được ai ưa cho lắm, hả?” Benjamin run run nói.
“Cứ tiếp tục đọc sách đi, Ông cậu Paton,” Charlie nhắc.
Quán cà phê đã đủ huyên náo rồi, không cần đến tài kích vỡ bóng đèn của Ông cậu nó. Đồ ăn bay tung toé khắp nơi, dĩa vỡ tan, đồ uống đổ lung tung, và các khách hàng lo lắng vấp phải những con thú đang cơn sợ hãi.
“Coi chừng,” Gabriel la. “Nó vô kìa!”
Asa vọt qua cửa và xông thẳng vô người đàn ông mặc áo in hình con voi.
“Thú?” Người đàn ông hỏi. Trông ông như một tay bảo kê chính hiệu.
Mất một lúc, Charlie đã nghĩ Asa sẽ bảo nó chính là thú đây, nhưng hắn chỉ gừ vô mặt người đàn ông.
“Thế đấy!” Vị bảo kê hét lên. “Cút!”
Ông ta tóm lấy cái cổ ngẳng của Asa nhấc lên, và lẳng nó ra ngoài vỉa hè. Asa té chổng kềnh và định nhào vô tiếp, thì vô số con chó to phóng ra cánh cửa đang mở và lao vô nó.
Asa hét lên một tiếng the thé, và chạy biến khỏi góc đường, theo sau là đàn chó vừa chạy vừa sủa. Nếu Benjamin không nhảy lên mà rị chắc vòng buộc cổ con Hạt Đậu lai, thì chắc chắn nó đã nhập vô toán rượt bắt đó rồi. Con chó bự rất thất vọng vì bị lỡ mất một cuộc vui, và cứ rên lên ư ử, cho đến khi ông Onimous thảy cho nó một cục xương đủ màu cầu vồng để gặm.
Quán Cà Phê Thú Kiểng đang vơi đi nhanh chóng. Nhiều khách hàng phải rượt theo chó của họ; những người khác, sau khi tóm lại được và xoa dịu mấy con thú kiểng của mình xong, cũng quyết định rời khỏi quán trước khi mọi việc trở nên tồi tệ hơn.
Charlie và bọn bạn ở lại giúp ông Onimous và ông bảo kê Norton Cross lau dọn đống lộn xộn.
“Thằng cha cao nhồng kia là đồ chảy thây,” Norton cằn nhằn, liếc nhìn Ông cậu Paton vẫn đang mải miết đọc sách.
“Ông ấy có thể… gây chuyện,” Charlie sợ hãi nói. “Cho nên tốt nhất đừng để ông ấy giúp.”
“Ông ấy đặc biệt đấy,” ông Onimous vừa nói vừa nháy mắt với Charlie.
“Ối, thôi đi! Hắn không phải là một người trong bọn họ đấy chứ? Thành phố này đã phải chứa quá nhiều bọn quái dị rồi.” Norton càu nhàu. “Cái thằng bị chó đuổi ấy… người ta có thể nói ngay nó là đồ quái dị. Thú vật luôn luôn biết khi nào có cái gì đó không ổn.”
Bà Silk, vừa giao hàng xong, chui ra từ một cánh cửa phía sau quầy. Theo sau bà là một phụ nữ cao lêu nghêu, tóc lưa thưa và mũi cực dài. Thật hết sức ngạc nhiên, hóa ra đó là bà Onoria Onimous. Bà là một người thân thiện, dịu dàng và có vẻ yêu trẻ con cũng nhiều như yêu thú vật.
Cuối cùng, khi quán cà phê đã đâu vào đấy, bà Silk đề nghị cho bọn trẻ quá giang về lại đường Filbert.
“Và cả ba con nữa chớ,” bà vừa nói vừa liếc nhìn Ông cậu Paton. “Nếu đó là ba của con.”
“Không phải, con không có… không, đó không phải là ba con,” Charlie nói. “Với lại tụi con còn phải tới chỗ khác nữa, cảm ơn bác.”
“Ừ vậy. Tạm biệt các cậu bé. Đi nào, Gabriel.” Bà Silk đi ra cửa.
Gabriel với tay ra và giải cứu con chuột con của nó ra khỏi túi Ông cậu Paton, nhưng Ông cậu dường như chẳng để ý. Nó lôi một con chuột nữa của mình ra khỏi túi Charlie. May quá, con này nãy giờ ngủ say sưa và chỉ ăn một cục kẹo bạc hà kẹt ở đáy túi.
“Ngày mai gặp lại,” Gabriel chào. “Sẽ thú vị cho coi. Không biết thằng Asa có bị táp chưa.”
Cậu loạng choạng bước theo sau mẹ, với cái giỏ quần áo cũ đeo dưới một cánh tay, và tay kia ôm khư khư cái hộp đựng chuột kiểng trước ngực.
Charlie vỗ vai Ông cậu và nói:
“Đi được rồi đó, Ông cậu Paton.”
Ông cậu đứng lên, mắt vẫn dán chặt vô trang sách đang đọc. Charlie lái ông ra ngoài, ở đó hai ông cháu thấy Benjamin đang kẹp một sợi xích vô vòng cổ con Hạt Đậu.
“Đề phòng nó lại nổi cơn muốn rượt theo cái gì.” Benjamin giải thích.
Họ đi bộ tới tiệm sách của cô Ingledew khá dễ dàng. Không cần vượt đèn giao thông nào. Khi đi ngang ngôi nhà thờ đồ sộ, họ nghe thấy tiếng đàn organ trầm trầm vẳng ra, và Charlie liền nghĩ tới ba nó. Ông Lyell Bone đã từng là một người chơi đàn organ cho ngôi nhà thờ lớn này, cho đến một đêm mù sương, cách đây tám năm, ông chui vô chiếc xe hơi của mình và lao xe xuống một hầm đá. Người ta không bao giờ trông thấy ông nữa.
“Ta biết mày đang nghĩ cái gì, nhóc,” Ông cậu Paton lầm bầm.
Lyell là cháu trai, và cũng là một trong những người bạn thân nhất của Ông cậu.
Có một tấm biển ghi ĐÓNG CỬA trên cửa tiệm cô Ingledew, nhưng bên trong ô cửa bày hàng lại có một ngọn đèn dịu, chiếu sáng những chồng sách trông đã cổ xưa.
Charlie nhấn chuông. Không có tiếng trả lời. Nó nhấn chuông một lần nữa. Họ nghe thấy tiếng chuông vang lên phía đằng sau cửa hàng, nhưng không có ai ra mở cửa.
“Chớ không phải bồ bảo họ hay đi chơi vào cuối tuần sao?” Benjamin nói. “Có khi họ đi thăm viện bảo tàng, hay đi coi phim, hay làm gì đó.”
“Dĩ nhiên rồi,” Charlie nói. “Mình quên mất.”
Ông cậu Paton đóng ập cuốn sách lại và thất thần nhìn trừng trừng vô cửa sổ.
“Nếu con là Ông cậu, con sẽ không làm thế đâu, Ông cậu Pa… ” Charlie vừa mới nói…
… nhưng nỗi phiền muộn của Ông cậu Paton quá sâu sắc. Với một tiếng “bụp” nhỏ, bóng đèn trong ô bày hàng tắt ngúm, và một con mưa thuỷ tinh rắc xuống những cuốn sách cổ.
“Mẹ kiếp,” Ông cậu Paton rên lên. “Cô ấy sẽ biết ngay đó là ta.”
“Cô ấy không biết đâu,” Charlie trấn an. “Cô Ingledew chắc chắn vẫn hay bị hư bóng đèn mà.”
“Hư bóng, ừ,” Ông cậu Paton rên rỉ, “nhưng không phải là nổ bóng. Cô ấy biết ngay đó là do ta làm.”
“Thôi nào, Ông cậu.”
“Ôi trời. Ôi, khốn nạn. Ta sẽ không bao giờ có thể gặp cô ấy được nữa.” Ông cậu Paton thở dài.
“Ông cậu sẽ gặp được mà. Mình về nhà đi. Tối rồi, Ông cậu sẽ không phải đọc sách nữa.”
“Đúng vậy!” Ông cậu Paton quay gót khỏi tiệm sách và sải bước về con hẻm gần nhất.
Charlie và Benjamin buộc phải chạy theo mới kịp ông, trong khi con Hạt Đậu vù lên trước, hy vọng sắp có một trò chơi.
Họ đang hối hả đi trên đường Filbert thì Ông cậu Paton bảo:
“Ta không muốn mấy bà chị của ta nghe được vụ thất bại con con này.”
“Sao các bà chị của ông lại xấu vậy?” Benjamin hỏi.
“Chuyện có từ lâu lắm rồi,” Ông cậu Paton đáp.
“Mấy bà luôn làm bất cứ điều gì lão Ezekiel Bloor muốn,” Charlie nói. “Hình như họ sợ lão.”
“Đúng vậy,” Ông cậu Paton thừa nhận. “Hắn ta là anh họ và vào lúc này hắn nắm giữ quyền lực. Các bà ấy ngưỡng mộ điều đó.”
“Mình mừng là mình không có bà cô nào cả,” Benjamin thì thầm. “Mình chuồn đây. Ba má về rồi. Chào!”
Charlie và Ông cậu Paton leo lên những bậc cấp nhà số 9, nhưng vừa vô đến trong, Ông cậu dứt khoát bước thẳng luôn lên phòng. Charlie vô trong bếp để thông báo cho ngoại Maisie và mẹ nó biết diễn biến sự việc.
“Chuyện thế nào?” Mẹ nó hỏi ngay. “Có trục trặc gì không?”
“Rất hoàn hảo,” Charlie nói dối.
“Lần sau để ngoại họ tống ông ấy cho,” ngoại Maisie vui vẻ nói. “Sẽ có thay đổi lớn cho ông Paton tội nghiệp, nếu ông ấy có thể ra ngoài vào ban ngày.”
Charlie nhận thấy bức vẽ Skarpo – thầy phù thuỷ đã biến mất.
“Bức tranh đâu rồi?” Nó hỏi.
“Mẹ không biết,” mẹ nó bảo. “Chắc nội Bone mang về phòng bà rồi.”
Nhưng nội Bone đã không làm cái việc ấy. Khi leo lên giường, Charlie thấy bức tranh Skarpo ở trên gối nó.
“Được!” Charlie nói cương quyết. “Nếu họ muốn mình đi vô, thì mình sẽ vô; nhưng mình chỉ vô khi nào đã sẵn sàng; và mình sẽ không vô nếu chưa quyết định được ông ấy có thể giúp mình như thế nào.”
Trước khi nó nhốt chặt bức tranh vô một ngăn kéo chung với vớ, Charlie liếc thật nhanh ông thầy phù thuỷ. Người đàn ông áo đen này liền quay đầu về hướng nó và nói:
“Chào mừng, hậu duệ của Vua Đỏ!”
Charlie vội đóng sập ngăn kéo lại. Nó tự hỏi không biết việc “đi vô”, như lời Ông cậu nói, và việc xin Skarpo giúp đỡ sẽ nguy hiểm tới mức nào. Nếu Henry Yewbeam bắt buộc phải được giải cứu trước khi lão Ezekiel Bloor tìm ra anh ấy, thì một chút phép phù thuỷ cũng có ích vậy.