Chiếc găng tay màu đen
Chiếc đèn pin bà bếp trưởng cho Charlie thật khác thường. Dù tia sáng không rực chói, nhưng cách rọi đường của nó khiến cho Charlie có thể thấy những chi tiết mà trước kia nó chưa từng nhận ra. Nhưng quả thực là có một số vật trước kia nó có đi ngang, giờ trông đã hoàn toàn khác.
Chẳng hạn, có một dãy những bức tranh kéo dọc theo toàn bộ chiều dài của bức tường bên cạnh một cầu thang. Một đôi ủng cỡ chân đàn ông dựng bên ngoài một cánh cửa, và một đôi giày bằng sa tanh ở bên ngoài một cánh cửa khác. Trên một trong những chiếu nghỉ, có một cái cây cao trồng trong một chậu sứ màu xanh da trời, và từ trong một chậu sứ màu xanh da trời, và từ trong một cái bình lớn bằng đồng, dây trường xuân bò leo ra lan can.
“Hồi trước đâu có đâu,” Charlie lẩm bẩm.
Bất chấp những thay đổi nhỏ ấy, Charlie vẫn dễ dàng tìm được đường trở về. Tuy nhiên, nó vừa bước được vài bước dọc lồi đi về khu phòng ngủ chung, thì một tia sáng chói lòa chĩa vô mắt nó. Theo phản xạ tự nhiên, nó tắt đèn của bà bếp trưởng đi và chờ, gần như không dám thở.
Luồng sáng lóa kia vụt tắt. Cho dù cái người đang đứng ở đầu kia hành lang là ai, thì cũng rõ ràng là người đó đang rình xem Charlie sẽ làm gì. Charlie biết cửa phòng ngủ chung của mình là cánh cửa thứ hai, bên trái. Nó vượt qua cánh cửa thứ nhất và dừng lại, nghe ngóng tiếng bước chân. Không nghe thấy động tịnh gì, nó phóng chạy về phòng mình và đâm sầm vô một thân người.
Charlie thở gấp. Cùng lúc, cái thân người kia rít lên.
“Úi! Đạp lên chân người ta.”
“Em hả, Billy?” Charlie thầm thì.
“Thì sao nào?”
“Đừng có điên thế. Chỉ hỏi thế thôi mà,” Charlie bật đèn pin của nó lên.
Billy Raven nheo mắt ngước nhìn nó. Dưới cằm thằng bé dính một vệt sô-cô-la lớn.
“Em vừa ở đâu về vậy?” Charlie hỏi.
Billy không trả lời.
“Anh vừa ra khỏi toa-lét xong,” Charlie nói. “Anh nhìn là biết em vừa mới gặp ai đó, và người này có sô-cô-la để dành.”
“Đó là ca cao,” Billy sửa lại. “Còn toa-lét không phải ở đằng ấy. Nó ở đằng kia cơ.”
“Tối quá anh đi lộn đường,” Charlie chống chế.
Billy nhìn Charlie chằm chằm một cách nghi ngờ, rồi nó lách qua Charlie, chui vô phòng ngủ chung. Charlie theo sau và lò dò leo lên giường. Nó nghe thấy tiếng sột soạt nhè nhẹ khi Billy chui xuống dưới tấm mèn và sau đó là im lặng.
Charlie tự hỏi ai mà cho Billy ca cao vào giữa đêm hôm thế này. Phải chăng đó là phần thưởng cho việc gián điệp? Con May Phúc đã trông thấy Henry trong phòng của bà bếp trưởng, và Billy có thể hiểu được ngôn ngữ của con chó già ấy. Như vậy là, chẳng bao lâu nửa, cái người cho Billy ca cao sẽ biết về Henry. Charlie mệt đứ đừ đến nỗi không thể đánh vật với vấn đề này được nữa. Nhưng dù gì nó cũng phải tìm cách báo động cho bà bếp trưởng.
° ° °
Sáng hôm sau, một sự việc kỳ lạ xảy ra khiến Charlie tạm thời quên đi những lo lắng về Henry.
Khi bữa sáng gần xong thì một cơn gió mạnh thổi thốc tháo, cuồn cuộn dọc lối đi dẫn vào nhà ăn lớn. Những cánh cửa bật mở toang, và cơn gió gào thét lao vô phòng, cuốn tung tách với đĩa, thìa với nĩa ra khỏi bàn. Những tiếng la thét kinh hoàng nổi lên khi những mảnh nĩa, thìa sắc nhọn bay vun vút trong không trung. Hầu hết bọn trẻ đều phải kéo mũ lên trùm đầu và hụp nấp xuống dưới những gầm bàn.
Charlie và Fidelio gặp Olivia đang bò sau một băng ghế.
“Chuyện gì vậy?” Charlie hét lên.
“Tớ đoán đó là một trong những cơn bão của anh Tancred, Olivia nói như hét. “Tớ nghe nói tối qua anh ấy đã cãi nhau kịch liệt với Lysander.”
“Tancred hả? Có lẽ mình phải đi tìm anh ấy,” Charlie quyết định.
“Sao thế? Tìm thì làm được gì? Chuyện đằng nào cũng xảy ra rồi, em biết mà,” Fidelio nắm tay áo Charlie kéo lại. “Cứ để kệ cậu ấy dịu xuống.”
“Không. Em phải gặp anh ấy.”
Charlie không thể giải thích được tại sao đột nhiên nó tha thiết muốn gặp được Tancred. Anh đã góp phần cứu sống nó khi nó bị kẹt trong khu vườn hoang, và Charlie cảm thấy ít nhất nó nên thử giúp Tancred dịu lại.
Một tay giữ mũ trùm thật chặt trên đầu, Charlie bò tới cánh cửa để mở, rồi bò ra lối đi lộng gió. Sức mạnh từ cơn giận của Tancred thật khủng khiếp. Một con gió giật mà Charlie ước chừng cỡ chín mươi dặm một giờ đang lao về phía nó. Mũi và miệng Charlie chẳng mấy chốc đã đầy bụi đất. Những bức chân dung treo trên tường đua nhau rớt lả tả, cuốn lông lốc ngang đường nó đi. Thỉnh thoảng một góc khung tranh sắc nhọn đập vô đầu nó hoặc táng vô bàn tay đang giơ lên che mặt của nó.
Charlie nghiến chặt răng lại và tiếp tục dấn bước. Nó trông thấy hai bóng người đang bò trước mặt. Chiếc áo chùng của họ tốc lên, bay phần phật như những đám mây giận dữ màu tím.
Manfred và Asa, Charlie nghĩ bụng.
Cuộc chạy đua tới chỗ Tancred bây giờ thậm chí còn quyết liệt hơn. Anh ấy rất có thể sẽ bị thôi miên nếu như Manfred tiếp cận được anh ấy trước, và không cần phải mất đến vài phút. Tancred có thể sẽ bị bất ngờ. Trước khi kịp hiểu ra sự tình thì anh ấy đã bị cuốn vô giấc ngủ, giống như Emma Tolly đã từng bị như thế. Và Emma đã mê ngủ như thế mất tám năm.
Khi Charlie ngoi ra đến tiền sảnh, nó thấy Manfred và Asa đang cố bám vô những mảnh đồ đạc. Cái nắm tay cầm của chiếc tủ gỗ sồi đột nhiên vuột khỏi tay Asa, thế là thằng này trượt dài trên sàn nhà, kèm theo tiếng rú thảng thốt. Manfred thành công hơn. Cánh tay hắn quàng được quanh một thanh vịn cầu thang.
Charlie không biết phải làm thế nào để không bị thổi bắn vô tường. Cơn giận của Tancred phủ trùm mọi ngóc ngách trong tiền sảnh. Ghế bị thổi tung trông như những que diêm. Khi Charlie ngóc đầu lên, nó thấy Tancred đang đứng trước cánh cổng đôi khổng lồ dẫn ra thế giới bên ngoài. Mái tóc vàng của anh dựng đứng như một cái bàn chải cứng đơ, toé lửa. Sau lưng anh một vài mét là giáo sư Bloor, cúi rạp người xuống, đang la hét trong gió.
“Tancred Torson, hãy bình tĩnh lại. Bước ra khòi mấy cánh cửa đó. Ngay!”
Tancred không mảy may chú ý. Thật tình thì giọng của giáo sư Bloor cũng gần như chìm nghỉm trong tiếng gió gào.
Thình lình, Manfred buông thanh vịn cầu thang ra và bắt đầu bò qua sàn, về phía Tancred.
Charlie biết, dù có la hét hay cảnh báo gì cũng vô ích. Tancred sẽ không bao giờ nghe thấy nó.
Manfred sắp đến được chỗ kẻ làm ra bão, thì Tancred xoay người lại và… nhìn Manfred, phóng ra một luồng điện. Thằng huynh trưởng bắn văng ra xa. Đồng thời, hai cánh cổng to nặng kêu lắc rắc ở chính giữa và, với một tiếng “ầm” như sấm dậy, chúng bung ra.
Tancred quay lại và bước ra ngoài, đem sức mạnh giông tố theo cùng.
Giáo sư Bloor vội chạy ra đóng cổng, nhưng chúng bị phá huỷ nặng nề đến nỗi không thể khóa lại được. Chiếc chìa khóa to tướng ông ta luôn mang theo bên mình kêu lách cách vô dụng trong ổ khóa.
“Mang tủ đứng lại đây,” giáo sư Bloor vẫy ta ra lệnh cho Manfred và Asa.
Trong khi hai thằng đẩy chiếc tủ to chắn ngang tiền sảnh, Charlie lật đật đứng lên. Sàn nhà lổm ngổm những xà bần. Không thể tin nổi là cơn bão của Tancred đã lôi ra khỏi nhưng ngóc ngách của tiền sảnh bao nhiêu rác rưởi.
Ngay dưới chân Charlie là một chiếc găng tay màu đen, và hầu như không nghĩ ngợi gì, Charlie cứ thế nhặt nó lên và nhét vô túi quần.
Manfred và Asa đẩy một cú sau cùng vô chiếc tủ, cho nó tựa vào phía trước hai cánh cổng.
“Tạm thời như thế đã,” giáo sư Bloor nói. “Ta sẽ bảo lão Weedon sửa lại sau. Ta không muốn bất kỳ đứa nào khác thoát ra.”
Thế thì nơi này khác nào nhà tù, Charlie nghĩ.
Có vài đứa trẻ khác đang ghé mắt chăm chú ngó vô tiền sảnh, nhưng chính Charlie là đứa bị Manfred thấy đầu tiên.
“Charlie Bone, mày đang làm gì vậy?” Thằng huynh trưởng hét to.
“Em muốn tới hội trường,” Charlie đáp.
Manfred không buồn cãi nhau với nó về chuyện này.
“Thế thì đi lẹ đi,” Manfred quạu cọ.
Fidelio phóng ào qua tiền sảnh và đuổi kịp Charlie, ngay khi Charlie vừa vô tới phòng để áo khoác xanh da trời.
“Có chuyện gì thế?” Fidelio thì thào. “Rõ ràng là có gió lốc.”
Vì quá phấn khích, rất nhiều đứa trẻ ở đằng sau chúng quên béng mấy quy định im lặng trong tiền sảnh.
Và chúng lập tức bị tuyên phạt cấm túc, và rồi bị tống ngay vô nhà bếp để lấy chổi và cây lau nhà.
“Thứ Sáu này Olivia sẽ không cô đơn rồi.” Fidelio nói. “Nghe nói có ít nhất là sáu đứa bị cấm túc.”
Charlie ngồi lên một băng ghế, bắt đầu phủi bụi và gảy rác ra khỏi áo chùng. Bỗng một cơn mệt lả xâm chiếm lấy nó, và nó bật ngửa người ra, rũ oặt vô tường.
“Em sao vậy, Charlie?” Fidelio cuống quít. “Trông em mệt lắm.”
“Phải chi anh Tancred đừng bỏ đi,” Charlie thều thào. “Tụi mình phải kêu anh ấy về.”
“Sao phải thế?”
“Em không giải thích được. Anh ấy đã từng cứu em, mà bây giờ anh ấy bỏ đi rồi. Lỡ anh ấy bị đuổi học thì sao?”
“Cậu ấy sẽ không bị đuổi đâu,” Fidelio nói chắc nịch. “Bọn có phép thuật không bao giờ bị đuổi. Không sớm thì muộn cậu ấy sẽ bình tĩnh lại và quay về thôi mà.”
“Mong sao sớm sớm giùm,” Charlie rên rỉ. Điều nó nói không có gì sai. Vắng Tancred, có gì đó thiếu thiếu.
Tối hôm đó Charlie là đứa đầu tiên đến phòng Nhà Vua để làm bài tập về nhà. Gabriel đến sau vài giây. Trông cậu ta rất bứt rứt. Cẩn thận đặt sách vở của mình bên cạnh đống sách vở của Charlie, Gabriel rầu rầu nói:
“Có chuyện không ổn rồi.”
“Phải do Tancred không?” Charlie hỏi. “Em cảm thấy như mất thăng bằng sao ấy.”
“Tôi cũng thấy thế,” Gabriel bảo. “Tụi mình phải đi kiếm nó về. Cuối tuần này cậu có đi với tôi không, Charlie?”
“Tới nhà anh Tancred hả?”
Gabriel gật đầu.
“Không xa nhà tôi lắm đâu. Nhưng chỗ đó lúc nào cũng có bão tố đì đùng. Người ta gọi đó là Ngôi Nhà Sấm.”
“Thế, có ai trong nhà anh ấy có… phép… à… về thời tiết không?” Charlie hỏi.
“Có chứ. Ba nó chính thức là gió Cấp Tám 1.”
“Ồ.” Charlie không chắc mình còn hăm hở với nhiệm vụ sắp tới hay không.
“Mấy người kia đâu hết cả rồi,” Gabriel lầm bầm. “Tụi nó trễ tới mười phút. Manfred vẫn hay tới sớm nhất mà.”
Vừa lúc Lysander lò dò vô phòng Nhà Vua, tay nắm chặt một chồng bản vẽ phác thảo. Gương mặt vốn hớn hở của cậu ta trông thật bức bối và u uẩn.
“Tưởng mình bị trễ rồi chớ,” nó noí. “Những người kia đâu rồi?”
Charlie nhún vai. “Tất cả đều biến mất… như… như anh Tancred.”
Nó lập tức hối hận vì lời nói của mình, bởi vì trông Lysander càng trầm uất hơn.
“Có chuyện gì giữa hai người vậy?” Gabriel hỏi Lysander.
“Chỉ là hiểu lầm thôi mà,” Lysander mấy máy. “Lỗi là do Manfred. Hắn bảo Tancred có làm thời tiết ấm lên một chút cho tôi được không. Tancred vặc lại là chuyện ấy thì dính gì đến cậu ấy. Tôi mới nói Đừng có bực, Tanc, làm ơn đi mà.”
“Nhưng Tancred đâu có làm ra nhiệt độ, đúng không?” Gabriel nói.
“Quá đúng,” Lysander ngả người chìm vô trong cái ghế dựa. “Tancred vẫn hay nhạy cảm mấy vụ đại loại vậy, nên mới nổi trận lôi đình. Còn tôi thì quên mất, mấy người biết đấy. Tancred là bạn thân nhất của tôi, mà tôi lại quên. Biết sao không, tôi nghĩ dám thằng Manfred làm tôi quên lắm. Không hẳn là nó thôi miên tôi, nhưng nó cứ nhìn tôi chằm chằm rất kỳ khôi. Lúc đó tôi như bị mất kiểm soát vậy.”
“Bọn em sẽ tới Ngôi Nhà Sấm thứ bảy này,” Gabriel thông báo. “Anh đi với tụi em nhé. Anh ấy có thể sẽ chịu nghe anh hơn.”
“Anh không biết… ,” Lysander âu sầu. “Nhưng chắc chắn anh sẽ đi.”
Ba đứa ngồi lặng thinh một hồi, buồn bã. Và rồi, vì không còn gì hay hơn để làm, Charlie bèn rút chiếc găng tay màu đen ra khỏi túi. Nó để lên bàn và bảo.
“Em nhặt được cái này trong tiền sảnh, đúng lúc anh Tancred đi.
“Nó không phải là của Tanc,” Lysander nói. “Có thể là đồ cũ gì đó nằm dưới tủ tường suốt bao nhiêu năm.”
Chiếc găng tay này làm bằng da mềm. Những ngón dài và thon. Có một đường xẻ ngay cổ tay, với bốn hột nút nhỏ bằng da ở một bên và bốn lỗ cài ở bên kia.
Gabriel nhăn mặt nhìn chiếc găng tay. Nó xòe bàn tay ra, Charlie bất giác thét lên:
“Đừng, Gabriel!”
Nhưng quá trễ. Gabriel đã xỏ chiếc găng vô bàn tay trái. Gương mặt nó bỗng méo xệch trong đau đớn, và rú lên một tiếng thê thảm.
Charlie chồm tới rút chiếc găng tay ra, nhưng Gabriel đã đổ gục về phía trước, đầu đập xuống bàn.
“Nó xỉu rồi,” Lysander hét lên kinh hãi. “Chuyện gì vậy?”
“Đó là do chiếc găng tay. Anh biết phép thuật của Gabriel rồi đấy. Anh ấy có thể cảm nhận được chuyện gì đã xảy ra với người từng mang món đồ trước anh ấy.”
“Chủ nhân của chiếc găng tay này chắc hẳn đã bị đau khủng khiếp,” Lysander suy đoán.
Nó sờ đầu Gabriel:
“Lạnh ngắt rồi.”
“Anh Gabriel! Anh Gabriel! Tỉnh dậy đi!” Charlie hét lớn.
Nó cố sức rút chiếc găng tay ra khỏi tay Gabriel, nhưng chiếc găng nhanh chóng thít chặt lại hơn.
Gabriel nghiêng đầu.
“Tay tôi! Ốốốiii, tay tôi,” nó rên rỉ.
“Đó là do chiếc găng tay,” Charlie nói. “Em không sao rút nó ra được.”
Charlie đút những ngón tay mình vô chiếc găng tay, trong khi Lysander cố bóc nó ra khỏi cổ tay Gabriel. Vô ích! Gabriel giờ đang thở dốc. Giữa những tiếng thét la đau đớn, nó lảm nhảm:
“Bà ấy đặt mấy ngón tay trên cánh cửa và hắn sập vô.”
“Ai?” Charlie hỏi. “Ai sập cửa?”
“Tôi nghĩ là một phụ nữ. Đúng, một phụ nữ. Bà ấy đang cố thoát ra ngoài, kìa, bà ấy đang lắc đầu nguầy nguậy như kiểu không chịu làm điều họ yêu cầu.”
Gabriel lại rên một tiếng nữa.
“Nhưng thằng bé, tôi nghĩ đó là Manfred, nó sập cửa lại và ấn, ấn cho đến khi cửa nghiến nát những ngón tay của bà, Ối! Ốốii! Đúng là Manfred, nhưng lúc đó nó nhỏ hơn. Ốối ối!”
Đầu Gabriel lại gục về trước.
Đúng lúc đó, có tiếng gõ cửa và Olivia ngó vô.
“Đây rồi,” nó reo lên. “Fidelio bảo tớ đi tìm các người. Anh ấy không đi được vì phải ngồi ở hàng đầu.”
“Hàng đầu là sao?” Charlie thắc mắc.
“Đừng có nói với tớ là đằng ấy quên sạch rồi nha,” Olivia réo rắt. “Tối nay có hòa nhạc ở nhà hát. Gabriel bị sao vậy?”
“Cậu ấy không khỏe,” Lysander đáp.
“Em cũng thấy thế, nhưng anh phải vác anh ấy tới nhà hát lẹ lên, nếu không muốn bị cấm túc.”
“Gabriel, cậu có đi được không?” Lysander hỏi nhẹ nhàng.
Gabriel rên rỉ, “Nếu bắt buộc phải đi.”
“Thế thì, nào, Charlie giúp anh một tay!”
Lysander kéo cậu bé oặt ẹo lên, và vừa quàng tay cũng làm tương tự, vừa vịn lấy eo Gabriel. Charlie cũng làm tương tự. Nó đỡ cánh tay có đeo chiếc găng. Nó lo lắng, không hiểu bàn tay trái của Gabriel bị nghiến rồi thì trông như thế nào.
“Tớ đi đây, để xí trước ba chỗ ở hàng cuối cho mấy người,” Olivia vụt biến mất.
Lúc ba đứa lê được tới nhà hát tối om thì buổi hòa nhạc đã bắt đầu.
“Cậu phải tự xoay xở lấy tiếp, “Lysander thì thầm với Gabriel.
“Hừừ!” Gabriel rên.
Olivia nói là làm: và có ba chỗ trống đang chờ chúng ở cuối phòng hòa nhạc. Charlie kéo cổ tay áo chùng của Gabriel xuống, che đi chiếc găng tay đen, rồi giúp Lysander vần Gabriel vô chỗ ngồi.
Rủi thay, giáo sư Saltweather đã nhìn thấy bọn con trai đi trễ. Ông cau mày và lắc đầu với chúng, sau đó lại tiếp tục chăm chú nhìn lên sân khấu. Giáo sư Bloor đang làm một bài diễn thuyết về âm nhạc, và nghe một tí là hiểu ngay ông ấy đang ca ngợi cuộc đời và sự nghiệp của một người khác cũng đang có mặt trên sân khấu: nghệ sĩ Albert Tuccini.
Phía sau giáo sư Bloor, một người đàn ông da ngăm đen ngồi bên chiếc đàn dương cầm lớn. Mái tóc nâu của ông quăn tít, dáng vẻ hơi ủ rũ. Hai tay ông khoanh lại trước ngực, và thỉnh thoảng lại đưa mắt liếc những tấm màn nhung đỏ phía cuối sân khấu.
Giáo sư Bloor kết thúc bài diễn văn của mình. Cả khán phòng vỗ tay nồng nhiệt. Nghệ sĩ Albert Tuccini xoay người lại, đối diện với cây đàn, và những ngón tay dài của ông rải trên những phím đàn.
Bản thân Gabriel cũng là một người chơi dương cầm. Nó chăm chú lắng nghe những giai điệu phức tạp của Albert Tuccini. Dần dần, hơi thở nặng nhọc của nó dịu đi, nó quên mất cơn đau ở những ngón tay và chuyển sang thưởng thức âm nhạc.
Bản nhạc thứ hai hình như rất quen thuộc với Charlie, nó không thể nó là mình đã nghe bài này ở đâu. Một ký ức đã bị chôn sâu tận đáy tâm trí nó. Xa, thật xa, ngày trước. Hay đó là bản nhạc ba nó đã từng chơi? Nó từ từ gục đầu xuống, ngủ thiếp đi, và mơ màng. Nó mơ đến căn phòng mà nội Bone đã mô tả cho nó. Một căn phòng màu trắng, có rèm nhạt màu bên những cửa sổ dài. Căn phòng trống trơn, không có gì, ngoại trừ ba Lyell của nó và một chiếc dương cầm lớn. Nhưng nó không thể trông thấy gương mặt của ba. Nó thậm chí không biết mặt ông trông như thế nào. Nội Bone đã giấu hoặc đã hủy tất cả những tấm ảnh của đứa con trai độc nhất.
“Charlie, dậy đi!” Gabriel đang huých khuỷu tay nó.
Charlie mở choàng mắt ra. Đèn đã bật sáng trong khán phòng, bọn trẻ đang lục tục nối nhau trên lối đi hướng về phía cửa ra vào. Sân khấu trống trơn.
“Cậu ngủ từ hồi nào thế?” Gabriel hỏi.
“Không biết,” Charlie lầm bầm. “Hình như là em ngủ suốt buổi.” Rồi nó trườn người ra khỏi ghế.
Lysander rời nhà hát cùng với cả bọn, nhưng rồi phải rẽ về phòng ngủ của mình.
“Cậu Ok chớ?” Nó hỏi Gabriel, trước khi chia tay chỗ chiếu nghỉ cầu thang.
“Không chết đâu mà,” Gabriel nói, cười toe toét.
“Tụi em sẽ thử rút chiếc găng ra lần nữa,” Charlie nói. Giờ nó đã thấy tỉnh táo hơn.
Trong phòng ngủ chung, Charlie kể cho Fidelio nghe chuyện đã xảy ra, sau đó hai đứa dành vài phút cố lôi chiếc găng ra khỏi tay Gabriel. Không tài nào lôi được! Gabriel vô nhà tắm, thử xát xà bông và rưới nước, nhưng chiếc găng tay thậm chí còn thít chặt hơn. Nó quay lại phòng và ngồi trên mép giường.
“Người phụ nữ tội nghiệp,” nó lẩm bẩm. “Chắc bà ấy phải gãy hết năm ngón tay.”
“Anh có biết bà ấy là ai không?” Charlie hỏi.
“Biết,” Gabriel nói. “Bà ấy vẫn còn ở đây. Tôi đã trông thấy bà ấy rồi. Đó là cái bà áo đen trong tháp nhạc. Hồi đó tôi cứ nghĩ bà ấy là ma, nhưng không phải. Đại loại bà ấy chỉ không làm gì được nữa và cô đơn thôi.”
Billy Raven đã trườn tới từ sau lưng hai đứa. Nó lõ mắt dòm chiếc găng tay đen trên tay Gabriel.
“Cái gì đó,” nó hỏi.
“Thế em thấy nó giống cái gì?” Fidelio hỏi lại.
“Chiếc găng tay. Sao anh đeo có một chiếc găng tay vậy, Gabriel?”
Gabriel thở dài. “Tại không tháo nó ra được chứ sao.”
Billy nhíu mày. Nó không thèm hỏi thêm gì nữa, mà lững thững quay lại giường, coi bộ chìm đắm trong suy tư.
Charlie và Fidelio cố gắng rút chiếc găng ra khỏi tay Gabriel một lần nữa, nhưng nước đã khiến chiếc găng dính cứng lại như một lớp da thứ hai.
“Vô ích thôi, mấy cậu,” Gabriel thở dài. “Tôi sẽ phải để vậy mà ngủ thôi. Không chừng khi khô nó sẽ bong ra.” Nó ngáp, “Mệt quá. Đêm nay sẽ chẳng có gì đánh thức được tôi đâu.”
Gabriel nói đúng. Nó ngủ thiếp đi, gần như ngay lúc vừa leo lên giường. Nhưng trong giấc ngủ, những giấc mơ của nó trở thành ác mộng. Nó rên rỉ đau đớn, lăn lộn trên giường.
Gabriel rên la dữ dội đến nỗi Charlie không sao chợp mắt được. Những đứa khác cũng thức giấc luôn. Damian Smerk quăng chiếc gối của nó vô Gabriel, đang rên la, nhưng cũng không đánh thức được. Gabriel đã chìm sâu vô giấc ngủ mệt nhoài.
Tối hôm sau, Charlie và Fidelio lại ráng lôi chiếc găng tay ra lần nữa, nhưng giờ nó đã teo rúm lại, thậm chí còn không tróc khỏi cổ tay Gabriel. Bàn tay Gabriel cứ lủng lẳng, vô dụng, thõng xuống một bên hông. Nó bảo, nó không còn cảm thấy mấy ngón tay đâu nữa.
Chúng không biết phải làm gì. Báo cho bà giám thị thì nhất định không rồi. Charlie nảy ra một ý. Sau khi đèn tắt, nó cúi xuống giường Gabriel và thì thào.
“Em biết người có thể giúp.”
“Ai vậy?”
“Một người sống ở phía sau nhà bếp. Mình sẽ phải chờ cho tới nửa đêm.”
“Khi nào đi thì đánh thức tôi,” Gabriel bảo.
“OK.”
Charlie đã hứa với bà bếp trưởng là nó sẽ không nói cho bất cứ ai về chỗ Henry trốn. Nhưng điều đó hoàn toàn khác với việc tiết lộ cho người khác về căn phòng bí mật của bà. Thêm nữa, đây là trường hợp khẩn cấp.”
— —— —— —— ——-
1 Cỡ khoảng 73 dặm/giờ.